CUỘC THI “TÌM HIỂU VỀ 75 NĂM QUỐC HỘI VIỆT NAM”
Câu 1:
Đồng chí cho biết Quốc dân Đại hội Tân Trào – Tiền thân
của Quốc hội Việt Nam diễn ra như thế nào?
Tháng 10 năm 1944, trước sự chuyển biến của tình hình thế giới
có lợi cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã gửi thư cho quốc dân đồng bào thông báo chủ trương
triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân để thành lập một cơ cấu đại
biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn
thể quốc dân ta để tạo nên sức mạnh dân tộc bên trong và tranh
thủ ngoại viện của quốc tế nhằm chớp thời cơ thuận lợi thực hiện
cho được mục tiêu độc lập, tự do. Giữa năm 1945, cao trào kháng
Nhật cứu nước đang diễn ra sôi nổi, nhận thấy cơ hội ngàn năm có
một cho nhân dân ta giải phóng dân tộc đang đến gần, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ thị phải gấp rút triệu tập Đại hội đại biểu quốc
dân để thành lập Chính phủ lâm thời cách mạng của nước Việt
Nam. Giữa tháng 8 năm 1945, khi chủ nghĩa phát xít tuyên bố đầu
hàng các nước Đồng minh không điều kiện và lực lượng cách
mạng Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ trong cả nước, Hội nghị
toàn quốc của Đảng đã họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13
đến ngày 15 tháng 8 năm 1945 để quyết định phát động Tổng
khởi nghĩa trong cả nước. Quốc dân đại hội cũng đã được tiến
hành trong bối cảnh đó.
Chiều ngày 16 tháng 8 năm 1945, tại đình Tân Trào (huyện Sơn
Dương, tỉnh Tuyên Quang), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt
Minh (Việt Nam độc lập Đồng minh hội) đã khai mạc Đại hội đại
biểu quốc dân (nay gọi là Quốc dân Đại hội Tân Trào). Tham dự
Đại hội có hơn 60 đại biểu đại diện cho cả 3 miền Bắc - Trung Nam, đại diện cho các ngành, các giới, các dân tộc, các đảng phái
chính trị, các đoàn thể cứu quốc và một số Việt kiều ở Thái Lan và
Lào.
1
Đại hội tiến hành trong khi lệnh Tổng khởi nghĩa vừa phát đi, cho
nên phải họp khẩn trương, “chớp nhoáng” để các đại biểu có thể
về cùng các chiến sĩ ở địa phương lãnh đạo khởi nghĩa. Tại Đại
hội, đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông
Dương đã đọc bản báo cáo, trong đó nhấn mạnh hai vấn đề lớn:
Tổng khởi nghĩa và bầu Uỷ ban dân tộc giải phóng. Đảng cộng sản
Đông Dương chủ trương lãnh đạo quần chúng nhân dân nổi dậy
tước vũ khí của Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương,
giành lấy chính quyền, đứng địa vị cầm quyền mà tiếp đón quân
Đồng minh vào giải giáp quân Nhật trên đất Đông Dương. Trên cơ
sở đó, Đại hội đã tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng
Cộng sản Đông Dương và Tổng bộ Việt Minh; đồng thời nhất trí
thông qua 10 chính sách của Việt Minh, bao gồm:
1. Giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà trên nền tảng hoàn toàn độc lập;
2. Võ trang nhân dân. Phát triển Quân giải phóng Việt Nam;
3. Tịch thu tài sản của giặc nước và của Việt gian, tuỳ từng trường
hợp sung công làm của quốc gia hay chia cho dân nghèo;
4. Bỏ các thứ thuế do Pháp, Nhật đặt ra; đặt một thứ thuế công
bằng và nhẹ;
5. Ban bố những quyền của dân cho dân: Nhân quyền. Tài quyền
(quyền sở hữu); Dân quyền: Quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự
do dân chủ (tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp,
đi lại), dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền;
6. Chia lại ruộng công cho công bằng, giảm địa tô, giảm lợi tức,
hoãn nợ, cứu tế nạn dân;
7. Ban bố Luật lao động: ngày làm 8 giờ, định lương tối thiểu, đặt
xã hội bảo hiểm;
8. Xây dựng nền kinh tế quốc dân, phát triển nông nghiệp. Mở
mang Quốc gia ngân hàng;
2
9. Xây dựng nền quốc dân giáo dục; chống nạn mù chữ, phổ
thông và cưỡng bách giáo dục đến bậc sơ cấp. Kiến thiết nền văn
hoá mới;
10. Thân thiện và giao hảo với các nước Đồng minh và các nước
nhược tiểu dân tộc để giành lấy sự đồng tình và sức ủng hộ của
họ.”
Đại hội đã quyết định thành lập Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt
Nam do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, đồng chí Trần Huy
Liệu làm Phó Chủ tịch và các Uỷ viên là các đồng chí: Nguyễn
Lương Bằng, Đặng Xuân Khu, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng,
Dương Đức Hiền, Chu Văn Tấn, Nguyễn Văn Xuân, Cù Huy Cận,
Nguyễn Đình Thi, Lê Văn Hiến, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Ngọc
Thạch, Nguyễn Hữu Đang. Thường trực của Uỷ ban gồm 5 người:
Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng,
Dương Đức Hiền. Đồng thời, Đại hội cũng quy định Quốc kỳ là lá
cờ đỏ có ngôi sao vàng 5 cánh ở giữa, Quốc ca là bài “Tiến quân
ca”.
Ngày 17 tháng 8 năm 1945, Đại hội bế mạc trong không khí tổng
khởi nghĩa sôi sục. Thay mặt Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc lời tuyên thệ: “Chúng tôi là những
người được Quốc dân đại biểu bầu vào Ủy ban dân tộc giải phóng
để lãnh đạo cuộc cách mạng của nhân dân. Trước lá cờ thiêng
liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lănh đạo nhân
dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành lại độc lập
cho Tổ quốc. Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, không lùi
bước".
Quốc dân Đại hội Tân Trào là mốc son trong lịch sử vẻ vang của
cách mạng Việt Nam, là một tiến bộ lớn trong lịch sử đấu tranh
giải phóng của dân tộc ta, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng đánh
giá. Đây là một Đại hội mang tầm vóc lịch sử của một Quốc hội,
một cơ quan quyền lực nhà nước lâm thời của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Uỷ ban dân tộc giải phóng (tức Chính phủ cách
mạng lâm thời) của nước Việt Nam được Quốc dân Đại hội bầu ra
3
ngày 16 tháng 8 năm 1945 là người đại diện chân chính, hợp
pháp duy nhất của nhân dân Việt Nam để thực hiện những quyết
sách lớn của công cuộc cứu nước và kiến quốc. Đây là thắng lợi
lớn của nghệ thuật chớp đúng thời cơ của Tổng bộ Việt Minh, của
Chủ tịch Hồ Chí Minh; là sự sáng tạo độc đáo của Người trong việc
vận dụng và thực thi từng bước tư tưởng dân quyền ngay trong
tiến trình đấu tranh giành quyền độc lập.
Câu 2:
Đồng chí hãy cho biết, từ khi thành lập đến nay, Quốc hội
Việt Nam đã trải qua mấy kỳ bầu cử ? Kết quả, ý nghĩa của
cuộc Tổng tuyển cử năm 1946 và cuộc Tổng tuyển cử năm
1976
Từ khi thành lập đến nay, Quốc hội Việt Nam đã trải qua 14 kỳ
bẩu cử.
Quốc hội khóa I (1946 - 1960)
Bầu cử ngày 6/1/1946.
Quốc hội khóa II (1960 - 1964)
Bầu cử ngày 8/5/1960.
Quốc hội khóa III (1964 - 1971)
Bầu cử ngày 26/4/1964. Nhiệm kỳ của Quốc hội khoá III kéo dài từ
tháng 6/1964 đến tháng 6/1971 là do hoàn cảnh có chiến tranh
diễn ra trên phạm vi cả nước.
Quốc hội khóa IV (1971 - 1975)
Bầu cử ngày: 11/4/1971. Trong nhiệm kỳ này, Quốc hội đã thông
qua Nghị quyết về việc ký kết Hiệp định về chấm dứt chiến tranh,
lập lại hòa bình ở Việt Nam.
4
Quốc hội khóa V (1975 - 1976)
Bầu cử ngày 6/4/1975.
Quốc hội khóa VI (1976 - 1981)
Bầu cử ngày 25/4/1976.
Quốc hội khóa VII (1981 - 1987)
Bầu cử ngày 26/4/1981.
Quốc hội khóa VIII (1987 - 1992)
Bầu cử ngày 19/4/1987. Quốc hội khóa VIII được bầu ra và hoạt
động trong giai đoạn bước ngoặt của đất nước, có trách nhiệm to
lớn góp phần thực hiện công cuộc đổi mới.
Quốc hội khóa IX (1992 - 1997)
Bầu cử ngày 19/7/1992.
Quốc hội khóa X (1997 - 2002)
Bầu cử ngày 20/7/1997. Quốc hội khóa X là Quốc hội của thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quốc hội khóa
X đã đóng góp vào thành tựu của công cuộc đổi mới, góp phần
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhất
là trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ lập pháp, giám
sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Quốc hội khóa XI (2002 - 2007)
Bầu cử ngày 19/5/2002.
5
Tại Kỳ họp thứ 9, ông Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Chủ tịch
Quốc hội.
Quốc hội khóa XII (2007 - 2011)
Bầu cử ngày 20/5/2007. Kì họp đầu tiên Quốc hội đã bầu Chủ tịch
Quốc hội là ông Nguyễn Phú Trọng.
Quốc hội khóa XIII (2011 - 2016)
Bầu cử ngày 22/5/2011. Tại Kỳ họp thứ 6, tháng 11/2013, Quốc
hội thông qua Hiến pháp năm 2013. Quốc hội khóa XIII đã làm
tròn trọng trách căn bản hoàn thành việc cụ thể hóa Hiến pháp
trong các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước; bảo vệ công lý,
quyền con người, quyền công dân; hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; củng cố quốc phòng, an ninh,
trật tự, an toàn xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi
trường, đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Quốc hội khóa XIV (2016 - 2021)
Bầu cử ngày 22/5/2016.
Kết quả, ý nghĩa của cuộc tổng tuyển cử năm 1946
Sau ngày 02 tháng 9 năm 1945, Việt Nam đã thành một nước độc
lập, tự do. Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa mới thành lập là cơ quan điều hành nhà nước cao nhất giữ
trọng trách lịch sử chỉ đạo toàn dân thực thi các nhiệm vụ cấp
bách về nội trị, ngoại giao, về quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
đợi đến ngày bầu Quốc hội để cử ra một Chính phủ chính thức,
hợp pháp, hợp hiến.
Việc ban hành Hiến pháp, thành lập Chính phủ chính thức là một
trong những nhiệm vụ hàng đầu để củng cố và tăng cường chính
6
quyền của nhân dân. Vì vậy, ngày 3 tháng 9 năm 1945, tức là một
ngày sau khi Nhà nước cách mạng ra đời, trong phiên họp đầu
tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị
Chính phủ “tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với
chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trái gái mười tám
tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu, nghèo,
tôn giáo, dòng giống v.v…”. Ngày 8 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch
Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Sắc lệnh
số 14-SL quy định sẽ mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội. Sắc
lệnh ghi rõ: “Chiểu theo Nghị quyết của Quốc dân Đại hội ngày
16, 17 tháng 8 năm 1945 tại khu giải phóng, ấn định rằng nước
Việt Nam sẽ theo chính thể dân chủ cộng hòa và Chính phủ nhân
dân toàn quốc sẽ do một Quốc dân đại hội bầu theo lối phổ thông
đầu phiếu cử lên”. Bản Sắc lệnh đã khẳng định yêu cầu bức thiết
của Tổng tuyển cử, đồng thời khẳng định chúng ta có đủ cơ sở
pháp lý, điều kiện khách quan và chủ quan để tiến hành cuộc
Tổng tuyển cử đó. Điều 2 của Sắc lệnh quy định: “Tất cả công dân
Việt Nam, cả trai và gái, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền tuyển cử
và ứng cử, trừ những người đã bị tước mất công quyền và những
người trí óc không bình thường”.
Tiếp đó, ngày 26 tháng 9 năm 1945, Chính phủ lâm thời ban hành
Sắc lệnh số 39-SL về thành lập Uỷ ban dự thảo thể lệ cuộc Tổng
tuyển cử; Sắc lệnh số 51-SL ngày 17 tháng 10 năm 1945 quy định
thể lệ cuộc Tổng tuyển cử phải thực hiện theo lối phổ thông đầu
phiếu, bầu cử trực tiếp và bỏ phiếu kín; Sắc lệnh số 71-SL ngày 2
tháng 12 năm 1945 bổ khuyết Điều 11 chương V của Sắc lệnh số
51 nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người ứng cử.
Việc chuẩn bị cho Tổng tuyển cử diễn ra rất khẩn trương trong
điều kiện thù trong, giặc ngoài, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội
hết sức khó khăn, vừa kháng chiến ở miền Nam, vừa phải giải
quyết những nhiệm vụ rất cấp bách hàng ngày đặt ra, vừa thực
hiện sách lược tạm hòa hoãn với quân Tưởng ở miền Bắc; đồng
thời lại vừa phải đấu tranh để chống lại những hành động phá
hoại điên cuồng của chúng. Việc Chính phủ lâm thời ban hành một
7
loạt các sắc lệnh đã thể hiện sự cố gắng hết sức để cuộc Tổng
tuyển cử đầu tiên giành thắng lợi.
Do hoàn cảnh đặc biệt của đất nước, cuộc Tổng tuyển cử này
không chỉ là một cuộc vận động chính trị thông thường, mà thực
chất là một cuộc đấu tranh chính trị, đấu tranh giai cấp và dân tộc
vô cùng gay go, phức tạp và không kém phần quyết liệt. Các báo
phản động ra sức vu cáo, nói xấu Việt Minh, kêu gọi tẩy chay Tổng
tuyển cử. Để vạch trần những luận điệu xảo trá của các thế lực
phản động, báo Cứu quốc, cơ quan tuyên truyền của Mặt trận Việt
Minh đã tích cực đấu tranh, hướng dẫn dư luận, cổ vũ quần chúng
tích cực tham gia Tổng tuyển cử. Vì Tổng tuyển cử là thực hiện
quyền tự do, dân chủ của nhân dân, chỉ có Tổng tuyển cử mới có
dịp để cho dân chúng chọn người đại diện chân chính và trung
thành của toàn thể quốc dân, cũng chỉ có Tổng tuyển cử mới có
một cơ quan quyền lực cao nhất đủ thẩm quyền để ban hành cho
nước Việt Nam một Hiến pháp ấn định rõ ràng quyền lợi của quốc
dân và của Chính phủ và mới phá tan được hết những nghi ngờ ở
trong cũng như ở ngoài đối với chính quyền nhân dân. Đúng như
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tổng tuyển cử là một dịp
cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức
để gánh vác công việc nước nhà...Tổng tuyển cử tức là tự do, bình
đẳng; tức là dân chủ, đoàn kết”.
Cuộc Tổng tuyển cử lúc đầu được dự kiến là ngày 23 tháng 12
năm 1945, nhưng gặp phải sự chống đối của Việt Quốc, Việt Cách.
Để thực hiện chủ trương thống nhất và hòa giải nhằm tạo bầu
không khí ổn định cho Tổng tuyển cử; đồng thời, để có thêm thời
gian cho công tác chuẩn bị, nhất là để các ứng cử viên có điều
kiện nộp đơn và vận động tranh cử, ngày 18 tháng 12 năm 1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh hoãn cuộc Tổng tuyển cử đến
ngày Chủ nhật 6 tháng 1 năm 1946. Qua quá trình đàm phán, Việt
Nam Quốc dân đảng (Việt quốc) đã thỏa thuận hợp tác và ủng hộ
cuộc Tổng tuyển cử. Trên cơ sở đó, ngày 24 tháng 12 năm 1945,
đại biểu của Việt Minh, Việt Quốc, Việt Cách (Việt Nam Cách mạng
Đồng minh hội) đã gặp nhau và cùng ký bản “Biện pháp đoàn
kết”, trong đó có điều khoản ủng hộ Tổng tuyển cử và kháng
chiến, nhất trí về việc mở rộng Chính phủ lâm thời có đại diện của
8
Việt Quốc, Việt Cách tham gia, thừa nhận 70 ghế cho họ trong
Quốc hội mà không qua bầu cử.
Do lệnh hoãn không đến kịp nên Tổng tuyển cử vẫn tiến hành như
kế hoạch đã định trước là ngày 23 tháng 12 năm 1945 ở một số
tỉnh phía Nam. Tin Tổng tuyển cử diễn ra tưng bừng ở những nơi
đó được đăng tải kịp thời trên các báo chí làm tăng thêm không
khí chính trị sôi động của cả nước hướng đến ngày 6 tháng 1 năm
1946.
Ngày 1 tháng 1 năm 1946, Chính phủ lâm thời đã cải tổ thành
Chính phủ liên hiệp lâm thời, mở rộng thêm thành phần Chính phủ
để thực hiện mục tiêu lớn là làm cho cuộc toàn dân tuyển cử được
thành công tốt đẹp và chuẩn bị sẵn sàng việc họp Quốc hội.
Về công tác chuẩn bị Tổng tuyển cử, các ban bầu cử đã được
thành lập tới tận làng xã do các Ủy ban nhân dân các cấp trực
tiếp đảm nhiệm. Nhiều người có tài, có đức xung phong ra ứng cử
hoặc được quần chúng giới thiệu ra ứng cử. Danh sách cử tri và
ứng cử viên được hoàn thành và niêm yết công khai. Quần chúng
sôi nổi trao đổi, tranh luận, chất vấn nhằm lựa chọn được những
người xứng đáng nhất làm đại diện của mình, hạn chế tới mức cao
nhất những phần tử cơ hội lợi dụng dịp Tổng tuyển cử để tranh
giành quyền chức.
Tại Hà Nội, 118 Chủ tịch các Ủy ban nhân dân và tất cả các giới
đại biểu làng xã công bố một bản kiến nghị: “Yêu cầu Cụ Hồ Chí
Minh được miễn phải ứng cử trong cuộc Tổng tuyển cử sắp tới vì
Cụ đã được toàn dân suy tôn làm Chủ tịch vĩnh viễn của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa”. Đáp lại nguyện vọng trên, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã gửi thư trả lời đồng bào như sau: “Tôi rất cảm động
được đồng bào quá yêu mà đề nghị: tôi không phải ra ứng cử,
đồng bào các nơi khắc cử tôi vào Quốc hội. Nhưng tôi là một công
dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nên tôi không thể vượt
qua khỏi thể lệ của Cuộc Tổng tuyển cử đã định.”
9
Ngày 5 tháng 1 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi
quốc dân đi bỏ phiếu, trong đó có đoạn: “…Ngày mai, là một ngày
vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày Tổng tuyển cử, vì
ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân
dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình…”.
Diễn biến và kết quả
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu
tiên đã diễn ra trong cả nước, kể cả các vùng đang có chiến sự ở
Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên… Ở Hà Nội, 91,95% cử tri
của 74 khu nội thành và 118 làng ngoại thành đã đi bỏ phiếu
trong không khí tràn đầy phấn khởi của ngày hội dân chủ. Kết
quả, 6 trong số 74 ứng cử viên đã trúng cử đại biểu Quốc hội. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã trúng cử với số phiếu cao nhất (98,4%).
Ở các địa phương khác trong cả nước, cuộc Tổng tuyển cử cũng
được tiến hành sôi nổi. Riêng các tỉnh phía Bắc, mặc dù phải đối
phó với âm mưu phá hoại hết sức tinh vi và trắng trợn của kẻ thù,
nhưng nói chung Tổng tuyển cử diễn ra an toàn. Ở các tỉnh phía
Nam, nhất là ở Nam Bộ, nhân dân đi bỏ phiếu rất đông, bất chấp
bom đạn của giặc Pháp. Nhiều nơi nhân dân phải đổi cả xương
máu để thực hiện quyền tự do, dân chủ của mình...
Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của Việt Nam năm 1946 được tiến
hành theo những nguyên tắc dân chủ, tiến bộ nhất, đó là: phổ
thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín đã hoàn toàn thắng lợi.
Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.
Quốc hội đã cử ra Chính phủ chính thức, ấn định cho Việt Nam
một Hiến pháp dân chủ. Thắng lợi đó là một mốc son đánh dấu
bước phát triển nhảy vọt đầu tiên về thể chế dân chủ của nước
Việt Nam.
Quốc hội Việt Nam ra đời vừa là thành quả, vừa là yêu cầu cấp
thiết của cách mạng. Quốc hội ra đời trong khói lửa của cuộc đấu
tranh dân tộc gay gắt. Đó là Quốc hội của độc lập dân tộc, của
thống nhất đất nước và của đại đoàn kết toàn dân. Quốc hội đã
10
hội tụ các đại biểu của cả ba miền Bắc - Trung - Nam, là ý chí của
nhân dân cả nước. Quốc hội đã có đại diện của tất cả thế hệ
những người Việt Nam yêu nước đương thời, hội tụ đại biểu của
tất cả các ngành, các giới, các giai cấp, tầng lớp xã hội từ công
nhân, nông dân, nam giới, nữ giới cho đến những nhà tư sản, công
thương gia, những nhân sĩ trí thức và các nhà hoạt động văn hóa
nổi tiếng, có đại diện của các thành phần tôn giáo trên đất nước
ta, tất cả các thành phần dân tộc, của tất cả những người không
đảng phái và đảng phái chính trị như Đảng Cộng sản, Đảng Dân
chủ, những đảng viên Xã hội cùng những người tiến bộ trong các
phái chính trị khác.
Ý nghĩa của cuộc Tổng tuyển cử
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử đánh dấu bước trưởng thành
của Nhà nước cách mạng Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ
đất nước ta có một Quốc hội, một Chính phủ thống nhất, một bản
Hiến pháp tiến bộ và một hệ thống chính quyền hoàn toàn đầy đủ
danh nghĩa về mặt pháp lý để đại diện cho nhân dân Việt Nam về
đối nội, đối ngoại. Cuộc bầu cử là căn cứ để khẳng định Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có tính chất hợp pháp, dân chủ - nhà
nước của dân, do dân và vì dân, được quốc dân giao phó trọng
trách điều hành đất nước, tổ chức toàn dân kháng chiến kiến
quốc, giải quyết mọi quan hệ của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử đã khẳng định niềm tin tuyệt
đối của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vào tinh thần yêu nước của
nhân dân ta. Đồng thời, đó cũng là sự biểu thị khát vọng dân chủ
của nhân dân và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.
Cùng với bài học đại đoàn kết, sự lãnh đạo sáng suốt của Ðảng là
bài học thực tế có tính nguyên tắc. Ðảng đã biết dựa vào dân, bắt
rễ sâu trong lòng dân tộc, do đó đã đáp ứng khát vọng, ý chí độc
lập dân tộc, tự do, dân chủ của nhân dân. Với lãnh tụ kiệt xuất Hồ
Chí Minh và thông qua Mặt trận Việt Minh, một tổ chức rộng lớn
do chính Ðảng tổ chức ra và lãnh đạo nên Ðảng vẫn giữ vững và
phất cao ngọn cờ lãnh đạo toàn dân vượt qua mọi khó khăn,
11
không quản ngại hy sinh gian khổ, thực hiện Tổng tuyển cử đại
thành công.
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói
trong kỳ họp thứ nhất của Quốc hội đầu tiên, là “Kết quả của sự
hy sinh, tranh đấu của tổ tiên ta, nó là kết quả của sự đoàn kết
anh dũng phấn đấu của toàn thể đồng bào Việt Nam ta, sự đoàn
kết của toàn thể đồng bào không kể già, trẻ, lớn, bé, gồm tất cả
các tôn giáo, tất cả các dân tộc trên bờ cõi Việt Nam đoàn kết
chặt chẽ thành một khối, hy sinh không sợ nguy hiểm tranh lấy
nền độc lập cho Tổ quốc”.
Kết quả, ý nghĩa của cuộc tổng tuyển cử năm 1976:
Ngày 25/4/1976, nhân dân khắp hai miền Bắc - Nam nô nức tham
gia Tổng tuyển cử bầu Quốc hội. Đây là lần thứ hai cuộc Tổng
tuyển cử được tổ chức trên phạm vi cả nước, sau lần đầu tổ chức
từ ngày 06/01/1946. Cuộc bầu cử được tiến hành nhanh, gọn và
đạt kết quả tốt. Hơn 23 triệu cử tri (chiếm 98,77%) đi bỏ phiếu,
trong đó miền Bắc đạt 99,36%, miền Nam là 98,59%. 492/605 đại
biểu đã trúng cử, trong đó có 80 đại biểu là công nhân, 100 đại
biểu là nông dân, 54 đại biểu là quân nhân cách mạng, 141 đại
biểu là cán bộ chính trị, 98 đại biểu là trí thức và nhân sĩ dân chủ,
13 đại biểu tôn giáo và 6 đại biểu làm nghề thủ công. Thành phần
của đại biểu Quốc hội được cử tri lựa chọn phản ánh đậm nét hình
ảnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống
nhất và xã hội chủ nghĩa. Kết quả của Tổng tuyển cử là một thắng
lợi có ý nghĩa quyết định trên con đường tiến tới hoàn thành thống
nhất đất nước về mặt nhà nước.
Như vậy, kể từ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội khóa I
(06/01/1946), sau 30 năm, cuộc Tổng tuyển cử chung lại được tổ
chức trên phạm vi cả nước. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử bầu
Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất có ý nghĩa rất quan trọng,
là một trong những mốc son trong lịch sử cách mạng nước nhà.
Điều đó được thể hiện qua một số điểm nổi bật như sau:
12
Trước hết, kết quả của cuộc Tổng tuyển cử là thắng lợi có ý nghĩa
quyết định trên con đường tiến tới hoàn thành thống nhất đất
nước về mặt Nhà nước. Nếu cuộc tổng tuyển cử đầu tiên để bầu
ra Quốc hội khóa I năm 1946 đã chính thức hóa về mặt pháp lý
Nhà nước và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì cuộc
Tổng tuyển cử năm 1976 lại mang ý nghĩa chính thức hóa việc
thống nhất nước nhà. Đây là thành quả vĩ đại của 45 năm nhân
dân ta đấu tranh cách mạng không ngừng kể từ khi Đảng cộng
sản Việt Nam ra đời, là thắng lợi của 30 năm Đảng ta lãnh đạo
chính quyền nhân dân, lãnh đạo hai cuộc kháng chiến lâu dài,
gian khổ.
Thứ hai, kết quả của cuộc bầu cử còn là thắng lợi của đường lối
cách mạng sáng tạo của Đảng dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí
Minh mang tầm vóc một học thuyết cách mạng giải phóng và
phát triển với ý chí không lay chuyển nổi về độc lập dân tộc và
thống nhất đất nước. Đây còn là bằng chứng về sức mạnh đoàn
kết của nhân dân ta, quyết tâm đánh và đánh thắng mọi thế lực
phá hoại nền độc lập, tự do mà ông cha ta đã nhiều năm vun đắp.
Thứ ba, thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử không những đem lại
niềm tự hào cho nhân dân cả nước, cho kiều bào ta ở nước ngoài,
mà còn là tiếng vang lớn trên trường quốc tế. Thắng lợi này có ý
nghĩa chính trị to lớn tiếp theo chiến thắng vĩ đại về quân sự vào
mùa Xuân năm 1975, mở ra cơ hội cho quá trình hội nhập và mở
rộng hợp tác quốc tế của Quốc hội Việt Nam, trong vị thế của một
Nhà nước độc lập, thống nhất.
Thứ tư, kết quả cuộc tổng tuyển cử đưa đến sự ra đời của Quốc
hội khóa VI- Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất. Đó là sự kế
thừa và phát triển liên tục từ Quốc hội khóa I năm 1946, thể hiện
sự nhất quán trong đường lối cách mạng của Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta. Quốc hội khóa VI đã tiếp tục thực hiện trọng trách to
lớn của mình trong việc thiết lập cơ cấu lãnh đạo chung của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo đảm tăng cường sự lãnh
13
đạo của Đảng về mọi mặt, phát huy quyền làm chủ tập thể của
nhân dân và vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, xã
hội và đời sống nhân dân. Với mục tiêu thể chế hóa đường lối
chiến lược của Đảng, Quốc hội khóa VI đã hoàn thành trọng trách
xây dựng một bản Hiến pháp mới của nước Việt Nam thống nhất,
Hiến pháp 1980, thể hiện một bước phát triển mới trong công tác
lập hiến. Đây là văn bản pháp lý quan trọng, tổng kết và xác định
những thành quả cách mạng của nhân dân Việt Nam đã giành
được qua nửa thế kỷ đấu tranh để giành độc lập, tự do; thể chế
hóa Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của
Đảng; thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân quyết tâm xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Với ý nghĩa kế tục sự nghiệp của 5 khóa Quốc hội trước,
Quốc hội khóa VI đã hoàn thành trọng trách to lớn mà Đảng và
nhân dân giao phó, hoàn thành tốt các chức năng được giao theo
quy định của Hiến pháp năm 1980 gồm lập hiến, lập pháp, quyết
định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, những mục
tiêu phát triển kinh tế và văn hoá, những quy tắc chủ yếu về tổ
chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và
hoạt động của công dân, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với
toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Câu 3:
Đồng chí hãy nêu các thời kỳ phát triển của Quốc hội Việt
Nam? Cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Quốc hội Việt Nam hiện nay?
I.
Quốc hội Việt Nam qua các thời kỳ
Từ khi ra đời đến nay, với tư cách là cơ quan quyền lực Nhà
nước cao nhất, Quốc hội Việt Nam đã đóng góp tích cực vào sự
nghiệp phát triển chung của dân tộc. Do hoàn cảnh đặc thù của
đất nước, trong nhiều thập kỷ, đặc biệt là 30 năm đầu (19461975), cùng với việc xây dựng chế độ dân chủ của Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà, Quốc hội đã cùng với Chính phủ đề ra
các chủ trương chính sách, tổ chức và động viên toàn dân “kháng
chiến, kiến quốc”, giành thắng lợi vĩ đại trong hai cuộc kháng
14
chiến giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc. Quốc hội đã
thông qua Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến
pháp năm 1992, kế thừa và hoàn thiện Nhà nước do dân, vì dân,
phù hợp với mọi yêu cầu, nhiệm vụ của đất nước. Nhiều đạo luật
quan trọng đã được Quốc hội ban hành, nhằm thể chế hoá quyền
làm chủ của nhân dân và thực hiện quản lý xã hội theo Hiến pháp
và Pháp luật. Quốc hội đã đề ra các chủ trương, chính sách lớn
liên quan đến quốc kế dân sinh, quyết định về ngân sách quốc
gia, về phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá, giáo dục, về chính
sách dân tộc, về an ninh quốc phòng, về chính sách đối ngoại…
Quốc hội cũng thực hiện quyền giám sát tối cao trong quá trình
thực thi Hiến pháp và luật, kiểm tra sự chỉ đạo điều hành của bộ
máy Nhà nước trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Nhìn chung, có
thể chia ra bốn thời kỳ cơ bản: Từ khi thành lập vào năm 1946
đến 1960; từ năm 1960 đến năm 1980; từ năm 1980 đến năm
1992, và từ năm 1992 đến nay.
Từ 1946 đến 1960
Trong năm 1946, Quốc hội đã có những hành động quyết liệt
để đoàn kết, thống nhất dân tộc, chống giặc ngoài, thù trong, xây
dựng và củng cố Chính quyền Cách mạng. Tiếp đó, trong sự
nghiệp kháng chiến kiến quốc (1946 - 1954), Quốc hội đã cùng
với nhân dân thực hiện cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện,
quyết liệt trên các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa…
Để sự lãnh đạo và điều hành chiến tranh được tập trung thống
nhất, Quốc hội đã giao quyền bính tập trung vào Chính phủ. Ban
thường trực Quốc hội luôn sát cánh với Chính phủ để bàn bạc, cho
ý kiến về các chủ trương, chính sách lớn, cũng như giám sát, phê
bình Chính phủ về mọi công việc liê quan đến vấn đề kháng chiến.
Trong giai đoạn từ 1954 đến 1960, theo Hiệp định Genève, đất
nước ta tạm thời chia làm hai miền Bắc - Nam. Trong bối cảnh đó,
Quốc hội đã cùng với nhân dân tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ
chiến lược cách mạng khác nhau. Miền Bắc sau khi giải phóng đã
bước vào thời kỳ khôi phục, cải tạo, phát triển kinh tế, văn hóa
theo con đường XHCN; miền Nam tiếp tục cuộc Cách mạng dân
15
tộc dân chủ, tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, tiến
tới hòa bình, thống nhất đất nước.
Từ 1960 đến 1980
Trong giai đoạn này, Nghị viện nhân dân được đổi tên là Quốc
hội và được tổ chức theo các quy định của Hiến pháp năm 1959
và Luật tổ chức Quốc hội ngày 14 tháng 7 năm 1960. Đây là thời
kỳ Quốc hội hoạt động trong điều kiện miền Bắc tiến hành xây
dựng CNXH, làm hậu phương lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ
ở miền Nam. Giai đoạn này có 05 khóa hoạt động, trong đó 04
khóa Quốc hội phải hoạt động trong điều kiện đất nước bị chia cắt
- Đó là: Khóa II (1960 - 1964); Khóa III (1964 - 1971); Khóa IV
(1971 - 1975); Khóa V (1975 - 1976). Sau ngày miền Nam hoàn
toàn giải phóng (30 tháng 4 năm 1975), kể từ khóa VI (1976 1981), Quốc hội trở thành Quốc hội chung của cả nước Việt Nam
thống nhất.
Từ 1980 đến 1992
Giai đoạn 1980 - 1992 là thời kỳ cả nước tích cực đẩy mạnh
công cuộc xây dựng CNXH, với việc đẩy mạnh phong trào hợp tác
hóa và công nghiệp hóa đất nước. Hiến pháp năm 1980 đã có
những quy định mới về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội và các
cơ quan của Quốc hội trong quá trình xây dựng CNXH trên phạm
vi cả nước vào thời kỳ này. Đây là thời kỳ Quốc hội được tổ chức
và hoạt động theo Hiến pháp 1980, Luật tổ chức Quốc hội và Hội
đồng Nhà nước năm 1981.
Từ năm 1992 đến nay
Kể từ năm 1986, Đảng ta chủ trương tiến hành đổi mới toàn
diện đất nước, trong đó tập trung đổi mới kinh tế, phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Trong điều kiện phát triển mới của đất
16
nước, Hiến pháp mới được ban hành vào năm 1992 đã thay thế
cho Hiến pháp 1980. Đến năm 2001, một số quy định về nhiệm vụ
và quyền hạn của Quốc hội đã được sửa đổi, bổ sung, nhằm xác
định rõ hơn địa vị pháp lý của Quốc hội trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Trên cơ sở Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 (bổ sung,
phát triển năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với kết
quả tổng kết thực tiễn qua 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước đã đặt ra yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung Hiến
pháp năm 1992, nhằm thể chế hóa đầy đủ hơn, sâu sắc hơn quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về đề cao chủ quyền nhân dân,
phát huy dân chủ XHCN và đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân. Bản Hiến pháp 2013 đã được ban hành với
một số điểm đổi mới về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
Quốc hội.
II.
Cơ cấu tổ chức của Quốc hội Việt Nam hiện nay
Điều 3 Luật tổ chức Quốc hội quy định: Quốc hội tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, làm việc theo chế
độ hội nghị và quyết định theo đa số. Hiệu quả hoạt động của
Quốc hội được bảo đảm bằng hiệu quả của các kỳ họp Quốc hội,
hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và
các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn Đại biểu Quốc hội và các Đại
biểu Quốc hội.
Cơ cấu tổ chức Quốc hội gồm:
Lãnh đạo Quốc hội - Bao gồm Chủ tịch Quốc hội và các Phó
Chủ tịch Quốc hội, do Quốc hội bầu ra trong số các Đại biểu Quốc
hội.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội - Bao gồm Chủ tịch Quốc hội, các
Phó Chủ tịch Quốc hội và các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
do Chủ tịch Quốc hội làm Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Quốc hội
làm Phó Chủ tịch.
17
Thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội - Là Đại biểu Quốc hội
hoạt động chuyên trách và không đồng thời là thành viên Chính
phủ. Số lượng Phó Chủ tịch Quốc hội và số Ủy viên Ủy ban Thường
vụ Quốc hội do Quốc hội quyết định. Nhiệm kỳ của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội bắt đầu từ khi được Quốc hội bầu ra, và kết thúc khi
Quốc hội khóa mới bầu ra Ủy ban thường vụ Quốc hội mới.
Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội
Hội đồng Dân tộc của Quốc hội gồm có Chủ tịch, các Phó Chủ
tịch, Ủy viên Thường trực, Ủy viên chuyên trách và các Ủy viên
khác. Các Ủy ban của Quốc hội gồm có Chủ nhiệm, các Phó Chủ
nhiệm, các Ủy viên Thường trực, Ủy viên chuyên trách và các Ủy
viên khác. Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Chủ nhiệm các Ủy ban của
Quốc hội do Quốc hội bầu. Các Phó Chủ tịch, Ủy viên Thường trực,
Ủy viên chuyên trách và các Ủy viên khác của Hội đồng Dân tộc;
các Phó Chủ nhiệm, Ủy viên Thường trực, Ủy viên chuyên trách và
Ủy viên khác của các Ủy ban do Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê
chuẩn.
Thường trực Hội đồng Dân tộc, Thường trực Ủy ban của Quốc
hội giúp Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội giải quyết các
công việc thường xuyên của Hội đồng, Ủy ban trong thời gian Hội
đồng, Ủy ban không họp. Thường trực Hội đồng Dân tộc gồm Chủ
tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên Thường trực. Thường trực Ủy
ban của Quốc hội gồm Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các Ủy
viên Thường trực.
Đoàn Đại biểu Quốc hội - Là tổ chức của các Đại biểu Quốc hội
được bầu tại mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc được
chuyển đến công tác tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Tổng Thư ký Quốc hội
Tổng Thư ký Quốc hội do Quốc hội bầu và miễn nhiệm, bãi
nhiệm. Tổng Thư ký Quốc hội có trách nhiệm tham mưu về hoạt
18
động của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đại biểu Quốc
hội. Giúp việc cho Tổng Thư ký Quốc hội có Ban Thư ký. Cơ cấu tổ
chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Ban Thư ký do Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định.
Văn phòng Quốc hội.
Văn phòng Quốc hội là cơ quan hành chính, tham mưu tổng
hợp, phục vụ Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân
tộc, các Ủy ban của Quốc hội và Đại biểu Quốc hội. Tổng Thư ký
Quốc hội đồng thời là Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, chịu trách
nhiệm trước Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội về hoạt
động của Văn phòng Quốc hội. Các Phó Chủ nhiệm Văn phòng
Quốc hội do Ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức theo đề nghị của Tổng Thư ký Quốc hội - Chủ nhiệm
Văn phòng Quốc hội.
Các Cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thành lập các cơ quan thuộc Ủy
ban Thường vụ Quốc hội để tham mưu, giúp Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về từng lĩnh vực công việc cụ thể. Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ,
chính sách áp dụng đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức,
người lao động khác làm việc tại các cơ quan này phù hợp với tính
chất đặc thù trong hoạt động của Quốc hội. Hiện tại, các cơ quan
thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội bao gồm: Ban Công tác Đại
biểu; Ban Dân nguyện; Viện Nghiên cứu Lập pháp.
III.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội Việt Nam hiện
nay
Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp,
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối
cao đối với hoạt động của Nhà nước. Cụ thể, Điều 70 Hiến pháp
năm 2013 quy định Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn
sau đây:
19
Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật.
Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp,
luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ
tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án Nhân
dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Hội đồng bầu cử
Quốc gia, Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội
thành lập.
Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia;
quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia
các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách Trung ương và
ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc
gia, nợ công, nợ Chính phủ; quyết định dự toán ngân sách Nhà
nước và phân bổ ngân sách Trung ương, phê chuẩn quyết toán
ngân sách Nhà nước.
Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà
nước.
Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước,
Chính phủ, Toà án Nhân dân, Viện Kiểm sát Nhân dân, Hội đồng
Bầu cử Quốc gia, Kiểm toán Nhà nước, Chính quyền địa phương và
các cơ quan khác do Quốc hội thành lập.
Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước,
Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Chủ nhiệm các Ủy ban
của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án Nhân dân
Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Chủ tịch Hội
đồng Bầu cử Quốc gia, Tổng Kiểm toán Nhà nước, người đứng đầu
các cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ
20
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án
Nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng Quốc
phòng và An ninh, Hội đồng Bầu cử Quốc gia. Sau khi được bầu,
Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án
Tòa án Nhân dân Tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc,
nhân dân và Hiến pháp.
Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ các chức vụ do Quốc hội
bầu hoặc phê chuẩn.
Quyết định thành lập, bãi bỏ Bộ, Cơ quan ngang Bộ của Chính
phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của
Hiến pháp và luật.
Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án Nhân dân Tối cao, Viện
Kiểm sát Nhân dân Tối cao nếu trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội.
Quyết định đại xá.
Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân; hàm,
cấp ngoại giao và các hàm, cấp Nhà nước khác; quy định Huân
chương, Huy chương và các danh hiệu vinh dự Nhà nước.
Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình
trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng
- an ninh quốc gia.
Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, quyết
định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của Điều ước Quốc tế liên
quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách
21
thành viên của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ
chức quốc tế và khu vực quan trọng, các Điều ước Quốc tế về
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và Điều
ước Quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội.
Quyết định trưng cầu ý dân.
IV.
Chức năng của Quốc hội
Kể từ khi bộ máy nhà nước Việt Nam được tổ chức theo mô
hình XHCN (từ Hiến pháp năm 1959 tới nay), Quốc hội luôn được
quy định ba chức năng gồm: lập hiến, lập pháp, quyết định các
vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt
động của Nhà nước. Ba chức năng này của Quốc hội được quy
định rõ trong Hiến pháp năm 2013 và một số văn bản pháp luật
hiện hành.
Thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp của Quốc hội
Điều 69 Hiến pháp năm 2013 quy định về chức năng lập hiến,
lập pháp của Quốc hội như sau: “Quốc hội thực hiện quyền lập
hiến, quyền lập pháp”. Trong khi đó Điều 83 Hiến pháp năm 1992
sửa đổi bổ sung năm 2001 quy định: “Quốc hội là cơ quan duy
nhất có quyền lập hiến và lập pháp”. Như vậy, theo Hiến pháp
năm 1992 thì Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền thông qua,
sửa đổi Hiến pháp và pháp luật.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy
định trình tự sáu bước: (i) đưa vào chương trình xây dựng luật; (ii)
soạn thảo luật; (iii) thẩm tra dự án luật; (iv) Ủy ban Thường vụ
Quốc hội xem xét cho ý kiến; (v) thảo luận, tiếp thu, chỉnh lý,
thông qua; (vi) công bố luật. Trong đó, thao tác trực tiếp chủ yếu ở
ba bước (iii), (iv), (v). Trong các chủ thể trình dự án luật, Chính
phủ có khoảng 90% dự án luật được trình ra Quốc hội. Như vậy,
trên thực tế, không chỉ có Quốc hội tham gia vào quá trình xây
22
dựng Hiến pháp và hệ thống pháp luật. Chính vì vậy, Hiến pháp
năm 2013 đã mở đường cho việc Quốc hội có thể ủy quyền cho
Chính phủ cùng tham gia vào công tác lập pháp. Nội dung này
cũng được thể hiện tại Điều 100 Hiến pháp năm 2013: “Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
Bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn
bản trái pháp luật theo quy định của luật”. Ngoài ra, Hiến pháp
năm 2013 cũng phân biệt rõ giữa quyền lập hiến và quyền lập
pháp, thay thuật ngữ “quyền lập hiến và lập pháp” bằng quy định
“quyền lập hiến, quyền lập pháp”.
Quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước
Trong những vấn đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm
quyền quyết định của Quốc hội, Hiến pháp năm 2013 đã quy định
một cách ngắn gọn và bao quát, trong đó đặc biệt nhấn mạnh các
vấn đề thuộc về kinh tế - xã hội được quy định tại khoản 04, điều
70: Quốc hội có thẩm quyền “Quyết định chính sách cơ bản về tài
chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ
thuế, quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa
ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức
giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ Chính phủ; quyết định
dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Trung ương,
phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước”. Việc tập trung vào
quyết định các chính sách cơ bản, minh bạch, cụ thể một số nội
dung nhất định đã thể hiện thẩm quyền của Quốc hội trong việc
bảo đảm tính thống nhất về mặt nhà nước đối với các vấn đề tài
chính, tiền tệ, kinh tế nói riêng và các vấn đề quan trọng khác của
quốc gia nói chung. Đó chính là cơ sở thực hiện việc phân cấp,
phân quyền hợp lý hơn giữa các cơ quan ở Trung ương và ở địa
phương, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các địa phương
trong những vấn đề có liên quan đến kinh tế - xã hội nói chung
của quốc gia.
Đối với các vấn đề liên quan tới đối ngoại, chủ quyền quốc gia,
Hiến pháp năm 2013, tại khoản 14, điều 70, bên cạnh việc tiếp
23
tục duy trì thẩm quyền của Quốc hội trong việc quyết định các
chính sách cơ bản về đối ngoại, đã có sự điều chỉnh cụ thể, hợp lý
hơn, thông qua việc quy định thẩm quyền của Quốc hội trong việc
phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều
ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc
gia, tư cách thành viên của Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và
khu vực quan trọng, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế khác trái với
luật, nghị quyết của Quốc hội. Sự minh bạch này là nền tảng hiến
định cho việc tạo lập hành lang pháp lý theo hướng chuẩn mực,
hoàn thiện hơn vấn đề bảo đảm, thực thi chủ quyền quốc gia,
thực thi chính sách đối ngoại trong thời gian tới.
Thực hiện giám sát tối cao
Hiến pháp năm 2013 không quy định Quốc hội giám sát tối cao
đối với “toàn bộ hoạt động của Nhà nước” (đoạn 4, Điều 83) mà
thu hẹp phạm vi của quyền giám sát tối cao của Quốc hội. Theo
Hiến pháp năm 1992, Quốc hội có quyền giám sát bất cứ hoạt
động nào của các cơ quan Nhà nước từ Trung ương tới địa phương,
kể cả cấp cơ sở. Tại Hiến pháp năm 2013, phạm vi đó đã được giới
hạn trong các hoạt động của cơ quan nhà nước ở cấp cao nhất những cơ quan do Quốc hội thành lập, phê chuẩn, như Chủ tịch
nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân
Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Kiểm toán Nhà nước, Hội
đồng Bầu cử Quốc gia (Điều 70 Hiến pháp năm 2013). Phạm vi
này phù hợp với chức năng giám sát tối cao của Quốc hội, đồng
thời phù hợp với thực tiễn thực hiện chức năng giám sát này. Hiến
pháp năm 2013 đã bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc
thực hiện quyền giám sát tối cao đối với các thiết chế độc lập như
Kiểm toán Nhà nước, Hội đồng bầu cử Quốc gia và các cơ quan
nhà nước khác do Quốc hội thành lập.
Khoản 02, điều 84 Hiến pháp năm 1992 quy định về các chủ
thể thuộc quyền giám sát tối cao của Quốc hội bao gồm: Chủ tịch
nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân
Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao. Tuy nhiên, Hiến pháp
năm 2013 đã mở rộng thêm phạm vi thực hiện quyền giám sát tối
24
cao của Quốc hội đối với các thiết chế như Kiểm toán Nhà nước,
Hội đồng Bầu cử Quốc gia và các cơ quan khác do Quốc hội thành
lập. Quy định này phù hợp với tính chất hoạt động giám sát của
Quốc hội. Sở dĩ có sự thay đổi này là do Hiến pháp năm 2013 đã
bổ sung hai thiết chế hiến định độc lập (cơ quan) là Hội đồng Bầu
cử Quốc gia và Kiểm toán Nhà nước (Chương X). Vì các cơ quan
này thuộc thẩm quyền thành lập của Quốc hội nên phải đưa vào
nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Hơn nữa, việc hiến định các
cơ quan độc lập trên góp phần làm rõ chủ quyền nhân dân, làm rõ
hơn cơ chế phân công, phối hợp trong việc kiểm soát quyền lực và
hoàn thiện bộ máy Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Quy định mang tính chất khái quát hóa để các văn bản luật có
điều kiện cụ thể hóa hoạt động nào của Nhà nước thuộc thẩm
quyền giám sát tối cao của Quốc hội.
Việc quy định mang tính chất khái quát về những hoạt động
của Nhà nước thuộc thẩm quyền giám sát tối cao của Quốc hội tại
khoản 02 điều 70 Hiến pháp năm 2013 là cơ sở vững chắc để các
văn bản pháp luật ban hành sau này được xây dựng có hệ thống,
chi tiết, tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các lĩnh vực pháp
luật.
Câu 4:
Đồng chí hãy nêu những thành tựu nổi bật của Quốc hội
Việt Nam qua các thời kỳ.
Thời kỳ 1946 - 1960
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Quốc hội Việt
Nam khoá đầu tiên (1946-1960) đã có những đóng góp vô cùng ý
nghĩa vào việc xây dựng Nhà nước Dân chủ Cộng hòa. Từ năm
1954 đến năm 1960, Quốc hội đã phát huy vai trò to lớn trong sự
nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà theo quy định của Hiệp
định Genève. Những năm đầu sau khi hòa bình lập lại, Quốc hội
đã thông qua các kế hoạch khôi phục, cải tạo và phát triển kinh
25