Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

TÌM HIỂU tác PHẨM “CON đầm PÍCH” của PUSKIN dưới góc NHÌN HUYỀN THOẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.97 KB, 37 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐỀ TÀI:

TÌM HIỂU TÁC PHẨM “CON ĐẦM
PÍCH” CỦA PUSKIN DƯỚI GÓC NHÌN
HUYỀN THOẠI

Giảng viên hướng dẫn: PGS. Chu Xuân Diên
Học viên thực hiện: Đặng Ngọc Ngận
Lớp Văn học Nước Ngoài 2013- Đợt 2

Thành phố Hồ Chí Minh – 5/ 2014


Contents

2


Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Chúng tôi chọn đề tài Phương thức huyền thoại hóa trong Con đầm pích của
Puskin vì những lí do sau:
Thứ nhất, trong xu hướng nghiên cứu thời gian qua phê bình huyền thoại đã
trở thành một xu hướng lan rộng. Những hiệu quả mà nó mang lại khi nghiên cứu
cũng như khám phá văn học của các quốc gia, các dân tộc là không nhỏ. Thông qua
việc nghiên cứu huyền thoại chuyển hóa vào trong văn học các dân tộc người ta thấy
được tiếng nói chung của nhân loại từ thời nguyên thủy, thấy được những hình thức
tiền tồn xa xưa nhất. Đây là cầu nối các nền văn học trên thế giới. Nghiên cứu huyền


thoại là nghiên cứu tiếng nói trong vô thức của nhân loại, tiếng nói ấy lớn hơn cả tiếng
nói của một cá nhân, một dân tộc hay một quốc gia. Nó là tiếng nói cội nguồn của
lịch sử loài người. Chính vì vậy mà việc tìm hiểu huyền thoại trong văn học là việc
làm vô cùng hữu ích và cần thiết.
Thứ hai, nền văn học Nga là nền văn học lớn trên thế giới. Có rất nhiều nhà văn
vĩ đại ra đời trong cái nôi văn học này được toàn thế giới biết đến và học hỏi như
Dostoiexki, Leptonxtoi, Gogol... Trong số đó không thể không thể không nhắc đến
Puskin. Người được coi là “nguồn gốc của mọi nguồn gốc”, là “thủy tổ” tinh thần của
văn học Nga. Puskin là con người được nuôi dưỡng bằng suối nguồn dân gian Nga.
Sinh thời ông đã sáng tạo lại truyện cổ tích dân gian để chuyển tải những thông điệp
vừa mang tính đạo lí vừa mang tính hiện thực mới mẻ. Chính vì vậy mà chúng tôi
muốn tìm hiểu dấu ấn dân gian cũng như dấu ấn loài người xa xưa đã được phản ánh
trong tác phẩm của Puskin. Tác phẩm chúng tôi chọn lựa là truyện ngắn Con đầm
pích, một truyện ngắn xuất sắc, đầy bất ngờ và những điều bí ẩn. Tìm hiểu Con đầm
pích dưới lăng kính phê bình huyền thoại chúng tôi muốn đi tìm, đồng thời muốn
khẳng định những dấu ấn dân gian Nga nói riêng và dấu tích huyền thoại xưa đã được
3


nhà văn sàng lọc, thể hiện ra sao trong tác phẩm. Chính thông qua đó đi tìm lời giải
cho sức hút của Con đầm pích đối với nhiều thế hệ độc giả trong nhiều thế kỉ qua
bằng góc nhìn mới – góc nhìn huyền thoại.
Cuối cùng, Con đầm pích của Puskin đã được khá nhiều nhà nghiên cứu bàn
đến khi tìm hiểu về Puskin, song chưa có công trình nào xét tác phẩm này dưới ánh
sáng của phê bình huyền thoại. Mạnh dạn theo hướng nghiên cứu này chúng tôi muốn
đưa ra hướng nghiên cứu mới cho Con đầm pích nói riêng cũng như sáng tác của đại
thi hào Puskin nói chung.

2. Lịch sử vấn đề
Phê bình huyền thoại trong văn học hiện nay đang nhận được nhiều sự quan

tâm nghiên cứu, nó được ứng dụng rộng rãi hơn trong nghiên cứu văn học. Ở đây
trong phạm vi một bài nghiên cứu nhỏ, ứng dụng một lí thuyết phê bình vào một tác
phẩm văn học cụ thể nên chúng tôi không liệt kê hay điểm qua những công trình đã có
về vấn đề phê bình huyền thoại cũng như Puskin. Chúng tôi chỉ đi từ lịch sử vấn đề
thu hẹp là những công trình có ảnh hưởng trực tiếp đến đề tài nghiên cứu của mình
bằng vốn hiểu biết còn hạn hẹp.
Công trình đầu tiên và có thể nói là quan trọng nhất, có ảnh hưởng trực tiếp đến
bài nghiên cứu của chúng tôi là bài viết của tác giả Phạm Thị Phương. Bài viết in
trong Giáo trình văn học Nga thế kỉ XIX do nhà xuất bản Đại học Sư phạm thành phố
Hồ Chí Minh ấn hành năm 2010 với nhan đề Những con số bí ẩn trong truyện ngắn
Con đầm pích của Puskin (10, tr.102). Trong bài viết trên tác giả đã đi sâu phân tích
những ý nghĩa của các con số (số ba và số bảy) trong Con đầm pích bên cạnh đó cũng
đi sâu lí giải những bí ẩn liên quan đến các cột mốc trong cuộc đời nhân vật chính. Ở
đây dưới góc nhìn dân gian, tác giả Phạm Thị Phương đi sâu vào các con số linh
thiêng cũng như các tình tiết cổ tích của tác phẩm nhằm làm rõ lập trường đạo đức của
nhà văn cũng chính là của nhân dân. Tất cả đều nhắm vào mục đích làm rõ cái nhìn
4


hiện thực của Puskin, thể hiện dụng ý phản ánh hiện thực thông qua những cái kì ảo
kia. Kế thừa luận điểm trên chúng tôi đã hình thành ý tưởng nghiên cứu tất cả yếu tố
khác trong Con đầm pích có gốc tích từ dân gian, các yếu tố có gốc tích của huyền
thoại xa xưa, không chỉ gói gọn trong các con số hay mô típ thiện – ác của cổ tích mà
thôi. Xét các yếu tố đó dưới lăng kính phê bình huyền thoại với cơ sở lí thuyết cũng
như phương pháp đặc thù để đưa ra cái đóng góp mới của mình.
Công trình tiếp theo là bài nghiên cứu của tác giả Phan Huy Dũng trong kỉ yếu
Hội thảo những lằn ranh văn học. Bài viết với nhan đề Tiếp nhận ảnh hưởng để đổi
mới và sáng tạo (nghĩ về một số vấn đề của văn xuôi Việt Nam đương đại qua nghiên
cứu, so sánh Huyền thoại phố phường của Nguyễn Huy Thiệp với Con đầm pích của
A.S.Puskin). Trong bài nghiên cứu này tác giả nêu ra những điểm giống nhau giữa hai

tác phẩm trên và từ những điểm giống nhau đó tác giả kết luận Nguyễn Huy Thiệp đã
vay mượn ở Con đầm pích của Puskin nhiều thứ khi viết Huyền thoại phố phường từ
cốt truyện, chủ đề, đến hình thức câu văn. Lí giải điều này tác giả cho rằng Nguyễn
Huy Thiệp vay mượn hoàn toàn có chọn lọc, khi một nhà văn đang bị kềm tỏa giữa
vòng vây của phương pháp sáng tác hiện thực và tìm một hướng đi khác. Ông cũng
không gạt bỏ những yếu tố kì ảo trong Con đầm pích. Điều này đã khiến chúng tôi suy
nghĩ, yếu tố kì ảo phải chăng là một yếu tố không phải đơn thuần chỉ để giải trí, chỉ để
tăng tò mò cho người đọc mà nó còn có dụng ý nào khác, có ý nghĩa nào khác đối với
tác phẩm.
Một tác giả khác là Thành Đức Hồng Hà trong bài nghiên cứu về Puskin đã
nhận xét rằng: “Puskin xây dựng Con đầm pích theo mô tip của các câu chuyện cổ
tích. Kẻ độc ác sẽ bị trừng phạt, còn người hiền lành, tốt bụng sẽ gặp may mắn.” (1,
tr.28)
Từ những luận điểm trên mà một lần nữa ý tưởng xem xét những yếu tố huyền
thoại, kì ảo trong Con đầm pích một cách có hệ thống được chúng tôi tiến hành. Các
5


bài viết nghiên cứu trên tuy có đề cập đến các yếu tố có nguồn gốc dân gian, huyền
thoại trong truyện ngắn Con đầm pích nhưng vẫn chưa hình thành một hệ thống tương
đối hoàn chỉnh cũng như chưa giải quyết dụng ý nghệ thuật của nhà văn khi sử dụng
các yếu tố huyền thoại trên. Chúng tôi kế thừa những luận điểm trên mạnh dạn thực
hiện đề tài nghiên cứu này với mong muốn tìm hiểu một cách đầy đủ hơn về tác phẩm
thú vị này cũng như về đại thi hào Puskin.

3. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp chủ yếu chúng tôi sử dụng để nghiên cứu đề tài gồm có:
Phương pháp phê bình huyền thoại: đối tượng nghiên cứu là văn học đã được
huyền thoại hóa hay huyền thoại chuyển hóa vào văn học, khi huyền thoại gốc chuyển
hóa vào văn học nó có thể thay đổi về cấu trúc hoặc giữ nguyên, hoặc mất đi hay bị

lộn ngược, thay thế, bổ sung ý nghĩa…Chính vì vậy mà sử dụng phương pháp phê
bình huyền thoại để tìm ra dấu vết của huyền thoại đã chuyển hóa như thế nào vào
trong tác phẩm cũng như đánh giá khả năng biểu hiện của các yếu tố huyền thoại đó.
Phương pháp văn hóa học: văn học có quan hệ mật thiết với văn hóa, tôn giáo,
lịch sử xã hội, vì vậy nghiên cứu văn học bằng lăng kính huyền thoại hóa cần nghiên
cứu văn hóa, huyền thoại nảy sinh từ trong không gian văn hóa và nó được truyền lại
trở thành bản sắc văn hóa dân tộc.
Phương pháp so sánh để đối chiếu giữa huyền thoại gốc với sự sáng tạo của
nhà văn, so sánh để thấy được dụng ý của nhà văn khi thực hiện sự sáng tạo đối với
yếu tố huyền thoại.
Phương pháp kết hợp giữa tiểu sử và lịch sử xã hội nhằm đối chiếu với bối
cảnh nhà văn sáng tác tác phẩm, qua đó thấy được dụng ý nghệ thuật của người sáng
tạo đã tái sinh hiện thực xã hội vào tác phẩm .

6


4. Đóng góp mới
Thông qua bài nghiên cứu này chúng tôi xét tác phẩm Con đầm pích – một
truyện ngắn xuất sắc của Puskin dưới ánh sáng phê bình huyền thoại. Thông qua đó
chúng tôi làm rõ nguồn mạch dân gian Nga trong con người Puskin đồng thời chỉ ra
cái khả biến của huyền thoại, cái mới mẻ của những huyền thoại xưa khi chuyển hóa
vào văn học. Đồng thời chúng tôi mong muốn đưa ra một hệ thống tương đối đầy đủ
những yếu tố huyền thoại trong Con đầm pích, lí giải tác phẩm bằng một cách mới,
hiệu quả với việc đi tìm ý nghĩa huyền thoại trong tác phẩm.

5. Cấu trúc bài nghiên cứu
Bài nghiên cứu của chúng tôi gồm ba chương:
Chương 1: Giới thiệu chung
Trong chương này chúng tôi giải quyết những vấn đề khái quát, chung nhất liên

quan đến đề tài. Một là vấn đề về huyền thoại và phê bình huyền thoại trong văn học,
vấn đề tiếp theo là khái quát một cách ngắn gọn nhất về tác giả Puskin và truyện ngắn
Con đầm pích.
Chương 2: Những yếu tố huyền thoại trong Con đầm pích
Trong chương này chúng tôi tìm ra biểu hiện của các yếu tố huyền thoại có mặt
trong tác phẩm và trình bày ý nghĩa gốc của chúng.
Chương 3: Phương thức huyền thoại hóa trong Con đầm pích
Chương này chúng tôi đi sâu vào phân tích biểu hiện, tác dụng nghệ thuật của
những yếu tố huyền thoại đã được huyền thoại hóa, bên cạnh đó chúng tôi cố gắng
làm rõ phương thức nhà văn chuyển hóa các yếu tố huyền thoại vào tác phẩm của
mình ra sao.

7


Nội dung
Chương 1: Giới thiệu chung
1.1 Lý thuyết về huyền thoại và phương thức huyền thoại hóa
1.1.1 Khái niệm

Thuật ngữ huyền thoại có rất nhiều cách hiểu và ý nghĩa của nó thay đổi trong
từng môi trường nó được sử dụng. Về nghĩa từ nguyên thì các từ tiếng Việt như “thần
thoại”, “huyền thoại” có những từ tương đương trong một số tiếng nước ngoài như:
mythe (Pháp), myth (Anh), mif (Nga)…các từ này có nguồn gốc từ mythos – một từ
của ngôn ngữ cổ Hy Lạp phiên âm theo ngữ hệ Latinh. Từ này đầu tiên có nghĩa là lời
nói, câu chuyện…rồi được dùng để chỉ những câu chuyện lưu hành trong dân gian –
sản phẩm của trí tưởng tượng, không thể đưa ra những tiêu chuẩn lí trí để bắt bẻ được.
Còn trong Từ điển văn học xác định hai nghĩa rộng và hẹp của khái niệm huyền
thoại như sau:
Nghĩa rộng: huyền thoại (myth) chỉ những câu chuyện có ý nghĩa sâu thẳm,

vĩnh cửu và toàn nhân loại, thường dưới dạng biểu tượng và có chức năng biểu đạt
thân phận con người.
Nghĩa hẹp: huyền thoại (myth) chỉ một hình thức tư duy đặc thù của con người
nguyên thủy…(chỉ) những câu chuyện hoang đường có nguồn gốc dân gian từ thời sơ
khai.
Hầu hết các định nghĩa về huyền thoại đều nhấn mạnh trước hết về huyền thoại
như là “truyện kể về sự khởi đầu”. Định nghĩa của E.M. Melentinski, một chuyên gia
người Nga về huyền thoại và sử thi, tác giả cuốn Thi pháp của huyền thoại có thể coi
là tương đối đầy đủ: “Huyền thoại là truyện kể về các vị thần, các nhân vật được sùng
bái, hoặc có quan hệ nguồn gốc với các vị thần; về các thế hệ xuất hiện trong thời gian
8


ban đầu, tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc tạo lập thế giới, tạo lập những nhân
tố của thế giới – thiên nhiên và văn hóa…”
Riêng trong lĩnh vực nghiên cứu và phê bình văn học thì huyền thoại là hiện
tượng văn hóa nguyên thủy có tính nguyên hợp, là mầm mống của các hình thái ý
thức xã hội: triết học, tôn giáo, nghệ thuật. Huyền thoại là nghệ thuật không/vô ý thức,
là tiền sử của văn học. Văn học có cội nguồn từ huyền thoại, và trong quá trình lịch sử
văn học luôn sử dụng, phát triển huyền thoại, dẫn đến sự hình thành những phương
thức, kỹ thuật sáng tạo huyền thoại trong văn học. Những phương thức, kỹ thuật sáng
tạo văn học này được nói đến bằng nhiều tên gọi như: cái nhìn có tính chất huyền
thoại, ngôn ngữ của huyền thoại, hình ảnh có tính chất huyền thoại của hiện thực,
huyền thoại hóa với tính cách là một biểu hiện của sáng tác văn học, phương thức
huyền thoại hóa trong sáng tác văn học, chủ nghĩa hiện thực huyền thoại, phê bình
huyền thoại, cách tiếp cận huyền thoại học trong nghiên cứu, phê bình văn học…
1.1.2 Phân loại

Trên cơ sở những cách hiểu với phổ rộng hẹp khác nhau, các nhà nghiên cứu
cũng đã đưa ra những phân loại khác nhau về huyền thoại.

Huyền thoại như sản phẩm của những nền văn hoá cổ xưa được chia thành hai
nhóm lớn - huyền thoại cổ điển và huyền thoại cổ sơ:
Huyền thoại cổ điển gồm các hệ huyền thoại của các nền văn minh cổ đại, như
Ai Cập, Hy Lạp, La Mã, Ấn Độ, Trung Hoa…Phần lớn những huyền thoại này không
còn giữ được nguyên vẹn những đặc trưng nguyên thuỷ do đã biến đổi qua sự tập hợp,
ghi chép, trau chuốt, sửa đổi của nhiều thế hệ những nghệ nhân, tu sĩ, trí thức cung
đình…

9


Huyền thoại cổ sơ gồm những huyền thoại của các xã hội,, cộng đồng “nguyên
thuỷ” ở châu Á, châu Phi, châu Úc, châu Đại Dương… Chúng được các nhà dân tộc
học ghi chép từ nửa sau thế kỷ XIX. Về cơ bản, những huyền thoại này vẫn thể hiện
“trạng thái nguyên thuỷ” vì chúng vẫn đang “sống” và thực hiện những chức năng của
mình trong cuộc sống cộng đồng.
Căn cứ vào nguồn gốc dân gian hay bác học, Denis de Rougemont (Tình yêu và
Phương Tây, 1939), C. Lévi-Strauss (Nghiên cứu cấu trúc huyền thoại, 1955), Micea
Eliade (Những phương diện của huyền thoại, 1963; Cái thiêng liêng và cái phàm tục,
1965)… nhấn mạnh sự phân biệt huyền thoại thành huyền thoại nguyên thủy và huyền
thoại văn chuơng.
Huyền thoại nguyên thuỷ (còn gọi là “huyền thoại dân tộc-tôn giáo”) mang tính
sáng lập, khuyết danh, tập thể, truyền khẩu, tiền-văn bản. Huyền thoại văn chương
(hay “huyền thoại tái tạo”) gồm những huyền thoại nguyên thuỷ đi vào văn chương,
được văn chương hoá. Theo Philippe Sellier, khi huyền thoại nguyên thuỷ đi vào văn
chương, nó đánh mất tính chất sáng lập, tính khuyết danh. P.Brunel cho rằng văn
chương, nghệ thuật (trong đó, ngày nay nổi lên vị trí quan trọng của điện ảnh) có vai
trò như “ một phòng lưu trữ huyền thoại”. Nhờ được “bao bọc” bởi văn chương, nghệ
thuật mà huyền thoại nguyên thuỷ tồn tại. Huyền thoại văn chương cũng thêm vào
huyền thoại nguyên thuỷ những ý nghĩa mới. Pierre Albouy khẳng định rằng không

một huyền thoại văn chương nào mà không làm một sự “tái sinh”, làm cho huyền
thoại nguyên thuỷ sống lại trong một thời đại mới, mở ra khả năng “diễn tả tốt hơn
những vấn đề nhất định”.
Huyền thoại văn chương còn bao gồm những huyền thoại phát sinh từ văn
chương, thí dụ Tristan và Yseult, Fauxtst, Don Juan… Trong quan hệ với tôn giáo,
người ta có thể nói tới huyền thoại tôn giáo (hay huyền thoại thánh kinh gồm những
câu chuyện diễn đạt những quan điểm và tín ngưỡng của tôn giáo đã sản sinh ra
10


chúng, thí dụ như các hệ huyền thoại/ thần phả Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi
giáo… Tuy nhiên, có những người phản đối sử dụng từ “huyền thoại” để đề cập cái
mà họ tin tưởng tuyệt đối là thực trong tôn giáo của họ. Ph. Sellier đề cập những
huyền thoại chính trịh – anh hùng liên quan đến những nhân vật lịch sử như
Alexandre, César, Louis XIV, Napoléon…
André d’Abezies đề cập những huyền thoại hình tượng – quyền lực như sự thể
hiện những hoàn cảnh nhân gian tiêu biểu, thí dụ những huyền thoại về Tiến bộ,
Giống nòi, Máy móc… thật sự bộc lộ “sức mê hoặc tập thể có thể sánh với sự hấp
dẫn của những huyền thoại nguyên sơ”.
1.2 Giới thiệu về tác giả Puskin và tác phẩm Con đầm pích
1.2.1 Tác giả Puskin

A.S.Puskin (1799 – 1837), sinh ra trong một gia đình quý tộc có truyền thống
văn chương. Ngoài dòng máu quý tộc Nga thì ông còn tiềm ẩn đôi chút khí chất của
dòng máu Phi châu nóng bỏng, nhiệt thành.
Puskin được mệnh danh là “Mặt trời của thi ca Nga”, là nhà thơ vĩ đại có ý
nghĩa to lớn không chỉ trong lịch sử văn chương mà cả lịch sử thức tỉnh của dân tộc
Nga.” (N.A. Đô –brô –liu – bốp).
Sự nghiệp sáng tác của ông phong phú và đa dạng ở nhiều thể loại (truyện
ngắn, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết thơ, thơ trữ tình, kịch, trong đó nổi bật là thơ với

hơn 800 bài thơ trữ tình.
Tác phẩm của Puskin thể hiện tuyệt đẹp tâm hồn nhân dân Nga khao khát tự do
và tình yêu. Ở thể loại nào văn chương của ông cũng luôn là một tiếng nói Nga trong
sáng, thuần khiết, thể hiện cuộc sống một cách giản dị, chân thực.

11


1.2.2 Tác phẩm Con đầm pích

Puskin viết tác phẩm này ở Bôđinô vào tháng 10 – 11 năm 1833. Có chứng cớ
cho rằng thoạt đầu tiên ông định đặt tên cho truyện này là “Phát đạn giả”.
P.V.Nasôkin, người mà Puskin đọc cho nghe Con đầm pích đã kể lại rằng “cốt truyện
không phải bịa ra”. Bà lão nữ bá tước đó chính là Natalia Pêtơrốpna Gôlitxưna (mẹ
của thống đốc Mátxcơva), quả thật có sống ở Pari hệt như Puskin miêu tả.
Ngày 7/4/1834 Puskin đã ghi nhật kí : “Con đầm pích của tôi được hâm mộ.
Bọn con bạc đua nhau đặt con ba, con bảy và con xì. Ở trong triều người ta nhận ra
sự giống nhau giữa nữ bá tước già và nữ công tước Natalia Pêtơrốpna Gôlitxưna và
hình như họ không bực tức.”
Lần đầu tiên Con đầm pích in trong Tủ sách để giải trí vào năm 1834. Tác
phẩm được yêu thích bởi cốt truyện giàu tính xung đột với những tính cách đối kháng,
kết thúc bất ngờ và nhất là pha trộn những yếu tố kì ảo, ngẫu hứng, những khúc quanh
bí hiểm của tâm lí nhân vật.

Chương 2: Những yếu tố huyền thoại trong Con đầm pích
2.1 Các mô tip cổ tích
2.1.1 Mô tip nhân vật thiện – nhân vật ác

Trong Con đầm pích người đọc có thể dễ dàng nhận thấy tác giả dường như cố
ý chia nhân vật ra làm hai bên chính tà. Nhân vật ác, đầy mưu mô và thủ đoạn chính là

chàng trai Gherman, một chàng trai người Đức chi li. Anh ta đam mê cờ bạc đến mức
có thể thức thâu đêm xem người khác đánh nhưng vì gia cảnh và mục tiêu cuộc sống
anh ta có thể kìm nén vì gia cảnh không cho phép anh ta lao vào những cuộc chơi đỏ
đen ấy, “không bao giờ dung túng cho mình một điều ngông cuồng nào dù rất nhỏ”
(14, tr.326). Thế rồi trong một lần biết được bí mật về ba quân bài có khả năng khiến
cho người chơi bài thắng cuộc thì trong đầu anh ta hừng hực ý chí phải cướp được cái
12


bí mật ấy. Gherman tự nhủ: “ta phải tìm cách để được giới thiệu với bà ta, ta phải
tranh thủ lòng tin của bà ta, nếu cần, trở thành tình nhân của bà ta…” (14, tr.327 ).
Thế nhưng hắn cũng nhận ra rằng bà bá tước đã già quá (87 tuổi) rồi và có thể chết bất
cứ lúc nào, vì vậy hắn tìm cách tiếp cận khác. Cô con gái nuôi Lida của bà bá tước trở
thành mục tiêu của hắn.
Với sự kiên trì, táo bạo và thủ đoạn hắn đã chiếm được lòng tin của cô gái và
đạt được mục đích lọt vào nhà nữ bá tước. Trong cuộc chạm mặt với bà lão già hắn
dùng mọi lí lẽ để thuyết phục bá tước phu nhân, từ van xin: “Nếu trái tim phu nhân đã
có lần rung động vì tình yêu, nếu phu nhân hồi tâm nhớ lại những phút say sưa dịu
dàng ấy, nếu phu nhân đã có bào giờ mỉm cười khi nghe tiếng khóc của một trẻ sơ
sinh...hãy vì tất cả những cái gì là thiêng liêng trên cõi đời này, xin đừng gạt bỏ lời
khẩn cầu của tôi…” (14, tr.339), đến hăm dọa “Con mụ phù thủy khốn khiếp này, tao
sẽ có cách bắt mày phải nói” (14, tr.339). Và rút ra một khẩu súng. Kết quả của hành
động này dẫn đến cái chết của bá tước phu nhân, Gherman không hề thấy hối hận về
cái chết của bà già cũng như cái cách hắn ta lạnh lùng thông báo cho Lida tin này.
Có thể nói Gherman không từ một thủ đoạn nào để đạt được mục tiêu kể cả giết
người. Hắn khiến người đọc liên tưởng đến những nhân vật phản diện trong cổ tích,
nhân vật đại diện cho tầng lớp thống trị của xã hội. Đó là Lý Thông trong Thạch Sanh
– Lý Thông với mưu mẹo đẩy Thạch Sanh chết thay rồi lại cướp công của chàng; hay
nhân vật mụ hoàng hậu độc ác trong Bạch Tuyết và bảy chú lùn tìm mọi cách để giết
hại Bạch Tuyết…và tất nhiên những nhân vật phản diện độc ác này xuất hiện đầy rẫy

trong cổ tích.
Trong thế đối lập với nhân vật ác thì cổ tích bao giờ cũng có nhân vật thiện,
nhân vật người lương thiện, người hiền lành, đáng thương như: co bé lọ lem, đứa con
riêng bị hành hạ, chàng trai nghèo bị hắt hủi…. Nhân vật cô gái con nuôi bá tước phu
nhân Lida có thể coi là một nhân vật có nguồn gốc từ cổ tích. Đó là một cô gái hiền
13


lành, xinh đẹp và vô cùng lương thiện, ngây thơ. Lida được bà bá tước nhận về làm
con nuôi và tất nhiên là cuộc sống ấy không hề êm đềm như bề ngoài: “Thật thế, Lida
quả là một kẻ bất hạnh vô cùng. Đăngtơ có nói rằng miếng cơm nhà người nuốt vào
đắng miệng, ngưỡng cửa nhà người cao quá khó trèo qua. Nhưng có ai biết rõ nỗi tủi
nhục của cảnh sống lệ thuộc hơn là một cô thiếu nữ đáng thương phải ở làm con nuôi
một bà già quyền quý…Cuộc đời của Lida là một chuỗi những cực hình cứ tiếp diễn
ngày nay qua ngày khác. Cô hầu trà thì bị mắng là phí phạm đường. Cô đọc tiểu
thuyết cho bá tước phu nhân nghe thì bị đổ lên đầu tất cả những cái ngu ngốc của tác
giả. Cô đi theo hầu hạ bà trong khi dạo chơi thì cô phải chịu trách nhiệm về nỗi
đường sá gập ghềnh và thời tiết khó chịu. Người ta định cho cô một số lương nhưng
không bao giờ trả đủ số lương đó…Ai cũng biết cô nhưng không ai để ý đến cô cả.”
(14, tr.322-323 ). Là cô gái có “tâm hồn thơ mộng”, một thiếu nữ mới bắt đầu bước
vào con đường yêu đương (dù bị Gherman lừa dối nhưng Lida yêu và xúc động thật
sự). Một cô gái ngây thơ và đã dễ dàng rơi vào bẫy tình của một con người đầy mưu
mô, hừng hực ý chí đạt được mục đích. Mãi đến khi Gherman nói sự thật cô mới hiểu
rõ tất cả, lúc này trong lòng Lida tràn ngập hối hận: “Tội nghiệp cho nàng quá. Nàng
đã mù quáng làm tay chân cho một thằng tướng cướp, cho một tên sát nhân đã giết
hại người lão ân nhân của nàng.” (14, tr.344 )
Nàng đau đớn thốt lên nguyền rủa Gherman là một quái vật. Thế nhưng Lida
vẫn chỉ cho Gherman lối ra khỏi nhà bá tước, nàng không nỡ tố cáo kẻ sát nhân máu
lạnh ấy cho dù hắn đã phạm rất nhiều tội lỗi với nàng. Có thể nói cô gái ngây thơ và
lương thiện ấy là nạn nhân đáng thương của một con quỷ khát khao tiền tài mà thôi.

Và cuối cùng thì nhân vật lương thiện, đáng thương ấy cũng được hưởng một phần
thưởng xứng đáng, giống như những cô gái, những chàng trai bất hạnh trong cổ tích
nhận được phần thưởng (được lên ngôi vua, làm vợ hoàng tử, sống cuộc sống giàu
sang, hạnh phúc…) thì Lida cũng được đền đáp xứng đáng: “Lida lấy một chàng
thanh niên rất đáng yêu con người quản gia của cố bá tước phu nhân. Anh ta có một
14


chỗ làm tốt, vả lại cũng có một gia tài kha khá. Lida đẹm một đứa cháu gái họ nghèo
về nuôi và dạy dỗ.” (14, tr.357 )
2.1.2 Mô tip sự lừa đảo

Trong 31 chức năng cổ tích của Prop thì có một chức năng về sự lường gạt, lừa
dối (chức năng 6 – kí hiệu g), sở dĩ Prop tổng hợp chức năng trên là vì trong truyện cổ
tích sự lường gạt, lừa đảo là một mô tip quá quen thuộc và có tần số xuất hiện cao.
Hầu như các câu chuyện cổ tích đều xuất hiện chi tiết này. Mụ hoàng hậu độc ác sai
người lừa Bạch Tuyết vào rừng để sát hại, hay chính mụ hóa thành bà lão bán táo lừa
gạt Bạch Tuyết ăn táo độc; lão phú ông trong Cây tre trăm đốt lừa gạt anh nông dân
Khoai là gả con gái cho anh để anh bán sức lao động không công cho lão; Lý Thông
lừa gạt Thạch Sanh để cướp công lao giết chằn tinh của chàng…
Trong Con đầm pích người đọc nhận ra mô tip lừa đảo này thông qua hành
động lừa đảo của Gherman. Hắn vốn không hề yêu thương Lida, nhưng vì có thể lợi
dụng nàng tiếp cận được với nữ bá tước hắn đã không quản ngại sắp đặt một vụ lừa
tình hoàn hảo. Cũng như các nhân vật lừa đảo trong cổ tích, đầy mưu mô, tính toán,
tham vọng và hết sức lạnh lùng, nhẫn tâm, Gherman đã từng bước đưa Lida ngây thơ
vào bẫy của hắn ta. Khởi đầu là việc gây chú ý cho cô gái bằng cách đứng nhìn đăm
đăm ngày này qua ngày khác dưới khung của sổ, Lida ban đầu tránh né nhưng chẳng
bao lâu sau với sự kiên trì của mình Gherman đã nhận được một nụ cười của cô gái.
Hắn bắt đầu thực hiện bước đi tiếp theo một cách táo bạo là gửi thư cho Lida. Hắn
không ngần ngại quyến rũ cô bằng những lời lẽ trong tiểu thuyết tình yêu cho đến

những lời lẽ sôi nổi, đắm say. Bị trả lại thư hắn không bỏ cuộc nhờ người khác mang
thư đến, và tiếp tục bị cô gái từ chối: “…xin cô hãy về nói lại với cái người đã phái cô
đến đây rằng anh ta đáng ra phải biết xấu hổ.” (14, tr.332 ), “nhưng Gherman có phải
là người dễ bỏ mồi như thế được đâu.” (14, tr.332 ) Với hắn Lida là con mồi và hắn
quyết không bỏ cuộc, bị từ chối hai lần hắn vẫn tiếp tục kiên trì bằng mọi cách để gửi

15


thư cho cô gái với mọi sự cuồng nhiệt của một con người si tình điên đảo. Cuối cùng
cô gái đáng thương chống chọi không được.
Kết quả của sự lừa đảo ấy là Gherman tiếp cận được với nữ bá tước, cầu xin bí
mật về những con bài và đồng thời cũng hại chết bà ta. Còn cô gái mang trong mình
nỗi ân hận vì nhẹ dạ tiếp tay cho kẻ sát nhân đạt được mục đích.
2.1.3 Mô tip sự trừng phạt

Nếu như có nhân vật thiện ác, có sự lừa đảo và hãm hại người khác thì kẻ thủ
ác nhất định sẽ bị trừng phạt. Đó là nguyên tắc trong cổ tích, dân gian luôn thưởng
phạt rõ ràng. Người hiền lành được sống hạnh phúc còn kẻ độc ác phải nhận lấy hình
phạt thích đáng. Puskin hẳn không ngẫu nhiên khi sắp xếp các diễn biến của truyện
giống cổ tích đến vậy. Hẳn đây là chủ ý của tác giả. Gherman với những tội lỗi gây ra
đã phải chịu trừng phạt. Nhưng ở đây người đọc nên chú ý rằng hắn bị trừng phạt bởi
vì đã đạt được ba quân bài nhưng lại không thực hiện đúng giao ước.
Khi lần đầu đến van xin bá tước phu nhân hắn đã nguyện: “Tôi sẵn sàng để
linh hồn hứng lấy tất cả tội lỗi của người, tôi sẵn sàng một mình chịu những tội đó
trước thượng đế.” (14, tr.339 ); ba ngày sau đó hắn đã đạt được mục đích kèm theo
một điều kiện: “Ta bất đắc dĩ phải đến với mày. Ta được lệnh phải chấp nhận lời
thỉnh cầu của mày. Con ba, con bảy và con xì sẽ lần lượt làm cho mày được bạc.
Nhưng mỗi ngày mày chỉ được đánh một con bài, và sau đó suốt đời mày, mày sẽ
không được đánh bạc nữa. Còn về cái chết của tao, tao sẽ tha tội cho mày nếu mày

chịu lấy đứa con gái nuôi Lida của tao làm vợ mày…” (14, tr.350 ). Kết quả sau cùng
là thần trí Gherman chỉ có hình bóng của ba con bài vì “hai ý nghĩ cố định không thể
cùng một lúc tồn tại trong thế giới tinh thần được…” (14, tr.351 ), hắn hầu như quên
hẳn cái chết của bá tước phu nhân cũng như điều kiện mà bà ta đưa ra để hắn thoát
khỏi tội lỗi ấy. Và hình phạt dành cho hắn chính là sự thất bại thảm hại khi đã đứng
trước thành công cuối cùng (con ba và con bảy đã giúp hắn thắng bài nhưng còn xì lại
16


biến thành con đầm và hắn mất sạch toàn bộ tài sản), cuối cùng hắn phát điên vì
hoảng sợ và luôn ám ảnh hắn chỉ là “ba – bảy – xì! Ba – bảy – đầm”.
2.1.4 Mô tip phép thuật thần kì (3 con bài th ần kì)

Trong truyện cổ tích không thể thiếu các yếu tố trợ giúp cho nhân vật chính
hoàn thành nhiệm vụ hoặc thay đổi số phận (viên ngọc giúp người hiểu tiếng loài vật
hay viên ngọc ước, đôi hài giúp đi bảy dặm, nước cải tử hoàn sinh…). Có thể nói
những yếu tố, những vật thần kì là phương tiện để dân gian thể hiện ước mơ, để có thể
đạt đến mục đích cuối cùng là hướng đến một cuộc sống hạnh phúc. Trong Con đầm
pích yếu tố thần kì, mang lại phép thuật là ba con bài: ba, bảy và xì. Ba con bài này đã
giúp cho bá tước phu nhân gỡ được số tiền khổng lồ khi thua bài và cũng giúp cho
Tsáplítxki thoát khỏi cảnh túng quẫn. Và đến lượt Gherman, sau cái giá phải trả khá
đắt là một mạng người hắn đã đạt được bí mật của ba quân bài ấy. Hai con bài đầu tiên
đã khiến hắn được một khoản tiền lớn, nhưng con bài cuối cùng – con xì biến thành
con đầm – “con đầm giống bá tước phu nhân một cách kỳ dị”, đã không mang lại
điều kì diệu mà khiến Gherman thua sạch những gì hắn đã được trước đó.
2.2 Các mẫu gốc
2.2.1 Các con số: ba, bảy

Trong tác phẩm xuất hiện rất nhiều các con số ba và số bảy. Chúng tôi xin liệt
kê như sau. Thứ nhất là số ba: ba quân bài phép thuật (con ba, con bảy, con xì); con

ba; ba mươi vạn rúp (số tiền Tsáplítxki thua bài); ba chị hầu phòng; ba nguyên tắc
Gherman đặt ra: tiết kiệm, điều độ, chăm làm; ba tuần lễ (khoảng thời gian Gherman
theo đuổi, làm quen Lida và vào được phòng bá tước phu nhân); Tômxki cho rằng
trong đầu Gherman có ba vụ án mạng; ba phu nhân đến mời Tômxki ra nhảy; ba ngày
sau cái chết của bá tước Gherman được bà ta báo cho bí mật về ba con bài lúc gần ba
giờ; những người khách chơi bài đặt tiền trên ba mươi cửa; Gherman là kẻ thứ ba
tham gia trò chơi với ba con bài bí ẩn; hắn có ba tội ác (phản bội lại nguyên tắc làm
người của mình, giết người và lừa gạt tình yêu của một cô gái trong trắng).
17


Bên cạnh đó là con số bảy, có tần số xuất hiện ít hơn số ba: bà bá tước phu
nhân 87 tuổi; bà công tước phu nhân đã chết bảy năm; lần đầu tiên đặt cược Gherman
đã cược số tiền 47 ngàn rúp; cuối cùng Gherman hóa điên và nằm ở nhà thương điên,
phòng số 17.
Và tất nhiên sự xuất hiện của hai con số trên không phải là ngẫu nhiên, nó hẳn
là có dụng ý nhất định. Trong bài viết của mình tác giả Phạm Thị Phương đi sâu vào
phân tích hai con số này, tác giả gọi chúng là “những con số linh thiêng, có nguồn gốc
từ dân gian, có ảnh hưởng đến vận mệnh nhân loại” (10, tr.107 ), cụ thể trong Con
đầm pích thì hai con số này ảnh hưởng, thậm chí quyết định sự thay đổi số phận của
Gherman.
Tuy nhiên ý nghĩa của hai con số này xét về nguồn gốc sâu xa hơn nữa thì
chúng còn là những mẫu gốc tồn tại từ rất lâu và mang nhiều ý nghĩa khác nữa.
Con số ba là một biểu tượng phổ quát, 3 = 2 + 1, nó là sự kết hợp giữa lưỡng
cực với nhất thể hay bản thân nó chính là nhất thể tam hợp. Đó là một trật tự hòa hợp,
là cái trọn vẹn. Số ba vì thế tượng trưng cho cái gì hoàn tất, cái gì đã viên thành.
Trong Ki tô giáo, huyền nhiệm đầu tiên là huyền nhiệm Thiên chúa Nhất thể Tam vị
(một chúa ba ngôi gồm Đức chúa Cha, chúa Con và Đức chúa Thánh Thần). Nho giáo
có quan niệm Tam tài: thiên, địa, nhân. Trong Đạo đức kinh của Lão tử có Tam sinh
vạn vật. Phép biện chứng duy vật của Mác qua ba tiến trình: chính đề, phản đề và tổng

hợp đề. Như vậy số ba luôn chiếm địa vị chủ yếu trong những nền tôn giáo và triết
học lớn.
Không chỉ vậy số ba còn tượng trưng cho ánh sáng và sự nhận biết tinh thần và
tính đồng nhất cũng như nguyên lí nam.

18


Còn số bảy là con số hùng mạnh nhất trong tất cả các con số, nó biểu trưng cho
sự thống nhất1 số ba và số bốn, nó là một trật tự hoàn hảo, sự hoàn tất sau cùng. Số
bảy là con số thiêng liêng, huyền ảo. Nó tương ứng với bảy ngày trong tuần, bảy tầng
trời, bảy cành cây của vũ trụ.
Chính vì vậy hẳn Puskin có những dụng ý riêng khi đưa các mẫu gốc này vào
tác phẩm của mình. Về tác dụng nghệ thuật của các mẫu gốc này chúng tôi xin được
trình bãy rõ ở chương sau.
2.2.2 Cái bóng

Trong Con đầm pích, khoảng hơn ba ngày sau cái chết của bà bá tước,
Gherman đang ngủ thì bà ta tìm đến hắn và cho hắn biết về ba con bài phép thuật kèm
thêm điều kiện lấy đứa con gái nuôi của bà ta. Bà bá tước đã chết nên người đàn bà
mặc áo dài trắng mà Gherman thấy chính là một cái bóng, hay chính xác hơn là một
bóng ma hiện về. Cái bóng không đơn thuần là một cái bóng, nó có nguồn gốc sâu xa
hơn thế, là một trong những mẫu gốc đặc biệt. Vậy cái bóng có ý nghĩa gì? Cái bóng
chính là mặt tối tăm trong tự ngã vô thức của con người chúng ta, là những khía cạnh
thấp kém và ít thú vị của cá tính mà chúng ta mong ước giấu nó đi. Jung viết rằng:
“Cái bóng là cái đuôi của loài thằn lằn không thể thấy được mà con người vẫn còn kéo
lê theo mình” (3, tr.118). Và một điều quan trọng ở đây là cái bóng có thể biến thể, nó
phóng chiếu thành ma quỷ, là kẻ thể hiện khía cạnh nguy hiểm của một nửa cá tính tối
tăm không nhận ra được của con người. Vậy thì phải chăng cái bóng ma bà bá tước
chính là sự phóng chiếu có được từ chính tự ngã điên cuồng khao khát bí mật của sự

giàu sang trong tâm hồn Gherman? Vì đạt được mục đích giàu sang hắn bất chấp thủ
đoạn cho dù có phải bán linh hồn cho cả quỷ. Cái bóng ma bà bà tước chỉ là một
phóng chiếu, còn một phóng chiếu khác từ tâm hồn sa ngã của Gherman đã để người
khác nhận ra được đó chính là quỷ Mêphixtôphên.
1 Số ba tượng trưng cho nguyên lí nam, số bốn tượng trưng cho nguyên lí nữ, số 7 = 3+4, là con số thống nhất giữa
nguyên lí nam và nữ, hòa hợp âm dương, hoàn tất vòng tròn hoàn hảo

19


2.2.3 Quỷ Mêphixtôphên

Tômxki nhận xét về Gherman như sau: “Gherman là một nhân vật hết sức lãng
mạn. Anh ta có cái diện mạo của Napôlêông và tâm hồn của Mêphixtôphên. Tôi tin
rằng trong lương tâm anh ta cũng phải có đến ba án mạng là ít.” (14, tr.342 ). Puskin
có dụng ý gì khi nói điều này?
Để hiểu về huyền thoại quỷ Mêphixtôphên chúng ta phải bắt đầu từ việc tìm
hiểu nhân vật Fauxt. Trong văn học phương Tây hình tượng Fauxt là một hình tượng
đã trở thành huyền thoại, nhắc đến Fauxt là người ta nghĩ ngay đến hình tượng một
con người luôn luôn vật lộn với xã hội và tự nhiên nhằm làm phong phú thêm vốn tri
thức và tăng khả năng nhận thức của mình.
Hình tượng Fauxt dưới ngòi bút vĩ đại của Gớt đã trở thành một nhân vật huyền
thoại, anh ta biểu tượng cho ước mơ muốn vươn lên trong cuộc sống, tội lỗi và hình
phạt cũng như một con người đi tìm đường, tìm hạnh phúc. Và để thực hiện điều đó,
Fauxt đã kí một giao ước với quỷ Mêphixtôphên. Kể từ đây hình tượng quỷ
Mêphixtôphên gắn liền với Fauxt. Bản giao kèo như sau: quỷ hứa sẽ làm cho Fauxt
được thỏa mãn mọi ý muốn, sẽ đem lại cho chàng mọi lạc thú trên đời. Còn Fauxt
đánh cuộc với nó rằng nếu nó ngăn được chàng nỗ lực vươn lên, nếu nó làm cho
chàng thỏa mãn với những thành quả đạt được trong công việc hoặc đam mê lạc thú
thấp kém thì chàng thua cuộc và nó sẽ thắng. Lúc ấy linh hồn của Fauxt sẽ thuộc về

Mêphixtôphên. Fauxt chấp nhận giao kèo với quỷ để đạt được cái khao khát chiếm
lĩnh tri thức, bí mật huyền diệu của trời đất vì anh không thỏa mãn với những gì đang
có. Tất nhiên đây là một việc làm nguy hiểm bởi đi với ma quỷ và chấp nhận có thể
phải vào địa ngục chứ không phải thiên đàng. Nhưng ước muốn khao khát chiếm lĩnh
nhận thức và tri thức đã khiến Fauxt đồng ý. Kể từ sau vở kịch Fauxt của Gớt, nhân
vật này và quỷ Mêphixtôphên đã trở thành huyền thoại.

20


Gherman giống Fauxt ở chỗ anh ta sẵn sàng chấp nhận liên minh với quỷ để đạt
được mục đích, tâm hồn anh ta sẵn để “linh hồn của tôi hứng lấy mọi tội lỗi của phu
nhân” cho dù “người đã có một khoản ước nào cùng quỷ dữ chăng?” Chính từ lúc này
tâm hồn anh ta đã giao ước ngầm với quỷ, anh ta sẵn sàng làm mọi cách để có cái
mình muốn. Hay nói cách khác phần tự ngã tối tăm trong anh ta phóng chiếu thành
quỷ dữ, giao ước cùng anh ta.
2.2.4 Màu trắng

Màu trắng xuất hiện trong Con đầm pích chính là màu áo mà bóng ma bá tước
phu nhân đã mặc khi đến gặp Gherman. Màu trắng là màu đa hóa trị, có ý nghĩa ở
phương diện tích cực, ánh sáng, là sự thanh lọc, sự ngây thơ và tính phi thời gian.
Nhưng đồng thời ở phương diện tiêu cực nó cũng có những ý nghĩa biểu trưng khác,
đó là sự chết, sự sợ hãi, cái siêu nhiên và chân lí mù của sự huyền bí. Bóng ma nữ bá
tước khoác lên mình một màu trắng mang ý nghĩa tiêu cực hay tích cực? Nó ảnh
hưởng gì đến Gherman? Và Puskin có dụng ý gì khi sử dụng màu trắng đầy bí ẩn ở
đây? Chúng tôi xin tiếp tục ở chương sau.

Chương 3: Phương thức huyền thoại hóa và tác d ụng nghệ thu ật
của chúng trong tác phẩm Con đầm pích
3.1 Sử dụng yếu tố huyền ảo, kì bí, phi lí và các mô tip cổ tích


Yếu tố huyền thoại muốn chuyển hóa vào trong tác phẩm thì cần phải có thủ
pháp của nhà văn. Ở đây Puskin đã sử dụng các yếu tồ huyền ảo, kì bí và các mô tip
cổ tích để tạo nên những huyền thoại.
Yếu tố kì ảo, kì bí và có phần phi lí ở trong tác phẩm chính là ba con bài ma
thuật ăn tiền. Ba con bài ấy đã giúp cho bá tước phu nhân lấy lại được tiền bạc cũng
như danh dự của bà. Tiếp đó cũng do những con bài ấy mà bá tước giúp cho một
thanh niên sắp phá sản được cứu vớt. Và ba con bài ấy có ngồn gốc từ một nhân vật
21


cũng hết sức bí ẩn: “…bá tước Xanh – Giécmanh là người mà hồi đó người ta gán
cho biết bao nhiêu chuyện kì lạ. Ông ta tự xưng mình là một du sĩ, là kẻ đã phát minh
ra nước phép trường sinh và hòn đá luyện vàng. Người ta cười nhạo ông ta là một lão
lang bịp, còn Cadanô va thì có viết trong tập hồi kí rằng ông ta là một tên gián điệp.
Nhưng, mặc dầu trong đời Xanh – Giécmanh có những điều bí ẩn như vậy , tướng
mạo ông ta vẫn rất đường hoàng bệ vệ, và trong khi giao thiệp ông ta tỏ ra rất lịch
duyệt, hòa nhã” (14, tr.314 ). Như vậy nhà văn đã khéo léo dùng nhân vật bí ẩn,
không rõ ràng làm chủ nhân của ba lá bài bí ẩn. Chủ nhân bí ẩn nên đồ vật cũng bí ẩn.
Nghe xong câu chuyện của Tômxki đa phần bạn bè anh ta cho là giả, là chuyện bịa,
nhưng Gherman lại cho đó là cổ tích, mà đã là cổ tích thì không thể cắt nghĩa tại sao.
Chính từ đó Gherman lao vào con đường chiếm đoạt những bí ẩn đó mà lẽ ra một kẻ
như hắn không có phúc hưởng.
Người đọc tiếp tục bị nhà văn thu hút với các yếu tố li kì tiếp theo: Gherman
thấy người chết nằm trong quan tài nháy mắt với hắn, tiếp đó là hồn ma bà bá tước
hiện về trong đêm. Nhưng những chi tiết ấy chưa đủ sức thuyết phục người đọc về sự
có mặt của yếu tố kì ảo bằng việc Gherman thắng bài.
Ngày đầu tiên hắn sử dụng con ba, con bài này mang lại cho hắn chiến thắng
mở đầu, từ 47 ngàn rúp thành 94 ngàn rúp, ngày thứ hai hắn tiếp tục đặt cược tất cả 94
ngàn rúp vào con bảy và hắn tiếp tục thành công, thu về số tiền 188 ngàn rúp. Người

đọc hồi hộp chờ hắn sử dụng con bài thứ ba, thế nhưng con bài thứ ba hắn chọn – con
xì vào phút cuối lại biến thành con đầm. Con đầm này không những khiến hắn mất tất
cả mà còn làm hắn từ ngạc nhiên đi đến hoảng sợ rồi từ hoảng sợ hắn phát điên.
Con đầm không chỉ vậy còn giống bà bá tước một cách kì dị và lại một lần nữa
nháy mắt mỉm cười với hắn. Đây là lần thứ hai Gherman thấy nụ cười và cái nháy mắt
giễu cợt đó. Lần đầu là người chết trong quan tài, lần hai là con bài trên chiếu bạc. Ở
lần đầu tiên hắn hoảng sợ nhưng chỉ ngã ra sau, còn lần thứ hai này hắn đã không
22


tránh khỏi sự sợ hãi cực độ. Thần kinh vốn đã căng thẳng với cục diện của ván bài và
nhất là hắn đinh ninh trong đầu điều kì diệu này không thể nào có sai sót gì, rằng hắn
chắc chắn sẽ thắng ván bài quyết định này. Thế nhưng bất ngờ ở đây một điều kì diệu
đã xảy ra, phép thuật xảy ra trong phép thuật khiến tất cả cùng bất ngờ.
Phép thuật không bất biến mà nó thay đổi tùy vào người sử dụng. Điều này
phải chăng là có nguồn gốc từ cổ tích, cùng là một vật báu nhưng người tốt sử dụng
thì mang lại hạnh phúc, còn kẻ ác sử dụng thì chuốc lấy tai họa. Trong truyện về chú
chim yến trả ơn, những quả bầu được người em xẻ ra thì chứa đầy vàng bạc, châu báu,
còn người anh độc ác sau khi cố gắng dùng thủ đoạn chiếm được thì xẻ ra toàn là rắn
rết. Như vậy nhà văn phải chăng cố tình để xảy ra biến cố này để chứng minh rằng kẻ
có diện mạo của Napôlêông và tâm hồn của Mêphixtôphên được hưởng ân huệ của
phép màu cho dù phép màu đó có đến tay hắn thật sự. Con đường chiếm đoạt của hắn
là con đường tìm kiếm những thứ không thuộc về hắn.
Mô tip kẻ ác bị trừng trị còn người hiền được hậu đãi của dân gian cũng được
nhà văn sử dụng đắc địa, ông đứng về phía dân gian, chứng minh cái đạo lí ấy mãi
mãi cũng không thay đổi. Ở đây chúng tôi muốn nhắc về truyện Ông lão đánh cá và
con cá vàng của Puskin để làm rõ hơn ý định của nhà văn, câu chuyện này vốn là cổ
tích của dân gian Nga nhưng nhà văn đã sáng tạo lại. Mụ vợ của ông lão đánh cá tham
lam, độc ác và bạc nghĩa quên tình với người chồng đáng thương của mụ đã bị trừng
phạt, những của cải danh vọng ban đầu mụ có được đều biến mất và mụ trở về với

cảnh sống bần hàn khi xưa, một chiếc máng lợn sứt mẻ là cái mụ đáng có nhất. Qua
câu chuyện này nhà văn cũng đã thể hiện rõ ràng đạo lí muôn đời kia.
Có thể nói với sự hài hước và thông thái, truyện cổ tích cho thấy rằng kết cục
của sự giàu có, tham lam và ghen ghét trên thế gian này là “tay trắng lại hoàn trắng
tay”. Nhà thơ Puskin vĩ đại của chúng ta đã đánh giá cao và làm chủ đề này của truyện

23


cổ tích dân gian trở thành bất tử. Và ông không chỉ làm nó bất tử bằng Ông lão đánh
cá và con cá vàng mà còn bằng câu chuyện hiện đại đầy thú vị là Con đầm pích.
Trong Con đầm pích ông đã khéo léo lồng chúng vào tình tiết câu chuyện, một
câu chuyện rất hiện đại với con người hiện đại, cuộc chơi hiện đại nhưng lại có cốt
của cổ tích, yếu tố cổ tích. Gherman xuất phát từ quê hương đi kiếm tìm con đường
cho cuộc đời mình với những đức tính đáng quý như tiết kiệm, chăm chỉ và điều độ,
giữ cho mình một thái độ bình tĩnh trước những cám dỗ của cuộc sống. Thế nhưng sau
khi tình cờ biết về ba con bài phép thuật có khả năng thay đổi cuộc đời của mình hắn
hừng hực ý chí chiếm đoạt.
Ở đây Gherman đã bị những ảo ảnh giàu sang che mờ lí trí, hắn hành động như
những kẻ độc ác, mụ phù thủy hay tên bạo chúa trong cổ tích đó là bất chấp tất cả để
chiếm đoạt. Puskin để hắn chiếm đoạt được cũng giống dân gian để kẻ ác thắng bước
đầu. Chiến thắng ấy khiến chúng hả hê và sử dụng những thứ chiếm đoạt được mà
không biết rằng phép thuật không phải là công cụ mà là phần thưởng, chỉ có ai xứng
đáng mới được hưởng. Gherman không nghĩ như thế, hắn cho rằng bá tước phu nhân
có bí mật về những quân bài là do sự trao đổi với quỷ dữ, bán linh hồn cho quỷ. Và
hắn sẵn sàng chịu điều đó. Hắn đã nhầm. Chính vì vậy mà cái phần thưởng ấy đã trở
thành công cụ thực hiện hình phạt cho kẻ rắp tâm chiếm đoạt.
Hiệu quả của việc sử dụng những yếu tố cổ tích trong tác phẩm là gì? Sẽ là gì
nếu không phải là ý đồ của nhà văn muốn câu chuyện hiện đại của mình thấm đẫm
chất dân gian, là một bài học hay một lời cảnh báo đối với những con người hiện đại

trong xã hội hiện đại hay sao? Xã hội hiện đại đã khiến cho Gherman từ một sĩ quan
nghèo, sống trong xã hội mà giới quý tộc Nga trẻ chỉ biết phung phí tiền bạc, đàng
điếm, sa ngã vào những cuộc chơi đen đỏ đã khiến cho Gherman ban đầu là con người
có phương châm sống đáng quý, biết tự chủ trở thành một kẻ suy nghĩ, tính toán làm
giàu che lấp hết bản tính lương thiện ban đầu của mình. Đây chính là cái nhìn của nhà
24


văn với xã hội hiện thực. Thông qua diến biễn câu chuyện như một câu chuyện cổ dân
gian nhà văn đã “phản ánh sinh động quá trình biến đổi nhân cách con người trong
xã hội chạy theo đồng tiền bằng bất cứ giá nào. Con người nhân phẩm, tình yêu, lòng
nhân đạo đã bị chà đạp, coi thường.” ( 1, tr.120 )
Những câu chuyện cổ bên cạnh việc thể hiện đạo lí nhân dân còn mang ý nghĩa
cảnh báo, khuyên răn con người cách sống. Phải chăng thông qua câu chuyện mang
hồn cổ tích của mình, nhà văn cũng muốn cảnh báo lớp thanh niên Nga lúc bấy giờ về
cách sống, xã hội sẽ ra sao nếu toàn những con người nhu Gherman. Hay đó còn là lời
nhắc nhở chân thành của Puskin với những con người trẻ của đất nước Nga. Thông
qua hình thức nhẹ nhàng của một câu chuyện cổ tích, Puskin lồng cái huyền thoại
tưởng đã cũ nhưng không bao giờ cũ vào tác phẩm của mình với những chi tiết đặc
biệt và mang lại hiệu quả bất ngờ. Người đọc cho đến bây giờ khi đọc Con đầm pích
của ông vẫn rất bất ngờ với những chi tiết kì ảo, những cái giống cổ tích đến bất ngờ
và lấy làm thích thú. Những chi tiết cổ tích, mang màu sắc huyền thoại không khiến
cho người đọc cảm thấy nhàm chán khi ông kể câu chuyện cổ tích mà ngược lại trong
mạch truyện hiện đại ấy lần ra những yếu tố huyền thoại khiến người đọc thú vị và
tâm đắc, mọi điều bí ẩn xung quanh nhân vật, xung quanh những lá bài thần kì không
còn khó hiểu nếu đặt nó dưới góc nhìn của cổ tích dân gian nữa. Mà ngược lại nó trở
nên rất hợp lí, rất bình thường. Và có lẽ đây chính là cái thiên tài của Puskin: “ Puskin
hoàn toàn như một nghệ sĩ đã cách tân truyện cổ tích, sáng tạo lại truyện cổ tích bằng
thiên tài thơ ca của mình” (1, tr.159 ).
Ở đây những vấn đề mang tính hiện thực xã hội như vận mệnh của nước Nga,

con đường phát triển của xã hội là những vấn đề chính trị xã hội nhưng lại được nhà
văn nhìn dưới góc nhìn của đạo đức và đạo lí hết sức nhuần nhuyễn và thành công.
Màng lọc tuyệt vời ấy chính là huyền thoại của cổ tích dân gian mà nhà văn thể hiện
trong tác phẩm.

25


×