CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BÁO CÁO KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến cơ sở huyện
1. Tên sáng kiến:
GIÁO DỤC BẢO VỆ SỨC KHỎE CHO HỌC SINH QUA CHƯƠNG
CÁC NGÀNH GIUN – MÔN SINH HỌC LỚP 7
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Sinh học lớp 7 cấp THCS
3. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Áp dụng từ năm học
2018 – 2019 đến nay
4. Mô tả bản chất của sáng kiến:
Sức khỏe luôn là vốn quý của con người, bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng dân
cư không chỉ là trách nhiệm của mỗi người, mỗi gia đình mà còn là của toàn xã hội.
Trong các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, tình trạng nhiễm giun là
một trong những yếu tố tác động đến tình trạng sức khỏe cả trong hiện tại và tương
lai. Theo thông báo của tổ chức Y tế Tế giới WHO, hiện nay có ¾ dân số Thế giới
bị nhiễm giun.
Ở Việt Nam, do điều kiện tự nhiên thuận lợi cho mầm bệnh giun sán phát triển
quanh năm, mặt khác do nhiều yếu tố: đời sống kinh tế xã hội, tập quán canh tác tập quán vệ sinh, dân trí - trình độ giáo dục, vệ sinh môi trường…nên bệnh giun sán
là một trong những bệnh phổ biến nhất ở nước ta - một vấn đề sức khỏe lớn của
cộng đồng cả nước, gây nhiều tác hại lâu dài và nghiêm trọng. Ước tính khoảng từ
60% đến 70% dân số nhiễm ít nhất một loại giun sán nào đó, nghĩa là khoảng 60-70
triệu người dân nhiễm giun sán.
Trong đó phổ biến là các loại giun: giun đũa, giun tóc và giun móc. Một số loại
sán phổ biến ở một số vùng địa lý như bệnh sán lá gan nhỏ ở vùng có nhiều ao nuôi
cá, sán lá phổi, sán dây ở miền núi và một số địa phương; bệnh giun kim ở trẻ em;
giun chỉ ở một số vùng đồng bằng …
Ấu trùng giun - sán có thể sống ký sinh ở bất cứ vị trí nào trên cơ thể người và
động vật như não, tim, phổi, gan, thận, mạch máu, bạch huyết, đầu, mặt, cổ, mắt,
vùng bụng, vùng lưng, phúc mạc, dây thần kinh, tủy sống… Chúng chiếm doạt chất
dinh dưỡng của cơ thể vật chủ, gây một số bệnh cho đường tiêu hóa như viêm loét
ruột, tắc ruột, tắc mật, tắc ống tụy, ngoài ra chúng còn tiết ra các loại chất độc gây
1
độc cho cơ thể vật chủ…Mọi lứa tuổi đều có thể nhiễm và mắc bệnh giun - sán,
nhất là ở lứa tuổi trẻ em.
Ở tuổi học sinh tỉ lệ bị nhiễm giun rất cao vì các em ít quan tâm đến giữ vệ sinh
khi ăn uống, hay ăn quà vặt… và đa số gia đình chưa thật sự quan tâm phòng chống
giun sán cho con em mình, thường quên cho các em uống thuốc tẩy giun định kỳ
đúng lịch và các em hay quên uống thuốc tẩy giun định kỳ.
Hiện nay bệnh giun sán có thể phòng ngừa được và nhất là thông qua con
đường giáo dục các bộ môn học liên quan đến phòng chống các bệnh về giun - sán.
Từ năm 2015, tôi đã đảm nhận dạy môn sinh học 7 và năm học 2018 - 2019 đến
nay tôi đã vận dụng các phương pháp để giúp các em phòng chống bệnh giun - sán
đạt được một số kết quả nhất định, đó chính là lý do tôi chọn đề tài “Giáo dục bảo
vệ sức khỏe cho học sinh qua chương các ngành giun - môn sinh học lớp 7”.
4.1. Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết:
Việc tẩy giun định kì ở trẻ em 2 lần/1năm là rất cần thiết, tuy nhiên hiện nay
việc hỗ trợ phát thuốc tẩy giun ở Trung tâm y tế chỉ áp dụng cho lứa tuổi trẻ em từ
2 đến 5 tuổi và ở trường Tiểu học các em cũng được hỗ trợ thuốc tẩy giun. Đến lứa
tuổi học trường THCS trở lên thì không được hỗ trợ thuốc nữa. Các em phải được
gia đình quan tâm chăm sóc và tự có định hướng, thời gian cho các em uống thuốc
tẩy giun định kỳ. Ngoài ra cần có nhiều hoạt động giáo dục bảo vệ sức khỏe ở nhà
trường.
* Ưu điểm:
- Địa phương và nhà trường rất quan tâm đến việc bảo vệ sức khỏe cho học
sinh hàng năm tổ chức các buổi giáo dục sức khỏe tuyên truyền tác hại các bệnh
giun sán.
- Giáo viên bộ môn Sinh học có giáo dục sức khỏe bệnh giun sán cho học
sinh.
- Qua tìm hiểu, một số gia đình học sinh rất chú trọng trong việc chăm sóc
sức khỏe, tẩy giun cho các thành viên trong gia đình.
* Nhược điểm:
- Giáo viên thường chú trọng tới nội dung được quy định sẳn trong sách giáo
khoa và thường được sử dụng trong các tiết dạy qua các phương pháp dạy học
truyền thống như: giảng giải, thuyết trình, vấn đáp…
- Hiện nay một số giáo viên còn dạy học theo phương pháp truyền thống, nên
còn hạn chế trong việc đầu tư kiến thức, công tác tự học, tự rèn ở một vài thầy cô
giáo chưa được phát huy có hiệu quả, trong công tác giảng dạy vẫn theo một lối
mòn, chưa nghiên cứu sâu để đổi mới, tiếp cận và sử dụng hiệu quả việc ứng dụng
công nghệ thông tin trong công tác.
2
- Học sinh nắm bắt kiến thức kĩ năng một cách thụ động, chưa phát huy tính
tích cực, chủ động, tư duy sáng tạo của học sinh để lĩnh hội các kiến thức cơ bản
trong sách giáo khoa.
- Học sinh chỉ chú trọng việc tích lũy các kiến thức cơ bản để đáp ứng các
bài kiểm tra, các kì thi chưa thực sự quan tâm đến sức khỏe, còn lơ là với sức khỏe
của chính mình.
- Một số gia đình học sinh còn thiếu hiểu biết về các bệnh giun sán và trong
hoạt động hằng ngày còn thờ ơ với các con đường dẫn đến mắc bệnh giun sán.
4.2. Các nội dung đã được cải tiến, sáng tạo nhằm khắc phục những nhược
điểm trên:
Ở chương trình sinh học lớp 7 các em đã được học về động vật từ động vật
nguyên sinh đến các động vật bậc cao, các em biết được nhiều loại động vật ký sinh
trên người và động vật, nhất là chương III nói về các ngành giun như giun dẹp, giun
tròn và giun đốt. Tôi muốn qua các bài học ở chương III, giáo dục kỹ hơn cho các
em về cách phòng tránh bệnh giun sán bảo vệ sức khỏe.
Ở mỗi loài động vật các em đều được tìm hiểu về cấu tạo, lối sống, dinh
dưỡng, sinh sản, vai trò cụ thể là lợi ích hay tác hại của chúng. Từ đó các em biết
cách bảo vệ động vật có ích và biết cách phòng tránh tác hại và tiêu diệt động vật
gây hại.
Để giáo dục bảo vệ sức khỏe cho học sinh qua chương Các ngành giun tôi
xin đưa ra một số giải pháp sau:
- Giải pháp 1: Khảo sát học sinh khối 7 trong 2 năm học với các câu hỏi đơn
giản để nắm bắt được việc nhận thức của các em về bệnh giun sán.
- Giải pháp 2: Tạo hứng thú cho học sinh khi học tập, phát huy tính tự học, tự
tìm tòi nghiên cứu ở mỗi học sinh.
- Giải pháp 3: Khắc sâu kiến thức và minh họa từ thực tế về giun sán gây
bệnh cho người để giáo dục ý thức tự bảo vệ sức khỏe cho học sinh.
- Giải pháp 4: Phối hợp với nhà trường và phụ huynh trong việc giáo dục bảo
vệ sức khỏe cho học sinh.
4.2.1. Khảo sát học sinh khối 7 trong 2 năm học với các câu hỏi đơn giản để nắm
bắt được việc nhận thức của các em về bệnh giun sán
Để tìm hiểu nhận thức của học sinh về bệnh giun sán, trước khi bắt đầu học
chương III Các ngành Giun, tôi đã tiến hành khảo sát học sinh khối 7 mà dạy học
qua 2 năm với các câu hỏi như sau:
CÂU HỎI THAM KHẢO
Câu 1. Ở gia đình, em uống thuốc tẩy giun định kỳ như thế nào?
3
(Khoanh tròn vào câu trả lời của em)
A. Uống định kì ( 6 tháng 1 lần)
B. Uống mỗi năm 1 lần
C. Ít uống
D. Em không nhớ
E. Em chưa uống lần nào
F. Ý kiến khác………………………………………………………………………
Câu 2. Nếu em uống thuốc thì hãy cho biết lí do vì sao em uống?
A. Bố mẹ nhớ cho uống thuốc
B. Em nhớ, nhắc bố mẹ cho uống thuốc
C. Ý kiến khác……………………………………………………………………….
Câu 3. Nếu không uống thuốc tẩy giun thì hãy cho biết lí do vì sao em không
uống?
A. Bố mẹ không nhớ cho uống thuốc
B. Em không nhớ
C. Bố mẹ cảm thấy không cần thiết để uống
D. Em cảm thấy không cần thiết để uống
E. Ý kiến khác……………………………………………………………………….
Câu 4. Theo em các hoạt động nào sau đây dễ bị nhiễm giun sán
(Khoanh tròn và chọn các câu trả lời các em cho là đúng)
A. Không mang dép khi đi trên đất
B. Tắm sông, suối…
C. Tắm mưa
D. Ăn món nấu tái và món gỏi sống
E. Ăn món nấu chín
G. Mút tay
H. Ăn rau sống rửa sạch
Câu 5. Theo em giun sán có hại cho con người và động vật không?
………………………………………………………………………………………
Tổng kết và ghi nhận kết quả, lắng nghe các em trao đổi từ đó tôi xây dựng
nên các bước tiếp theo trong việc giáo dục các em bảo vệ sức khỏe trước các nguy
4
cơ bệnh giun sán. Đồng thời sau khi kết thúc việc dạy và giáo dục ở chương III, tôi
lại cho khảo sát một lần nữa nhằm so sánh, đối chiếu để thấy nhận thức và hiểu biết
của các em đã thay đổi như thế nào…
4.2.2 Tạo hứng thú cho học sinh khi học tập, phát huy tính tự học, tự tìm tòi
nghiên cứu ở mỗi học sinh.
Hứng thú là một thuộc tính tâm lí – nhân cách của con người. Hứng thú có
vai trò rất quan trọng trong học tập và làm việc, không có việc gì người ta không
làm được dưới ảnh hưởng của hứng thú. M.Gorki từng nói: Thiên tài nảy nở từ tình
yêu đối với công việc. Cùng với tự giác, hứng thú làm nên tính tích cực nhận thức,
giúp học sinh học tập đạt kết quả cao, có khả năng khơi dậy mạch nguồn của sự
sáng tạo.
Đa số học sinh không có hứng thú học tập với môn Sinh học nên việc học
tập, tiếp thu kiến thức của học sinh không tốt, chỉ dừng lại ở lý thuyết chưa áp dụng
được kiến thực được học vào thực tế. Nhất là việc áp dụng kiến thức trong việc bảo
vệ sức khỏe của bản thân.
Để học sinh có hứng thú học tập môn Sinh học nói riêng thì trước hết học
sinh phải có được ý thức học tập tốt, tinh thần học tập nghiêm túc và mục đích học
tập rỏ ràng và đặc biệt ý thức được việc bảo vệ sức khỏe cho bản thân và gia đình.
Bên cạnh đó nhà trường phải tạo điều kiện học tập tốt nhất, nâng cao trang
thiết bị, dụng cụ học tập. Tổ chức các buổi ngoại khóa, tuyên truyền giáo dục bảo
vệ sức khỏe cho học sinh
Giáo viên phải thực sự tâm huyết với nghề, tích cực trao dồi chuyên môn
cũng như vận dụng các phương pháp giảng dạy tích cực. Nội dung dạy học phải
bám sát chuẩn kiến thức - kĩ năng và giảm tải, cô đọng thật ngắn gọn, đủ ý và phù
hợp với từng đối tượng học sinh và trên hết là biết quan tâm đến học sinh.
Trong hoạt động dạy học, không thể sử dụng một phương pháp để truyền tải
kiến thức và gây dựng hứng thú cho học sinh mà cần phải kết hợp linh hoạt các
phương pháp dạy học để mang lại hiệu quả cao.
a. Trò chơi:
Có thể tổ chức trò chơi vào khâu kiểm tra bài cũ, vào bài, trong tiến trình dạy
bài mới, kiểm tra - đánh giá. Đây là hoạt động mang lại hiệu quả lớn để gây hứng
thú học tập cho học sinh. Giáo viên thường tổ chức trò chơi học tập để củng cố kiến
thức, kỹ năng. Tuy nhiên việc tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi để hình thành
kiến thức, kỹ năng mới là rất cần để tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ khi
bắt đầu bài học mới. Chính vì vậy tôi thường dành khá nhiều thời gian để đầu tư
với mong muốn tạo được trò chơi hấp dẫn, thu hút học sinh.
5
Ví dụ 1: Khi dạy phần 2: Vòng đời – bài 11 Sán lá gan. Giáo viên phát phiếu
bài tập cho các nhóm hoàn thành vòng đời sán lá gan như sau:
Ví dụ 2: Trước khi học sang bài 13: Giun đũa, giáo viên có thể kiểm tra bài
cũ bằng cách cho học sinh chơi trò chơi giải ô chữ nhằm nhắc lại kiến thức cũ của
bài trước như sau: Giáo viên yêu cầu học sinh giải lần lươt các câu hỏi ở hàng
ngang để tìm ra ô chữ hàng dọc:
b. Tạo tình huống có vấn đề
6
Trong phần này, giáo viên hoặc học sinh nêu tình huống có vấn đề liên quan
đến bài mới yêu cầu cả lớp tham gia giải quyết vấn đề. Thường thì tình huống dí
dỏm, gần gũi với các em sẽ mang lại hiệu quả tốt nhất.
Ví dụ: Để gợi mở vào phần 2: Vòng đời – bài 11 Sán lá gan. Giáo viên đưa ra
tình huống:
“ An và Bình là bạn thân hay học nhóm với nhau. Một hôm, khi qua nhà An
học nhóm Bình thấy An đang ăn mì với rau Đắng (một loại rau thường được trồng
dưới ruộng) Bình nói với An: “Bạn không nên ăn sống rau Đắng vì rất dễ bị nhiễm
Sán lá gan” Theo em, Bình nói như vậy đúng không, vì sao?
Tôi liền đưa tình huống này cho học sinh giải quyết bằng quan điểm của
mình. Sẽ có rất nhiều ý kiến được học sinh đưa ra, cũng có thể là ý kiến đúng, cũng
có thể là ý kiến chưa phù hợp so với kết quả của tôi. Tôi sẽ không chốt đáp án ngay
mà gây sự tò mò cho học sinh bằng cách: “Để biết bạn Bình nói đúng hay không thì
chúng ta hãy tìm hiểu phần 2. Vòng đời của sán lá gan”
c. Sử dụng phương tiện trực quan
Tạo điều kiện cho học sinh nắm vững nội dung chính xác, ghi nhớ sâu kiến
thức, phát triển năng lực nhận thức và hình thành nhân cách cho học sinh. Giáo
viên sử dụng mẫu sống, mẫu ngâm, mô hình, video, tranh ảnh giúp học sinh dễ hình
dung cụ thể các đối tượng nghiên cứu, dành cho những kiến thức khó, trừu tượng…
như dạy kiến thức liên quan đến cấu tạo trong, tập tính, sinh sản…
Ví dụ: Ở phần I: Nơi sống, cấu tạo và di chuyển – bài 11 Sán lá gan. Giáo
viên cho học sinh xem băng hình nói về nơi sống, cách di chuyển của Sán lá gan
Ngoài ra để giáo dục ý thức tự bảo vệ sức khỏe cho học sinh, trong các bài
giảng khi đề cập đến tác hại của các loại giun sán, giáo viên cần đưa các hình ảnh
7
trực quan để học sinh thấy rỏ hơn tác hại của các loại giun sán đó đối với sức khỏe
bản thân, gia đình và xã hội.
Ví dụ 1: Trong các bài: Sán lá gan; Một số giun Dẹp khác và đặc điểm chung
của ngành giun Dẹp, khi nói đến nơi sống kí sinh của các đại diện, giáo viên cần
đưa hình ảnh trực quan
SÁN LÁ GAN
Ví dụ 2: Bài giun đũa nói đến tác hại gây tắc ruột của giun đũa, giáo viên đưa
hình ảnh
8
d. Áp dụng các phương pháp dạy học tích cực
Trong dạy học bộ môn sinh học, giáo viên dạy sinh học là người giữ vai trò
chủ đạo trong việc định hướng, hướng dẫn học sinh. Hay nói cách khác là người
trọng tài đưa học sinh tìm tòi những tri thức sinh học. Lúc này, học sinh là người
chủ động, tích cực tìm tòi, phát hiện và có ý thức vận dụng kiến thức vào thực hành
phục vụ nhu cầu bản thân, gia đình và xã hội.
Để làm được điều này, việc dạy và học không chỉ đơn thuần sử dụng biệt lập
một phương pháp nào mà phải phối hợp các phương pháp một cách khoa học, phù
hợp sẽ giúp học sinh hình thành được kiến thức nhanh nhất và cụ thể nhất. Nên
người giáo viên kết hợp, vận dụng các phương pháp dạy học đặc thù của Sinh học
là quan sát tìm tòi, phương pháp thí nghiệm, với các phương pháp dạy học khác có
tác dụng kích thích năng lực tư duy tích cực, độc lập sáng tạo cho học sinh như các
phương pháp dạy học gợi mở - vấn đáp, đặt và giải quyết vấn đề, phương pháp kích
não, phương pháp dạy học theo nhóm nhỏ…thì mới phát huy được tính tích cực của
học sinh.
Ví dụ: Trong bài 13: Giun đũa. Giáo viên sử dụng phương pháp: trực quan,
thảo luận nhóm, vấn đáp, phân tích, giải thích.
- Sau khi cho học sinh quan sát sơ đồ vòng đời giun đũa, giáo viên tiếp tục
cho học sinh thảo luận nhóm nêu ra các hoạt động dễ gây nhiễm giun đũa ở người.
- Học sinh thảo luận nhóm nhỏ và ghi kết quả trên bảng phụ, cử đại diện
trình bày: Các hoạt động dễ gây nhiễm giun đũa là ăn rau sống, quả tươi không vệ
sinh, ăn thức ăn bị ô nhiễm, thường chơi đùa trên đất cát bẩn, tiếp xúc với phân và
rác thải…
- Giáo viên cho 1 nhóm trình bày kết quả và trả lời chất vấn của các nhóm
khác
- Học sinh trình bày kết quả thảo luận, các nhóm khác bổ sung (nếu có) và
trả lời chất vấn của các nhóm khác
- Giáo viên nhận xét, giải thích các hoạt động gây nhiễm giun đũa và minh
họa bằng hình ảnh cụ thể, kết luận.
e. Các biện pháp động viên
Trong thời gian lên lớp giảng bài, giáo viên phải khen ngợi, cho điểm kịp
thời, chính xác, đúng lúc. Khi học sinh trả lời đúng hoặc thảo luận nhóm hiệu quả
phải tuyên dương, cho điểm thưởng (cộng), nếu trả lời chưa đúng thì yêu cầu học
sinh (ngồi xuống,) suy nghĩ thêm. Với cách ứng xử này sẽ kích thích được hứng thú
học tập của các em. Cứ mỗi lần học sinh trả lời đúng hoặc thảo luận nhóm hiệu quả
tôi đánh dấu vào sổ 1 dấu “+”, cứ 3 dấu “+” tôi sẽ thưởng (cộng) 1 điểm cho các
em vào cột điểm hệ số 1 như kiểm tra miệng, kiểm tra 15 phút.
9
4.2.3. Khắc sâu kiến thức và minh họa từ thực tế để giáo dục bảo vệ sức khỏe
Mỗi đại diện mà học sinh được tìm hiểu trong chương trình sinh học lớp 7
đều có cấu tạo, lối sống, dinh dưỡng, sinh sản và vai trò cụ thể là có lợi hay có hại.
Qua chương III, các em nắm được các kiến thức cơ bản của các đại diện các ngành
giun nhất là các đại diện gây bệnh, đồng thời liên hệ thông tin và hình ảnh từ các ca
nhiễm bệnh thực tế. Từ đó các em nhận thức được tác hại của giun sán đối với sức
khỏe, đồng thời giúp các em nắm được các con đường truyền bệnh nhằm phòng
tránh được các bệnh giun sán.
a. Bài 11: Sán lá gan.
Tôi yêu cầu học sinh nắm được thức kiến thức về hình dạng, cấu tạo ngoài,
trong và các đặc điểm sinh lí thích nghi với lối sống kí sinh của sán lá gan. Trong
đó tôi khắc sâu kiến thức về nơi sống, lối sống, dinh dưỡng và sinh sản của sán lá
gan để học sinh thấy được tác hại của sán lá gan đối với sức khỏe như thế nào.
Để gây tò mò, kích thích cho học sinh tìm hiểu kiến thức ở phần 2 vòng đời
tôi đã đưa ra tình huống đã nêu ở phần ví dụ mục 4.2.2- b. Tạo tình huống có vấn
đề
Ngoài ra tôi đưa các ví dụ thực tế về các ca nhiễm sán lá gan để nhấn mạnh
cho các em thấy tác hại của sán lá gan đối với động vật và nhất là với sức khỏe con
người
Ví dụ 1: Thông tin từ bệnh viện Quốc tế Vinh (Nghệ An), bà P.T.D (SN
1964) bị mắc bệnh sán lá gan sinh sống trong cơ thể nhiều năm, đang sinh sôi, lan
ra trong nhiều bộ phận cơ thể.
10
Ví dụ 2: Bệnh viện Bưu điện đưa tin, một ngư dân nhập viện trong tình trạng
đau bụng dưới sườn phải kèm sốt, da vàng. Qua kiểm tra trong đường mật của bệnh
nhân phát hiện hàng nghìn con sán lá gan trong đó
Sán lá gan lôi ra từ đường mật ngư dân
Để giáo dục phòng tránh bệnh sán lá gan tôi quan tâm kỹ hơn về vòng đời
của sán lá. Tôi cho các em quan sát hình ảnh về vòng đời của sán lá gan và mô tả rõ
11
ràng cho các em nắm kỹ. Sau đó yêu cầu các em thảo luận một số câu hỏi để biết
vòng đời của sán lá gan sẽ bị ảnh hưởng như thế nào nếu trong thiên nhiên xảy ra
các tình huống:
Tôi giới thiệu thêm cho học sinh biết: “Trâu bò ở nước ta mắc bệnh sán lá
gan với tỉ lệ cao, vì chúng làm việc hoặc hay sống trong môi trường đất ngập nước.
Trong môi trường đó có rất nhiều ốc nhỏ là vật chủ trung gian thích hợp với ấu
trùng sán lá lá gan. Thêm nữa, trâu bò thường ăn các cây cỏ từ thiên nhiên, uống
nước, có các kén sán bám ở đó rất nhiều.” Sau đó hỏi các em câu hỏi: Qua vòng đời
của sán lá gan em sẽ phòng bệnh sán lá gan cho trâu bò như thế nào?
Để các em biết và khắc sâu việc phòng ngừa bệnh nhiễm sán lá gan cho bản
thân, tôi tổ chức 1 trò chơi Tiếp sức
12
Sau khi các đội hoàn thành trò chơi, tôi cho các em tự nhận xét kết quả, tự
chấm chọn đội thắng. Sau đó tôi sẽ chót các cách đúng nhất để một lần nữa khắc
sâu các cách phòng ngừa bệnh sán lá gan cho các em
Khi dạy bài này tôi thấy học sinh quan sát hình ảnh xong đã có cảm giác sợ
tác hại của loài sán này, khi học về dinh dưỡng thấy sán có giác bám, bám chắc vào
nội tạng vật chủ để hút chất dinh dưỡng học sinh sẽ thấy sán lấy rất nhiều chất dinh
dưỡng của vật chủ, nếu vật chủ bị nhiễm sán nhiều sẽ bị chậm lớn, người nuôi tốn
kém mà không đạt hiệu quả cao thậm chí còn lỗ vốn và nhất là khi các em tiếp cận
với các thông tin nhiễm bệnh từ thực tế. Đồng thời việc tham gia trò chơi để tìm
13
hiểu cách phòng ngừa bệnh sán lá gan đã đem lại hiệu quả cao trong việc khắc sâu
ý thức bảo vệ sức khỏe cho bản thân của các em.
b. Bài 12: Một số giun dẹp khác
Để tìm hiểu các đại diện khác của ngành giun dẹp, tôi yêu cầu học sinh
nghiên cứu thông tin trong sách giáo khoa và quan sát các hình vẽ, thảo luận nhóm
nêu các đặc điểm của các đại diện ngành giun
Sau khi thảo luận xong, tôi yêu cầu mỗi nhóm trình bày 1 đại diện, nhóm
khác bổ sung. Sau đó dựa vào kết quả của các em tôi hoàn thiện các đặc điểm của
các đại diện ngày giun dẹp.
14
Sau khi tìm hiểu các đặc điểm của các đại diện giun dẹp, tôi nêu cho các em
biết tác hại của các đại diện trên để cho các thấy được tầm quan trọng của việc bảo
vệ sức khỏe bản thân.
- Sán lá máu xâm nhập qua da của người gây viêm nhiễm ký sinh trùng
(sung) và tổn thương các cơ quan nội tạng.
- Sán bã trầu xâm nhập vào ruột hút chất dinh dưỡng ở ruột gây tổn thương ở
ruột như viêm loét, niêm mạc ruột phù nề lan ra phù nề toàn thân.
- Sán dây:
+ Bệnh sán dây trưởng thành: chủ yếu gây triệu chứng đau bụng, rối loạn
tiêu hóa nhẹ. Tuy nhiên, triệu chứng chủ yếu là người bị bệnh thường xuyên có
những cảm giác khó chịu, bứt rứt do những đốt sán (sán dây bò) tự rụng ra ngoài
ống tiêu hóa bất cứ lúc nào.
+ Bệnh ấu trùng: tùy thuộc vào vị trí ký sinh của nang sán mà có những biểu
hiện khác nhau (có các nốt ở dưới da bằng hạt đỗ, hạt lạc, di động dễ, không ngứa,
không đau, nằm ở vị trí cơ vân, không ở trên đường đi của hạch bạch huyết; hoặc
có thể bị động kinh, liệt tay, chân hay liệt nửa người, nói ngọng, rối loạn trí nhớ
hoặc đau đầu dữ dội; hoặc có thể tăng nhãn áp, giảm thị lực hoặc mù nếu có nang
sán ở mắt.
Bên cạnh đó để nêu cao tinh thần tự bảo vệ sức khỏe cho bản thân học sinh
tôi còn cung cấp cho các em các hình ảnh,thông tin minh họa thực tế các ca nhiễm
cũng như các nguy cơ khi bị nhiễm bệnh do các giun dẹp gây ra.
THỊT LƠN BỊ NHIỄM TRỨNG LÁ GAN ( SÁN GẠO)
SÁN DÂY
15
Ví dụ : Ở Ấn Độ, một bệnh nhân 18 tuổi tử vong do sán dây lợn gây tổn thương
não
Với các nội dung về đặc điểm, con đường xâm nhập; tôi cho các em chơi trò
chơi Lật mảnh ghép để các em biết được cách phòng bệnh do các đại diện ngành
giun dẹp gây ra.
16
Và đặc biệt nhấn mạnh các biện pháp phòng sán dây theo Bộ Y tế khuyến
cáo người dân:
- Không ăn thịt lợn, gan lợn hoặc thịt trâu bò chưa nấu chín như nem, thính,
nem chua, tré, thịt lợn tái, gan tái, thịt trâu- bò tái; kết hợp với các ngành chức năng
kiểm tra chặt chẽ các lò mổ lợn, trâu bò và loại bỏ các con vật mang ấu trùng sán;
không ăn rau sống, không uống nước lã.
- Quản lý phân tươi, nhất là ở những vùng có người nhiễm sán dây lợn
trưởng thành trong ruột. Sử dụng hố xí hợp vệ sinh, không nuôi lợn thả rông.
- Người có sán trưởng thành trong ruột phải được điều trị, không phóng uế
bừa bãi.
- Quản lý chặt chẽ tiêu chuẩn vệ sinh các lò mổ lợn (heo).
c. Bài 13: Giun đũa
Đối với bài giun đũa, bên cạnh những kiến thức về đặc điểm cấu tạo của giun
đũa, tôi nhấn mạnh các câu hỏi về tác hại, cách phòng tránh bệnh giun đũa và yêu
cầu các em trả lời hoặc hoạt động nhóm trả lời để hiểu rõ bản chất như:
? Nhờ đặc điểm nào mà giun đũa có thể chui vào ống mật và hậu quả sẽ như
thế nào đối với con người?
- Học sinh biết được đầu giun đũa nhọn và nhiều giun con còn có kích thước
nhỏ nên chúng có thể chui vào được ống mật. Khi chui vào ống mật người bệnh sẽ
đau bụng dữ dội và rối loạn tiêu hóa do ống mật bị tắc.
17
Giun đũa chui ống mật bệnh nhân
? Đối tượng nào thường mắc bệnh giun đũa?
GIUN
CHUI
VÀO
ỐNG
MẬT
MỘT
SỐ
BỆNH
NHÂN
- Qua câu hỏi nầy học sinh biết được trẻ em là đối tượng dễ mắc bệnh giun
đũa nhất do thói quen mút tay, không giữ vệ sinh cá nhân sạch sẽ, ăn uống không
hợp vệ sinh…
? Dựa vào vòng đời giun đũa, em thấy việc rửa tay trước khi ăn và khi ăn rau
sống có liên quan gì đến giun đũa?
- Câu hỏi này giúp các em hiểu được việc rửa tay trước khi ăn giúp loại bỏ
trứng giun đũa và các mầm bệnh khác bám trên tay. Cần rửa rau dưới vòi nước,
ngâm rau khoảng 15 phút trong dung dịch nước muối loãng 5% vì rau sống thường
được trồng ở đất, nếu rửa không sạch có thể dễ nhiễm ký sinh trùng.
? Tại sao y học khuyên mỗi người nên tẩy giun từ 1-2 lần trong 1 năm?
- Do trình độ vệ sinh xã hội ở nước ta còn thấp, nên dù phòng tránh tích cực
cũng không tránh khỏi mắc bệnh giun đũa. Vì vậy, y học khuyên mỗi năm tẩy giun
từ 1-2 lần.
Qua những câu hỏi ở bài này, tôi đã tóm tắt kiến thức cho các em và hướng
các em đến các biện pháp phòng chống giun đũa kí sinh ở người:
- Đối với trẻ em, giun có thể bị nhiễm do ăn thức ăn không sạch hay nấu
chưa chín, uống nước chưa đun sôi, ăn các loại rau quả chưa được rửa sạch, tay
bẩn, nguồn nước không vệ sinh, sinh hoạt hàng ngày tiếp xúc trực tiếp với môi
trường đất, nguồn không khí bị ô nhiễm. Trẻ cũng có thể bị nhiễm giun khi đưa đồ
chơi bẩn vào miệng, cầm nắm thức ăn, không rửa tay sau khi đi vệ sinh. Vì vậy
cần:
- Rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh.
- Giữ vệ sinh cá nhân như cắt móng tay, móng chân ngắn, sạch sẽ.
- Thực hiện ăn chín, uống sôi, rau sống cần rửa thật kỹ và sạch trước khi ăn.
- Đi giày, dép, găng tay khi tiếp xúc với đất ẩm.
- Vệ sinh môi trường xung quanh, không phóng uế bừa bãi, diệt một số động
vật trung gian gây bệnh như ốc, ruồi nhặng...
- Tẩy giun định kỳ 1-2 lần trong năm.
Theo tôi, qua bài học thì các em sẽ thấy được tác hại do giun đũa gây ra cho
sức khỏe và tự ý thức được việc bảo vệ sức khỏe của bản thân.
d. Bài 14: Một số giun tròn khác
18
Để chuẩn bị trước cho bài học này, tôi đã giao nhiệm vụ các nhóm về nhà
nghiên cứu các thông tin về các đại diện giun tròn như giun kim, giun móc câu,
giun rễ lúa về các đặc điểm: nơi sống, con đường xâm nhập, tác hại và cách phòng
chống.
Đến tiết học tôi dành thời gian cho mỗi nhóm trình bày 1 đại diện, các nhóm
khác bổ sung và đặt các câu hỏi chất vấn. Trước các phần trình bày của các nhóm
đặc biệt là phần đặt câu hỏi chất vấn và trả lời của các em cho thấy được các em có
sự chuẩn bị rất tốt.
Sau đó, tôi chú trọng vào phần giun kim. Yêu cầu học sinh trình bày vòng
đời của giun kim, sau đó cho các em thảo luận nhóm trả lời các câu hỏi:
Qua việc thảo luận trên, các em ý thức được tác hại của thói quen mút tay và
việc vệ sinh thân thể không sạch sẽ. Tôi chú trọng việc khắc sâu các biện pháp đề
phòng bệnh giun cơ bản nhất là: Tẩy giun định kỳ 1-2 lần trong năm, vệ sinh cá
nhân sạch sẽ, vệ sinh ăn uống và đặc biệt là vệ sinh môi trường xung quanh.
4.2.4. Phối hợp với nhà trường và phụ huynh trong việc giáo dục bảo vệ sức
khỏe cho học sinh.
Để việc giáo dục bảo vệ sức khỏe cho các em học sinh đạt kết quả tốt nhất,
không chỉ giáo dục ở lớp mà cần phải biết phối hợp với nhà trường giáo dục trong
các hoạt động giáo dục hay phối hợp với phụ huynh để giáo dục từ gia đình.
Về phía nhà trường:
- Phải đảm bảo công trình vệ sinh xây dựng ở vị trí phù hợp, đảm bảo chất
lượng, hợp vệ sinh.
19
- Tổ chức khám sức khỏe, theo dõi sức khỏe học sinh định kỳ.
- Hợp tác chặt chẻ với y tế, bảo vệ môi trường sinh thái trong công tác phòng
chống bệnh giun sán.
- Phải có kế hoạch tuyên truyền, phòng chống bệnh giun sán. Kế hoạch phải
lâu dài, bền bỉ để học sinh có thể thay đổi các thói quen chưa tốt.
Về phía phụ huynh:
- Cần phải tổ chức cho con cái ăn uống hợp lý, đầy đủ dinh dưỡng, thức ăn
phải nấu chín kĩ, không ăn tái, ăn gỏi, thức ăn chưa chín.
- Rèn luyện thói quen rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh.
- Chống sự phát tán mầm bệnh ra môi trường, mỗi gia đình phải có hố xí hợp
vệ sinh, quản lý tốt con vật nuôi, nguồn phân bón, không dùng phân bón chưa ủ kĩ
bón ruộng, quản lý rác, nước thải, diệt ruồi nhặng…
4.3 Các điều kiện, phương tiện cần thiết để thực hiện và áp dụng giải pháp:
Để thực hiện tốt giải pháp mà sáng kiến đưa ra, cần có các điều kiện và
phương tiện cơ bản sau:
Về nhà trường:
- Với sự quan tâm và chỉ đạo của Ban giám hiệu nhà trường, sự hứng thú học
tập của học sinh, tôi tin tưởng sáng kiến sẽ mang lại hiệu quả giảng dạy tốt.
- BGH nhà trường thường xuyên phối hợp với tổ chức Đoàn - Đội tổ chức
các hoạt động cụ thể và sinh động nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động ngoại
khóa về giáo dục môi trường, giáo dục sức khỏe.
- Trong các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp đã kết hợp chặt chẻ với
chuyên môn tổ chức các các cuộc thi có lồng ghép kiến thức giáo dục bảo vệ sức
khỏe như đố vui để học, hội vui học tập…
- Cơ sở vật chất đảm bảo: Phòng học, bàn ghế lớp học, bảng đen, phòng máy
vi tính, máy chiếu (ti vi).
Về giáo viên:
- Chuẩn bị tốt các trang thiết bị dạy học: Sách giáo khoa Sinh học 7, giáo án
dạy học thiết kế theo chuỗi hoạt động học, tư liệu sưu tầm, tranh ảnh, video, bảng
phụ, phiếu học tập, địa chỉ các trang mạng chính thống, câu chuyện minh họa thiết
thực gần gũi nhất để giúp học sinh dễ hiểu, nhận biết, nếu có được những ví dụ, câu
chuyện ở địa phương, trong học sinh thì hiệu quả giáo dục sẽ càng cao.…
- Giáo viên nắm vững các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực.
- Tùy điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, đối tượng học sinh mà giáo viên
lựa chọn hình thức, phương pháp lồng ghép thích hợp nhất. Sáng tạo, linh hoạt
20
trong việc tổ chức các hoạt động dạy học. Có hình thức phù hợp khuyến khích
những học sinh có ý thức và kết quả học tập tốt.
Về học sinh:
- Đối tượng: Học sinh lớp 7.
- Cần nắm vững các kiến thức đã học
- Luôn chủ động chuẩn bị câu hỏi cho mình và cho bạn
- Luôn có tinh thần hợp tác nhóm, làm việc theo nhóm.
- Có ý thức bảo vệ sức khỏe và bảo vệ môi trường
4.4. Các bước thực hiện giải pháp và cách thức thực hiện giải pháp:
Nhằm định hướng cho học sinh hiểu và ý thức được việc bảo vệ sức khỏe
cho bản thân, gia đình và xã hội, trong quá trình giáo dục cần xác định rõ mục tiêu,
nội dung và phương pháp giáo dục phù hợp với tình hình thực tế. Từ đó hình thành
thói quen bảo vệ sức khỏe trước hết ở phương diện lý thuyết sau đó sẽ thành hành
động cụ thể khi các em đã hiểu rõ vấn đề.
* Biện pháp tiến hành:
- Hình thức:
Khảo sát trước và sau khi tiến hành thực nghiệm đề tài sáng kiến trên cả khối
7. Lấy kết quả khảo sát để đối chiếu nhận thức của các em trước và sau khi được
giáo dục. Đồng thời, giáo viên thường xuyên quan sát, theo dõi và trao đổi với học
sinh để xem các em có vận dụng vào thực tế hay không, vận dụng ra sao, có hiệu
quả không.
- Phương pháp:
+ Giáo viên: Xây dựng kế hoạch, thiết kế bài dạy, tư liệu liên quan, thiết bị
tương ứng, dự kiến quy trình, kết quả.
+ Học sinh: Sưu tầm, vận dụng kiến thức, kĩ năng tổng hợp, báo cáo kết
quả. Có thể sưu tầm cá nhân, trao đổi, thu thập thông tin theo nhóm.
* Thời gian tạo ra giải pháp:
- Thực hiện trong hai năm học 2018- 2019, 2019- 2020.
- Tiếp tục thực hiện trong những năm học tiếp theo.
- Liên hệ thực tế trong nhà trường, áp dụng đúc rút kinh nghiệm qua quá
trình giảng dạy – đưa ra giải pháp sau khi đánh giá kết quả cụ thể từ so sánh, đối
chiếu, rút kinh nghiệm.
- Trao đổi, thảo luận, góp ý thông qua việc giảng dạy trực tiếp trên lớp, sinh
hoạt chuyên môn của nhóm sinh học.
21
4.5. Chứng minh khả năng áp dụng của sáng kiến:
Sáng kiến: “Giáo dục bảo vệ sức khỏe cho học sinh qua chương các ngành
giun-môn sinh học lớp 7” đã được áp dụng và triển khai có hiệu quả ở khối lớp 7,
tại trường THCS Nguyễn Văn Trỗi, nơi tôi đang công tác.
Cụ thể kết quả minh chứng như sau:
* Đối với học sinh:
Năm học 2018- 2019, 2019- 2020 với việc áp dụng sáng kiến tôi đã thu được
những kết quả khác nhau:
- Trước khi thực hiện tôi đã tìm hiểu số lượng học sinh uống thuốc tẩy giun
từ khi lên lớp 6 thấy còn ít nhưng sau khi giảng dạy, tuyên truyền, vận động, tôi đã
khảo sát lại, thu được kết quả khả quan là các em đã về đề nghị bố mẹ cho uống
thuốc tẩy giun để phòng tránh bệnh giun sán. Ngoài ra, trước khi thực hiện tôi quan
sát thấy có rất nhiều học sinh chưa thật sự quan tâm đến sức khỏe của bản thân qua
các hành động như: đi chân không khi đi trên đất, đi vệ sinh không có thói quen rửa
tay, ăn quà vặt không rõ nguồn gốc, không đảm bảo vệ sinh và nhất là không giữ
gìn vệ sinh môi trường.
- Sau khi thực hiện áp dụng sáng kiến:
+ Học sinh hứng thú hơn với môn sinh học, tích cực tiếp thu bài học và vận
dụng các kiến thức vào thực tế.
+ Tôi thường xuyên giáo dục, vận động, tuyên truyền để các em hiểu rõ tác
hại và có cách tuyên truyền với bố mẹ để được uống thuốc bảo vệ bản thân, sau
nhiều đợt tuyên truyền hỏi han thì đã có 100% học sinh được uống thuốc phòng
bệnh giun sán.
+ Ý thức bảo vệ sức khỏe của các em đã có tiến triển hơn bẳng thể hiện ở các
hành động giữ gìn vệ sinh cá nhân và môi trường của các em, các em còn chú trọng
trong việc chọn những đồ ăn vặt hợp vệ sinh.
- Dưới đây là bảng đánh giá kết quả:
Đánh giá theo sự hứng thú, tích cực trong tiết học môn Sinh học
Năm học
TSHS
Trước áp dụng sáng kiến
Sau áp dụng sáng kiến
(SL - TL)
(SL - TL)
Hứng thú
Chưa hứng
thú
Hứng thú
Chưa
hứng thú
2018-2019
152
104 (68,4%)
48 (31,6%) 152 (100%)
0 (0%)
2019-2020
167
128 (76,6%)
39 (23,4%) 167 (100%)
0 (0%)
22
Đánh giá tình hình uống thuốc tẩy giun
Năm học
TSHS
Trước áp dụng SK
Sau áp dụng SK
(SL - TL)
(SL - TL)
Uống
Chưa uống
Uống
Chưa uống
2018-2019
152
91 (59,9%)
61 (41,1%)
152 (100%) 0 (0%)
2019-2020
167
87 (52,1%)
80 (47,9%)
167 (100%) 0 (0%)
Đánh giá ý thức bảo vệ sức khỏe thông qua hành động của học sinh
Năm học
TSHS
Trước áp dụng SK
Sau áp dụng SK
(SL - TL)
(SL - TL)
Có ý thức
Chưa có ý
thức
Có ý thức
Chưa có ý
thức
2018-2019
152
70 (46,1%)
82 (53,9%)
152 (100%) 0 (0%)
2019-2020
167
78 (46,7%)
89 (53,3%)
167 (100%) 0 (0%)
* Đối với bản thân:
Bản thân đã hiểu và ý thức sâu hơn về vấn đề dạy học cho học sinh và
trong quá trình dạy thường xuyên có ý thức sâu và rộng hơn đưa ra những ví dụ cụ
thể gần gũi với đời sống nên học sinh hiểu bài và có hứng thú với môn học
5. Những thông tin cần được bảo mật: Không
6. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tác giả:
Giáo dục bảo vệ sức khỏe cho học sinh góp phần hình thành thái độ, hành vi
và ý thức sống có trách nhiệm của các em học sinh.
Qua thực hiện đề tài tôi thấy học sinh có hứng thú hơn trong các tiết học và
chăm chú tìm hiểu về đời sống, tác hại của các loài giun sán từ đó biết bảo vệ sức
khỏe để tránh các bệnh giun sán, biết cách xử lý để tránh tác hại của giun sán.
Học sinh có thể dể dàng hình thành thói quen, hành động cụ thể để bảo vệ
sức khỏe bản thân, gia đình và nêu cao ý thức bảo vệ môi trường sống.
Các em còn là nguồn tuyên truyền thông tin rất tốt đến mọi người xung
quanh, người thân về bảo vệ bản thân trước các bệnh giun sán.
23
Học sinh đỡ nhàm chán trong việc học tập, ham tìm hiểu kiến thức môn sinh
học.
Hướng phát triển của đề tài: Giáo dục bảo vệ sức khỏe học sinh là quá
trình tác động có mục đích, có kế hoạch, bằng nội dung, phương pháp khoa học của
giáo viên, như vậy giáo dục bảo vệ sức khỏe học sinh cần có sự đồng bộ của lãnh
đạo, giáo viên, các bộ phận trong cơ sở giáo dục và cả xã hội. Vì thế, Giáo dục bảo
vệ sức khỏe học sinh còn nhiều hướng giáo dục như thông qua bộ môn các môn
học khác, các hoạt động của chủ nhiệm lớp, hoạt động của Đòan thanh niên, Đội
thiếu niên, cha mẹ học sinh… để giáo dục
Nên Giáo dục bảo vệ sức khỏe học sinh còn phát triển khai thác trên nhiều
kênh giáo dục, biện pháp giáo dục bảo vệ sức khỏe học sinh còn phát triển trong
nhiều hoạt động giáo dục khác của nhà trường, giáo viên… cụ thể:
* Giáo dục bảo vệ sức khỏe học sinh thông qua bộ môn Sinh học khối 6,
khối 7, khối 8, khối 9, thông qua môn Sinh học toàn cấp, thông qua từng bộ môn
Thông qua tích hợp các môn học….
* Giáo dục bảo vệ sức khỏe học sinh qua các hoạt động Đoàn, Đội, ngoại
khóa, đố vui, cổ động, tham quan, triển lãm,…..
* Giáo dục bảo vệ sức khỏe học sinh phối hợp các hoạt động giữa nhà
trường, y tế, các lực lượng liên quan cấp xã, huyện, cha mẹ học sinh….
7. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần
đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có)
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và
hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
24
PHỤ LỤC
Giáo án minh họa
25