-i-
LỜI CẢM ƠN
Khóa luận tốt nghiệp là một học phần trong chương trình đào tạo Cử nhân Y tế
công cộng của Trường Đại học Y tế công cộng. Trong suốt quá trình thực hiện khóa
luận tốt nghiệp tôi đã nhận được sự chỉ bảo, hướng dẫn tận tình của thầy cô giáo cùng
với sự chia sẻ, bảo ban giúp đỡ từ gia đình và bạn bè.
Tôi xin gửi lời cám ơn sâu sắc đến Viện Y học lao động và Vệ sinh môi trường,
Trung tâm Thông tin Thư viện - Trường Đại học Y tế công cộng đã tạo điều kiện tốt
nhất cho tôi trong quá trình tìm kiếm và thu thập tài liệu liên quan tới luận văn tốt
nghiệp.
Đặc biệt, để đạt được kết quả như hôm nay, tôi xin chân thành cám ơn và bày tỏ
lòng kính trọng sâu sắc tới ThS. Trần Thị Thu Thủy đã giúp đỡ tôi tìm kiếm tài liệu,
hướng dẫn nhiệt tình, dành nhiều thời gian trao đổi, định hướng, đóng góp quý báu
cho bài tổng quan của tôi cũng như động viên, khích lệ tôi trong suốt thời gian thực
hiện luận văn tốt nghiệp.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, những người bạn thân
thiết đã giúp đỡ tôi, chia sẻ cùng tôi những khó khăn trong suốt quá trình học tập và
thực hiện khóa luận của tôi, cũng như dành cho tôi những tình cảm, sự chăm sóc quý
giá nhất.
Sinh viên
Vũ Thị Huyền Trang
- ii -
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.......................................................................................... iv
TÓM TẮT TỔNG QUAN ............................................................................................... v
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ.................................................................................................. 1
PHẦN 2: MỤC TIÊU....................................................................................................... 3
PHẦN 3: PHƯƠNG PHÁP THU THẬP THÔNG TIN .................................................. 4
3.1.
Tiêu chuẩn lựa chọn tài liệu ............................................................................ 4
3.2.
Các từ khóa (key words) đã dùng để tìm tài liệu ............................................ 4
3.3.
Nguồn thu thập các tài liệu tham khảo ............................................................ 5
3.4.
Phương pháp thu thập số liệu .......................................................................... 5
3.5.
Phương pháp tổng hợp thông tin và quản lý số liệu........................................ 5
3.6.
Thông số về tài liệu ......................................................................................... 6
PHẦN 4: KẾT QUẢ ........................................................................................................ 7
4.1.
Một số thuật ngữ ............................................................................................. 7
4.1.1.
Bệnh viêm gan virus ................................................................................. 7
4.1.2.
Bệnh VGB ................................................................................................. 7
4.1.3.
Bệnh nghề nghiệp ..................................................................................... 7
4.1.4.
Bệnh viêm gan virus nghề nghiệp............................................................. 8
4.1.5.
Nhân viên y tế ........................................................................................... 9
4.2.
Thực trạng lây nhiễm bệnh VGB nghề nghiệp ở NVYT .............................. 12
4.2.1.
Đường lây truyền VGB nghề nghiệp và các yếu tố ảnh hưởng .............. 13
4.2.2.
Đối tượng NVYT có nguy cơ cao mắc VGB nghề nghiệp....................... 18
4.3.
Tác động của bệnh VGB nghề nghiệp đến NVYT ....................................... 23
4.3.1.
Tác động về sức khỏe ............................................................................. 23
4.3.2.
Tử vong và gánh nặng bệnh tật .............................................................. 23
4.3.3.
Tác động về kinh tế ................................................................................. 24
4.3.4.
Tác động tới xã hội ................................................................................. 24
- iii -
4.4.
Một số biện pháp phòng ngừa bệnh VGB ..................................................... 25
4.4.1.
Phòng ngừa chuẩn .................................................................................. 25
4.4.2.
Phòng ngừa bổ sung ............................................................................... 27
PHẦN 5: KẾT LUẬN .................................................................................................... 31
5.1.
Thực trạng lây nhiễm VGB trong NVYT ..................................................... 31
5.2.
Ảnh hưởng của VGB tới NVYT ................................................................... 31
5.3.
Các biện pháp phòng chống lây nhiễm VGB trong NVYT .......................... 31
5.4.
Kết luận về hạn chế của các nghiên cứu, tài liệu sử dụng ............................ 31
PHẦN 6: KHUYẾN NGHỊ ............................................................................................ 33
6.1.
Cần có các nghiên cứu trên phạm vi rộng đối với VGB trong NVYT ......... 33
6.2.
Tăng cường các biện pháp quản lý thực hiện các quy định về phòng chống
nhiễm khuẩn trong NVYT. ........................................................................................ 33
6.3.
Tiếp tục áp dụng rộng rãi các giải pháp làm giảm nguy cơ lây nhiễm VGB ở
NVYT. 33
PHỤ LỤC ....................................................................................................................... 44
Phụ lục 1: Quyết định 915/LĐTBXH-QĐ ................................................................. 44
Phụ lục 2: Quyết định số 1152/2003/QĐ-BLĐTBXH .............................................. 46
Phụ lục 3: Thông tư số 18/2009/TT-BYT ................................................................. 48
- iv -
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CDC
Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ (Centers for Disease
Control and Prevention)
CSYT
Cơ sở y tế
HBV
Virus gây bệnh VGB (Hepatitis B virus)
HCV
Virus gây bệnh viêm gan C (Hepatitis C virus)
HIV
Virus gây suy giảm miễn dịch ở người (Human Immunodefficiency virus)
HPA
Tổ chức Bảo vệ sức khỏe Hoa Kỳ (Health Protection Agency)
ILO
Tổ chức Lao động Quốc tế ( International Labour Organization)
NVYT
Nhân viên y tế
USPHS
Dịch vụ Y tế công cộng Mỹ (U.S Public Health Service)
VGB
VGB
VSN
Vật sắc nhọn
WHO
Tổ chức Y tế thế giới (World Health Organization)
- v-
TÓM TẮT TỔNG QUAN
Viêm gan B (VGB) nghề nghiệp là một trong những bệnh lây truyền qua đường
máu dịch phổ biến trong ngành y tế. Nhân viên y tế (NVYT) là những đối tượng có
nguy cơ cao do đặc thù nghề nghiệp bắt buộc họ phải tiếp xúc với máu dịch nhiễm
mầm bệnh.
Tổng quan sử dụng 97 tài liệu tham khảo về NVYT, nguy cơ lây nhiễm VGB,
đường lây truyền, các ảnh hưởng của VGB và các yếu tố liên quan. Tài liệu được sử
dụng là các bài báo, tạp chí chuyên ngành, các báo cáo của các tổ chức, các văn bản
pháp luật.
Kết quả cho thấy tỷ lệ VGB trong NVYT là 5,9%, cao hơn tỷ lệ ở các nước phát
triển. Y tá/ điều dưỡng là đối tượng có nguy cơ cao nhất trong nhóm NVYT. Một số
yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc VGB gồm thâm niên nghề nghiệp, nhận thức của
NVYT về các yếu tố nguy cơ, sự miễn dịch của họ và bệnh nhân.
Nhiều giải pháp hiệu quả được áp dụng trên thế giới và Việt Nam như dự phòng
trước phơi nhiễm (tiêm vaccine miễn dịch, cung cấp kiến thức) dự phòng trong phơi
nhiễm (trang bị bảo hộ lao động), và dự phòng sau phơi nhiễm (xử lý vết thương, ghi
nhận trường hợp bệnh nghề nghiệp).
Tại Việt Nam, cần có nhiều nghiên cứu về VGB trong NVYT trên phạm vi rộng;
tăng cường các biện pháp quản lý thực hiện các quy định về phòng chống nhiễm khuẩn
trong NVYT; đẩy mạnh thực hiện các biện pháp làm giảm nguy cơ phơi nhiễm với
VGB trong NVYT.
-1-
PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngành y tế là một ngành lao động đặc thù với nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe nhân
dân. NVYT là lực lượng tham gia vào các hoạt động bảo vệ và cải thiện sức khỏe cộng
đồng. Họ trực tiếp chữa trị cho bệnh nhân và tham gia xử lý các vụ dịch bệnh [11]. Điều
đó cũng có nghĩa NVYT phơi nhiễm với rất nhiều các yếu tố nguy cơ có hại khác nhau.
Các yếu tố nguy cơ thường gặp bao gồm: các hóa chất tiệt trùng, tiếng ồn, bức xạ ion hóa,
chất thải y tế, tâm sinh lý và ecgonomy và đặc biệt là các tác nhân sinh học gây bệnh lây
truyền qua đường máu. Nhiều nghiên cứu cho thấy các bệnh lây truyền qua đường máu,
trong đó có VGB đóng vai trò quan trọng trong mô hình bệnh nhiễm khuẩn nghề nghiệp ở
NVYT, thể hiện qua tỷ lệ mắc, tính trầm trọng và hậu quả của bệnh đến sức khỏe và đời
sống kinh tế xã hội [14].
VGB là một bệnh nguy hiểm ở người do virus HBV gây ra và là vấn đề nổi cộm
trong ngành y tế. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), trong 3 triệu NVYT
tiếp xúc với các tác nhân gây bệnh qua đường máu thì 2 triệu người tiếp xúc với virus
VGB. Hàng năm, tỷ lệ phơi nhiễm với VGB trong NVYT là 5,9%, tương ứng với khoảng
66.000 trường hợp nhiễm trên toàn thế giới [69]. Bệnh VGB nghề nghiệp lây nhiễm ở
NVYT qua các tổn thương xuyên da do bơm kim tiêm và văng bắn máu dịch qua các vết
thương hở. Nguy cơ bị nhiễm HBV ở NVYT sau các tổn thương xuyên da ước tính
khoảng từ 30,0% đến 40,0%. Các đối tượng có nguy cơ cao bao gồm bác sỹ, nha sỹ, nhân
viên vệ sinh và nhất là y tá/ điều dưỡng. Tỷ lệ hiện mắc VGB tăng lên 30,0% đối với
những người có thâm niên công tác từ 20 năm trở lên [14].
Năm 1925, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã đưa ra danh sách Bệnh nghề nghiệp
trong đó có viêm gan virus ở NVYT [71]. Nhưng tại Việt Nam, đến năm 1992, viêm gan
virus mới được quy định là bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm theo thông tư Liên bộ số
29/TT-LB của Bộ Y tế- Bộ Lao động thương binh và xã hội và Tổng liên đoàn Lao động
Việt Nam [6]. Tính đến năm 2008, 10/51 tỉnh thành phố có thông tin quản lý VGB nghề
-2-
nghiệp trong NVYT, trong đó có 7/10 tỉnh có báo cáo giám định VGB nghề nghiệp cho
NVYT với tổng số 94 trường hợp. Tỷ lệ mắc VGB nghề nghiệp trên tổng số được khám
phát hiện là 22,7%, trong đó có 80,9% NVYT mắc VGB nghề nghiệp được bảo hiểm
[13]. Các ảnh hưởng về sức khỏe của bệnh bao gồm các tổn thương ở gan như xơ gan,
ung thư gan. Ngoài ra, chi phí chăm sóc sức khỏe, chi phí cho vaccine VGB, mất khả
năng lao động cũng là ảnh hưởng đáng quan tâm của VGB nghề nghiệp đến NVYT.
Với thực trạng và những ảnh hưởng nghiêm trọng đó, WHO và ILO hợp tác cùng
Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ (CDC) đã có những biện pháp dự
phòng bệnh VGB nghề nghiệp. Quy định Phòng ngừa chuẩn được ban hành và các
chương trình phòng ngừa tác hại do vật sắc nhọn (VSN) cũng được thực hiện ở nhiều
quốc gia góp phần làm giảm nguy cơ lây nhiễm HBV trong NVYT [83]. Năm 1982,
vaccine đầu tiên phòng VGB được đưa vào sử dụng [35]. Đến năm 2002, vaccine phòng
VGB được đưa vào chương trình tiêm chủng mở rộng cho trẻ em, áp dụng trên tất cả các
tỉnh thành của Việt Nam [14]. Tuy nhiên, chỉ có 3,7% cơ sở điều trị thực hiện tiêm phòng
và uống vaccine miễn dịch phòng các bệnh (trong đó có VGB) cho NVYT [15]. Hơn nữa
không phải tất cả đối tượng NVYT được tiêm phòng vaccine đều có đáp ứng miễn dịch và
với tỷ lệ NVYT phơi nhiễm do VSN ở mức cao thì họ vẫn có nguy cơ nhiễm HBV [84].
Như vậy, mặc dù các nỗ lực trong phòng ngừa đã được triển khai, bệnh viêm gan
virus nói chung và VGB nói riêng ở NVYT vẫn là vấn đề cần được quan tâm. Do đó, tổng
quan tài liệu về bệnh VGB nghề nghiệp trong NVYT là rất cần thiết. Tổng quan nhằm mô
tả nguy cơ phơi nhiễm với VGB ở NVYT cùng một số biện pháp phòng chống lây nhiễm
bệnh giúp cải thiện công tác phòng ngừa và tiến tới mục tiêu thanh toán bệnh VGB nghề
nghiệp trong NVYT.
-3-
PHẦN 2
MỤC TIÊU
2.1.
Mô tả thực trạng lây nhiễm bệnh VGB nghề nghiệp trong nhân viên y tế.
2.2.
Mô tả tác động của bệnh VGB nghề nghiệp đối với nhân viên y tế.
2.3.
Trình bày một số biện pháp phòng chống lây nhiễm VGB nghề nghiệp ở
nhân viên y tế.
2.4.
Khuyến nghị cho các nghiên cứu và chương trình can thiệp phòng chống
VGB ở nhân viên y tế.
-4-
PHẦN 3
PHƯƠNG PHÁP THU THẬP THÔNG TIN
3.1.
Tiêu chuẩn lựa chọn tài liệu
Các tài liệu tham khảo đạt những tiêu chuẩn sau được đưa vào sử dụng trong báo
cáo tổng quan:
Tài liệu viết bằng tiếng Việt hoặc tiếng Anh.
Các tài liệu có nội dung đề cập đến bệnh viêm gan virus, VGB nghề nghiệp:
định nghĩa về bệnh, các yếu tố nguy cơ của bệnh, đường lây truyền, tình hình diễn biến
của bệnh, các biện pháp phòng chống bệnh, các yếu tố ảnh hưởng.
Các tài liệu có nội dung về NVYT: định nghĩa, đặc thù nghề nghiệp, các yếu tố:
hành vi nguy cơ, điều kiện làm việc có nguy cơ cao phơi nhiễm với HBV.
Các báo cáo, luận văn được xuất bản, công bố từ những viện khoa học như Viện
Y học lao động và Vệ sinh môi trường, Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, các trường đại
học, các tổ chức trên thế giới như: Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Tổ chức Y tế thế
giới (WHO), Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ (CDC).
Các bài báo khoa học chuyên ngành được lấy từ các tạp chí chuyên ngành và tác
giả là các nhà khoa học tại Việt Nam và trên thế giới.
Không giới hạn thời điểm xuất bản của sách chuyên ngành được sử dụng trong
báo cáo. Các tài liệu khác ưu tiên có thời gian cập nhật, công bố từ năm 2003 đến nay.
3.2.
Các từ khóa (key words) đã dùng để tìm tài liệu
Tiếng Anh: Occupational Hepatitics B; Occupational Hepatitics B in health
care worker, occupational hepatitics B in hospital, transmission of blood-borne diseases;
blood-borne diseases, risk of infected HBV, sharp injury in health care workers, splash
injuries, occupational exposure to blood and body fluids.
Tiếng Việt: Bệnh viêm gan virus nghề nghiệp, bệnh VGB trong NVYT, VGB
nghề nghiệp tại bệnh viện, lây truyền qua đường máu dịch, nguy cơ phơi nhiễm HBV, tổn
thương xuyên da, văng bắn máu dịch, phơi nhiễm với máu dịch trong NVYT.
-5-
3.3.
Nguồn thu thập các tài liệu tham khảo
Hệ thống HINARI/PUBMED, SCIENCE DIRECT.
Website của các tổ chức như: WHO, ILO, CDC, HPA.
Trung tâm thư viện trường Đại học Y Tế Công Cộng, Đại học Y Hà Nội; trung
tâm thư viện Quốc gia, trung tâm thư viện của Viện Y học lao động và Vệ sinh môi
trường.
3.4.
Phương pháp thu thập số liệu
Xác định mục tiêu nghiên cứu.
Lập dàn ý chi tiết.
Xác định từ khóa tìm kiếm tài liệu.
Lập bản đồ thu thập tài liệu bao gồm những địa chỉ có các tài liệu liên quan tới
đề tài bao gồm danh sách các viện nghiên cứu, các trường đại học, trung tâm thư viện, cần
liên hệ để tiến hành bố trí thời gian, xin giấy giới thiệu và tìm tài liệu.
Sử dụng hệ thống internet truy cập vào các website trong tiêu chuẩn chấp nhận
tài liệu để tìm tài liệu. Một số website đã sử dụng là HINARI/PUBMED, WHO, ILO,
HPA, CDC.
Đọc khái quát những vấn đề cần quan tâm trong các nghiên cứu thông qua các
tóm tắt nghiên cứu (Abstract).
Tìm các thông tin nghiên cứu, báo cáo khoa học liên quan đến vấn đề VGB nghề
nghiệp ở các thư viện của Trường Đại học Y tế công cộng Viện Y học lao động và vệ sinh
môi trường… bằng hình thức liên hệ trực tiếp thông qua giấy giới thiệu của trường, thẻ
sinh viên.
3.5.
Phương pháp tổng hợp thông tin và quản lý số liệu
Thông tin bản điện tử: sẽ được lưu lại trong máy tính cá nhân và được chia làm
hai nhóm lớn là tài liệu tiếng Việt và tiếng Anh. Sau đó, các thông tin được chia theo mục
-6-
tiêu. Một số bản bao gồm nhiều thông tin kết hợp sẽ được lưu riêng để sử dụng được triệt
để thông tin. Mỗi bản được lưu tên file gồm tên tác giả, năm, vấn đề đề cập.
Đối với các tài liệu tham khảo là sách, luận án, báo cáo thì sưu tầm và photo lại,
ghi đầy đủ thông tin sau: Tên tác giả hoặc cơ quan ban hành, năm xuất bản, tên sách, luận
văn, báo cáo, nhà xuất bản, nơi xuất bản.
Đối với tài liệu tham khảo là bài báo trong tạp chí, trong một cuốn sách sưu tầm
và photo lại, cần ghi những thông tin sau: Tên tác giả, năm công bố, tên báo cáo, tên tạp
chí, tập (số) và số các trang sử dụng.
3.6.
Thông số về tài liệu
Tổng số tài liệu đã được sử dụng là: 97, trong đó:
21 tài liệu Tiếng Việt, 76 tài liệu Tiếng Anh.
82 tài liệu trong vòng 10 năm trở lại đây và 15 tài liệu 10 năm trở về trước.
07 tài liệu là văn bản pháp luật.
06 tài liệu là sách, 40 tài liệu là báo, tạp chí.
-7-
PHẦN 4
KẾT QUẢ
4.1. Một số thuật ngữ
4.1.1. Bệnh viêm gan virus
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa: “Bệnh viêm gan virus (Viral Hepatitis) là
một viêm nhiễm ở gan gây ra bởi một trong 5 loại virus có tên là A, B, C, D và E” [97].
Tại Việt Nam, trong sách Bệnh học (2010), Bộ Y tế nêu ra định nghĩa: “Viêm gan do
virus (Viral Hepatitis) là bệnh truyền nhiễm do nhiều loại virus gây ra với hai biểu hiện
chính là viêm nhiễm lan tỏa và hoại tử tế bào gan” [8]. Nhìn chung, hai khái niệm này
không khác nhau. Định nghĩa Việt Nam cụ thể hơn khi đưa ra hai biểu hiện chính của
bệnh là viêm nhiễm lan tỏa và hoại tử tế bào gan.
4.1.2. Bệnh VGB
Theo Trung tâm Phòng ngừa và Kiểm soát Hoa Kỳ (CDC):“Bệnh VGB là viêm
nhiễm ở gan do virus VGB (HBV) gây nên” [44]. Khái niệm về bệnh VGB tại Việt Nam
cũng có sự tương đồng. Nhiều tài liệu y học cũng chỉ ra bệnh VGB là bệnh viêm gan gây
ra bởi virus VGB [12]. Bài viết này cũng sử dụng định nghĩa tương tự.
Sự có mặt của kháng nguyên bề mặt VGB (HBsAg) trong huyết thanh của một
người nghĩa là người đó có HBV và có khả năng truyền bệnh cho người khác [14]. Tuy
nhiên nếu chỉ xét nghiệm thấy HBsAg trong huyết thanh thì chưa đủ căn cứ xác định chắc
chắn giai đoạn nhiễm HBV. Nồng độ HBsAg thay đổi theo từng giai đoạn nhiễm bệnh.
Bệnh nhân dương tính với HBsAg có thể đang ở giai đoạn VGB cấp tính, chưa có triệu
chứng lâm sàng, hoặc cũng có thế đã hồi phục sau nhiễm khuẩn HBV cấp tính [14]. Khi
bệnh nhân có kết quả dương tính với HBsAg và dương tính với kháng nguyên nội sinh
(HBeAg) nghĩa là bệnh nhân có nguy cơ lây nhiễm HBV cao [14], [94].
4.1.3. Bệnh nghề nghiệp
Thông tư liên bộ số 08/TTLB ngày 19/05/1976 của Bộ Y tế, Bộ Lao động Thương
binh Xã hội định nghĩa: “Bệnh nghề nghiệp là bệnh đặc trưng của một số nghề do yếu tố
-8-
độc hại trong nghề đó tác động thường xuyên, từ từ vào cơ thể người lao động mà gây
nên bệnh. Những trường hợp nhiễm độc cấp tính, bán cấp tính do hơi độc, hóa chất độc
gây nên tại nơi làm việc thì coi như tai nạn lao động” [5]. Theo định nghĩa này, bệnh
nghề nghiệp phải là bệnh mãn tính diễn biến trong thời gian dài và tiếp xúc với yếu tố tác
hại nghề nghiệp cũng phải trong thời gian dài [18].
Tuy nhiên, trên thế giới, bệnh nghề nghiệp hay các thương tổn liên quan đến nghề
nghiệp được quy định là những rối loạn về thể chất và tinh thần gây ra bởi các hoạt động
ở nơi làm việc [55]. Theo đó, bệnh nghề nghiệp có thể là mãn tính hoặc đang ở giai đoạn
cấp tính phát triển thành mãn tính. Thực tế cũng cho thấy nhiều bệnh nghề nghiệp khó
phân biệt giữa cấp tính và mãn tính theo diễn biến bệnh [18]. Vì thế thông tư liên bộ
08/1998/TTLB-BYT-BLĐTBXH ngày 20/04/1998 của Bộ Y tế, Bộ Lao động Thương
binh xã hội đã chỉnh sửa và định nghĩa: “Bệnh nghề nghiệp là bệnh phát sinh do điều kiện
lao động có hại của nghề nghiệp” [7]. Bệnh tác động lên cơ thể người lao động ở nơi làm
việc sau một thời gian lao động nghề nghiệp tương đối dài.
Khái niệm bệnh nghề nghiệp theo thông tư 08/TTLB ngày 20/04/1998 được công
nhận và sử dụng trong Chương 9 Bộ Luật lao động của nước Việt Nam cùng nhiều tài liệu
về bệnh nghề nghiệp và an toàn lao động. Bài viết cũng dựa trên định nghĩa này.
4.1.4. Bệnh viêm gan virus nghề nghiệp
Năm 1925, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã đưa ra danh sách Bệnh nghề nghiệp
trong đó có viêm gan virus ở NVYT [71]. Tại Việt Nam, viêm gan virus được quy định là
bệnh nghề nghiệp thuộc nhóm Các bệnh nhiễm khuẩn nghề nghiệp theo thông tư Liên bộ
số 29/TT-LB ngày 25/12/1992 về Bổ sung một số bệnh nghề nghiệp của Bộ Y tế- Bộ Lao
động thương binh và xã hội và Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam [6].
Tại Việt Nam, các bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm là các bệnh được Nhà nước
công nhận. Những bệnh nghề nghiệp nằm trong danh mục các bệnh nghề nghiệp được bảo
hiểm của nhà nước mới có chế độ đền bù [18]. Người lao động mắc VGB nghề nghiệp khi
bị giảm khả năng lao động từ 5% trở lên hoặc bị chết thì được nhận chế độ bồi thường
-9-
[3]. Chẩn đoán xác định bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm phải theo tiêu chuẩn do Bộ Y tế
ban hành và phải thông qua Hội đồng Giám định Y khoa về bệnh nghề nghiệp cấp tỉnh,
thành phố hoặc Trung Ương [7].
4.1.5. Nhân viên y tế
a.
Khái niệm NVYT
Năm 1987, Trung tâm Phòng ngừa và Kiểm soát Hoa Kỳ (CDC) định nghĩa: “NVYT
bao gồm sinh viên và những người chữa trị, tiếp xúc trực tiếp với người bệnh hoặc máu
dịch cơ thể bệnh nhân trong hệ thống chăm sóc sức khỏe” [46]. Đến năm 2001, Dịch vụ
Y tế công cộng Mỹ (USPHS) đưa ra khái niệm “NVYT là những người tiếp xúc máu hay
dịch cơ thể của bệnh nhân trong các cơ sở y tế (CSYT) hay phòng xét nghiệm” [93]. Theo
hai định nghĩa này, NVYT bao gồm các cán bộ y tế trực tiếp làm công tác khám chữa
bệnh tại các CSYT và kỹ thuật viên xét nghiệm. Khái niệm NVYT của CDC và USPHS
có thể coi là hạn chế khi chỉ đề cập đến nhóm trực tiếp cung cấp dịch vụ y tế, khám chữa
bệnh, không đề cập đến đội ngũ y tế dự phòng, y tế công cộng hay cán bộ quản lý.
Năm 2006, WHO chính thức đưa ra định nghĩa: “NVYT là tất cả những người tham
gia vào các hoạt động bảo vệ và cải thiện sức khỏe cộng đồng” [95]. Định nghĩa này phù
hợp với định nghĩa của WHO về hệ thống y tế với mục tiêu chính là cải thiện sức khỏe.
Theo định nghĩa này NVYT không chỉ bao gồm những là những người cung cấp dịch vụ
y tế, người làm công tác quản lý mà còn là nhân viên giúp việc không trực tiếp cung cấp
các dịch vụ y tế. Họ bao gồm CBYT chính thức và cả CBYT không chính thức (như tình
nguyện viên xã hội, lang y...); kể cả những người làm việc trong ngành y tế và trong
ngành khác (trường học, quân đội hay doanh nghiệp) [19].
Tại Việt Nam, khái niệm NVYT được sử dụng tuân theo định nghĩa của WHO. Năm
2010, tài liệu của Nguyễn Bích Diệp đưa ra: “NVYT là các cán bộ, nhân viên làm việc
trong các CSYT” [11]. Cũng theo định nghĩa đó, tại Việt Nam, NVYT bao gồm các cán
bộ y tế thuộc biên chế và hợp đồng, làm việc trong hệ thống công lập và tư nhân, các cơ
sở đào tạo và nghiên cứu khoa học y/dược và tất cả những người khác đang tham gia vào
- 10 -
các hoạt động quản lý và cung ứng dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân (cộng tác viên y
tế, lang y, bà đỡ/ mụ vườn) [19]. Bài tổng quan đề cập tới tất cả NVYT theo định nghĩa
này.
b.
Phân loại NVYT
NVYT bao gồm những người cấp cứu y tế, nha sĩ, nhân viên xét nghiệm, khám
nghiệm tử thi, y tá, điều dưỡng, bác sĩ, kỹ thuật viên, chuyên viên trị liệu, dược sĩ, sinh
viên trường y, nhân viên hợp đồng không trực tiếp tham gia chữa trị (văn thư, nhân viên
tình nguyện)…[34].
Theo WHO, NVYT được chia thành 2 nhóm chính là: nhóm cung cấp dịch vụ và
nhóm quản lý và hỗ trợ y tế. Nhóm cung cấp dịch vụ bao gồm: nhân viên trực tiếp (bác sĩ
lâm sàng, y tá/ điều dưỡng, kỹ thuật viên, hộ lý…), và nhân viên không trực tiếp (cộng tác
viên, lang y, bà mụ vườn, tình nguyện viên…). Nhóm quản lý và hỗ trợ y tế gồm các nhà
quản lý, nhân viên hỗ trợ (kế toán, y công...) [95]. Trong đó, nhóm nhân viên y tế cung
cấp dịch vụ chiếm 2/3 tổng NVYT toàn cầu [69].
Ngoài ra, NVYT có thể được phân loại theo mức độ tiếp xúc với máu dịch của bệnh
nhân. Theo cách phân loại này, NVYT gồm 3 nhóm theo nguy cơ từ cao xuống thấp.
Nhóm thứ nhất thường thực hiện những thủ thuật như bác sỹ phẫu thuật, bác sĩ sản khoa,
nha sĩ. Nhóm thứ hai gồm bác sĩ điều trị, y tá/điều dưỡng, hộ lý thực hiện các chẩn đoán
lâm sàng. Nhóm thứ ba có nguy cơ thấp hơn là dược sĩ, cộng tác viên y tế [40], [52].
Cách phân loại này thường được dùng khi viết về các tác nhân lây truyền qua đường
máu ở NVYT và được sử dụng trong bài viết.
c. Mô tả đặc thù nghề nghiệp của NVYT
Đặc điểm cơ bản của ngành y tế là trong mọi hoàn cảnh bệnh nhân đều phải được
chăm sóc [52]. Công việc của NVYT, đặc biệt là những người cung cấp dịch vụ là tiếp
xúc trực tiếp với bệnh nhân, chữa trị, tham gia xử lý các vụ dịch bệnh [11]. Công việc này
đòi hỏi trách nhiệm cao trước sinh mạng người bệnh và chịu sức ép tâm lý từ người nhà
bệnh nhân và dư luận xã hội.
- 11 -
Do tính chất công việc, NVYT thường xuyên phải tiếp xúc với nhiều yếu tố nguy cơ
nghề nghiệp [52]. Các yếu tố nguy cơ nghề nghiệp có thể chia thành 4 nhóm gồm: yếu tố
vật lý (tia X, sóng siêu âm..), các yếu tố hóa học (các loại dung môi, thuốc…), các yếu tố
tâm sinh lý lao động (áp lực làm việc cao, tư thế làm việc) và các yếu tố sinh học (vi sinh
vật, vi khuẩn đường ruột…) [11]. Nghiên cứu của Bahadori và Sadigh (2003) chỉ ra
NVYT có nguy cơ phơi nhiễm với hơn 60 loại tác nhân vi sinh gây bệnh khác nhau bao
gồm 26 loại virus, 18 loại vi khuẩn, 13 loại ký sinh trùng và 3 loại nấm men do tiếp xúc
với máu và dịch cơ thể từ bệnh nhân [34]. NVYT mắc bệnh từ nhiều nguồn khác nhau ở
cơ sở làm việc như bệnh nhân, các thiết bị, các mẫu bệnh phẩm, các mô người và động
vật thí nghiệm, các chế phẩm sinh học động vật [11]. Con đường lây nhiễm chủ yếu thông
qua đường hít thở, đường máu, đường phân miệng và tiếp xúc trực tiếp [11], [70].
Tùy vào các công việc, vị trí khoa phòng làm việc mà NVYT có nguy cơ với các tác
nhân khác nhau và ở mức độ khác nhau. Nhóm NVYT tiếp xúc với bệnh nhân hoặc
máu/chế phẩm của máu, dịch tiết bị nhiễm mầm bệnh là các nha sỹ, điều dưỡng, bác sĩ
điều trị làm việc tại bệnh viện, CSYT, các nhà xác. Họ nguy cơ cao mắc nhiễm khuẩn
nghề nghiệp do các tác nhân lây truyền qua đường máu, dịch cơ thể, không khí, hạt lơ
lửng. Nhóm thường xuyên tiếp xúc với động vật sống bị nhiễm bệnh như nhân viên tại
các phòng thí nghiệm, các viện nghiên cứu có nguy cơ cao hít phải không khí có chứa
mầm bệnh. Nhóm NVYT làm việc thường xuyên tiếp xúc với chất thải y tế (VSN, phân,
đờm, nước tiểu…) như nhân viên thu gom rác, y công dễ mắc các bệnh lây truyền qua
đường máu dịch [11].
Theo quyết định 915/QĐ-LĐTBXH ngày 30/07/1996 về việc xếp hạng các điều kiện
lao động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và đặc biệt nặng nhọc độc hại nguy hiểm từ loại I
đến loại VI thì ngành y tế có 02 danh mục điều kiện loại VI, 10 danh mục điều kiện loại V
và 26 danh mục điều kiện loại IV [1] (xem phụ lục 1- trang 42). Ngày 18/09/2003, quyết
định số 1152/2003/QĐ-BLĐTBXH bổ sung thêm 04 nghề loại V và 05 nghề loại IV, nâng
tổng số nghề độc hại nguy hiểm của ngành y tế lên 47 [3]. (xem phục lục 2- trang 46)
- 12 -
4.2. Thực trạng lây nhiễm bệnh VGB nghề nghiệp ở NVYT
VGB nghề nghiệp ở NVYT là một nhiễm khuẩn nghề nghiệp. Vào những năm 1960,
trường hợp mắc VGB xuất hiện ở những người thực hiện công việc phơi nhiễm với máu
của cùng một bệnh nhân và đây là lần đầu tiên, nhiễm HBV được đánh giá là nguy cơ đối
với NVYT [14]. Các nghiên cứu về bệnh nghề nghiệp của NVYT chỉ ra các bệnh lây
truyền qua đường máu, trong đó VGB đóng vai trò quan trọng trong mô hình bệnh truyền
nhiễm nghề nghiệp của NVYT thể hiện ở nguy cơ lây nhiễm, tỷ lệ mắc, tính trầm trọng và
hậu quả của bệnh đến sức khỏe và đời sống xã hội [11].
Tỷ lệ phơi nhiễm với VGB trong NVYT hàng năm là 5,9%, tương ứng với khoảng
66.000 trường hợp nhiễm trên toàn thế giới. Ở các nước đang phát triển, 40,0%-65,0%
trường hợp nhiễm VGB ở NVYT gây ra bởi phơi nhiễm nghề nghiệp, trong khi con số
này ở các nước phát triển là 10% nhờ hiệu quả của việc tiêm chủng [32], [69]. Nghiên cứu
trên 595 y tá tại vùng Tây Bắc Thổ Nhĩ Kỳ trong năm 2002 – 2003 cho thấy tỷ lệ nhiễm
HBV là 18,7%. Một số các nghiên cứu khác tại đây cũng chỉ ra tỷ lệ nhiễm HBV trong y
tá/ điều dưỡng là 16-20% [33]. Tại Đài Loan, 16% NVYT nhiễm HBV [41]. Tại Việt
Nam, tính đến năm 2008, tỷ lệ mắc VGB nghề nghiệp trên tổng số được khám phát hiện
là 22,7%, trong đó có 80,9% NVYT mắc VGB nghề nghiệp được bảo hiểm [13]. Trong
một số nghiên cứu tại các CSYT, tỷ lệ nhiễm VGB do tai nạn thương tích ở NVYT dao
động từ 31,16% [20] đến 39,0% [9].
Xét nghiệm HBsAg (+) trong huyết thanh của một người nghĩa là người đó có HBV
và có khả năng truyền bệnh cho người khác [14]. Các nghiên cứu đã chỉ ra tỷ lệ NVYT
mang HBsAg (+). Nghiên cứu trên 311 NVYT tại 98 CSYT ở Uganda (2009) cho thấy có
9,0% có HBsAg (+) [40]. Tỷ lệ này trong NVYT Ấn Độ là 5,0%, nhưng cao gấp nhiều lần
ở nhóm nhân viên phòng thí nghiệm (40,0%) [33]. Tại Việt Nam, năm 1997, Viên Chinh
Chiến tiến hành nghiên cứu 694 NVYT tại 9 bệnh viện miền Trung Việt Nam. Kết quả
cho thấy tỷ lệ mang HBsAg (+) ở NVYT là 17,6%, cao hơn quần thể dân cư đối chứng
[10]. Nghiên cứu của Khúc Xuyền và cộng sự (1999) trên 474 NVYT ở các khoa dễ
- 13 -
nhiễm tại 12 bệnh viện đa khoa, cũng cho kết quả tương tự với tỷ lệ có HBsAg (+) là
13,1% [21]. Kết quả này là 6,0% ở 282 NVYT tại bệnh viện Nhân dân Gia Định năm
2009 [9].
Nguy cơ lây nhiễm HBV cao gấp 50-100 lần so với nguy cơ lây nhiễm HIV [77].
Ước tính nguy cơ bị nhiễm HBV sau các tổn thương xuyên da ở NVYT là từ 30,0% đến
40,0%, trong khi tỷ lệ lây nhiễm HCV và HIV chỉ 3,0% và 0,2% - 0,5% [77], [80]. Trên
toàn thế giới, cứ hơn 100 NVYT nhiễm HIV từ các tổn thương xuyên da thì có hàng
nghìn người mắc HBV [49]. Số trường hợp tai nạn nghề nghiệp bị nhiễm VGB chiếm
39,0% số tai nạn nghề nghiệp trong NVYT, cao hơn số tai nạn nghề nghiệp nhiễm HCV
(37%) [69].
4.2.1.
Đường lây truyền VGB nghề nghiệp và các yếu tố ảnh hưởng
Virus VGB không truyền qua không khí, thức ăn, nước uống, sữa mẹ và tiếp xúc
bình thường mà truyền qua đường máu. HBV thường tập trung trong mạch máu (số lượng
lên đến 10 tỷ virus/ml máu), và tập trung trong tinh dịch (giảm 10-100 lần so với đường
máu) [14]. HBV truyền chủ yếu qua các con đường: lây truyền qua đường tình dục, từ mẹ
sang con và đường máu.
Phơi nhiễm với VGB nghề nghiệp trong NVYT là hậu quả của vết thương xuyên da
(do kim tiêm hoặc VSN khác), thông qua niêm mạc (văng bắn máu dịch vào mắt, mũi,
miệng) hoặc trực tiếp qua đường máu ở các vết thương hở [62], [70]. Lây truyền HBV có
thể xảy ra thông qua vùng da, niêm mạc còn nguyên vẹn hoặc không [70]. Nhiễm trùng
xảy ra khi máu dịch văng bắn vào vết thương hở trên da hoặc văng bắn vào miệng và mắt,
mũi.
a. Lây nhiễm VGB nghề nghiệp qua đường máu do tổn thương VSN
Nhiều nghiên cứu đã chứng tỏ rằng tổn thương do kim tiêm và VSN là một trong
những tai nạn lao động phổ biến nhất trong NVYT do nhịp độ làm việc khẩn trương căng
thẳng [69]. Số trường hợp tổn thương do bơm kim tiêm và tổn thương xuyên da do VSN
được báo cáo hàng năm ở NVYT tại Đức, Mỹ và Anh lần lượt là: 500.000, 100.000 và
- 14 -
600.000-800.000 trường hợp [81]. Nghiên cứu của Getahun Kebede, Mesanfit (2012) tiến
hành trên 344 NVYT tại thành phố Gondar, Ethiopia cho thấy có 106 (30,8%) NVYT báo
cáo bị tổn thương do kim tiêm và VSN trong vòng 12 tháng [75]. Nghiên cứu tại các bệnh
viện của các trường quân đội đưa ra tỷ lệ NVYT bị phơi nhiễm do tổn thương bơm kim
tiêm là 31,43% [76]. Theo Báo cáo bệnh truyền nhiễm Canada (CCDR), trong số 2.621
trường hợp phơi nhiễm nghề nghiệp với máu dịch thì tổn thương do bơm kim tiêm chiếm
tỷ lệ cao nhất trong NVYT (65,7%).
Cũng theo CCDR, kim tiêm, kim khâu, kim bướm gây ra 2/3 các phơi nhiễm dưới
da. Trong các trường hợp phơi nhiễm, 70,5% xảy ra trên màng nhầy và 22,3% trên vết
xước của da. CDC cũng đưa ra các kết quả tương tự với 32% chấn thương do VSN là do
kim tiêm, 19% do kim khâu, 19% do kim bướm và 7% do lưỡi dao mổ [43]. Ngón tay là
nơi bị tổn thương do kim đâm nhiều nhất (77%) [44].
Tại Việt Nam, tần suất phơi nhiễm do tổn thương xuyên da được đề cập trong
nghiên cứu của Nguyễn Thúy Quỳnh (2009) trên 858 NVYT là khá cao (15,0/100
người/năm) [14]. Tỷ lệ tai nạn nghề nghiệp do kim tiêm và VSN trên NVYT bệnh viện
Chợ Rẫy năm 2010 là 74,8% [16].
Tổn thương xuyên da do kim tiêm là cơ hội lây nhiễm các bệnh lây truyền qua
đường máu, trong đó nguy cơ nhiễm HBV là cao hơn so với các tác nhân khác [14]. Theo
WHO, trong số 35 triệu NVYT, ước tính có 3 triệu NVYT bị các tổn thương xuyên da do
VSN, trong đó 40% nhiễm VGB do tổn thương kim đâm [69]. Số trường hợp nhiễm HBV
từ các tổn thương này là 70.000, gấp gần 5 lần số trường hợp nhiễm HCV (15.000) và 140
lần số trường hợp nhiễm HIV (500) [96]. Tại Uganda, tỷ lệ NVYT phơi nhiễm với virus
HBV qua máu dịch cơ thể từ các tai nạn do bơm kim tiêm là 77% [40]. Ở các nước châu
Mỹ La tinh, lây nhiễm các mầm bệnh trong đường máu đặc biệt là lây nhiễm VGB từ các
tổn thương do kim tiêm và tiếp xúc với máu là nguy cơ đe dọa cuộc sống của NVYT [59].
Nghiên cứu của Nguyễn Thúy Quỳnh tại 13 CSYT Hà Nam và Nam Định (2007) với 232
đối tượng cho thấy: NVYT thường bị rách da chảy máu có nguy cơ bị VGB nghề nghiệp
- 15 -
cao gấp 3,1 lần so với những người không bị. Những người bị tổn thương do rách da,
chảy máu có nguy cơ mắc bệnh nghề nghiệp cao gấp 2,5 lần so với những người chỉ bị
xước da trong quá trình làm việc. Những người đã từng bị chấn thương do VSN có nguy
cơ VGB nghề nghiệp cao gấp 4,1 lần so với những người chưa bị tổn thương [13].
Như vậy, chấn thương do VSN, đặc biệt là kim tiêm là tai nạn thương tích thường
xảy ra ở NVYT. Các tổn thương xuyên da này là nguy cơ cao lây truyền các bệnh qua
đường máu (HIV, HBV, HCV), trong đó nguy cơ lây nhiễm HBV là cao nhất. Điều đó
cũng đồng nghĩa: lây nhiễm VGB nghề nghiệp qua các chấn thương do VSN là con
đường thường gặp nhất ở NVYT.
b. Lây nhiễm VGB nghề nghiệp qua đường máu do văng bắn máu dịch vào niêm
mạc hoặc vùng da bị trầy xước
Tổ chức Bảo vệ sức khỏe Hoa Kỳ (HPA) tiến hành nghiên cứu về phơi nhiễm với
các virus lây bệnh qua đường máu ở 2.236 NVYT tại Mỹ từ năm 2000 đến năm 2007. Kết
quả cho thấy số các trường hợp tai nạn nghề nghiệp do văng bắn máu dịch tăng 24,0%
trong giai đoạn 7 năm [65]. Tại miền Bắc nước Pháp, 10,1% NVYT bị văng bắn máu dịch
[31]. Năm 2005, nghiên cứu tại các CSYT vùng nông thôn Ấn Độ, tỷ lệ văng bắn máu
dịch trong NVYT là 37,0% [50]. Năm 2010, tỷ lệ này trong NVYT tại các bệnh viện quân
đội Ấn Độ là 47,1% [76]. CCDR chỉ ra tỷ lệ nhiễm HBV do văng bắn máu dịch và tiếp
xúc trực tiếp lần lượt là 13,7% và 1,8%. Một nghiên cứu tại khu vực cận sa mạc Saraha
cũng cho thấy 62,0% bác sỹ phẫu thuật chỉnh hình bị văng bắn máu dịch [51]. Tại Việt
Nam, tần suất văng bắn máu dịch ở NVYT trong nghiên cứu của Nguyễn Thúy Quỳnh
(2009) là 2,7/100 người/năm [14]. Mặc dù các tổn thương do văng bắn máu dịch có thể
giảm bằng việc cải thiện con đường dẫn đến phơi nhiễm, số các tổn thương vẫn gia tăng ở
NVYT.
Văng bắn máu dịch có chứa virus HBV vào mắt, mũi, miệng là con đường lây lan
bệnh VGB tới cơ thể không bị nhiễm. Nghiên cứu của Nguyễn Thúy Quỳnh (2008) chỉ ra
NVYT đã từng có phơi nhiễm với máu bệnh nhân VGB có nguy cơ bị VGB cao gấp 3,2
- 16 -
lần so với những người chưa bị văng bắn máu dịch [13]. Tuy nhiên, các báo cáo về tai nạn
nghề nghiệp trong NVYT ít đề cập đến tổn thương do văng bắn máu dịch. Lý do được
Shiao và cộng sự (2002) đưa ra là: một số NVYT quan niệm rằng văng bắn máu dịch
không lây nhiễm và có hậu quả không nghiêm trọng như chấn thương do VSN [68]. Một
số NVYT khác thì quá bận rộn, và thường không nhận ra các phơi nhiễm này dẫn đến
không báo cáo [72], [90]. Mặc dù nguy cơ phơi nhiễm với các tác nhân gây bệnh qua
đường máu do văng bắn vào da và niêm mạc ít được mô tả, NVYT bị văng bắn máu dịch
vẫn có nguy cơ cao lây nhiễm HBV [51].
Tóm lại, lây nhiễm VGB trong NVYT chủ yếu qua đường máu thông qua tổn
thương VSN và văng bắn máu dịch vào mắt, mũi, miệng. Tuy chỉ có ít nghiên cứu, báo
cáo về văng bắn máu dịch và một số các nghiên cứu chỉ ra nguy cơ nhiễm VGB qua tổn
thương xuyên da cao hơn văng bắn máu dịch, song xét về mức độ phổ biến, văng bắn máu
dịch vào mắt, mũi, miệng cũng là một con đường lây nhiễm HBV thường gặp trong
NVYT [14] [65].
c. Một số yếu tố khác ảnh hưởng đến khả năng và mức độ trầm trọng của phơi
nhiễm
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra NVYT làm việc trong các bệnh viện có nhiều bệnh nhân
nguy cơ cao mang HBV (người đồng tính, người nghiện chích ma túy, người sống trong
các khu vực kém phát triển có tỷ lệ mắc VGB cao) sẽ có nguy cơ mắc VGB cao hơn các
NVYT làm việc tại các cơ sở có ít bệnh nhân nguy cơ cao [11], [14]. Nguy cơ NVYT mắc
HBV sau khi bị tổn thương do kim tiêm là 23,0%-37,0% khi bệnh nhân có HBeAg (-),
nhưng nguy cơ nhiễm có thể lên đến 37,0% - 62,0% khi bệnh nhân dương tính với
HBeAg [54]. Các nước đang phát triển có tỷ lệ bệnh nhân mắc VGB cao hơn các nước
phát triển, điều này cũng đồng nghĩa với việc NVYT tại các nước đang phát triển có nguy
cơ cao hơn [14]. WHO ghi nhận 90% nhiễm khuẩn trong NVYT là các phơi nhiễm nghề
nghiệp ở các nước đang phát triển [84].
- 17 -
Lưu lượng bệnh nhân tại các bệnh viện cũng ảnh hưởng đến nguy cơ mắc VGB.
Nghiên cứu của Nguyễn Thúy Quỳnh (2008) chỉ ra: NVYT có tiếp xúc với số lượng bệnh
nhân lớn hơn 30 người/ngày có nguy cơ bị VGB nghề nghiệp cao gấp 2 lần so với NVYT
tiếp xúc với ít hơn 30 bệnh nhân/ngày [13]. NVYT tiếp xúc với quá nhiều bệnh nhân
trong cùng một ngày dẫn đến sự quá tải trong công việc [11]. Chính những áp lực này dẫn
đến sự thiếu chuẩn xác khi thực hiện các thao tác với bơm kim tiêm, là nguyên nhân hàng
đầu dẫn đến nhiễm VGB [11], [90].
NVYT có thâm niên trong nghề cao hơn có xu hướng nhiễm HBV cao hơn. Nhóm
NVYT có thời gian công tác càng lâu thì tỷ lệ nhiễm VGB càng cao. Tỷ lệ hiện mắc VGB
tăng lên 30,0% đối với những người có thâm niên công tác từ 20 năm trở lên [14]. NVYT
trên 40 tuổi có nguy cơ nhiễm VGB cao gấp 2 lần so với các nhân viên trẻ tuổi hơn [40].
Kết quả nghiên cứu của Võ Hồng Minh Công và cộng sự trên 282 NVYT tại Bệnh viện
Nhân dân Gia Định, tỷ lệ nhiễm HBV là 39,0% trong đó nhân viên có thời gian làm việc
trên 10 năm, tỷ lệ nhiễm HBV là 42,2% [9]. NVYT có thâm niên cao trong nghề có thời
gian làm việc lâu hơn. Theo nghiên cứu của Marie Fullerto và Veronique Gibbons (2011),
trong các NVYT bị chấn thương do VSN, có 76,0% (93/123) NVYT bị đâm bởi VSN 1
lần/năm và 24,0% NVYT còn lại bị tổn thương từ 2 đến 6 lần/năm [57]. Điều này cũng có
nghĩa, NVYT có thâm niên cao trong nghề sẽ có nhiều nguy cơ chấn thương do VSN hơn
[48]. Tuy nhiên, NVYT trẻ tuổi vẫn có nguy cơ phơi nhiễm VGB qua hai con đường tổn
thương xuyên da và văng bắn máu dịch do thiếu kinh nghiệm xử lý và đối phó với các
tình huống căng thẳng [42].
Nhận thức về các tác nhân gây bệnh qua đường máu ở NVYT cũng quyết định đến
khả năng mắc bệnh VGB nghề nghiệp. Tại Brazil, đánh giá kiến thức của NVYT trong
một khóa đào tạo về viêm gan virus cho thấy chỉ có 57,5% NVYT cho rằng VGB lây
truyền qua đường máu, 12,6% NVYT trả lời có thể VGB lây truyền qua đường máu cũng
chọn bệnh viêm gan A lây truyền qua đường này [85]. Nghiên cứu của Dương Khánh Vân
trên 3.462 NVYT trong 2005-2009 chỉ ra trong 81,3% NVYT nhận thức về các tác nhân
- 18 -
gây bệnh VGB, chỉ có 78,3% số người trả lời nghĩ rằng tai nạn nghề nghiệp có thể phòng
tránh được [20]. Ngoài ra, NVYT thường ít báo cáo các tổn thương từ VSN do lo sợ
những nhận định về thực hành của họ. Đây cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến khả năng
phơi nhiễm. Hầu hết các bác sĩ tin rằng họ có thể xử lý vấn đề này. Thiếu kinh nghiệm, ,
quá tải công việc và mệt mỏi là những nguyên nhân có thể dẫn đến chấn thương nghề
nghiệp [34].
Nguy cơ HBV lây truyền trong NVYT sau khi bị tổn thương xuyên da phụ thuộc
vào nồng độ HbeAg trong máu. Với người có HBsAg (+) và HBeAg (+), nguy cơ lây
nhiễm HBV khoảng 30,0%. Tuy nhiên, nguy cơ này chỉ khoảng 1,0% - 6,0% với người có
HBsAg (+) và HBeAg (-) [93]. Nguy cơ phơi nhiễm HBV sau khi bị chấn thương do VSN
ở NVYT phụ thuộc vào sự miễn dịch của họ [78]. Tỷ lệ này khoảng từ 6,0% đến 30,0%
với đối tượng được miễn dịch với HBV và tỷ lệ cao hơn nếu NVYT dương tính với
HBsAg [45].
Nhìn chung, khả năng lây nhiễm HBV và mức độ trầm trọng của bệnh VGB trong
NVYT bị ảnh hưởng bởi tỷ lệ mắc bệnh trong nhóm bệnh nhân họ tiếp xúc, lưu lượng
bệnh nhân, và đồng thời phụ thuộc thâm niên công tác, kiến thức nhận thức và khả năng
miễn dịch của chính NVYT.
4.2.2.
Đối tượng NVYT có nguy cơ cao mắc VGB nghề nghiệp
Nhân viên bệnh viện tiếp xúc với bệnh nhân, nhất là với máu bệnh nhân, thường có
tỷ lệ mang HBV cao hơn cộng đồng chung [12], [40]. Người phải tiếp xúc với bệnh nhân
và vật phẩm của bệnh nhân có nguy cơ bị bệnh viêm gan cao gấp 4 [14] – 7 [82] lần so
với người bình thường. Quá trình lây nhiễm xảy ra do tiếp xúc của niêm mạc hoặc da tổn
thương với máu hoặc sản phẩm của máu nhiễm HBV. Điều này cũng có nghĩa NVYT có
nguy cơ cao với đường lây truyền VGB nghề nghiệp sẽ có nguy cơ cao mắc VGB.
a.
Đối tượng có nguy cơ cao với tổn thương VSN
Y tá/ điều dưỡng là nhóm có tỷ lệ chấn thương do VSN cao nhất trong NVYT. Tỷ lệ
chấn thương do VSN ở y tá/ điều dưỡng dao động từ 37,0% [86] đến 95,0% [90], thậm
- 19 -
chí là 100% [36]. Tỷ lệ này đã được tìm thấy trong rất nhiều nghiên cứu. Trong Chương
trình phòng chống tổn thương VSN năm 2004, CDC chỉ ra tỷ lệ chấn thương do VSN ở y
tá/ điều dưỡng là 72% [43]. Hàng năm ở Mỹ, có khoảng 100.000 tổn thương do bơm kim
tiêm và VSN [92]. Một nửa số các trường hợp này xảy ra ở y tá/điều dưỡng [60]. Tại
Pháp, báo cáo các trường hợp phơi nhiễm máu dịch qua tổn thương do bơm kim tiêm và
VSN khác ở NVYT trong quá trình lấy mẫu máu chủ yếu xảy ra ở y tá/điều dưỡng [69].
Năm 2003, Trường Cao đẳng Điều dưỡng Hoàng gia Anh nghiên cứu 6.000 y tá/ điều
dưỡng cho thấy tỷ lệ bị tổn thương do bơm kim tiêm và VSN là 37,0% [86]. Đến năm
2009, tỷ lệ tổn thương trong y tá/ điều dưỡng tăng lên 48,0% (2.115/4.407 y tá/ điều
dưỡng) [87]. Tỷ lệ tổn thương xuyên da do bơm kim tiêm trung bình trong NVYT làm
việc tại các bệnh viện của các trường Đại học ở Thổ Nhĩ Kỳ là 55,0% [53]-64,0% [88].
Trong khi đó, tỷ lệ tổn thương do bơm kim tiêm ở y tá/ điều dưỡng là 68,4%, cao hơn tỷ
lệ chung [30].
Manju Bala và cộng sự (2010) tiến hành nghiên cứu 428 NVYT cho thấy 80,1% đã
từng bị tổn thương do bơm kim tiêm trong 1 năm trở lại. Có 49 y tá/điều dưỡng trong
nghiên cứu thì cả 49 trường hợp đã từng bị tổn thương do bơm kim tiêm (100%), trong
khi tỷ lệ này ở nhóm kỹ thuật viên xét nghiệm là 84,3% [36]. Một nghiên cứu nhỏ khác
trên 50 y tá/ điều dưỡng của Ấn Độ cũng cho thấy 70,0% đã từng bị một tổn thương do
bơm kim tiêm [89]. Kết quả điều tra của Derek R Smith, Ning Wei và Rui-Sheng Wang
(2004) trên 509 y tá/ điều dưỡng tại Trung Quốc cho thấy 95,0% trong số họ đã từng bị ít
nhất một tổn thương do bơm kim tiêm trong quá trình làm việc [90]. Tại Trung Quốc, y
tá/ điều dưỡng là nhóm có tần suất bị tổn thương do bơm kim tiêm là 3.09/100 trường
hợp, cao hơn các nhóm khác. Số trường hợp y tá/ điều dưỡng bị tổn thương cũng chiếm tỷ
lệ cao hơn trong số trường hợp bị đâm bởi bơm kim tiêm trong nhóm NVYT (60,7%)
[46].
Nghiên cứu tại Việt Nam cũng chỉ ra y tá/ điều dưỡng là đối tượng bị chấn thương
do VSN cao nhất. Kết quả điều tra Đề tài độc lập cấp nhà nước của Nguyễn Thị Hồng Tú
- 20 -
và cộng sự (2006) cũng cho thấy y tá/điều dưỡng bị chấn thương do VSN chiếm tỷ lệ cao
nhất 64,3% và cao hơn hẳn các nhóm chức danh khác [15]. Lý do được đưa ra là y tá/điều
dưỡng là nhóm tiếp xúc với bệnh nhân nhiều nhất và cũng sử dụng bơm kim tiêm nhiều
nhất trong công việc [46].
Đứng thứ hai về tỷ lệ bị chấn thương do VSN là bác sỹ. Nhiều nghiên cứu cho thấy
tỷ lệ này trong khoảng từ 17,8% [57] đến 51,5% [15]. Trung bình tổn thương do bơm kim
tiêm ở bác sỹ đề cập trong nghiên cứu tại Ahmedabad (2008-2009) là 0,0066/người/năm,
chỉ thấp hơn so với y tá/ điều dưỡng [61]. CDC (2004) khẳng định tỷ lệ này là 28,0%
trong Chương trình phòng chống tổn thương VSN [43]. Nghiên cứu trên 1.346 NVYT tại
New Zealand cho thấy có 123 NVYT bị bơm kim tiêm đâm với khoảng 168 tổn thương,
trong đó tỷ lệ tổn thương qua da ở bác sỹ là 17,8%, gấp gần 3 lần tỷ lệ này trong nhóm hộ
lý (6,7%). Trung bình trong 12 tháng, mỗi bác sỹ có khoảng 2 tổn thương xuyên da [57].
Tại Việt Nam, cũng theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Tú (2006), tỷ lệ tổn thương
do bơm kim tiêm ở bác sỹ là 51,5% [15]. Nguyên nhân các tổn thương ở bác sỹ bao gồm:
42,5% do căng thẳng tâm lý, 37,6% do quá tải công việc và 19,7% là do thiếu cẩn thận
[42].
Trong nhóm bác sỹ, bác sỹ phẫu thuật và nha sĩ được đề cập đến nhiều hơn cả. Syed
F. Shah và cộng sự (2003) tiến hành nghiên cứu trên 1.022 NVYT cho thấy có 50/163 nha
sỹ bị tổn thương xuyên da, chiếm 30,6% [26]. Trong giai đoạn từ 1995 đến 2004, có
18.584 tổn thương xuyên da xảy ra trong NVYT, trong đó có 360 trường hợp là nha sỹ.
[37]. Tổn thương xuyên da cũng xảy ra khi bác sỹ phẫu thuật thực hiện những thủ thuật.
Tại phòng mổ, khoảng 28,0% các thủ thuật có nhiều hơn một bác sỹ phẫu thuật tiếp xúc
với máu dịch cơ thể bệnh nhân [56].
Nhóm thứ ba được đề cập với tỷ lệ tổn thương do bơm kim tiêm cao là kỹ thuật viên
xét nghiệm. Năm 2004, CDC chỉ ra tỷ lệ này dao động trong khoảng từ 15,0% đến 21,0%
[43]. Nghiên cứu trên nhóm gồm 1.022 NVYT với 155 kỹ thuật viên chỉ ra 23 trường hợp
bị tổn thương do bơm kim tiêm, chiếm (14,8%), đứng sau nhóm nha sỹ [26].Tuy nhiên,