Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Chủ đề tình yêu đôi lứa trong văn xuôi viết về chiến tranh của bảo ninh (luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.89 KB, 98 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

HOÀNG ANH THƯ

CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU ĐÔI LỨA TRONG
VĂN XUÔI VIẾT VỀ CHIẾN TRANH
CỦA BẢO NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2020


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

HOÀNG ANH THƯ

CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU ĐÔI LỨA TRONG
VĂN XUÔI VIẾT VỀ CHIẾN TRANH
CỦA BẢO NINH
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGÔ THU THỦY


THÁI NGUYÊN - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan và khẳng định đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Ngô Thu Thủy. Các tài liệu và kết quả nghiên
cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng công bố trong bất cứ công trình
nào khác.
Tác giả

Hoàng Anh Thư

i


LỜI CẢM ƠN
Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn cô
giáo - TS. Ngô Thu Thủy đã tận tình hướng dẫn, động viên và giúp đỡ em
trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho
em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường.
Tôi cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới BGH, bạn bè, đồng
nghiệp Trường THPT Chuyên Bắc Kạn, Sở GD&ĐT Bắc Kạn cùng những
người thân yêu đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp tôi
hoàn thành tốt khóa học này.
Tác giả

Hoàng Anh Thư


ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN.....................................................................................................ii
MỤC LỤC......................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU............................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài..............................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề.................................................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................7
5. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................7
6. Cấu trúc của luận văn......................................................................................8
NỘI DUNG........................................................................................................ 9
Chương 1: CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU ĐÔI LỨA VÀ NHỮNG TRANG
VIẾT THỜI HẬU CHIẾN CỦA BẢO NINH.........................................9
1.1. Một số khái niệm liên quan.........................................................................9
1.1.1. Khái niệm chủ đề...................................................................................... 9
1.1.2. Khái niệm tình yêu đôi lứa......................................................................11
1.2. Chủ đề tình yêu đôi lứa trong văn xuôi Việt Nam viết về chiến tranh
từ 1945 đến nay.........................................................................................12
1.2.1. Tình yêu đôi lứa trong văn xuôi chiến tranh từ 1945 - 1975..................12
1.2.2. Tình yêu đôi lứa trong văn xuôi chiến tranh sau 1975............................16
1.3. Bảo Ninh và những trang viết thời hậu chiến........................................... 21
1.3.1. Tiểu sử.....................................................................................................21
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác.................................................................................. 22
Tiểu kết chương 1..............................................................................................26
Chương 2. NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA TÌNH YÊU ĐÔI LỨA TRONG
VĂN XUÔI VIẾT VỀ CHIẾN TRANH CỦA BẢO NINH.................27

2.1. Tình yêu và những rung cảm trong sáng, chân thành............................... 28
2.1.1. Những rung động đầu đời....................................................................... 28

iii


2.1.2. Những khát khao được gắn bó bên nhau.................................................30
2.2. Tình yêu và nỗi đau của thân phận............................................................32
2.2.1. Những mất mát đớn đau..........................................................................32
2.2.2. Những xót xa, nuối tiếc...........................................................................40
2.3. Tình yêu và những khao khát bản năng.................................................... 45
2.3.1. Những đòi hỏi bản năng lên tiếng...........................................................45
2.3.2. Những thèm khát về thể xác....................................................................49
2.4. Tình yêu và sự hi sinh vô điều kiện.......................................................... 53
2.4.1. Những hi sinh quên mình........................................................................53
2.4.2. Những mối tình lặng câm........................................................................55
Tiểu kết chương 2..............................................................................................58
Chương 3. MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN
CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU ĐÔI LỨA TRONG VĂN XUÔI VIẾT VỀ
CHIẾN TRANH CỦA BẢO NINH........................................................59
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật.................................................................. 59
3.1.1. Xây dựng nhân vật qua ngoại hình và ngôn ngữ cơ thể..........................59
3.1.2. Xây dựng nhân vật qua hồi ức................................................................ 64
3.2. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện................................................................67
3.2.1. Xây dựng cốt truyện theo motip sự kiện: gặp gỡ - chia biệt...................68
3.2.2. Xây dựng cốt truyện theo dòng tâm trạng...............................................69
3.3. Ngôn ngữ trần thuật.................................................................................. 70
3.3.1. Ngôn ngữ trần thuật giàu chất triết lí, chất trữ tình.................................70
3.3.2. Từ ngữ gắn với hồi ức nhân vật.............................................................. 74
3.4. Giọng điệu trần thuật.................................................................................76

3.4.1. Giọng điệu ngậm ngùi, day dứt...............................................................76
3.4.2. Giọng điệu khách quan, lạnh lùng.......................................................... 79
Tiểu kết chương 3..............................................................................................82
PHẦN KẾT LUẬN..........................................................................................83
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................85
PHỤ LỤC

iv


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Sáng tác văn học là một quá trình tìm tòi sáng tạo của mỗi nhà văn.
Sau năm 1975, sự đổi mới mọi mặt của đời sống kinh tế, văn hóa - xã hội đã
chắp cánh cho văn chương bay đến miền đất của sáng tạo, của tự do, vứt bỏ
mọi trói buộc. Viết về chiến tranh vẫn là dòng chảy thầm lặng nhưng khá mạnh
mẽ, với nhiều tên tuổi đã từng đi ra từ cuộc chiến. Điểm chung của những tác
phẩm này là khai thác những cách tiếp cận khác nhau, soi chiếu những góc
khuất của người lính mà trước đây chưa từng hoặc ít được đề cập. Những tác
phẩm viết về chiến tranh Việt Nam đương đại hiện lên như những “sinh thể tinh
thần”, ngoài chủ đề chính chiến tranh - hòa bình, cách mạng - phản cách mạng,
ta - địch, hậu phương - tiền tuyến còn là câu chuyện của tình yêu, ám ảnh, hạnh
phúc, tan vỡ… để từ đó hối thúc “người đọc nhận thức, suy ngẫm, chất vấn lịch
sử và hiện đại”. Những cách tiếp cận, khai thác mới về đề tài này đã đem đến
một sức hấp dẫn mới cho văn học chiến tranh thời hậu chiến.
1.2. Từ sau năm 1975 đến nay, dòng văn học viết về chiến tranh đã để lại
nhiều dấu ấn như Bến không chồng của Dương Hướng, Ăn mày dĩ vãng của
Chu Lai, Lạc rừng của Trung Trung Đỉnh, Mùa hè giá buốt của Văn Lê, Tàn
đen đốm đỏ của Phạm Ngọc Tiến, Chim én bay của Nguyễn Trí Huân, Đỉnh
cao hoang vắng của Khuất Quang Thụy, Mình và họ của Nguyễn Bình Phương,

Miền hoang của Sương Nguyệt Minh, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh…
Trong số đó, Bảo Ninh là một trong những nhà văn góp phần đổi mới văn
học viết về đề tài chiến tranh, thể hiện quan niệm về sự đổi mới cách nhìn nhận
chiến tranh. Truyện ngắn Bảo Ninh thể hiện cái nhìn của một người nghĩ về chiến
tranh và viết sau chiến tranh nhưng cuộc chiến ấy vẫn đầy máu và nước mắt.

1.3. Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh được coi là một cột mốc quan trọng
của văn học thời kì đổi mới. Nỗi buồn chiến tranh xuất bản lần đầu tiên năm
1990 tại Nhà xuất bản Hội Nhà văn với tên gọi Thân phận của tình yêu, trước

1


đó đã được trích đăng trên tạp chí Tác phẩm văn học của Hội. Ngay năm sau
(1991), cuốn tiểu thuyết được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải nhất (cùng với
Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường và Bến không chồng
của Dương Hướng). Các nhà phê bình đánh giá đây là một trong những tiểu
thuyết cảm động nhất về chiến tranh. “Nỗi buồn chiến tranh đã chạm vào mẫu
số chung của nhân loại - đó là câu chuyện của thân phận, của mất mát, của
tình yêu và của chiến tranh” (Nguyễn Quang Thiều).
Nhà văn Nguyên Ngọc, người có công lớn trong việc trao giải cho Nỗi
buồn chiến tranh, đánh giá rất cao tác phẩm này. Ông viết: “Đây là cuốn tiểu
thuyết về một cuộc chiến đấu của một con người tìm lẽ sống hôm nay. Bằng
cách chiến đấu lại cuộc chiến đấu của đời mình. Cuốn sách này không mô tả
chiến tranh. Nó “mô tả” một cuộc kiếm tìm nặng nhọc chính hôm nay. Hiện
thực ở đây là hiện thực bên trong của một tâm hồn quằn quại và đầy trách
nhiệm, quằn quại vì đầy trách nhiệm. Trách nhiệm lương tâm. Cuốn sách nặng
nề này không bi quan. Vẫn thấm sâu ở đâu đó trong từng kẽ chữ của nó một âm
hưởng hi vọng tiềm tàng, chính là vì thế. Anh đi tìm, nghĩa là anh còn hi vọng”
[45]. Tác phẩm là cuốn tiểu thuyết về tình yêu bi thảm trong chiến tranh, về nỗi

buồn chiến tranh. Hai chủ đề đan cài vào nhau thật khó tách bạch riêng rẽ.
Truyện ngắn Bảo Ninh lại đem đến cho người đọc một cái nhìn mới về
chiến tranh, về cuộc sống của con người trong và sau chiến tranh. Ông đã đưa
người đọc đi qua nhiều cảnh đời hết sức bình dị, tình người cảm động, xót xa
và cay đắng. Đó là kí ức về cuộc chiến với những éo le, đau khổ và vết thương
không thể hàn gắn của những cuộc đời đi qua chiến tranh. Nhưng nỗi buồn
không tuyệt vọng mà thanh lọc con người, làm cho nó “người” hơn.
1.4. Bảo Ninh - nhà văn “viết về chiến tranh như viết về tình yêu”, dường
như trong tâm hồn ông, chiến tranh là nỗi nhớ da diết, là nỗi buồn day dứt khôn
nguôi. Đọc tác phẩm của ông, ta hiểu con người đau khổ, trăn trở, nhận thức về
quá khứ, về chiến tranh, về được mất trong cuộc đời, đặc biệt là nỗi đau trong
tình yêu. Ở đó có những tình yêu trong sáng, chân thành, tình yêu gắn với lí

2


tưởng cao đẹp, có tình yêu và sự hi sinh vô điều kiện, nhưng ám ảnh nhất là
những tình yêu giằng xé đớn đau, là những vết sẹo nhức nhối không thể nào
xoa dịu.
Sau hơn ba thập niên viết văn, với không ít những thăng trầm, Bảo Ninh
với truyện ngắn Ngàn năm mây trắng được đưa vào danh mục tác phẩm tự
chọn trong chương trình Ngữ văn mới (Ban hành kèm theo Thông tư số
32/2018/TT-BGDĐT ngày 28/12 /2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo). Điều đó
càng khẳng định văn học đương đại không thể thiếu một gương mặt cá tính,
một lối viết văn độc đáo như Bảo Ninh. Với việc thực hiện đề tài này, chúng tôi
sẽ có cơ hội học tập, bổ sung và làm đầy đặn thêm kiến thức, với tâm thế “đón
đầu” chương trình giáo dục phổ thông mới. Đó là những lí do để chúng tôi lựa
chọn đề tài Chủ đề tình yêu đôi lứa trong văn xuôi viết về chiến tranh của
Bảo Ninh.
2. Lịch sử vấn đề

Bảo Ninh là cây bút làm nên một phần diện mạo vừa độc đáo, vừa đa dạng
cho văn học thời kì đổi mới. Sự xuất hiện của ông không ồn ào nhưng càng
ngày càng chinh phục trái tim độc giả. Người đọc bị hút vào tác phẩm của ông
bởi những câu chuyện chân thực, bởi những cảm xúc nghẹn ngào đến xót xa.
Chiến tranh và hậu chiến là đề tài bao trùm sáng tác của ông. Khác với các tác
phẩm trước năm 1975 mang tính sử thi, miêu tả chiến tranh từ góc độ cộng
đồng, Bảo Ninh miêu tả chiến tranh từ góc độ cá nhân, thân phận con người.
Làm nên tên tuổi của ông, ngoài tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, còn hàng
loạt những truyện ngắn đưa đến cái nhìn đa dạng, đầy đủ và toàn diện về chiến
tranh và hậu chiến tranh. Thời gian gần đây, tác phẩm của Bảo Ninh đã nhận
được sự quan tâm của giới sáng tác cũng như phê bình văn học đương đại.
2.1. Những nghiên cứu về chủ đề tình yêu đôi lứa trong tiểu thuyết Nỗi buồn
chiến tranh của Bảo Ninh
Từ khi tác phẩm ra đời đến nay, các công trình nghiên cứu về Nỗi buồn
chiến tranh có rất nhiều. Mỗi người soi chiếu ở một góc độ khác nhau với

3


những lí giải riêng của mình. Trên bình diện tổng quát, các hướng nghiên cứu, các
vấn đề được đặt ra từ Nỗi buồn chiến tranh có thể được lí giải từ các bài viết của:
Phạm Xuân Thạch (Về tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, Tiểu
thuyết Việt Nam đương đại - suy nghĩ từ những tác phẩm về chủ đề lịch sử, Nỗi
buồn chiến tranh viết về chiến tranh thời hậu chiến, từ chủ nghĩa anh hùng đến
nhu cầu đổi mới bút pháp), Trần Thanh Hà (Từ phân tâm học tìm hiểu tính hiện
đại thể hiện qua tiểu thuyết "Thân phận của tình yêu" của Bảo Ninh - Sông
Hương, số 195, tháng 5/2005), Trần Quốc Hội (“Trình tự” trong thời gian nghệ
thuật của Ăn mày dĩ vãng và Nỗi buồn chiến tranh - tiếp cận từ lí thuyết thời gian
của Genette, Sông Hương, số 225, tháng 11/2007), Thụy Khuê (Sóng từ trường,
Bảo Ninh, Nỗi buồn chiến tranh), Đoàn Cầm Thi (Nỗi buồn chiến tranh: tự truyện

bất thành), Trần Xuân An (Thủ pháp “Dòng ý thức” với ám ảnh về sự thật trong
“Nỗi buồn chiến tranh”,... Nỗi buồn chiến tranh cũng thu hút sinh viên, học viên
cao học, nghiên cứu sinh chọn làm đối tượng cho công trình nghiên cứu của mình.
Điều đó cho thấy công chúng văn học ở bộ phận ưu tú rất đề cao những giá trị,
những vấn đề nơi Nỗi buồn chiến tranh.

Đối với chủ đề tình yêu đôi lứa, tác giả Đỗ Đức Hiểu trong Thi pháp
hiện đại (2000) đã khẳng định: “Trong văn học mấy chục năm nay, có thể Thân
phận của tình yêu là quyển tiểu thuyết hay về tình yêu, quyển tiểu thuyết về tình
yêu xót thương nhất” [23, tr.266]. Tác giả nhấn mạnh: Bên cạnh Nỗi buồn
chiến tranh được phản ánh trong tác phẩm là nỗi buồn về tình yêu. (…) Nỗi
buồn chiến tranh và nỗi buồn tình yêu thấm vào nhau. Tình yêu, chiến tranh,
viết tiểu thuyết, ba nhịp đó xen kẽ, đan chéo, gây chóng mặt, bàng hoàng, nhức
nhối. Len lỏi, bao trùm và dẫn dắt tất cả các biến động của tiểu thuyết là một
mối tình đau xót, kéo dài, vang vọng, âm ỉ và nổ bùng, hủy hoại tất cả. Nguyễn
Quang Thiều, trong tạp chí Thể thao và Văn hóa, số ra ngày 28/10/2006, cho
rằng: “Nỗi buồn chiến tranh đã chạm vào mẫu số chung của nhân loại - đó là
câu chuyện của thân phận, của mất mát, của tình yêu và của chiến tranh…”.
Đoàn Cầm Thi trong bài Chiến tranh, tình yêu, tình dục trong văn học Việt
4


Nam đương đại (2004) cũng cho rằng: “Trong Nỗi buồn chiến tranh, chiến
tranh, tình yêu, tình dục được Bảo Ninh khai thác trong mối liên quan trực tiếp
với văn học, thông qua mối ràng buộc tay ba giữa Kiên, Phương và cha Kiên,
trong khung cảnh những ngày đầu chống Mỹ”[62].
2.2. Những nghiên cứu về chủ đề tình yêu đôi lứa trong truyện ngắn Bảo Ninh

Bảo Ninh là một trong số những nhà văn có nhiều đóng góp trên hai thể
loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Trong Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Bùi Việt

Thắng khẳng định: “Bảo Ninh là một trong những nhà văn có duyên với truyện
ngắn.” [15, tr.337]. Bích Thu trong Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975
cũng xem Bảo Ninh là một cây bút ấn tượng với người đọc. Trong bài “Nỗi
buồn chiến tranh” viết về chiến tranh thời hậu chiến - Từ chủ nghĩa anh hùng
đến nhu cầu đổi mới bút pháp, Phạm Xuân Thạch nhận xét truyện ngắn Bảo
Ninh “giống như những mảnh vỡ của tiểu thuyết hoặc phản chiếu, hoặc soi
sáng thế giới của tiểu thuyết” [52]. Đoàn Ánh Dương trong bài Bảo Ninh nhìn từ thân phận của truyện ngắn, 2009 cho rằng: “Văn Bảo Ninh là câu
chuyện đời (life narrative) của chính ông. Ở đó, kí ức cá nhân trở thành chất
liệu của hư cấu còn hư cấu xét đến cùng tượng như một lẽ viết, và vì thế, một lẽ
sống”. “Văn Bảo Ninh luôn là những cật vấn vào các vấn đề của quá khứ, về
sức mạnh ẩn tàng của nó. Nói như chính ông: “Tôi muốn nói, lẽ đời là vậy đấy.
Bởi vì là một nỗi đau nên quá khứ còn sống mãi. Và bởi nỗi đau quá khứ còn
sống mãi nên về sau ta mới có được một quãng đời êm lặng, một nếp sống bình
yên, một tư duy thư thả, một tấm lòng khoan thứ và một cảm giác có hậu với
cuộc đời cùng số phận”[13]. Mai Quốc Liên trong Đọc truyện ngắn Bảo Ninh
năm 2012 đánh giá: “Một nỗi buồn, một nỗi xót xa thấm đượm những trang
sách. Những số phận rất khác nhau nhưng đều giống nhau ở sự mất mát trong
chiến tranh. Có điều là nỗi buồn ở đây không tuyệt vọng mà có hiệu ứng thanh
lọc con người, làm cho nó “người” hơn một chút. Đó có lẽ là ý nghĩa cao nhất
của những trang truyện”. [34]

5


Truyện ngắn Bảo Ninh đã được tập hợp và phát hành nhiều lần như cuốn
Truyện ngắn Bảo Ninh do Nxb Công an nhân dân năm 2004, cuốn Bảo Ninh Lan man trong lúc kẹt xe - Những truyện ngắn hay nhất và mới nhất của Nxb
Hội nhà văn năm 2005, cuốn Chuyện xưa kết đi, được chưa?, Nxb Văn học
năm 2009, tập Bảo Ninh - những truyện ngắn, Nxb Trẻ, năm 2013. Hầu hết đều
viết về chiến tranh, tình yêu và người lính. Có một số truyện không viết trực
tiếp về chiến tranh nhưng cũng là hệ lụy nảy sinh từ chiến tranh.

Nhiều sinh viên, học viên chọn truyện ngắn Bảo Ninh làm đối tượng
nghiên cứu cho các luận văn, luận án của mình, như Lưu Thị Thanh Trà, Đề tài
chiến tranh chống Mỹ trong truyện ngắn Bảo Ninh, 2006; Lê Thị Lan Anh,
Nhân vật trong văn xuôi Bảo Ninh, 2007; Nguyễn Thị Lệ Nhật, Đặc sắc truyện
ngắn Bảo Ninh, 2010; Nguyễn Thị Chiến, Truyện ngắn Bảo Ninh, 2011; Bùi
Đỗ Kim Thuần, Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Bảo Ninh, 2013; Nguyễn
Phương Nam, Truyện ngắn Bảo Ninh dưới góc nhìn thể loại, 2013;...
Nhìn chung hầu hết các công trình nghiên cứu có cái nhìn bao quát và khẳng
định những đóng góp của Bảo Ninh cho văn học Việt Nam thời đổi mới. Tuy vậy,
chưa có nghiên cứu chuyên sâu về chủ đề tình yêu đôi lứa trong văn xuôi viết về
chiến tranh của Bảo Ninh. Lưu Thị Thanh Trà trong luận văn Đề tài chiến tranh
chống Mỹ trong truyện ngắn Bảo Ninh, 2006, cũng khẳng định: “Truyện ngắn Bảo
Ninh thể hiện đề tài tình yêu từ cái nhìn đa chiều, đa diện. Mỗi truyện ngắn đưa
đến một khoảng trời riêng về tình yêu và chiến tranh.” [72, tr.43] Tác giả muốn
thể hiện hoàn cảnh của chiến tranh đã khiến cho tình yêu lứa đôi không được vẹn
tròn. Ở những mức độ khác nhau, các công trình đi trước là những gợi mở và
nguồn tham khảo quý giá để chúng tôi tiếp tục đi sâu khai thác chủ đề tình yêu đôi
lứa trong văn xuôi viết về chiến tranh của Bảo Ninh.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu Chủ đề tình yêu đôi lứa trong văn xuôi viết về chiến tranh của
Bảo Ninh để thấy được biểu hiện của chủ đề tình yêu đôi lứa qua lăng kính về
thân phận con người trong chiến tranh của Bảo Ninh.

6


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm sáng rõ một số vấn đề liên quan: chủ đề, chủ đề tình yêu đôi lứa

trong văn xuôi Việt Nam viết về chiến tranh từ 1945 đến nay, Bảo Ninh và
những trang viết thời hậu chiến.
Nghiên cứu những biểu hiện của tình yêu đôi lứa trong văn xuôi viết về
chiến tranh của Bảo Ninh.
Nghiên cứu một số phương diện nghệ thuật thể hiện chủ đề tình yêu đôi
lứa trong văn xuôi viết về chiến tranh của Bảo Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu chủ đề tình yêu đôi lứa trong văn xuôi viết
về chiến tranh của Bảo Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các tác phẩm:
- Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, NXB Văn học, tái bản năm 2006.
- Tập Bảo Ninh - những truyện ngắn, NXB Trẻ, năm 2013.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài Chủ đề tình yêu đôi lứa trong văn xuôi viết về chiến
tranh của Bảo Ninh, chúng tôi vận dụng các phương pháp sau đây:
5.1. Phương pháp thống kê - phân loại: Được sử dụng trong quá trình
nghiên cứu những biểu hiện tình yêu đôi lứa trong một số tác phẩm tiêu biểu
của Bảo Ninh.
5.2. Phương pháp so sánh: Được sử dụng trong quá trình so sánh cách
thể hiện tình yêu đôi lứa trong sáng tác của Bảo Ninh với cách thể hiện tình yêu
đôi lứa trong sáng tác của một số nhà văn khác. Từ đó chỉ ra nét đặc sắc riêng
của Bảo Ninh.
5.3. Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Đề tài đặt đối tượng nghiên
cứu trong mối liên hệ giữa văn học với lịch sử, văn hóa, xã hội, tâm lí… để

7



đánh giá toàn diện, khách quan về giá trị tư tưởng, giá trị nghệ thuật của văn
xuôi Bảo Ninh viết về chủ đề tình yêu đôi lứa trong chiến tranh.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận văn gồm
ba chương:
Chương 1: Chủ đề tình yêu đôi lứa và những trang viết thời hậu chiến của
Bảo Ninh
Chương 2: Những biểu hiện của tình yêu đôi lứa trong văn xuôi viết về
chiến tranh của Bảo Ninh.
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật thể hiện chủ đề tình yêu đôi
lứa trong văn xuôi viết về chiến tranh của Bảo Ninh.

8


NỘI DUNG
Chương 1: CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU ĐÔI LỨA VÀ NHỮNG TRANG VIẾT
THỜI HẬU CHIẾN CỦA BẢO NINH
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm chủ đề
Đề tài và chủ đề là những khái niệm chủ yếu thể hiện phương diện khách
quan của nội dung tác phẩm văn học. Chủ đề là khái niệm phản ánh “vấn đề cơ
bản của tác phẩm, là phương diện chính yếu của đề tài. Khi phản ánh hiện
thực nhà văn chẳng những xác định một phạm vi đời sống mà còn tập trung soi
rọi một số vấn đề có ý nghĩa hàng đầu trong phạm vi đó” [38, tr.262].
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, thuật ngữ chủ đề được hiểu là “vấn đề
cơ bản, vấn đề trung tâm được tác giả nêu lên, đặt ra qua nội dung cụ thể của
tác phẩm văn học” [22, tr.61].
Như vậy, chủ đề là vấn đề chủ yếu được nhà văn nêu lên trên cơ sở đề tài.
Khi phản ánh hiện thực, nhà văn chẳng những xác định một phạm vi hiện tượng

đời sống mà còn tập trung soi rọi một số vấn đề có ý nghĩa hàng đầu trong
phạm vi đó. Nếu khái niệm đề tài giải đáp câu hỏi: Tác phẩm viết về cái gì? thì
khái niệm chủ đề lại giải đáp câu hỏi: Vấn đề cơ bản của tác phẩm là gì?
Chủ đề bao giờ cũng hình thành từ ý đồ và biểu hiện trong sáng tác. Nó
bắt nguồn từ đề tài và được xây dựng trên cơ sở đề tài, nói lên chiều sâu tư
tưởng, khả năng nắm bắt nhạy bén của nhà văn đối với những vấn đề của cuộc
sống. Vì vậy, từ những đề tài cụ thể, bình thường, tác giả nêu lên những chủ đề
mang ý nghĩa khái quát to lớn sâu sắc. Trong một đề tài có thể xuất hiện một
hoặc nhiều chủ đề bởi cùng một phạm vi cụ thể của đời sống có thể tồn tại
nhiều mặt phức tạp, nhiều mâu thuẫn, nhiều tính cách, sự kiện, cảnh ngộ khác
nhau, từ đó đặt ra những vấn đề khác nhau. Ví dụ, cùng viết về bi kịch người
phụ nữ thời hậu chiến nhưng Cỏ lau (Nguyễn Minh Châu), Bến không chồng

9


(Dương Hướng), Người còn sót lại rừng cười (Võ Thị Hảo), mỗi tác phẩm lại
đặt ra những vấn đề khác nhau. Cỏ lau ngoài vấn đề người chinh phụ đợi chồng
còn là bi kịch của những kẻ yêu nhau bị chia lìa bởi cuộc sống chứ không phải
cái chết. Bến không chồng xoáy sâu bi kịch tình yêu và những khát khao bản
năng của con người đến tận cùng và đăm đắm câu hỏi liệu có hạnh phúc nào
cho người từ chiến trận trở về? Người còn sót lại rừng cười là bi kịch của một
người phụ nữ đã ra khỏi cuộc chiến nhưng không bao giờ có thể hoà nhập với
đời thường, bi kịch của người không còn khả năng yêu. Tóm lại, chính đặc
điểm đa dạng, phong phú, phức tạp của hiện thực là nguyên nhân nảy sinh
những tác phẩm có nhiều chủ đề.
Chủ đề tác phẩm được hình thành từ những vấn đề đặt ra trong cuộc sống
thông qua sự khái quát hóa chủ quan của nhà văn, có vai trò hết sức quan trọng
trong sáng tác. Nói cách khác, chủ đề là góc độ, bình diện, con đường tác giả
dẫn dắt người đọc thâm nhập tác phẩm. Chủ đề biểu hiện rõ trong việc thể hiện

bản sắc tư duy, chiều sâu tư tưởng, khả năng thâm nhập vào bản chất đời sống
của nhà văn. Chính nó bước đầu tạo ra tầm khái quát rộng lớn của tác phẩm đối
với hiện thực xã hội, từ đó tác phẩm tác động sâu sắc vào nhận thức tư tưởng
của người đọc. Chủ đề đóng vai trò rất lớn trong việc làm cho tác phẩm trở nên
quan trọng và có ảnh hưởng sâu rộng, nhất là chủ đề trong các tác phẩm lớn.
Một tác phẩm văn học có thể có nhiều chủ đề khác nhau. Trong các chủ đề
của tác phẩm, có thể phân ra chủ đề chính xuyên suốt toàn bộ tác phẩm và chủ
đề phụ, cục bộ thể hiện qua các nhân vật hoặc tình tiết riêng lẻ. Ngoài ra, có thể
có chủ đề vĩnh cửu và chủ đề mang tính lịch sử xã hội. Như vậy, những thuộc
tính chung hoặc gần gũi về chủ đề và đề tài là căn cứ tập hợp tác phẩm theo các
nhóm thể tài. Ví dụ, đề tài của tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh là chiến tranh
nhưng ta thấy trong tác phẩm, các chủ đề chiến tranh, tình yêu và niềm đam mê
sáng tạo nghệ thuật xen kẽ, đan chéo vào nhau thật khó tách bạch. Hơn thế, tác
giả còn đặt ra vấn đề không kém phần quan trọng là sứ mệnh của nhà văn - sứ

10


mệnh của một người cầm bút viết văn là để nói lên tiếng nói cho thân phận con
người, thân phận tình yêu của một thế hệ lính chiến.
Chủ đề là phương diện cơ bản có tính khách quan của nội dung tác phẩm.
Nó cho thấy tác phẩm nói tới cái gì, nêu vấn đề gì của hiện thực đời sống nghĩa
là chủ đề tác phẩm do tác giả xác định nhưng lại do hiện thực quy định, có
nguồn gốc hiện thực. Sức sống một tác phẩm xét đến cùng là ở chủ đề chân
thật, có tầm quan trọng của nó. Nếu không nêu được chủ đề có tính khách quan,
hoặc nêu vấn đề một cách giả tạo sẽ khiến tác phẩm dễ bị lãng quên.
Xét về quan hệ, chủ đề có mối quan hệ mật thiết với tư tưởng tác phẩm.
Do mối quan hệ khăng khít của chủ đề và tư tưởng mà có khi người ta hiểu chủ
đề là tư tưởng chủ đạo của tác phẩm. Nói khác đi, chủ đề không tách rời tư
tưởng tác phẩm. Tư tưởng sẽ quy định phạm vi đề tài, tạo ra ý nghĩa chủ đề của

tác phẩm.
1.1.2. Khái niệm tình yêu đôi lứa
Tình yêu là một khái niệm đa nghĩa trong cách diễn đạt và cách hiểu khác
nhau. Tình yêu, nhất là tình yêu đôi lứa, luôn là một phạm trù bí ẩn và hấp dẫn
với con người. Vậy tình yêu đôi lứa là gì? Thật khó có thể định nghĩa một cách
chính xác nhưng đó thường là một cảm xúc thu hút mạnh mẽ và nhu cầu muốn
được gắn bó của hai người khác giới.
Diane Ackerman từng nói: “Mọi người đều thừa nhận tình yêu thật tuyệt
vời và vô cùng cần thiết nhưng chưa một ai định nghĩa được tình yêu là gì?”.
Nhà thơ Xuân Diệu đã từng trăn trở: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu” và cho
rằng: “Yêu là chết trong lòng một ít/Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu”. Theo
Paulo Coelho: “Tình yêu là một sức mạnh hoang dại. Khi ta cố gắng điều khiển
nó, nó hủy hoại ta. Khi ta muốn nhốt nó lại, ta lại trở thành nô lệ của nó. Khi
ta cố gắng hiểu nó, nó lại làm cho ta có cảm giác mất mát và bối rối”.
Dưới góc nhìn triết học, tình yêu “là tình cảm giữa con người với con
người hướng đến chân, thiện, mỹ. Tình yêu đẹp là tình yêu mang lại hạnh phúc
và sức mạnh cho con người, giúp con người vượt qua khó khăn, thử thách”.
11


Theo Từ điển tâm lí học, tình yêu đôi lứa “là sự rung cảm sâu sắc nhất
của sự thống nhất về nhiều mặt: mặt tự nhiên và xã hội, cơ thể và tinh thần,
thẩm mỹ và đạo đức, nhưng lại mang tính cá nhân mạnh mẽ. Tình yêu đôi lứa
có những đặc trưng cơ bản sau: Sự gắn bó tình cảm chặt chẽ với một người
khác giới khác; xu hướng suy nghĩ về người đó theo lối lí tưởng hóa; một sức
hấp dẫn rõ rệt về thể các mà người ta thường coi sự đụng chạm thân thể là thể
hiện sức hấp dẫn ấy” [12].
Có thể thấy, tình yêu đôi lứa là một trong những tình cảm tuyệt vời và
mãnh liệt nhất của con người. Đó là tình cảm đắm đuối, nồng nhiệt, si mê của
hai tâm hồn, hai cơ thể khao khát hòa quyện nhau. Nói cách khác, tình yêu món

quà kì diệu nhất mà Thượng đế đã ban tặng cho con người.
Khái niệm tình yêu là câu chuyện không có hồi kết bởi những nhịp rung
động đa dạng của mỗi trái tim. Chỉ biết rằng yêu là nhớ, là thương, là quan tâm
lo lắng, chăm sóc cho nhau, hạnh phúc khi được gần gũi, sẻ chia, hi sinh vì
nhau vô điều kiện.
Tình yêu đôi lứa xuất phát từ bản năng nhưng cũng là phần người nhất,
đẹp đẽ nhất. Yêu có nghĩa là đối xử với ai đó tốt hơn mọi người, tốt hơn cả
chính mình. Khi tình yêu đủ lớn sẽ luôn hướng đến đích cuối cùng là nhu cầu
được ràng buộc, gắn bó bên nhau đến trọn đời.
Trên con đường vun đắp tình yêu, chẳng rải toàn hoa hồng mà có “muôn
vời cách trở”. Nhưng đó là liều thuốc thử thách hữu ích nhất cho tình yêu. Chỉ
khi đi qua những ngày hạnh phúc, hay nếm trải cả những đắng cay, đau khổ,
người ta mới hiểu rõ hơn giá trị đích thực của tình yêu. Sông có thể cạn, đá có
thể mòn, nhưng tình yêu thì bất tử với thời gian, cả niềm đau và hạnh phúc.
1.2. Chủ đề tình yêu đôi lứa trong văn xuôi Việt Nam viết về chiến tranh từ
1945 đến nay
1.2.1. Tình yêu đôi lứa trong văn xuôi chiến tranh từ 1945 - 1975
Văn học Việt Nam từ 1945 - 1975 được đặt trong hoàn cảnh lịch sử đặc
biệt, đó là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc vô cùng ác liệt chống Pháp và

12


chống Mỹ. Nhiệm vụ quan trọng nhất của văn học nghệ thuật là tập trung phục
vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu, phải thắp sáng niềm tin, nêu cao tinh thần chịu
đựng gian khổ hi sinh nên không nói nhiều đến chuyện hưởng thụ, còn đề tài
tình yêu, hạnh phúc cá nhân, nếu có đề cập đến cũng phải gắn với nhiệm vụ
chiến đấu.
Văn xuôi giai đoạn này không có tác phẩm nào dành riêng cho tình yêu
đôi lứa mà tình cảm riêng tư ấy hòa quyện trong tình yêu Tổ quốc thiêng liêng tình yêu đôi lứa mang tính sử thi. Trong những câu chuyện tình yêu thời chiến

tranh, bạn đọc có lẽ chẳng thể nào quên những mối tình đẹp đẽ, kì diệu Nguyệt
- Lãm (Mảnh trăng cuối rừng - Nguyễn Minh Châu), Tnú - Mai (Rừng xà nu Nguyễn Trung Thành), Lữ - Hiền (Dấu chân người lính - Nguyễn Minh Châu);
Quỳnh - Hảo (Vùng trời - Hữu Mai); Thiêm - Mẫn (Mẫn và tôi - Phan Tứ);
Ngạn - Quyên (Hòn Đất - Anh Đức); Tâm - Thành (Dưới đám mây màu cánh
vạc - Thu Bồn)... Họ đều là những nhân vật của sử thi, từ suy nghĩ đến “yêu
đương” cũng rất “sử thi”.
Trước hết, đó là tình yêu trong sáng gắn với niềm tin và lòng thủy chung
giữa mưa bom bão đạn. Mảnh trăng cuối rừng (Nguyễn Minh Châu) là một
trong số ít tác phẩm cùng thời tách riêng ra làm thành một tình khúc trong bầu
trời đầy tiếng súng. Câu chuyện là cuộc hành trình tìm kiếm tình yêu được xây
dựng trong một tình huống đặc biệt. Trên đường đi, Lãm, người lái xe, gặp cô
gái đã thầm yêu anh dù chưa một lần gặp mặt. Cô gái tên Nguyệt đã biểu hiện
lòng dũng cảm khi cùng Lãm cứu chiếc xe quân sự ra khỏi vùng bom đạn.
Chàng trai chỉ lờ mờ đoán rằng cô ở cùng chỗ với người con gái tên Nguyệt của
mình. Rồi họ chia tay trong niềm lưu luyến. Nhưng giữa họ đã nảy nở một tình
mến yêu cao thượng và trong sáng. Sự ngẫu nhiên không chỉ khiến Nguyệt Lãm gặp nhau mà còn gần nhau, cùng nhau vượt qua hiểm nguy, để rồi có thêm
những cảm nhận mới về nhau. Tình yêu giữa Nguyệt và Lãm tuy chưa nói
thành lời, chưa hẹn hò, nhưng họ vẫn dành cho nhau một niềm yêu thương

13


riêng trong khoảng trời riêng của mình. Niềm tin và tình yêu giúp họ đi qua
gian khổ, hướng về nhau và cùng tin vào cuộc sống.
Như một sự kì diệu, ở Nguyệt lòng thủy chung như ngọn lửa vĩnh cửu. Nó
luôn cháy nóng trong mọi không gian và tỏa sáng ngay giữa chiến trường. Nó
không hề thay đổi dù nắng mưa đời thường năm tháng và đạn bom ác liệt của
quân thù: “Tôi đứng bên bờ sông giữa cảnh một chiếc cầu đổ và lại tự hỏi :
qua bấy nhiêu năm tháng sống giữa cảnh bom đạn và tàn phá những cái quý
giá đó chính bàn tay mình xây dựng nên, vậy mà Nguyệt vẫn không quên tôi

sao ? Trong tâm hồn người con gái nhỏ bé, tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào
cuộc sống, cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy, bao nhiêu bom đạn giội xuống cũng
không hề đứt, không thể nào tàn phá nổi ư ?” (Mảnh trăng cuối rừng - Nguyễn
Minh Châu). Sợi chỉ xanh óng ánh mà Nguyễn Minh Châu nói tới đó là sự sống
bất diệt, tình yêu thách thức tử thần.
Ít lãng mạn hơn chuyện tình Nguyệt - Lãm trên tuyến lửa Trường Sơn,
tình yêu của đôi trẻ Tnú - Mai trong Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành) trên
mảnh đất Tây Nguyên dường như khiến họ mạnh mẽ hơn và đứng dậy đấu
tranh. Trong bản hùng ca hịch tướng sĩ thời đánh Mỹ ấy, có những khoảng lặng
dành trọn cho tình yêu của Tnú và Mai. Tình cảm của họ trong mát như nước
suối nhưng cũng mạnh mẽ, mãnh liệt như cây xà nu làng Xô man. Họ nên vợ
nên chồng và đã có một Tnú nhỏ mới ra đời. Hạnh phúc của họ đẹp tựa ánh
trăng rằm trên đỉnh núi Ngọc Linh. Nhưng những tháng ngày êm đẹp của đôi
vợ chồng trẻ quá ngắn ngủi và kết thúc trong bi thương. Kẻ thù muốn bắt Tnú
nên chúng bắt vợ con anh với ý đồ nham hiểm Bắt được con cọp cái và cọp
con, tất sẽ dụ được cọp đực trở về. Chúng đã hành hạ dã man người thiếu phụ
mới sinh con được một tháng. Với hai bàn tay trắng, Tnú đã không cứu sống
được mẹ con Mai, thậm chí không bảo vệ được chính mình. Kẻ thù đã quấn giẻ
có tẩm dầu xà nu vào mười ngón tay anh rồi châm lửa đốt...

14


Tnú chỉ còn lại đôi bàn tay tàn tật nhưng anh vẫn chiến đấu và luôn giữ
hình ảnh Mai và con trong tim. Chảy trong huyết quản của người trai cường
tráng như một cây xà nu đang độ sung sức kia là dòng máu anh hùng được
truyền lại từ thời Đam San, Xinh Nhã và sức mạnh được nuôi dưỡng bởi tình
yêu thắm thiết của Mai.Vợ con Tnú đã hi sinh nhưng tình yêu thì còn đó, bất
diệt như những cây xà nu, dù bom đạn có dội xuống, dù chịu nhiều đau thương
vẫn tràn trề nhựa sống và xanh rời rợi dưới ánh sáng mặt trời.

Người đọc cũng dễ dàng nhận ra tình yêu đôi lứa trong chiến tranh đi liền
với những mất mát, đau thương đã hòa trong tình yêu cao cả - tình yêu Tổ
quốc. Tình yêu với giá trị đích thực, với sức mạnh kì diệu của nó, trong những
năm chiến tranh đau thương, đã trở thành nguồn sức mạnh vô song cho người
ra trận và người ở lại hậu phương. Trong Dấu chân người lính (Nguyễn Minh
Châu), ta bắt gặp tình yêu tuy có lúc âm thầm, lặng lẽ nhưng tận sâu trong trái
tim vẫn là những phút giây nồng nhiệt. Mối tình Lữ và Hiền đã giúp Lữ ấp ủ
một niềm hi vọng, ngày trở về, anh sẽ thổ lộ tình cảm với Hiền.“Anh vẫn yêu
Hiền. Anh vẫn yêu cô với tất cả sự hiểu biết và từng trải của anh hiện nay
trong khói lửa. Anh đã yêu cô bắt đầu từ một tiếng hát đảm đang. Cho đến bây
giờ, tất cả tình yêu thầm kín và niềm mong mỏi anh đặt vào cô vẫn là cái tiếng
hát cô đang đem đến cho mọi người”. Tuy vậy, trên đồi 475, Lữ đã hi sinh và
đem theo tình cảm đối với Hiền đi đến bên kia thế giới. Tình yêu thầm kín ấy
không chỉ là niềm hi vọng, mà còn tiếp thêm sức mạnh để người lính vượt qua
những khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ trên chiến trường khốc liệt.
Trên con đường hành quân, câu chuyện tình yêu tuy chỉ len lỏi trong phút
giây ngắn ngủi, như Lượng, một đại đội trưởng khô khan cũng đôi lúc nghĩ đến
chuyện gặp Nết, nhưng tình yêu thành động lực thúc đẩy bước chân người lính
quyết giành độc lập, là vị thuốc xoa dịu mọi nỗi đau thể chất. Cuộc tình chớm
nở không thành của Lượng và Xiêm - một người vợ có chồng theo ngụy - đã
trở thành kí ức khó quên đối với anh. Lượng đã nhớ mãi hình ảnh

15


Xiêm “đẹp trong sáng như vị nữ thần của núi rừng, càng khiến cho Lượng yêu
đời và muốn hoạt động. Tất cả những đòn tra tấn do bàn tay man rợ của bao
nhiêu tên giặc cũng trở thành vô nghĩa” (Dấu chân người lính - Nguyễn Minh
Châu). Đó là sức mạnh của tình yêu, nó mở ra trong lòng người lính những cảm
xúc dạt dào, yêu đời, yêu người và trở thành nguồn động lực mạnh mẽ trong

chiến đấu.
Những con người cầm súng mạnh mẽ, gan dạ nhưng đôi khi cũng có
khoảng lặng. Chính ủy Kinh can trường là vậy cũng có những lúc nhớ về vợ
mình, về đứa con đang ở mặt trận khác. Nỗi nhớ ấy không làm ủy mị mà càng
khích lệ tinh thần, để tay ông càng cầm chắc súng tiến lên giành tự do, vẫn phải
đối mặt với một cuộc chiến trường kỳ còn đang ở phía trước với cương vị của
một thủ trưởng, là điểm tựa vững chắc cho những người lính khác. Tất cả,
những người nơi hậu phương, nơi tiền tuyến, đều coi nhau như trong một nhà,
tất cả vì mục tiêu đuổi giặc. Thậm chí, khi yêu nhau người ta cũng coi nhau như
đồng chí: “Rồi hai đứa hôn nhau, hai người đồng chí ” (Tố Hữu).
Trong chiến tranh, tình yêu như một liều thuốc hóa giải những bạo lực,
làm dịu đi những đau thương mà con người phải gánh chịu. Chiến tranh có thể
hủy diệt mọi thứ trên đường nó đi qua nhưng không thể vùi dập được tình yêu.
Tình yêu có sức mạnh, sức sống kì diệu riêng của nó, dường như trong chiến
tranh, tình yêu càng mãnh liệt hơn bao giờ hết, giúp bao người lính thêm chắc
tay súng bảo vệ Tổ quốc, giúp bao đôi lứa thêm niềm tin vào ngày mai đất nước
thống nhất.
1.2.2. Tình yêu đôi lứa trong văn xuôi chiến tranh sau 1975
Sau năm 1975, chiến tranh vẫn là một đề tài lớn, “một kho chất liệu không
thể nào vơi cạn trong nghĩ suy và cảm xúc của con người” (Phong Lê). Với
nhiều nhà văn, chiến tranh vẫn là “hạt ngọc ẩn giấu” (Nguyễn Minh Châu)
càng khám phá càng thấy những “độ rung không mòn nhẵn” [9, tr.15]. Điều đó
khẳng định văn học thời bình vẫn luôn quan tâm dành cho đề tài chiến tranh và
người lính những trang viết đầy tâm huyết và chân thành.
16


Thời hậu chiến, văn học không còn phản ánh nhiều mảng màu sáng của
chiến thắng, chiến công, về vấn đề trọng đại của quốc gia dân tộc mà khoét sâu
vào mảng hiện thực màu xám của những mất mát, đau thương, những vấn đề

đời tư, thế sự gắn với thân phận cá nhân, số phận con người. Bởi thế tình yêu
đôi lứa cũng được khai thác với tất cả sự đa dạng của nó. Văn xuôi viết về tình
yêu trong chiến tranh thời hậu chiến có thể kể đến các tác phẩm tiêu biểu như
Cỏ lau (Nguyễn Minh Châu), Người sót lại của rừng cười (Võ Thị Hảo), Ăn
mày dĩ vãng, Phố (Chu Lai), Bến không chồng (Dương Hướng), Nỗi buồn
chiến tranh (Bảo Ninh),… Các tác giả khai thác tình yêu “đời” hơn, gần gũi,
táo bạo hơn và cũng nhiều đớn đau hơn, nhất là mối quan hệ chiến tranh - tình
yêu - tình dục.
Các nhà văn thể hiện tình yêu đôi lứa ở giai đoạn này không còn mang đôi
cánh lí tưởng cách mạng mà gắn với những bi kịch đớn đau, ám ảnh, nhất là bi
kịch ra khỏi cuộc chiến mà không thể hòa nhập với đời thường. Có thể nói
Nguyễn Minh Châu vẫn là cây bút tinh anh khi viết về chiến tranh và tình yêu.
Cỏ lau (1987) đã đem đến cho độc giả một suy ngẫm sâu sắc, một cái nhìn trực
diện về tình yêu thời hậu chiến. Câu chuyện tình yêu Lực - Thai được tái hiện
từ sự việc tại Quảng Trị, ngay sau ngày chiến thắng 30/4/1975, Lực (một sĩ
quan cao cấp của quân đội Cách mạng mà gia đình tưởng đã chết từ lâu) tình cờ
bước vào một tiệm ảnh và nhận ra chính mình trong một bức ảnh "chụp một
cặp vợ chồng mới cưới, mới được phóng đại và tô màu bằng thuốc nước, treo ở
hàng ảnh trên cao" (Cỏ lau - Nguyễn Minh Châu). Cặp vợ chồng đó là Lực và
Thai, người vợ mà ông đã bỏ lại quê gần ba mươi năm trước để đi theo kháng
chiến rồi ra Bắc tập kết. Sau đó, Thai được tin ông chết (Thai nhận nhầm xác
người, tưởng đó là Lực) đã đến với Quảng nhưng không bao giờ nguôi ngoai
nỗi đau mất Lực, dù được Quảng quí trọng. Tuy vẫn yêu Thai, cảm thấy ghen
với người chồng mới của Thai, Lực chạy trốn vì không muốn ảnh hưởng đến
hạnh phúc mới của Thai. Cuối truyện, Thai tìm gặp ông, sẵn sàng bỏ gia đình
riêng để đến với ông, Lực từ chối, đau đớn nhưng quyết liệt.

17



Thai ôm giữ mối tình đầu mà sống, đi qua chiến tranh bằng những ngày
giỗ chồng đầy nước mắt. Chiến tranh kết thúc, chồng trở về bằng da bằng thịt,
nhưng chị lại mắc kẹt với người chồng đang chung sống, chơi vơi ở giữa với
những đớn đau, tê dại. Vì chiến tranh nên tình yêu ấy không thể đơm hoa kết
trái mà trở thành nỗi đau suốt đời Lực và Thai. Nó đáng sợ hơn cả cái chết, nó
là sự chia lìa tuyệt đối. Còn Lực, suốt ba mươi năm qua vẫn yêu Thai nhưng lúc
trở về Lực chỉ còn là người xa lạ. Vì vậy Lực và Thai chịu bi kịch đau đớn và
cay đắng nhất, bi kịch của những kẻ yêu nhau bị chia lìa bởi cuộc sống chứ
không phải cái chết.
Sau Nguyễn Minh Châu, Dương Hướng là nhà văn phân tích thành công
những tình cảm tế nhị, những bi kịch tình yêu - hạnh phúc do chiến tranh nảy
sinh. Đến với tiểu thuyết Bến không chồng, người đọc không khỏi xót xa trước
những bi kịch con người thời hậu chiến - bi kịch tình yêu, bi kịch những “hòn
vọng phu” thời hiện đại. Truyện bắt đầu từ lúc anh lính Nguyễn Vạn về sau
chiến thắng Điện Biên, kéo dài qua cuộc kháng chiến chống Mỹ, đến giai đoạn
đất nước mới được giải phóng, tại làng Đông quê hương anh. Vạn về trong
niềm trọng vọng của mọi người. Anh xông xáo xây dựng hậu phương, bởi
thương tật khiến anh không còn đủ khả năng ra tiền tuyến nữa. Ấy vậy mà,
những hủ tục, những lề thói cũ mòn của dòng họ, của làng quê đã bóp nát tình
yêu của anh. Anh không dám vượt qua rào cản tâm lí để đến với chị Nhân,
nhưng rồi cuộc sống xô đẩy anh cùng hai người phụ nữ trong đời anh đến
những lựa chọn quyết liệt. Những người phụ nữ ở làng Đông mỗi người đi tìm
hạnh phúc theo cách của mình, nhưng thời cuộc và chiến tranh cùng biết bao
sai lầm trong tư duy một thời đã ám ảnh họ mãi ở “bến không chồng” vừa hữu
hình vừa dai dẳng trong tiềm thức. Chị Nhân không thể đến với Vạn hay với
bất kỳ ai - bởi chị là vợ, là mẹ liệt sỹ. Hai con người đáng thương ấy sống trong
sự kìm nén bất hạnh. Cả cuộc đời buộc bản thân “giữ gìn hình ảnh”, một đời cô
độc.

18



Đến Phố, Chu Lai lại đưa người đọc đến một niềm xót tiếc khác, một ngậm
ngùi cho bi kịch tình yêu thời hậu chiến. Tình yêu và hạnh phúc của Thảo

- Nam chứa nhiều cay đắng, xót xa. Tình yêu của họ được thử thách nơi hòn
tên mũi đạn, ngàn ngày đằng đẵng xa nhau. Hạnh phúc tưởng như trọn vẹn khi
Thảo “nguyên vẹn” trở về, tiền bạc dồi dào, nhà cao cửa rộng, đời sống sung
tức. Vậy mà chưa đầy năm sau, bi kịch đã giáng xuống đầu họ. Chị bỏ mạng ở
biển Sầm Sơn trong chuyến píc níc với tình nhân. Anh điên loạn, phẫn uất khi
nhận ra mình bị phản bội. Có có Niên Thảo đau đớn mất mẹ và chịu cơn thịnh
nộ của bố.
Điểm mới của tình yêu đôi lứa trong văn xuôi chiến tranh hậu chiến là tình
yêu đi liền với những khao khát tình dục. Chuyện “gối chăn” riêng tư đã được
đề cập từ Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn): "Chàng thì đi cõi xa mưa
gió/Thiếp lại về buồng cũ gối chăn" nhưng trong 30 năm chiến tranh 1945 1975, tình dục vẫn là một đề tài "kị húy". Những đôi lứa được xây dựng là con
người "lành mạnh" không bao giờ biết đến những khát thèm thể xác. Nay các
tác giả của Cỏ lau, Bến không chồng, Nỗi buồn chiến tranh, Người sót lại của
rừng cười,… đã mô tả đến các vùng bí hiểm nhất của con tim.
Trong Cỏ lau, Lực tìm cách khỏa lấp tình yêu với Thai bằng mối quan hệ
đặc biệt với Thơm (con gái Thai) và Huệ (con chồng Thai). Lực tìm kiếm
những dấu vết, khát khao gần gũi Thai trong Thơm và Huệ. Khi "cúi xuống bế
thốc đứa con gái nhỏ của Thai trên tay (…) hôn mãi", Lực "cảm thấy một chút
hơi hướng của (…) người đàn bà mà kí ức đầy hoang vắng của tôi còn giữ gìn
được". Bất ngờ nhất là thái độ của Huệ với Lực, khi cô đến thăm ông cùng một
người bạn - nó còn hơn cả lời tỏ tình: "Con phải lôi anh ấy đi cùng để đám bạn
con chúng nó khỏi nhấm nháy bảo với nhau rằng là con phải lòng bác (…) giá
bây giờ bác thật lòng yêu con (…) Đời con khổ lắm, bơ vơ lắm" [62]. Phải
chăng Huệ đang dần dần thay thế Thai trong Lực?


19


×