CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BÁO CÁO KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến cấp cơ sở huyện
Tên đề tài sáng kiến: Một số biện pháp giúp học sinh khuyết tật hòa nhập.
1- Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
2- Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: học sinh khuyết tật.
3- Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:
Năm học 2018 - 2019.
4- Mô tả bản chất của sáng kiến:
4.1. Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết:
Từ đầu mỗi năm học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có hướng dẫn thực hiện
nhiệm vụ năm học. Đối với năm học 2019 – 2020 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có
hướng dẫn số 3892/BGDĐT-GDTrH ngày 28 tháng 08 năm 2019, V/v hướng dẫn
thực hiện nhiệm vụ giáo dục trung học năm học 2019-2020. Đối với hướng dẫn đó
Bộ cũng đã nhấn mạnh “Tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục hòa nhập cho
học sinh khuyết tật; triển khai mô hình giáo dục từ xa cho học sinh khuyết tật dựa
trên công nghệ thông tin và truyền thông”. Qua đó, trong hướng dẫn thực hiện
nhiệm vụ giáo dục cấp THCS năm học 2019-2020phòng Giáo dục và Đào tạo
huyện cũng có nêu “Tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục hòa nhập cho học
sinh khuyết tật”.Giáo dục hòa nhập được coi là một trong các phương thức giáo dục
học sinh khuyết tật chủ yếu ở Việt Nam hiện nay. Hầu hết các trường học hiện nay
đều có học sinh khuyết tật học hòa nhập. Để góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục hòa nhập cho học sinh khuyết tật trong nhà trường hiện nay không ai khác
ngoài lực lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên là nòng cốt.Trong những năm qua, cùng
với sự phát triển giáo dục nói chung, giáo dục học sinh khuyết tật hòa nhập đã đạt
được những thành quả quan trọng về nhiều mặt. Tuy nhiên, chưa thực sự sâu sắc
và mang lại hiệu quả cao. Nhiều giáo viên chú trọng chất lượng đại trà, chất lượng
mũi nhọn, các phong trào, dường như họ ít chú trọng, còn xem nhẹ đến công tác
giáo dục hòa nhập cho học sinh khuyết tật, thậm chí có giáo viên suy nghĩ chưa
đúng đắn “trong lớp có học sinh khuyết tật học hoà nhập như có thêm gánh nặng”.
Song song với nhiều yếu tố nhận thức, tâm lý, tinh thần trách nhiệm,…thì giáo
viên chưa được trang bị đầy đủ kiến thức và kĩ năng về giáo dục hòa nhập học
1
sinh khuyết tật một cách bền vững nên công tác giáo dục hoà nhập cho học sinh
khuyết tật còn nhiều hạn chế, chất lượng chưa cao. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất
phục vụ cho việc giáo dục học sinh hòa nhập còn thiếu thốn, nhận thức của cha mẹ
học sinh về giáo dục hòa nhập học sinh khuyết tật chưa cao, phó mặc cho nhà
trường. Trong khi đó, việc dạy học cho đối tượng học sinh giáo dục hòa nhập vốn
đã đòi hỏi rất nhiều tâm sức. Ngoài ra, nhiều học sinh thuộc diện khuyết tật, gặp
khó khăn trong học tập nhưng lại không được công nhận là khuyết tật. Có rất
nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính là do gia đình không muốn xã hội
biết con mình có khuyết tật nên không đưa đi xác nhận.
Giáo viên đồng thời phải dạy cả hai đối tượng học sinh bình thường và học
sinh khuyết tật, đôi khi không chý ý hết được nhu cầu và năng lực của từng học
sinh khuyết tật.
4.2. Nêu nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược điểm
của giải pháp đã biết:
Hòa nhập không có nghĩa là "xếp chỗ" cho học sinh khuyết tật trong trường
lớp phổ thông và không phải tất cả mọi học sinh đều đạt trình độ hoàn toàn như
nhau trong mục tiêu giáo dục. Giáo dục hòa nhập đòi hỏi sự hỗ trợ cần thiết để
mọi học sinh phát triển hết khả năng của mình. Sự hỗ trợ cần thiết đó được thể
hiện trong việc điều chỉnh chương trình, các đồ dùng dạy học, dụng cụ hỗ trợ đặc
biệt, các kỹ năng giảng dạy đặc thù.Như vậy, trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn xã
hội, trong đó có ngành Giáo dục là phải đảm bảo cho học sinh khuyết tật được
hưởng đầy đủ quyền lợi này. Vì vậy, các cấp quản lý giáo dục, mỗi cán bộ giáo
viên cần có nhận thức đúng, quan điểm thống nhất trong việc thực hiện chương
trình, tổ chức dạy học và các hoạt động, đặc biệt là kiểm tra đánh giá học sinh
khuyết tật tham gia giáo dục hòa nhập.
Quá trình giáo dục hòa nhập cho học sinh khuyết tật là việc làm mà mỗi
giáo viên phải thực hiện. Khi giáo viên sử dụng các biện pháp giáo dục hòa nhập
cho học sinh khuyết tật phù hợp sẽ nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho
học sinh, tạo cơ hội cho các em học sinh khuyết tật giảm bớt thiệt thòi và có điều
kiện học tập, vui chơi, hòa nhập với bạn bè cùng trang lứa. Để thực hiện được các
giải pháp, đòi hỏi người giáo viên phải có tinh thần trách nhiệm cao, có kinh
nghiệm trong công tác giáo dục hòa nhập cho học sinh khuyết tật, tìm hiểu kĩ và
nắm rõ các nguyên nhân, thực trạng, mặt mạnh, mặt yếu của học sinh khuyết tật,
nắm kĩ các văn bản chỉ đạo của các cấp, các ngành, luôn tự học tự rèn, học hỏi
đồng nghiệp, nắm bắt điều kiện thực tế,… để từ đó vận dụng đưa ra các biện pháp
phù hợp giúp người giáo viên làm tốt công tác giáo dục hòa nhập cho học sinh
khuyết tật đạt hiệu quả cao hơn.
Giáo viên trực tiếp giảng dạy có vai trò quyết định hiệu quả của giáo dục
hòa nhập, là người trực tiếp điều hành hoạt động dạy học hòa nhập nên hiểu rõ
nhất nhu cầu và năng lực của từng học sinh khuyết tật để xây dựng kế hoạch giáo
2
dục phù hợp với từng học sinh, là người tổ chức các mối quan hệ tốt giữa học sinh
bình thường với học sinh khuyết tật. Việc giáo dục hòa nhập cho học sinh khuyết
tật không phải công việc ngày một ngày hai mà là cả một quá trình lâu dài, người
giáo viên phải xác định vai trò lâu dài của mình đối với học sinh và qua thực tế
mới thực hiện được.
Để giúp học sinh khuyết tật hòa nhập, mỗi giáo viên có thể tiến hành bằng
nhiều phương pháp khác nhau tùy thuộc vào từng đối tượng học sinh nhưng đối
với bản thân tôi đã có những cải tiến sau:
- Xác định đối tượng, tìm hiểu năng lực học sinh khuyết tật;
- Xây dựng môi trường thân thiện, vòng tay bè bạn yêu thương;
- Tổ chức các hình thức dạy học đa dạng nhằm nâng cao chất lượng dạy
học, cũng như rèn luyện các kĩ năng;
- Nêu một số gương điển hình về học sinh khuyết tật hay những người
khuyết tật biết vươn lên trong học tập cũng như cuộc sống;
- Điều chỉnh nội dung chương trình phù hợp;
- Phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với giáo viên chủ nhiệm và gia đình;
- Đánh giá học sinh khuyết tật dựa trên năng lực và quá trình hòa nhập của
các em.
4.3. Nêu các điều kiện, phương tiện cần thiết để thực hiện và áp dụng
giải pháp:
Với sự quan tâm của Ban giám hiệu, tổ chuyên môn và các tổ chức đoàn
thể trong nhà trường, cùng với sự hỗ trợ tích cực từ phía xã hội, cơ sở vật chất,
trang thiết bị giáo dục của nhà trường ngày một khang trang, đầy đủ, đảm bảo cho
việc dạy và học. Cán bộ quản lí trong nhà trường luôn quan tâm, tạo điều kiện để
giáo viên làm tốt công tác giáo dục học sinh khuyết tật hòa nhập.
Đầu năm học, nhà trường lập kế hoạch giáo dục hòa nhập học sinh khuyết
tật, cung cấp giấy xác nhận khuyết tật của học sinh.
4.4. Nêu các bước thực hiện giải pháp, cách thức thực hiện giải pháp:
Mỗi phương pháp không phải là vạn năng, nó chỉ phát huy tác dụng khi
được áp dụng phù hợp với từng đối tượng. Trong quá trình bản thân trực tiếp
giảng dạy, tôi đã rút ra được một số biện pháp giúp học sinh khuyết tật hòa nhập.
Cụ thể như sau:
4.4.1. Biện pháp thứ nhất: Xác định đối tượng, tìm hiểu năng lực học
sinh khuyết tật.
Ngay từ đầu năm, giáo viên cần xác định được trong lớp mình phụ trách có
những học sinh khuyết tật nào? Đó là khuyết tật gì? Mức độ khuyết tật ra sao?
Hoàn cảnh gia đình em đó như thế nào? Tìm hiểu năng lực và nhu cầu của học
sinh khuyết tật. Điều này giúp giáo viên có được bức tranh tổng thể về hiện trạng
3
khuyết tật của học sinh để từ đó đặt ra những mục tiêu, xây dựng kế hoạch hỗ trợ,
lựa chọn những nội dung và phương pháp phù hợp. Để xác định được chính xác
học sinh khuyết tật, tôi thực hiện các giải pháp sau:
- Trước khi có buổi học đầu tiên, tôi gặp các thầy cô giáo chủ nhiệm của các
lớp mình phụ trách có học sinh khuyết tật để nắm bắt tình hình cụ thể từng học
sinh;
- Gặp các giáo viên bộ môn khác cũng dạy những học sinh đó để tìm hiểu
thêm về các em;
- Xem qua học bạ các em của các năm học trước đặc biệt là năm học liền
kề;
- Gặp cô kế toán của nhà trường để photo giấy xác nhận khuyết tật của các
em nhằm xác định mức độ nặng, nhẹ của từng cá nhân học sinh;
- Quan sát có chủ định và quan sát không chủ định các em học sinh trong
quá trình dạy học nhằm thu thập thông tin về các biểu hiện hành vi, ý thức cũng
như các khả năng khác của các em. Đặc biệt là khả năng nhận thức bao gồm: nhận
thức cảm tính và nhận thức lý tính, trí nhớ, khả năng học tập môn học, việc áp
dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống hàng ngày. Bên cạnh đó cũng
cần xác định khả năng chú ý của học sinh trong quá trình học tập, vui chơi cùng bè
bạn...
- Ngoài những giải pháp trên, bản thân còn gặp trực tiếp các em để nắm bắt
được tâm tư, nguyện vọng của các em. Khả năng ngôn ngữ-giao tiếpbao gồm: vốn
từ, khả năng nghe hiểu, biểu đạt ngôn ngữ, sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp
(ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết, ngôn ngữ cử chỉ) của các em như thế nào? đặc biệt
là thái độ của các em trong giao tiếp.
Qua quá trình tìm hiểu, bản thân đã tổng hợp được danh sách của các em và
ghi lại thông tin dưới dạng bảng. Từ đó, có những kế hoạch bài học cụ thể để nâng
cao chất lượng dạy học sinh khuyết tật.
TT
1
Họ và tên
học sinh
Nguyễn
Bảo Trâm
Lớp
7/3
Dạng
khuyết
tật
Mức
độ
khuyế
t tật
Trí tuệ
Nặng
4
Điểm
mạnh
Ngoan,
hiền
Khó khăn
Ít tham gia các hoạt
động; tiếp thu bài,
tính toán chậm; viết
sai chính tả nhiều;
không tự tin trong
các hoạt động
2
Trần Duy
Nghĩa
3
Nguyễn
Trung
Chấn
8/2
6/3
Ngôn
ngữ
Trí tuệ
Nhẹ
Thích
vận
động
Nói không rõ; thiếu
tự tin trong giao
tiếp
Nhẹ
Có chú
ý trong
học tập
Ít tham gia các hoạt
động; tiếp thu bài,
tính toán chậm; viết
sai chính tả nhiều
4.4.2. Biện pháp thứ hai: Xây dựng môi trường thân thiện, vòng tay bè
bạn yêu thương.
Bản thân là giáo viên bộ môn thì không thể quan tâm sâu sắc lớp bằng giáo
viên chủ nhiệm. Tuy nhiên, bằng nhiều cách khác nhau giáo viên bộ môn cũng có
thể xây dựng môi trường thân thiện, vòng tay bè bạn yêu thương. Từ đầu năm khi
dạy những tiết đầu tiên giáo viên dành vài phút để tâm sự với các em. Từ đó, xây
dựng tập thể lớp có ý thức trách nhiệm, thái độ đoàn kết thương yêu, giúp đỡ bạn
bị khuyết tật. Động viên mọi thành viên trong lớp phải có tinh thần trách nhiệm,
giúp đỡ, tạo điều kiện cho các em tham gia các hoạt động như thảo luận nhóm, trò
chơi trong tiết học: đôi bạn nhanh nhất, nhóm nhanh nhất,…. Giáo viên cũng như
các bạn cùng lớp luôn phải chú ý động viên khuyến khích kịp thời khi học sinh
khuyết tật hoàn thành được một nhiệm vụ, công việc đơn giản so với học sinh bình
thường khác. Xây dựng vòng tay bạn bè ngay từ đầu năm để tạo ra bầu không khí
thân mật, thương yêu giúp đỡ học sinh khuyết tật như: nhóm bạn cùng học ở nhà,
nhóm cùng đi học, nhóm học trên lớp.
Thông thường việc kết bạn và duy trì tình bạn giữa học sinh với nhau mang
tính tự nhiên. Với học sinh khuyết tật, do có khó khăn trong đời sống hàng ngày,
trong hoạt động nhận thức nên học sinh cũng gặp khó khăn trong tình bạn. Bởi
đây là quan hệ được xây dựng từ hai phía và đòi hỏi phải thường xuyên củng cố,
giữ gìn. Để tình bạn của học sinh thực sự có ý nghĩa trong đời sống tình cảm, tạo
ra bầu không khí thân mật, thương yêu, tự nguyện giúp đỡ. Đặc biệt, giúp đỡ nhau
trong học tập thì học sinh bình thường sẽ giảng giải cho học sinh khuyết tật. Việc
giảng giải của học sinh bình thường vừa giúp học sinh khuyết tật hiểu được bài
vừa giúp cho chính bản thân các em rèn luyện kĩ năng tìm tòi cách thể hiện kiến
thức mình hiểu cho người khác nghe, vừa củng cố kiến thức đó.
Giáo viên bộ môn phối hợp với giáo viên chủ nhiệm sắp xếp chỗ ngồi sao
cho hợp lý nhất, thuận lợi nhất, để học sinh có thể phát huy hết khả năng của
mình. Thông thường, học sinh khuyết tật được sắp xếp ngồi ở những vị trí giáo
viên dễ theo dõi có điều kiện chỉ bảo (có thể là bàn đầu) hay ngồi gần các bạn Ban
cán sự lớp, tùy vào dạng khuyết tật của mỗi học sinh. Trong tiết học khi học sinh
đang chép bài, hay học sinh lên bảng trả lời, làm bài tập, giáo viên có thể đi quan
sát và đến chỗ học sinh khuyết tật xem bạn đó có làm được bài tập không, từ đó
5
giáo viên có thể gợi mở, chỉ dẫn thêm để các em tiếp tục phần còn lại. Hay giáo
viên có thể động viên bằng những câu nói như “cố gắng lên em”, “em làm như vậy
là tốt đấy”,… Và có thể quan trọng nhất là người giáo viên có học sinh khuyết tật
học hòa nhập phải có “tâm” của người thầy.
Từ tình yêu thương của thầy, cô và bạn bè sẽ xây dựng mối quan hệ thân
thiết giữa giáo viên với học sinh khuyết tật, học sinh bình thường với học sinh
khuyết tật, tạo cho các em có được cảm giác an toàn, được tôn trọng, các em
không cảm thấy bị bỏ rơi và các em cảm thấy tự tin hơn, bớt mặc cảm, tự ti. Đặc
biệt, học sinh khuyết tật sẽ tiếp thu kiến thức được tốt hơn. Từ đó giáo viên sẽ
hoàn thành được kế hoạch giảng dạy của mình.
4.4.3.Biện pháp thứ ba: Tổ chức các hình thức dạy học đa dạng nhằm
nâng cao chất lượng dạy học, cũng như rèn luyện các kĩ năng.
Đối với học sinh khuyết tật nói chung và học sinh khuyết tật trí tuệ nói
riêng, ta thường thấy các em hạn chế về các kĩ năng sống; hạn chế về nhận thức
kéo dài trong suốt quá trình phát triển. Các em cảm thấy khó thực hiện được một
số kĩ năng trong cuộc sống hằng ngày, chẳng hạn: kĩ năng làm quen với các bạn
cùng trang lứa, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng hợp tác,…Hay đối với các em
khuyết tật ngôn ngữ, các em sẽ gặp khó khăn với kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp
tác,…Vì thế nhóm học sinh này sẽ gặp khó khăn trong học tập cũng như khó khăn
khi hòa nhập với cộng đồng. Kĩ năng sống không chỉ giúp con người tồn tại mà
còn giúp họ biết bảo vệ chính mình để có cuộc sống an toàn trong tương lai, định
hướng phù hợp cho chính mình. Các kĩ năng sống sẽ được hình thành dần dần.
Hơn nữa, các kĩ năng không phải dễ dàng học và rèn luyện được ngay, phải rèn
luyện nhiều lần; một số học sinh khác lại có thể có kĩ năng sống tốt trong lĩnh vực
này mà không tốt trong lĩnh vực khác. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh khuyết
tật học hòa nhập thông qua tích hợp với các hoạt động dạy học.
Trong các tiết học giáo viên tổ chức thảo luận nhóm như nhóm đôi, nhóm
bốn,.... Nếu tổ chức nhóm đôi thì bạn học khá hơn sẽ trực tiếp giúp cho bạn học
sinh khuyết tật đó, hay nhóm bốn thì các thành viên trong nhóm trao đổi với nhau
và đại diện nhóm trưởng chỉ dẫn lại cho bạn học sinh khuyết tật. Hay trong phần
thảo luận nhóm, nhóm trưởng giao cho bạn đó một nội dung hay bước nhỏ để các
bạn đó hoàn thành. Đồng thời có sự hỗ trợ của các bạn khác, từ đó học sinh khuyết
tật sẽ có thêm kiến thức, rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề, cũng như kĩ năng
làm việc nhóm.
Tổ chức Kĩ thuật dạy học “khăn trải bàn”
6
Là hình thức tổ chức hoạt động mang tính hợp tác, kết hợp giữa hoạt động
cá nhân và hoạt động nhóm nhằm:
- Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực của học sinh.
- Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân.
- Có sự tương tác giữa học sinh với học sinh.
* Cách tiến hành kỹ thuật khăn trải bàn:
- Chia học sinh thành nhóm, phát mỗi nhóm một tờ giấy A0.
- Mỗi người ngồi vào vị trí như hình vẽ trên tấm khăn trải bàn.
- Mỗi cá nhân độc lập suy nghĩ trả lời câu hỏi trong vài phút, viết vào phần
giấy của mình trên tờ A0.
- Cả nhóm chia sẻ, thống nhất ý kiến và viết vào phần chính giữa của tờ A0.
- Đại diện nhóm trình bày kết quả, các nhóm khác tham gia góp ý, giáo viên
nhận xét, kết luận.
Khi tổ chức kĩ thuật như thế học sinh khuyết tật cũng được trình bày ý kiến
của mình dù ý kiến đó có ít đi nữa nhưng các em cũng cảm thấy vui và tự tin.
Khi hoạt động nhóm xong, trong những nội dung mà giáo viên đưa ra nếu
thấy nội dung mà dễ, vừa sức với học sinh khuyết tật thì giáo viên gọi bạn đó đại
diện cho nhóm để trình bày ý kiến của nhóm. Khi được trình bày học sinh khuyết
tật sẽ tự tin hơn, phấn khởi vì mình đã nắm được kiến thức hay các em cũng dạn dĩ
hơn. Đặc biệt, đối với học sinh khuyết tật ngôn ngữ các em rèn thêm về cách trình
bày của mình, có kĩ năng giao tiếp thông qua các bạn trong nhóm cũng như thầy,
cô giáo.
Đối với học sinh khuyết tật ngôn ngữ khi học sinh trình bày, giáo viên
chúng ta lưu ý một số vấn đề sau:
*) Những tình huống gây mất lưu loát lời nói:
7
- Không được người khác lắng nghe: Khi một học sinh nói nhưng không
giành được sự chú ý của người nghe thì em đó có xu hướng lặp lại từ cho đến khi
nhận được sự lắng nghe.
- Bị ngắt lời đột ngột: Học sinh dễ cảm thấy thất vọng khi bị ngắt lời đột
ngột. Với tâm trạng đó, hiện tượng nói lắp dễ xuất hiện ở các em ngay sau đó.
- Áp lực thời gian: Học sinh trở nên mất lưu loát khi các em phải tăng tốc
độ nói cho kịp thời gian.
*) Hạn chế và khắc phục tật nói lắp:
Những tình huống bất lợi về mặt tâm lí như đã nêu trên sẽ làm tăng hiện
tượng mất lưu loát ở học sinh. Do vậy, trước tiên cần áp dụng các biện pháp giảm
thiểu những bất lợi về tâm lí trong các tình huống giao tiếp đối với những học sinh
này.
- Để học sinh cảm thấy mình đang được lắng nghe và bạn quan tâm đến nội
dung hơn là cách trình bày:
+ Chú ý khi học sinh nói;
+ Quan tâm đến học sinh nói gì hơn là nói như thế nào;
+ Không ngắt lời đột ngột;
+ Chấp nhận thực tế lời nói thiếu lưu loát ở học sinh.
- Nói chậm khi giao tiếp với học sinh: Chỉnh tốc độ chậm trong lời nói của
giáo viên sẽ ảnh hưởng đến học sinh.
- Chỉ ra đánh giá tích cực những mặt mạnh và sự đóng góp của học sinh,
giúp các em cảm thấy tự tin hơn.
- Giữ liên hệ bằng ánh mắt một cách bình thường và tự nhiên.
- Diễn đạt lại những gì học sinh vừa nói để giúp học sinh có thông tin ngược
và có mẫu về cách diễn đạt ý kiến, suy nghĩ.
- Không khiển trách hay ám chỉ tật nói lắp của học sinh. Hãy nghĩ và để cho
các em nghĩ mình bình thường.
Thông qua các trò chơi, hướng dẫn các em nói theo, làm theo. Học sinh
khuyết tật sẽ được luyện tập giao tiếp cũng như cũng cố kiến thức cho mình. Quá
trình nhập vai sẽ tạo ra những cảm xúc tốt cho các em với các học sinh khác trong
lớp.Giáo viên thường xuyên tổ chức, hướng dẫn trò chơi nhằm kích thích các hoạt
động trí não, hoạt động các hệ thần kinh của cơ thể, giúp các em nhanh nhẹn hơn,
khi tham gia nhiều hoạt động trò chơi sẽ phản ánh rõ tính chất phát triển của các
hệ thần kinh, hệ vận động, nổi bật nhất là biểu hiện hệ thần kinh. Khi học sinh
khuyết tật thực hiện được những yêu cầu trò chơi, hoạt động đề ra, cũng như giải
quyết được tình huống có thể xảy ra là giáo viên đã thành công trong việc giáo dục
hòa nhập cho học sinh khuyết tật.
8
Giúp học sinh biết giao tiếp trong các trò chơi là việc làm cần thiết, thông
qua
giao tiếp, lời nói thể hiện được tâm tư nguyện vọng, thỏa mãn nhu cầu đạt được
hay chưa. Giao tiếp đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống hàng ngày, thông
qua giao tiếp để con người hiểu được nhau, biết thông cảm và chia sẻ với những
người có hoàn cảnh không may mắn. Giáo viên luôn chủ động, linh hoạt trong mọi
tình huống khi học sinh vui chơi, học tập. Vận dụng phù hợp những hoạt động khi
tổ chức trò chơi nhằm luyện tập kĩ năng nói, giao tiếp cho các em. Sử dụng các
biện pháp một cách linh hoạt, phù hợp sẽ giúp giáo viên làm tốt công tác giáo dục
hòa nhập cho học sinh khuyết tật.
Ví dụ: (Trò chơi toán học về đôi bạn nhanh nhất, hay trò chơi phát hiện ô
chữ gồm hai đội)
Trong bài những hằng đẳng thức đáng nhớ của môn toán lớp 8, khi học
xong trong phần luyện tập giáo viên cho học sinh chơi trò chơi “đôi bạn nhanh
nhất”. Trò chơi gồm có sáu tấm bảng ghi các nội dung như sau:
Bảng 1: x2 – 6x + 9 =
Bảng 2: x2 – 9 =
Bảng 3: x2 + 6x + 9 =
Bảng 4: (x – 3)(x + 3)
Bảng 5: (x – 3)2
Bảng 6: (x + 3)2
Trò chơi gồm có 6 bạn đứng vòng tròn úp bảng vào phía bên trong, khi thầy
và các bạn hô bắt đầu thì các bạn đưa lên và tìm đúng các bảng lại với nhau để
được kết quả đúng, khi đó đôi bạn nào tìm được nhau trước và đúng là đôi bạn
nhanh nhất. Trong trò chơi này, ta có thể cho các bạn chơi từ yếu đến giỏi và trong
đó có học sinh khuyết tật.
Đối với những em khuyết tật trí tuệ, thì giáo viên phải vận dụng hết sức linh
hoạt, sáng tạo các phương pháp nhằm giúp học sinh dễ hiểu, dễ tiếp thu, dễ nhớ.
Sử dụng tốt tranh ảnh, mô hình, hình vẽ cũng như các hoạt động vui chơi giúp các
em nắm và nhớ kiến thức. Kiểm tra lại kiến thức bằng những câu đố vui hoặc mô
hình trực quan.
Ví dụ như làm bài tập trắc nghiệm về tìm độ dài đường trung tuyến ứng với
cạnh huyền khi biết độ dài hai cạnh góc vuông. Học sinh bình thường không cần
vẽ hình nhưng đối với học sinh khuyết tật trí tuệ giáo viên đến chỗ và vẽ hình cụ
thể tam giác ABC vuông tại A, đường trung tuyến AM để học sinh thấy rõ bằng
trực quan hơn.
Kĩ năng sống mang lại nhiều lợi ích phát triển cho cá nhân học sinh đang
học hoà nhập. Vì vậy, việc trang bị cho các học sinh này những kĩ năng sống có
thể cần được ưu tiên hơn. Các biện pháp giáo dục kĩ năng sống có mối quan hệ
9
qua lại với nhau, tồn tại trong một chỉnh thể và bổ trợ lẫn nhau, không thể tách rời,
bởi trong từng biện pháp đã chứa đựng những yếu tố của nhau và khi thực hiện
biện pháp này thì cũng đồng thời phải sử dụng biện pháp kia.
Học sinh khuyết tật từ lúc sinh ra đến lúc trưởng thành trải qua rất nhiều
giai đoạn phát triển khó khăn. Do học sinh có những đặc điểm tâm sinh lí không
thuận lợi, quá trình nhận thức bị suy giảm làm cho học sinh khó khăn trong việc
lĩnh hội các kiến thức cơ bản và vận dụng những kiến thức đó vào cuộc sống. Để
giúp học sinh hòa nhập vào cuộc sống cộng đồng cần dạy và rèn luyện một số kĩ
năng đơn giản phù hợp với nhu cầu của học sinh. Trong quá trình đó, giáo viên
cần lưu ý:
+ Hướng dẫn từng thao tác nhỏ trong mỗi hoạt động;
+ Cho học sinh nhìn, quan sát rồi mới thực hiện;
+ Thực hiện nhiều lần để học sinh nhớ;
+ Trong quá trình học sinh thực hiện phải chú ý theo dõi và trợ giúp khi cần
thiết. Nếu học sinh chưa thực hiện được phải hướng dẫn lại rất cụ thể theo từng
bước.
Giao tiếp là hoạt động trao đổi các thông tin giữa người này với người khác
hoặc giữa một người với nhiều người. Học sinh khuyết tật gặp nhiều khó khăn
trong giao tiếp, các em không hẳn không hiểu hết lời nói, khi truyền đạt thì nói
không rõ hoặc nói không hết ý của mình. Sử dụng các câu cũng gặp khó khăn nên
người nghe khó hiểu. Vì vậy, cần rèn luyện cho học sinh những kĩ năng trong giao
tiếp:
+ Kĩ năng lắng nghe;
+ Kĩ năng nghe hiểu;
+ Kĩ năng biểu đạt.
Rèn kĩ năng thích ứng: Học sinh có khuyết tật nhận thức chậm, không đầy
đủ lại yếu trong nhận xét sự kiện, sự việc, quá trình định hướng điều khiển nên khi
chuyển sang môi trường hoàn cảnh mới lạ học sinh gặp nhiều khó khăn để thích
ứng. Trong quá trình giáo dục cần rèn luyện cho học sinh:
+ Làm quen thích nghi với môi trường hoàn cảnh mới;
+ Luyện cho học sinh có khả năng xác định những đức tính, đạo đức, thái
độ theo chuẩn mực của tập thể, của xã hội để phù hợp với lối sống;
+ Học sinh biết thông cảm với người khác, biết cách đặt mình vào vị trí của
người khác; hiểu và coi hoàn cảnh của người khác như của chính mình và tìm ra
cách giảm bớt gánh nặng bằng cách chia sẻ với nhau tránh định kiến mặc cảm.
4.4.4. Biện pháp thứ tư: Nêu một số gương điển hình về học sinh khuyết
tật hay những người khuyết tật biết vươn lên trong học tập cũng như cuộc
sống.
10
Trong một số tiết học giáo viên dành thời gian để giới thiệu về học sinh
khuyết tật hay những người khuyết tật có nghị lực, biết vươn lên trong học tập
cũng như cuộc sống để giúp các em học sinh khuyết tật tự tin hơn, cũng như có
những suy nghĩ tích cực, có thêm động cơ vượt lên số phận. Từ đó, học sinh
khuyết tật cũng như học sinh cả lớp sẽ nâng cao ý chí học tập.
Ví dụ về các gương điển hình:
Thứ nhất: Em Phạm Phú Thịnh
Phạm Phú Thịnh ở thôn Bình Thạnh, xã Tam Vinh, huyện từ lúc lọt lòng
mẹ Thịnh đã có đôi mắt không lành lặn. Em được các bác sỹ chẩn đoán dị dạng
giác mạc và đục thủy tinh thể bẩm sinh. Khi Thịnh đến tuổi học mẫu giáo, gia đình
không dám cho em đi học vì sợ xe đụng. Thịnh không chịu ở nhà mà la khóc, nằng
nặc đòi ba mẹ mua sách vở để đi học. Buộc lòng, gia đình phải cho Thịnh tới
trường. Theo đó, từ khi học mẫu giáo đến THPT, Thịnh luôn là học sinh giỏi. Với
đôi mắt không lành lặn Thịnh làm gì cũng khó khăn hơn so với những người bình
thường. Nhưng điều đó dường như càng thôi thúc sự quyết tâm ở cậu bé này. Để
đọc, chép bài, Thịnh phải cúi sát mắt vào vở, rà từng con chữ (do vậy em mới có
biệt danh là cậu học trò "ngửi chữ"). Trong quá trình học tập, Thịnh đạt nhiều giải
trong các kỳ thi học sinh giỏi. Những thành tích của Thịnh đạt được trong 12 năm
học làm cho không chỉ thầy cô, bạn bè mà tất cả người dân trong xã Tam Vinh, thị
trấn Phú Thịnh cũng như huyện khâm phục. Ghi nhận sự nỗ lực của em, cuối năm
lớp 11, Phạm Phú Thịnh được Đoàn trường THPT Nguyễn Dục giới thiệu đi học
lớp bồi dưỡng kết nạp Đảng. Đến năm lớp 12, em vinh dự được trở thành đảng
viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Niềm vui nối tiếp niềm vui, cũng trong năm đó,
Thịnh đậu khoa Toán, trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng. Ghi nhận những nỗ lực
của em, Chủ tịch UBND huyện đã quyết định tặng Giấy khen cho Phạm Phú
Thịnh vì đã có thành tích tiêu biểu trong học tập và làm theo gương Bác.
11
Thứ hai: Vận động viên khuyết tật Lê Văn Công
Lê Văn Công sinh năm 1984 tại Hà Tĩnh. Công bị chứng teo chân từ nhỏ.
Năm 2005, Lê Văn Công vào Thành phố Hồ Chí Minh lập nghiệp và tham gia
hoạt động tại câu lạc bộ hướng nghiệp dành cho người khuyết tật. Văn Công sau
đó đã dần gắn bó với các môn thể thao dành cho người khuyết tật. Anh bén duyên
và luyện tập môn cử tạ tại Trung tâm Văn hóa - Thể thao quận Tân Bình, TP Hồ
Chí Minh. Chỉ sau một năm tập luyện, anh đã giành được Huy chương Bạc Giải
Thể thao người khuyết tật toàn quốc 2005. Vượt qua những thử thách và cả những
chấn thương, Lê Văn Công liên tiếp chinh phục HCV hạng 49 kg. Trong đó, tiêu
biểu như phá kỷ lục châu Á 2013, phá kỷ lục ASEAN Paragames VII, lập kỷ lục
thế giới mới tại Asian Paragames 2014, giành HCV World Cup 2016, giành HCV
và phá kỷ lục thế giới tại Paralympic 2016, vô địch thế giới 2017 tại Mexico.
12
Thứ ba: Stephen Hawking
Stephen Hawking là một trong những bộ óc vĩ đại nhất của nhân loại.
Hawking là người đầu tiên khởi đầu một nền vũ trụ học dựa trên sự thống nhất
giữa thuyết tương đối tổng quát và cơ học lượng tử. Ông là người ủng hộ mạnh mẽ
cách diễn giải đa vũ trụ về cơ học lượng tử. Hawking mắc một căn bệnh về thần
kinh vận động liên quan tới hội chứng teo cơ bên, khiến cho ông hầu như liệt toàn
thân và phải giao tiếp qua một thiết bị hỗ trợ phát giọng nói. Thế nhưng điều đó
không ngăn cản ông nghiên cứu và chia sẻ những khám phá khoa học của mình
cho cả thế giới. Ông nhận nhiều vinh dự khác nhau, trong đó có Huân chương Tự
do Tổng thống, Giải Wolf, là thành viên của Hội Nghệ thuật Hoàng gia và Viện
Hàn lâm Khoa học Giáo hoàng. Hawking đảm nhiệm vị trí Giáo sư Toán học
Lucastại Đại học Cambridge từ năm 1979 đến năm 2009. Có thể nói ông là người
khuyết tật thành công nhất trong lịch sử loài người.
13
Thứ tư: Nick Vujicic
Nick Vujicic, sinh năm 1982 tại Australia, bị hội chứng etra-amelia bẩm
sinh, một loại rối loạn rất hiếm gặp. Nick không có tay, hai chân rất nhỏ và hầu
như không giúp gì được cho anh trong việc di chuyển. Bất chấp những khó khăn
trong cuộc sống, anh đã vươn lên và tốt nghiệp đại học năm 21 tuổi, với tấm bằng
kép ngành kế toán và kế hoạch tài chính. Sau đó, anh trở thành một diễn giả nổi
tiếng, với 1.600 bài phát biểu tại hàng chục quốc gia, truyền cảm hứng sống và
vươn lên cho hàng triệu người. Năm 2005, Nick Vujicic được đề cử giải thưởng
"Thanh niên của năm" của Australia.
Thứ năm: Nhà soạn nhạc Beethoven
14
Beethoven (17/12/1770 – 26/3/1827) là nhà soạn nhạc cổ điển người Đức.
Hồi nhỏ, ông bị khiếm thính, sau đó bị điếc hoàn toàn. Tuy vậy, ông vẫn trở thành
một nhà soạn nhạc vĩ đại, nổi tiếng thế giới. Ông là hình tượng âm nhạc quan
trọng trong giai đoạn giao thời, từ thời kỳ âm nhạc cổ điển sang âm nhạc lãng
mạn. Beethoven được coi là một trong những nhà soạn nhạc vĩ đại nhất và có ảnh
hưởng tới rất nhiều nhà soạn nhạc, nhạc sỹ và khán giả về sau.
4.4.5. Biện pháp thứ năm: Điều chỉnh nội dung chương trình phù hợp.
Đối với học sinh khuyết tật trí tuệ, sự điều chỉnh là rất cần thiết. Tùy theo
khả năng nhận thức và mức độ khó khăn của học sinh mà giáo viên lựa chọn cách
thức điều chỉnh. Các điều chỉnh phải đạt được yêu cầu sau: Các điều chỉnh đều
được thực hiện trên bản kế hoạch giáo dục cá nhân; nội dung dạy học cần điều
chỉnh không được xây dựng riêng rẽ mà dựa trên nội dung dạy học của môn học
và chuẩn kiến thức kĩ năng môn học đó; việc điều chỉnh phải thích ứng với trình
độ nhận thức, khả năng học tập của học sinh.
Trên cơ sở những đặc điểm khác nhau về khả năng, nhu cầu, sở thích của
học sinh, để đáp ứng và tạo điều kiện cho học sinh phát triển tối đa những khả
năng vốn có, giáo viên cần xác định và vận dụng các phương pháp dạy phù hợp để
đáp ứng mọi nhu cầu học tập của học sinh khuyết tật, cho nên tùy theo mục tiêu đề
ra mà giáo viên có thể giảm nhẹ yêu cầu cho phù hợp với năng lực của học sinh.
15
BIỂU ĐỒ HÌNH THÁP XÁC ĐỊNH NỘI DUNG DẠY HỌC CHO HỌC
SINH KHUYẾT TẬT TRÍ TUỆ
Một số học
sinh
sẽ học gì?
Đa số học sinh sẽ học
gì?
Tất cả học sinh sẽ
học gì?
Học sinh
khuyết
tật trí tuệ
sẽ học
gì?
*) Những lưu ý trong khi điều chỉnh:
- Trong một giờ học có thể sử dụng một hay phối hợp nhiều phương pháp
điều chỉnh.
- Sử dụng phương pháp điều chỉnh nào, cho bài học hay cho nội dung cụ thể
và vào thời điểm nào hoàn toàn do giáo viên quyết định dựa trên đặc điểm của học
sinh và nội dung bài học.
- Điều chỉnh đối với học sinh khuyết tật nhưng không tách rời hoạt động của
các học sinh khác trong tiến trình giờ dạy. Điều chỉnh mang lại lợi ích cho cả hai
đối tượng.
16
*) Phương pháp điều chỉnh theo kiểu đa trình độ
- Tất cả học sinh cùng học một chương trình nhưng theo những mức độ
khác nhau. Từ đó, mỗi học sinh được tiếp thu một số lượng và mức độ kiến thức
nhất định phù hợp với khả năng của mình.
- Ví dụ: Bài tập hợp – Phần tử của tập hợp, toán 6
Học sinh khuyết tật
Học sinh cả lớp
- Nhắc lại tên các phần tử thuộc tập Biết cách viết tập hợp theo kiểu liệt kê
hợp(Biết).
phần tử (Áp dụng) và chỉ ra tính chất
- Nói tên tập hợp các đồ vật thật xung đặc trưng cho phần tử đó (Đánh giá)
quanh HS(Biết).
*) Phương pháp điều chỉnh theo kiểu trùng lặp giáo án
- Học sinh khuyết tật gặp rất nhiều khó khăn trong các hoạt động nhận thức,
song vẫn tham gia vào hoạt động chung của tiết học nhưng với mục tiêu kiến thức
khác nhau.
- Ví dụ: Bài tập hợp các số tự nhiên, toán 6
Học sinh khuyết tật
Học sinh cả lớp
Nói được tên số liền trước hoặc liền Biết tập hợp các số tự nhiên; biết biểu
sau của một số. So sánh hai số tự nhiên diễn số tự nhiên trên tia số; phân biệt
có sử dụng kí hiệu >, <
tập hợp N và N*; sử dụng kí hiệu ≥ và
≤ ; viết các số liền trước và liền sau của
một số tự nhiên.
*) Phương pháp điều chỉnh theo kiểu thay thế
- Học sinh khuyết tật không thể tham gia vào các hoạt động chung của lớp
học trong một số nội dung và thời gian học tập cụ thể. Học sinh được yêu cầu phát
triển những mục tiêu không liên quan đến các bạn học khác trong lớp.
- Ví dụ: Bài tập hợp các số tự nhiên, toán 6. Bài tập 8 sách giáo khoa. Viết
tập hợp A các số tự nhiên không vượt quá 5 bằng hai cách.
Học sinh khuyết tật
Tập viết các số từ 0 đến 5
Học sinh cả lớp
Viết tập hợp A
4.5.6. Biện pháp thứ sáu: Phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với giáo viên
chủ nhiệm và gia đình.
Giáo viên thường xuyên trao đổi với phụ huynh những tiến bộ của học sinh
và những vấn đề cần phối hợp để thực hiện tốt mục tiêu đã đề ra. Giáo dục hoà
17
nhập học sinh khuyết tật là một quá trình đòi hỏi cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa
các lực lượng trong và ngoài nhà trường, trong đó nhà trường đóng vai trò quan
trọng nhất. Do đó, sự phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên bộ môn và giáo viên chủ
nhiệm sẽ tạo nên kết quả như mong muốn. Cụ thể: thường xuyên trao đổi, cập
nhật, nắm bắt các kênh thông tin đa chiều để có những điều chỉnh kịp thời, phù
hợp về phương pháp giảng dạy, hình thức tổ chức dạy học. Thường xuyên theo dõi
sự diễn biến sức khỏe bệnh lý, sự tiến bộ của các em dù là rất nhỏ để trao đổi với
phụ huynh để cùng phối hợp với giáo viên chủ nhiệm làm tốt công tác giáo dục
hòa nhập cho học sinh khuyết tật, thường xuyên trao đổi thông tin về các lĩnh vực
giáo dục môn học và hoạt động giáo dục, năng lực, phẩm chất của các em để có sự
giúp đỡ trong việc đánh giá các em. Sắp xếp thời gian hợp lý để thường xuyên đến
thăm gia đình, tư vấn tâm lý cho phụ huynh và động viên các em. Từ đó, giáo viên
và phụ huynh cùng tìm ra biện pháp giúp đỡ, hỗ trợ tốt hơn, hiệu quả hơn.
Tích cực, chủ động tham mưu với Ban giám hiệu, các đoàn thể trong nhà
trường để phối hợp làm tốt phong trào xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh
tích cực”, đây là điều kiện thuận lợi để giáo viên làm tốt công tác giáo dục hòa
nhập cho học sinh khuyết tật.
4.4.7. Biện pháp thứ bảy:Đánh giá học sinh khuyết tật dựa trên năng
lực và quá trình hòa nhập của các em.
Theo điều 14: đánh giá học sinh khuyết tật của quy chế Đánh giá, xếp
loạihọc sinh trung học cơ sở và học sinh trung học phổ thông(Ban hành kèm theo
Thông tư số: 58/2011/TT-BGDĐT ngày 12 tháng 12 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo)
1. Đánh giá học sinh khuyết tật theo nguyên tắc động viên, khuyến khích sự
nỗ lực và sự tiến bộ của học sinh là chính.
2. Học sinh khuyết tật có khả năng đáp ứng các yêu cầu của chương trình
giáo dục THCS, THPT được đánh giá, xếp loại theo các quy định như đối với học
sinh bình thường nhưng có giảm nhẹ yêu cầu về kết quả học tập.
3. Học sinh khuyết tật không đủ khả năng đáp ứng các yêu cầu của chương
trình giáo dục THCS, THPT được đánh giá dựa trên sự nỗ lực, tiến bộ của học
sinh và không xếp loại đối tượng này.
Đánh giá để thấy được mặt tích cực mà học sinh đạt được trong quá trình
học hòa nhập, đồng thời phản ánh những hạn chế mà học sinh gặp phải, từ đó có
những biện pháp giúp cải thiện.Thay vì “cào bằng” học sinh học hòa nhập với các
học sinh khác, việc kiểm tra, đánh giá học sinh khuyết tật phải được thực hiện một
cách đa đạng, phong phú dựa trên năng lực cá nhân của mỗi em. Ðây là hoạt động
đổi mới căn bản trong kiểm tra, đánh giá học sinh học hòa nhập. Cách làm này
không chỉ đánh giá đúng quá trình tiến bộ của học sinh mà còn thể hiện tính nhân
văn, công bằng trong giáo dục.
Đánh giá kết quả học tập của học sinh khuyết tật dựa vào nội dung, hình
thức học tập đã được điều chỉnh. Chú ý đến sự tiến bộ trong việc rèn luyện các kĩ
18
năng xã hội, kĩ năng sống, khả năng hòa nhập của từng đối tượng, việc đánh giá
được thực hiện theo nguyên tắc động viên khuyến khích và ghi nhận sự tiến bộ
của học sinh. Phát hiện những điểm tiến bộ hằng ngày của các em để động viên
kịp thời, khích lệ và có biểu dương trước lớp, gây hứng thú cho các em tham gia
học tập tốt hơn.Quá trình kiểm tra, đánh giá phải góp phần thực hiện mục tiêu cuối
cùng là học sinh khuyết tật được hòa nhập trong trường. Việc kiểm tra, đánh giá
cũng phải căn cứ vào năng lực và quá trình hòa nhập của các em chứ không chỉ
dựa vào những bài kiểm tra định kỳ, thông thường như những học sinh khác. Theo
đó, việc đánh giá học sinh khuyết tật theo hướng nhẹ nhàng, thay thế bài kiểm tra
tiêu chuẩn bằng các hình thức khác như: sản phẩm học tập, dự án học tập, đánh
giá thông qua việc tham gia các hoạt động trong nhà trường, cộng đồng…
Cách kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực và phẩm chất riêng
của từng học sinh khuyết tật không chỉ giúp các em hòa nhập tốt hơn, đảm bảo
quyền lợi của các em mà còn phù hợp với việc đổi mới phương pháp dạy học theo
tinh thần đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo.
Một số kế hoạch bài học minh họa có học sinh khuyết tật học hòa nhập
BÀI 2. CÁC THÀNH PHẦN CHÍNH VÀ DỮ LIỆU TRÊN TRANG TÍNH
(Môn tin học lớp 7)
A. Mục tiêu
I. Mục tiêu chung
1. Về kiến thức
- Biết hộp tên, khối, thanh công thức
- Hiểu vai trò thanh công thức
2. Về kỹ năng
Kĩ năng chọn một ô, một hàng, một cột, một khối và nhiều khối.
3. Về thái độ
Rèn luyện đức tính cẩn thận, chính xác, tư duy khoa học trong công việc.
4.Phát triển năng lực
Năng lực tự học; năng lực sử dụng ngôn ngữ; năng lực giải quyết vấn đề;
năng lực hợp tác.
I. Mục tiêu riêng(Đối với em Nguyễn Bảo Trâm)
1. Về kiến thức
- Biết hộp tên, khối, thanh công thức
- Hiểu vai trò thanh công thức
19
2. Về kỹ năng
Biết cách chọn một ô, một hàng, một cột và một khối
3. Về thái độ
Rèn luyện đức tính cẩn thận, chính xác.
4.Phát triển năng lực
Năng lực tự học; năng lực sử dụng ngôn ngữ; năng lực giải quyết vấn đề;
năng lực hợp tác.
B. Chuẩn bị
GV: SGK, giáo án, máy chiếu, phòng tin học.
HS: SGK, vở ghi chép, bảng nhóm
C. Phương pháp
Nêu và giải quyết vấn đề, vấn đáp, gợi mở, trực quan, nhóm.
D. Tiến trình bài dạy
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động chung của
học sinh cả lớp
Hoạt động riêng của
em Nguyễn Bảo
Trâm
Khởi động
Giao nhiệm vụ:
Thực hiện
GV đưa bảng kết quả học Học sinh hoạt động nhóm
tập (H1.11). HS trả lời các đôi
câu hỏi (SGK-17)
Báo cáo
Đại diện nhóm trả lời
Phát biểu vấn đề
Mỗi ô trên trang tính đều
cho ta thông tin hoàn toàn
xác định tùy theo ô đó
nằm ở hàng nào và cột
nào.
Vậy muốn biết trang tính
có những thành phần nào
thì chúng ta cùng tìm hiểu
trong bài hôm nay.
Hình thành kiến thức
20
- Cùng tham gia thảo
luận nhóm
- Theo dõi các nhóm
trả lời
Hoạt động 1: Tìm hiểu
bảng tính
GV: Chiếu hình bảng tính HS Theo dõi
Một bảng tính có thể có
bao nhiêu trang tính?
Theo mặc định của Excel,
bảng tính mới mở gồm
bao nhiêu trang tính
trống?
- Theo dõi
- Theo dõi các bạn trả
lời và trả lời được câu
HS trả lời cá nhân
Theo mặc định của
Một bảng tính có thể có
Excel, bảng tính mới
nhiều trang tính. Theo mặc mở gồm 3 trang tính
định của Excel, bảng tính
mới mở gồm 3 trang tính
GV: Các trang tính được
phân biệt bởi các nhãn ở
phía dưới màn hình,
Sheet1, sheet2, sheet3…
GV: Thực hiện kích hoạt
và bỏ kích hoạt một trang
tính.
*) Giao nhiệm vụ:
*) Thực hiện
- Cùng tham gia thảo
luận nhóm với các
bạn
Thế nào là một trang tính Hoạt động theo nhóm 4
được kích hoạt?
*) Báo cáo
Làm thế nào để kích hoạt
- Trang tính đang được - Có thể đại diện
trang tính?
kích hoạt là trang tính nhóm đứng lên trả lời
đang được hiển thị trên
màn hình, có tên với chữ
đậm
Hoạt động 2: Tìm hiểu
các thành phần chính trên
trang tính
GV: Chiếu bảng tính
(Hình 1.13 sgk trang 18)
và giới thiệu: Trong bài
trước các em đã biết một
- Để kích hoạt một trang
tính, ta nháy chuột vào tên
trang tính tương ứng.
21
số thành phần của trang
tính đó là các hàng, các
cột và các ô tính. Ngoài
ra, trên trang tính còn có
một số thành phần khác
Giao nhiệm vụ
Hãy nêu các thành phần Thực hiện
Hoạt động theo nhóm 2
chính của trang tính
Báo cáo
- Hộp tên: Ô bên trái thanh
công thức, hiển thị địa chỉ
của ô được chọn
- Khối: Là một nhóm các ô
liền kề nhau tạo thành hình
chữ nhật.
* Địa chỉ của khối: là cặp
địa chỉ của ô trên cùng bên
trái và ô dưới cùng bên
phải, được phân cách nhau
bởi dấu hai chấm (:)
*) Phát biểu vấn đề
Cho các nhóm khác nhận
xét, bổ sung.
- Cùng trao đổi với
bạn cùng bàn
- Chỉ cần nêu được
các thành phần chính
của trang tính: hộp
tên, khối, thanh công
thức
- Thanh công thức: Cho
biết nội dung của ô đang
được chọn.
Luyện tập – vận dụng
*) Giao nhiệm vụ
*) Thực hiện
Bài 1: Trong các phát biểu Hoạt động theo nhóm 4
sau, phát biểu nào đúng,
*) Báo cáo
phát biểu nào sai:
Đại diện lần lượt các nhóm
1) Khối C6:D9 khác với
trả lời
khối S9:D6
Bài 1:
2) Hộp tên cho biết nội
1) Đúng
dung ô hiện đang được
kích hoạt
2) Sai
3) Thanh công thức cho
3) Đúng
biết nội dung ô hiện đang
4) Sai
được kích hoạt
4) Một khối phải có nhiều
22
Cùng hoạt động với
các bạn trong nhóm
Có thể đại diện nhóm
để trả lời
hơn một ô
Bài 2: Giả sử trong hộp
tên có nội dung “F5”.
Điều đó có nghĩa là
A. phím chức năng F5;
Bài 2: C
B. phông chữ hiện thời là
F5;
C. ô ở cột F hàng 5 đang
được kích hoạt;
D. ô ở hàng F cột 5 đang
được kích hoạt.
Bài 3: Giả sử trên màn
hình ta không nhìn thấy ô
nào đang được kích hoạt
(có viền đậm bao quanh).
Em có thể dựa vào thông
tin nào khác để biết địa
chỉ của ô đang được kích
hoạt.
Bài 4: Bạn An nói “Một
nhóm các ô tạo nên một
khối”. Bạn An nói đúng
hay sai?
Bài 3: Quan sát hộp tên ở
góc trên, bên trái trang tính
ta có thể biết được địa chỉ
của ô đang được kích hoạt
Bài 4: Bạn An nói chưa
chính xác. Nhóm các ô
phải thỏa mãn điều kiện
“liền kề và tạo thành một
hình chữ nhật”
Tìm tòi, mở rộng
Giáo viên hướng dẫn và
yêu cầu học sinh về nhà
trả lời phần tìm tòi, mở
rộng cuối bài
Hs theo dõi và ghi vào vở
Theo dõi và ghi vào
vở
Tiết 2. §2. NHÂN ĐA THỨC VỚI ĐA THỨC
(Môn toán lớp 8)
A . MỤC TIÊU
I. Mục tiêu chung
23
1. Kiến thức
- Nắm được quy tắc nhân đa thức với đa thức.
- Biết vận dụng linh hoạt quy tắc để giải toán.
2. Kỹ năng
Rèn kỹ năng nhân đa thức với đa thức, trình bày theo nhiều cách khác nhau.
3. Thái độ
Cẩn thận, chính xác.
4. Phát triển năng lực
Năng lực tự học, giải quyết vấn đề, giao tiếp, hợp tác, tính toán.
II. Mục tiêu riêng(Đối với em Trần Duy Nghĩa)
1. Kiến thức
- Nắm được quy tắc nhân đa thức với đa thức.
- Biết vận dụng quy tắc để giải toán.
- Đọc trơn các từ: đa thức, hạng tử, sắp xếp, lũy thừa, tăng dần, giảm dần.
2. Kỹ năng
Rèn kỹ năng nhân đa thức với đa thức.
3. Thái độ
Cẩn thận, chính xác.
4. Phát triển năng lực
Năng lực tự học, giải quyết vấn đề, giao tiếp, hợp tác, tính toán.
B. CHUẨN BỊ
Giáo viên: bảng phụ.
Học sinh: Bút dạ, ôn lại quy tắc nhân đơn thức với đa thức, bảng nhóm.
C. PHƯƠNG PHÁP
Nêu và giải quyết vấn đề, nhóm, gợi mở, vấn đáp.
D. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động chung của
học sinh cả lớp
Hoạt động riêng của
em Trần Duy Nghĩa
Khởi động
*) Giao nhiệm vụ
Thực hiện phép tính:
a) x.( 6x2- 5x +1)
b) -2.( 6x2- 5x +1)
*) Thực hiện:
2 hs lên bảng làm cá nhân
*) Báo cáo
Theo dõi và làm vào
vở
24
a) 6x3- 5x2 + x
b) - 12x2+ 10x - 2
*) Phát biểu vấn đề
Các em đã thực hiện nhân
đơn thức với đa thức.
Vậy (x-2)( 6x2- 5x +1) ta
thực hiện như thế nào?
Hình thành kiến thức
1. Quy tắc
Giao nhiệm vụ:
*) Thực hiện:
Bài toán: Thực hiện nhân
đa thức x – 2 và đa thức
6x2 -5x + 1
Gợi ý: Nhân từng hạng tử
của đa thức x – 2 với đa
thức 6x2 -5x + 1 rồi cộng
các kết quả lại.
Hoạt động theo nhóm đôi
*) Phát biểu vấn đề
*) Báo cáo:
Đọc đúng các từ: đa
thức, hạng tử
Đại diện một nhóm lên
bảng thực hiện
Hoạt động nhóm với
bạn
(x-2)( 6x2- 5x +1) =
= x.( 6x2- 5x +1) -2.( 6x25x +1)
=6x3- 5x2 + x - 12x2+ 10x 2
=6x3 - 17x2+ 11x - 2
HS nêu cá nhân quy tắc
Nêu quy tắc hoặc
nhắc lại câu trả lời
của bạn
- Đó chính là nhân đa thức
với đa thức.
- Cho học sinh nêu quy tắc
tích của hai đa thức là gì?
*) Giao nhiệm vụ
1
2
Nhân đa thức( xy - 1)
với đa thức ( x3-2x-6)
Tích của hai đa thức là một
đa thức.
Cùng hoạt động với
các bạn trong nhóm
*) Thực hiện
và có thể lên bảng
Hoạt động theo nhóm 4 em trình bày
*) Báo cáo
1
2
( xy - 1)( x3-2x-6)
1
2
*) Phát biểu vấn đề
Gv chốt lại bài làm
Giơ tay nếu cho là
đúng
= x4y -x2y -3xy -x3 + 2x
+6
25