Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tiểu luận cao học,Tư tưởng hồ chí minh về cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.92 KB, 32 trang )

Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, t tởng Hồ Chí Minh đã đợc
Đảng Cộng sản và Nhà nớc Việt Nam xác định là nền tảng t tởng và kim chỉ nam cho hành động của mình trong quá
trình xây dựng và phát triển đất nớc. "T tởng Hồ Chí Minh
là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam" trong đó có
vấn đề cán bộ. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác cán
bộ; Ngời coi "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc".
Kế thừa t tởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và
Nhà nớc ta rất coi trọng công tác cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản
lý, luôn quan tâm xây dựng, phát triển và nâng cao chất lợng đội ngũ cán bộ,cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan, tổ
chức của mình; coi đó là lực lợng then chốt bảo đảm cho sự
thành công của sự nghiệp cách mạng.
Vì những lý do trên, tôi chọn nội dung "T tởng Hồ Chí
Minh về cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý để đi sâu tìm
hiểu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan tới nội dung nghiên cứu của tiểu luận này có
một số công trình sau:
- Tác phẩm "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lợng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nớc" do các tác giả Nguyễn Phú Trọng và
Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên), Nhà xuất bản (Nxb) Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
- Tác phẩm "T tởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác
cán bộ" của tác giả Bùi Đình Phong, Nxb Lao động, Hà Nội,
2002.
- Tác phẩm "Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức" các tác giả Thang Văn Phúc và

1




Nguyễn Minh Phơng (đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2005.
Ngoài ra còn nhiều bài viết đăng trên các tạp chí khoa
học hoặc nhiều công trình, luận văn, luận án khác có đề
cập ít nhiều tới vấn đề này.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là t tởng Hồ
Chí Minh về cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý trong đó làm rõ
t tởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của cán
bộ, tiêu chuẩn cán bộ.
4. Mục đích của tiểu luận
* Mục đích của tiểu luận là phân tích, làm sáng tỏ
những nội dung cơ bản trong t tởng Hồ Chí Minh về vị trí,
vai trò của cán bộ, về tầm quan trọng của cán bộ, về tiêu
chuẩn cán bộ, cán bộ lãnh đạo quản lý.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Tiểu luận đợc nghiên cứu dựa trên cơ sở
quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và t tởng Hồ Chí
Minh về cán bộ.
* Phơng pháp nghiên cứu: Tiểu luận sử dụng các phơng
pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít và các phơng pháp cụ thể nh phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê.
6. Những đóng góp của tiểu luận
- Tiểu luận trình bày một cách tơng đối nguồn gốc ra
đời và quá trình phát triển của t tởng Hồ Chí Minh về cán
bộ; những nội dung cơ bản trong t tởng Hồ Chí Minh về vị
trí, vai trò của cán bộ, về tiêu chuẩn cán bộ.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của tiểu luận
- Góp phần làm sáng tỏ nội dung t tởng Hồ Chí Minh về

cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý.
8. Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận này, ngoài phần mở đầu, phần kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo, đợc chia thành 3 chơng.

2


Chơng I : Khái niệm và đặc điểm t tởng Hồ Chí Minh
về cán bộ
Chơng II: nguồn gốc và quá trình hình thành t tởng Hồ
Chí Minh về cán bộ.
Chơng III : Nội dung cơ bản của t tởng Hồ Chí Minh về
cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Chơng 1 : Khái niệm và đặc điểm t tởng Hồ Chí Minh về
cán bộ
1.1 : T tởng Hồ Chí Minh và t tởng Hồ Chí Minh về
cán bộ
* T tởng Hồ Chí Minh:
T tởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa MácLênin vào điều kiện cụ thể của nớc ta, kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại. Đó là t tởng giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con ngời; về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại
đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây
dựng Nhà nớc thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc

phòng toàn dân, xây dựng lực lợng vũ trang nhân dân; về
phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách
mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô t; về chăm lo bồi
dỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong
3


sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là ngời lãnh đạo, vừa
là ngời đầy tớ thật trung thành của nhân dân...
* T tởng Hồ Chí Minh về cán bộ:
Trớc hết cần khẳng định rằng t tởng Hồ Chí Minh về
cán bộ là bộ phận cấu thành hữu cơ của t tởng Hồ Chí Minh
nói chung, nằm trong mối quan hệ sâu sắc và mật thiết với
các vấn đề quan trọng khác thuộc t tởng Hồ Chí Minh, là sự
vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về
cán bộ vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, cùng với việc kế
thừa tinh hoa truyền thống dân tộc, tạo thành hệ t tởng về
cán bộ một cách toàn diện, đặc sắc Hồ Chí Minh.
Để hiểu rõ thế nào là t tởng Hồ Chí Minh về cán bộ, cần
thấy rằng Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của con ngời, đặc
biệt là ngời cán bộ. Ngời từng nói: "Con ngời là vốn quý nhất, là
lực lợng to lớn nhất" và Ngời luôn coi "Cán bộ là gốc của mọi
công việc","Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán
bộ tốt hoặc kém" Vì vậy nếu có đợc đội ngũ cán bộ tốt,
ngang tầm là điều kiện tiên quyết để đa sự nghiệp cách
mạng đi tới thắng lợi; từ đó trong hoạt động cách mạng của
mình, t tởng về cán bộ của Ngời đợc hình thành qua các
công việc cụ thể của thực tiễn, từ việc phát hiện, lựa chọn,
đánh giá cán bộ đến việc dùng cán bộ, từ việc huấn luyện,

đào tạo, bồi dỡng cán bộ đến việc khen thởng, phê bình, kỷ
luật cán bộ... Tất cả những yếu tố đó nằm trong mối liên hệ
mật thiết, đúc kết nên sự hoàn chỉnh, phong phú của t tởng
Hồ Chí Minh về cán bộ.
1.2 : Đặc điểm t tởng Hồ Chí Minh về cán bộ
T tởng Hồ Chí Minh về cán bộ mang đặc trng rất riêng,
có thể nói đó là đặc sắc Hồ Chí Minh với những đặc
điểm sau:
Thứ nhất, t tởng Hồ Chí Minh về cán bộ là hệ thống
những t tởng hết sức sâu sắc, toàn diện, đầy đủ về các
vấn đề cán bộ và công tác cán bộ, đồng thời cũng rất cụ thể,
thiết thực, dễ hiểu, dễ thực hiện. Ngời đề cập tới mọi vấn
4


đề cán bộ: từ xếp rất đúng, đánh giá rất cao vị trí, vai trò
và tầm quan trọng của cán bộ, đến việc đề ra tiêu chuẩn
cán bộ một cách toàn diện gồm cả đức, cả tài, cả trình độ t
duy lý luận đến phơng pháp và phong cách làm việc; đồng
thời Ngời lại đặc biệt coi trọng và đề cao vấn đề sử dụng
cán bộ một cách thiết thực ở tất cả các khâu, từ phát hiện,
tuyển chọn cán bộ đến trọng dụng, cất nhắc cán bộ, từ huấn
luyện, đào tạo cán bộ đến kiểm soát cán bộ,... Vì vậy mà t
tởng Hồ Chí Minh về cán bộ không chỉ có ý nghĩa về nhận
thức, về lý luận, mà còn có ý nghĩa rất lớn trong chỉ đạo
thực tiễn.
Thứ hai, t tởng Hồ Chí Minh về cán bộ đợc xây dựng
thành hệ thống lý luận toàn diện và đầy đủ trên cơ sở thực
tiễn, bám sát thực tiễn; nó không chỉ dừng lại ở sự phản ánh
bề ngoài một cách giản đơn, mà đi sâu vào bản chất bên

trong của vấn đề, mang tính khái quát cao, có tính lý luận
sâu sắc; vì vậy t tởng Hồ Chí Minh về cán bộ đã vợt qua đợc những hạn chế về thời gian, luôn mang tính thời sự.
Thứ ba, t tởng Hồ Chí Minh về cán bộ có tính dự báo
cáo. Nhờ nắm bắt đợc bản chất và tính quy luật khách quan
của vấn đề nên t tởng của Ngời không chỉ có ý nghĩa chỉ
đạo để giải quyết các công việc về cán bộ và công tác cán
bộ cụ thể đơng thời khi Hồ Chí Minh còn sống, mà còn chỉ
ra, thích ứng với xu hớng có tính quy luật của tơng lai. Những
t tởng có tính dự báo đó của Hồ Chí Minh không phải là dự
báo ngẫu nhiên, mà đợc hình thành trên cơ sở những phân
tích lý luận và thực tiễn sâu sắc nên luôn mang tính khoa
học cao. Vì thế t tởng Hồ Chí Minh về cán bộ đã ra đời cách
đây nhiều chục năm, nhng đến nay vẫn luôn là vấn đề mới,
vấn đề thời sự, mang hơi thở của chính cuộc sống hiện đại;
đó vẫn là kim chỉ nam, là nền tảng t tởng cho công tác cán
bộ trong tiến trình xây dựng nhà nớc pháp quyền ở nớc ta
hiện nay.

5


Từ những phân tích trên có thể khái quát: T tởng Hồ
Chí Minh về cán bộ là hệ thống những quan điểm lý luận
toàn diện và sâu sắc về cán bộ và công tác cán bộ ở nớc ta
đợc hình thành trên cơ sở tiếp thu, kế thừa t tởng, quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về cán bộ cách mạng cùng với
truyền thống trọng dụng nhân tài gắn với tiêu chuẩn đạo
đức ở Việt Nam đợc nảy sinh và kiểm nghiệm qua thực tiễn
ở Việt Nam; là cơ sở t tởng chỉ đạo công tác cán bộ của
Đảng và Nhà nớc ta.


6


Chơng II:
quá trình hình thành t tởng Hồ Chí Minh về cán bộ
1. Quá trình hình thành, phát triển t tởng Hồ Chí Minh
về cán bộ
T tởng Hồ Chí Minh về cán bộ là bộ phận cấu thành
quan trọng của t tởng Hồ Chí Minh nói chung. Nó có quá
trình hình thành và phát triển gắn liền với sự hình thành
và phát triển của t tởng Hồ Chí Minh.
1.1 Thời kỳ tìm tòi, khảo nghiệm trớc Cách mạng Tháng
Tám năm 1945
Cháy bỏng khát vọng độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh
phúc cho nhân dân, khâm phục các cuộc khởi nghĩa và các
phong trào yêu nớc do các bậc tiền bối lãnh đạo nhng không
nhất trí với phơng pháp và các cách đi đó, Hồ Chí Minh đã
tìm cách ra nớc ngoài với cuộc hành trình qua nhiều quốc gia
với nhiều gian nan, thử thách. Trên hành trình ấy, Ngời luôn
tìm tòi, miệt mài vừa học vừa làm. Trớc các vấn đề của cuộc
sống, Ngời "luôn đặt câu hỏi "tại sao?", và cố gắng tìm lời
giải đáp từ trong chính thực tiễn cuộc sống" Từ đó, Ngời
phân biệt đợc bạn, thù, cơ sở quan trọng cho t tởng Hồ Chí
Minh về giáo dục cán bộ sau này.
Mốc quan trọng đánh dấu quá trình hình thành và
phát triển t tởng Hồ Chí Minh về cán bộ là từ năm 1920, khi
bắt đầu tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin. Những quan điểm
về cán bộ và công tác cán bộ của chủ nghĩa Mác-Lênin có ảnh
hởng lớn tới sự hình thành và phát triển t tởng Hồ Chí Minh

về cán bộ; đó là những quan điểm về vị trí, vai trò của cán
bộ, về tiêu chuẩn cán bộ, về huấn luyện, sử dụng, kiểm soát
cán bộ, Thời điểm đó, Hồ Chí Minh cũng trở thành một
trong những ngời tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và
là ngời Cộng sản Việt Nam đầu tiên, thời điểm đợc coi là
"Đánh dấu một bớc chuyển biến quan trọng, bớc nhảy vọt, thay
đổi về chất trong nhận thức, t tởng Hồ Chí Minh và lập trờng chính trị của Ngời, trong đó có nhận thức về cán bộ và
7


công tác cán bộ" .Một trong những vấn đề bức xúc mà Hồ
Chí Minh nhận thấy lúc ấy đối với cách mạng Việt Nam là cần
phải có một bộ phận u tú những con ngời là đầu tầu, nòng
cốt thúc đẩy và nắm lấy thời cơ cho cách mạng Việt Nam.
Đội ngũ ấy sẽ có trách nhiệm thức tỉnh, tổ chức đoàn kết
quần chúng, huấn luyện và đa họ ra đấu tranh giành độc
lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho chính mình. Vì thế,
công việc đầu tiên là phải lựa chọn và huấn luyện cán bộ.
Khi còn cha có điều kiện tạo nguồn và đào tạo cán bộ trong
nớc, Hồ Chí Minh đã tổ chức ra các Hội ở nớc ngoài để tạo cơ
sở ban đầu. Ngời đã tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc
địa Pháp năm 1921, tiến hành đào tạo một số cán bộ nòng
cốt cho phong trào cách mạng các nớc thuộc địa, bớc đầu
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào các nớc thuộc địa, trong
đó có Việt Nam. Hồ Chí Minh đề nghị Đảng Cộng sản Pháp
cần bổ sung ngời bản xứ vào các phân bộ thuộc địa và tổ
chức các nghiệp đoàn ở các nớc thuộc địa. Khi dự Đại hội V
Quốc tế Cộng sản, Ngời đề xuất tăng cờng lựa chọn, đào tạo
cán bộ đối với các nớc thuộc địa, và chỉ ra: "Nếu hiện nay
nông dân vẫn còn ở trong tình trạng tiêu cực, thì nguyên

nhân là vì họ còn thiếu tổ chức, thiếu ngời lãnh đạo".
Công việc đầu tiên của Hồ Chí Minh khi tới Trung Quốc
cuối năm 1924 là tìm cách bắt mối liên lạc với tổ chức yêu nớc
của Phan Bội Châu mang tên Tâm Tâm xã và bắt tay ngay
vào việc xây dựng kế hoạch mở lớp cán bộ đầu tiên cho cách
mạng trong nớc tại Quảng Châu. Nhờ nỗ lực của Ngời, trờng
Huấn luyện chính trị đã đợc tổ chức, để từ đây đội ngũ
cán bộ nòng cốt đầu tiên cho cách mạng Việt Nam đã đợc
hình thành. Sau một thời gian học tập, các học viên trởng
thành nhanh chóng về chính trị, t tởng, đạo đức, đợc đa
về nớc để xây dựng cơ sở, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo
cách mạng. Tới giữa năm 1927, Hồ Chí Minh lựa chọn một số
cán bộ gửi đi học tại Đại học Phơng Đông ở Mát-xcơ-va và trờng Quân sự Hoàng Phố ở Quảng Châu. Đồng thời trên cơ sở
8


Tâm Tâm xã, Hồ Chí Minh sáng lập tổ chức Việt Nam Thanh
niên cách mạng đồng chí hội vào tháng 6/1925- tổ chức tiền
thân của Đảng sau này. Qua đó, những trí thức cách mạng
vừa có điều kiện rèn luyện, phấn đấu, vừa góp phần tích
cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Hồ Chí
Minh không những chú trọng đào tạo cán bộ từ đội ngũ
thanh niên, mà còn quan tâm đào tạo nguồn cán bộ từ
những em thiếu niên nhằm chuẩn bị cho các em trở thành
những chiến sĩ cách mạng tơng lai. Bằng những công việc
cụ thể đó, Hồ Chí Minh đã có điều kiện thể nghiệm trên
thực tế những nhận thức của mình, kiểm nghiệm lý luận đã
tiếp thu trong thực tiễn, qua đó làm hoàn bị hơn lý luận của
mình, đồng thời đào tạo cho cách mạng Việt Nam một lớp
cán bộ nòng cốt rất quan trọng đầu tiên. Nh vậy, t tởng Hồ

Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ đã từng bớc đợc hình
thành, góp phần rất lớn vào công tác đào tạo cán bộ sau này.
Khi Đảng Cộng sản Việt Nam đợc thành lập năm 1930,
Hồ Chí Minh càng giành sự quan tâm nhiều hơn tới vấn đề
cán bộ, đặc biệt là công tác đào tạo cán bộ. Ngời khẩn thiết
đề nghị với Quốc tế Cộng sản cần tăng cờng đào tạo cán bộ
cho Việt Nam và các nớc thuộc địa. Ngời cũng đề xuất biện
pháp xuất bản những cuốn sách nhỏ để cán bộ nghiên cứu,
học tập. Ngời chỉ đạo trong nớc: "Đảng phải đấu tranh không
nhân nhợng chống t tởng bè phái, và tổ chức học tập có hệ
thống chủ nghĩa Mác-Lênin để nâng cao trình độ văn hóa
và lý luận cho các đảng viên. Phải giúp đỡ cán bộ không
đảng phái nâng cao trình độ".
Đặc biệt, đầu năm 1941, Hồ Chí Minh đã trực tiếp tổ
chức lớp học và huấn luyện cho hơn 40 cán bộ cách mạng Việt
Nam, chơng trình và tài liệu huấn luyện do chính Ngời tổ
chức biên soạn.
Tháng 5/1941, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội
nghị Trung ơng 8 của Đảng, đề ra nhiệm vụ bức thiết cho
cách mạng Đông Dơng là giải phóng dân tộc, đề xuất thành
9


lập Việt Nam độc lập đồng minh hội, là mặt trận thống nhất
đoàn kết rộng rãi toàn dân tộc. Ngay sau đó, Ngời mở lớp
huấn luyện chính trị- quân sự ngắn hạn cho cán bộ tại Cao
Bằng và chỉ đạo tổ chức nhiều lớp huấn luyện cán bộ khác,
đồng thời trực tiếp giảng dạy hoặc nói chuyện thời sự cho
các học viên tại các lớp này.
Cuối năm 1944, Hồ Chí Minh trao đổi với Võ Nguyên

Giáp về chuẩn bị chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân, mà một trong những nhiệm vụ của
đội là tập trung huấn luyện cán bộ với phơng pháp là chính
trị trọng hơn quân sự, tuyên truyền trọng hơn tác chiến. Khi
về tới Tân Trào vào tháng 5/1945, Ngời chỉ thị khẩn trơng
thành lập trờng đào tạo cán bộ mang tên Trờng Quân chính
kháng Nhật, và căn dặn: "Lúc nào cũng phải chú ý xây dựng
chi bộ, bồi dỡng cán bộ, đảng viên và các phần tử trung kiên" .
Toàn bộ những hoạt động tích cực kể trên của Hồ Chí
Minh trớc Cách mạng tháng Tám 1945 đã góp phần hết sức
quan trọng vào việc xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ ban
đầu cho cách mạng Việt Nam. Chính lực lợng ấy đã trở thành
một trong những nhân tố nòng cốt quyết định thắng lợi của
cách mạng tháng Tám 1945. Cũng chính từ quá trình đó, t tởng Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng
Việt Nam đã đợc hình thành ngày càng rõ nét. Đây cũng đợc coi là giai đoạn tìm tòi, khảo sát và thể nghiệm thành
công bớc đầu của t tởng Hồ Chí Minh nói chung, t tởng Hồ
Chí Minh về cán bộ nói riêng, tạo tiền đề lý luận và thực tiễn
quan trọng cho việc hoàn thiện t tởng của Ngời sau này.
1.2 Thời kỳ từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Giai đoạn kháng chiến kiến quốc, t tởng Hồ Chí Minh về
cán bộ đã hình thành qua tìm tòi, khảo sát và bớc đầu thể
nghiệm ở giai đoạn trớc, đến đây đợc thực thi trong điều
kiện mới là có chính quyền nhà nớc trong tay, qua đó đợc bổ
sung, hoàn thiện hơn, góp phần quan trọng vào việc hình
thành đội ngũ cán bộ, đặc biệt là công tác đào tạo, bồi d10


ỡng, sử dụng cán bộ trong kháng chiến kiến quốc, đó không
chỉ là đội ngũ cán bộ của Đảng, mà còn là đội ngũ cán bộ
của Nhà nớc và của cả hệ thống chính trị dới sự lãnh đạo của

Đảng.
Khi hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954), nhiệm vụ cách
mạng hai miền khác nhau, vấn đề cán bộ và công tác cán bộ
đợc đặt ra cấp bách. Với t cách là ngời đứng đầu Đảng và
Nhà nớc, t tởng về cán bộ của Hồ Chí Minh lại đợc thực thi
trong điều kiện mới. Ngời tiếp tục có nhiều tác phẩm, bài
viết, bài phát biểu đề cập cụ thể và sâu sắc về vấn đề
cán bộ và công tác cán bộ. Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ơng 7 khóa II (1955), vấn đề kiện toàn cơ quan lãnh đạo của
Đảng, xây dựng lề lối làm việc, nâng cao ý thức tổ chức kỷ
luật và đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên đợc đặt
ra nh một nhiệm vụ quan trọng. Hồ Chí Minh đã viết bài "Ngời cán bộ cách mạng" trên báo Nhân dân ngày 03/3/1955 nêu
lên tầm quan trọng của việc rèn luyện đạo đức cách mạng
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô t của ngời cán bộ. Tại Hội
nghị, Ngời cũng nhấn mạnh yêu cầu ngời cán bộ phải không
ngừng học tập lý luận, thực hiện phê bình, tự phê bình để
nâng cao trình độ, năng lực công tác. Đặc biệt, Ngời đề
cao tinh thần tự phê bình của ngời cán bộ; bản thân Ngời
cũng làm điều đó tại Hội nghị Ban chấp hành trung ơng 10
khóa II (1956) khi bàn về cải cách ruộng đất và chấn chỉnh
tổ chức: "Tôi nhận trách nhiệm trong lúc sóng gió này". Ngời
cũng rất quan tâm tới việc rèn luyện đạo đức của ngời cán
bộ. Tháng 12/1958, Ngời viết bài "Đạo đức cách mạng" trên tạp
chí Học tập; trong đó chỉ ra vai trò của đạo đức cách mạng,
nội dung và chuẩn mực của đạo đức cách mạng, phơng cách
đấu tranh để loại trừ chủ nghĩa cá nhân.
Sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960),
Hồ Chí Minh tiếp tục có nhiều chỉ đạo cụ thể đối với công
tác cán bộ trên nhiều mặt. Ngời đề nghị Trung ơng mở lớp
11



chỉnh huấn mùa xuân 1961 với mục tiêu chống bảo thủ, hữu
khuynh, quan liêu xa rời thực tế, xây dựng tinh thần làm chủ,
phục vụ nhân dân, cần kiệm xây dựng đất nớc.

12


Chơng III:
Nội dung cơ bản của t tởng Hồ Chí Minh về cán bộ,
cán bộ lãnh đạo, quản lý.
T tởng Hồ Chí Minh về cán bộ đợc thể hiện bao trùm ở
nhiều điểm khác nhau, trong mối liên hệ mật thiết với nhau,
từ vị trí, vai trò của cán bộ đến tiêu chuẩn cán bộ, từ việc
phát hiện, lựa chọn đến đánh giá cán bộ, từ đào tạo, bồi dỡng đến việc cất nhắc, sử dụng cán bộ
1. T tởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò, tầm quan trọng
của cán bộ
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin bất cứ giai cấp và chính
đảng nào muốn giành và giữ đợc chính quyền nhà nớc thì
trớc hết phải có đợc một đội ngũ những con ngời làm đầu
tầu, nòng cốt. Giai cấp vô sản và chính đảng của mình
cũng vậy, phải đào tạo đợc đội ngũ cán bộ trung thành, đáp
ứng đợc nhiệm vụ cách mạng; đó là đội ngũ cán bộ chuyên
nghiệp, nh Mác đã khẳng định: "Muốn thực hiện t tởng thì
cần có những con ngời sử dụng lực lợng thực tiễn", và Lênin
chỉ ra: "Trong lịch sử cha hề có một giai cấp nào giành đợc
quyền thống trị nếu không đào tạo ra đợc trong hàng ngũ
của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền
phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào"; vì
thế, theo Lênin với bất kỳ đảng cầm quyền nào đều có hai

vấn đề hệ trọng là đờng lối chính trị và vấn đề cán bộ,
trong đó mấu chốt là vấn đề con ngời, vấn đề lựa chọn con
ngời.
Kế thừa những quan điểm đó của chủ nghĩa MácLênin, nhận thức rõ một cách sâu sắc vị trí, vai trò của ngời
cán bộ, Hồ Chí Minh đã giành sự quan tâm đặc biệt đến
vấn đề này, tìm cách giải quyết một cách linh hoạt và toàn
diện vấn đề đó phù hợp với điều kiện thực tế của cách mạng
Việt Nam. Hồ Chí Minh coi "Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc", và "Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán
13


bộ tốt hoặc kém". Vì thế theo Ngời điều kiện tiên quyết
để đa sự nghiệp đi tới thắng lợi là phải có cán bộ tốt. Cán bộ
chính là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ với nhân dân, làm
cho mối liên hệ đó trở nên khăng khít, hiện thực, mà kết quả
là đờng lối chính sách của Đảng, của Chính phủ đợc thực thi
bởi chính đội ngũ cán bộ và bởi chính nhân dân. Cán bộ là
ngời hiểu chính sách và đem chính sách đó giải thích cho
nhân dân để nhân dân hiểu và thi hành. Ngợc lại cũng
chính cán bộ là ngời lăn lộn cùng nhân dân, hiểu đợc nhân
dân, đem tâm t ý nguyện của nhân dân phản ánh lại với
Đảng và Chính phủ, nh Hồ Chí Minh đã chỉ ra: "Cán bộ là
những ngời đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải
thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem
tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ
hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng".
Hồ Chí Minh hiểu rõ muốn tổ chức công việc đợc tốt
thì rất cần có ngời cán bộ có tài, có đức. Cán bộ không chỉ
là yếu tố quyết định chất lợng của chính sách, đờng lối, mà

còn đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thực thi
chính sách đờng lối đó, đặc biệt là vai trò gơng mẫu, đầu
tầu trong thực hiện. Qua đó thấy đợc rằng Hồ Chí Minh đã
đặt vấn đề cán bộ ở một vị trí có tính chất quyết định:
"Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công và thất bại
của chính sách đó là do cách tổ chức công việc, do nơi lựa
chọn cán bộ, do nơi kiểm tra".
Nhận thức đợc vị trí, vai trò của ngời cán bộ, nên từ rất
sớm và trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí
Minh luôn quan tâm chú trọng mảng công tác này. Ngay từ
tháng 6 năm 1923, trong bức th gửi các bạn cùng hoạt động ở
Pháp, Ngời đã sớm đề cập tới vấn đề cán bộ cho cách mạng
Việt Nam: "Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nớc, đi
vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ,
huấn luyện họ, đa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập"[39,
tr.420]; và 2 tháng sau, trong một tài liệu về tình hình Đông
14


Dơng, Hồ Chí Minh đã nêu chơng trình hành động 4 điểm,
trong đó có nêu rõ tại điểm 2 và 3: "2. Tập hợp những phần
tử dân tộc cách mạng, 3. Cố gắng đa những thanh niên ngời
bản xứ đi Mát-xcơ-va". Tiếp theo Hồ Chí Minh còn có nhiều
báo cáo đề cập vấn đề đào tạo đội ngũ cán bộ cho cách
mạng Việt Nam. Qua đó thấy toát lên một điều là t tởng Hồ
Chí Minh về cán bộ đã coi cán bộ có vị trí, vai trò hết sức
quan trọng mang tính chiến lợc của sự nghiệp cách mạng.
Có nhiều điểm cụ thể chứng minh những điều trên là
ở chỗ kể từ khi tới Trung Quốc tiếp cận rất gần để chỉ đạo
cách mạng Việt Nam và khi về nớc trực tiếp chỉ đạo cách

mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã trực tiếp lựa chọn nhiều thanh
niên u tú gửi đi đào tạo nguồn cán bộ ở Đại học phơng Đông
hoặc ở trờng Quân sự Hoàng Phố, hoặc trực tiếp mở lớp huấn
luyện cán bộ, hoặc chỉ đạo việc mở lớp huấn luyện cán bộ và
trực tiếp làm công tác giảng dạy.
Cũng cần phải thấy rằng khi bàn về vai trò, vị trí và
tầm quan trọng của vấn đề cán bộ, Hồ Chí Minh luôn đặt
cán bộ trong sự tổng hòa các mối quan hệ đa chiều. Khi coi
"cán bộ là cái gốc của mọi công việc" Hồ Chí Minh cho thấy
không có cán bộ thì mọi công việc không thể hoàn thành.
Nhng Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở đó, ở chỗ có hay
không có cán bộ để cho công việc; mà Ngời luôn tìm đến
điểm gốc của vấn đề, là chất lợng cán bộ để từ đó mới
khẳng định đợc một điều "muôn việc thành công hoặc
thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém". Nh vậy cán bộ chính
là cái dây chuyền trong cỗ máy công nghiệp liên hoàn, có
nhiệm vụ vừa tạo đà, vừa kết nối sự vận hành của cỗ máy ấy;
để từ đó Hồ Chí Minh đòi hỏi ngời cán bộ phải là cán bộ tốt,
để từ nguồn "tiền vốn" ấy mới làm ra đợc lãi; bởi thế nếu có
cán bộ tốt thì thành công, tức "có lãi", còn nếu không có cán bộ
tốt thì hỏng việc, tức là "lỗ vốn".
Khẳng định vị trí, vai trò của ngời cán bộ, đòi hỏi ngời cán bộ phải có những đức tính tốt, Hồ Chí Minh cũng
15


không cực đoan cho rằng cán bộ chỉ có tính tốt hay toàn
tính tốt, mà cán bộ trớc hết cũng là con ngời, có thể có cả
tính xấu. Nhng ngời cán bộ phải biết nhận biết, sửa chữa,
loại bỏ tính xấu, phát triển tính tốt của mình; đồng thời Hồ
Chí Minh cũng không cho rằng cán bộ là nhân tố quyết

định tất cả, mà "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng
nhân dân", còn vai trò quyết định của cán bộ là ở chỗ nhận
thức đợc để đi trớc, làm gơng, lãnh đạo.
Nh vậy có thể thấy rõ rằng Hồ Chí Minh đã đặt vấn
đề cán bộ ở vị trí hết sức quan trọng, có vai trò to lớn đặc
biệt trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Do đó với Hồ Chí
Minh, việc xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và
năng lực trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ là vấn đề cấp
bách của Đảng và Nhà nớc. Đó chính là những tiêu chuẩn cơ
bản mà ngời cán bộ cần phải có để vừa thể hiện và thực
hiện đợc vị trí, vai trò của mình trong sự nghiệp cách mạng.
2. T tởng Hồ Chí Minh về tiêu chuẩn cán bộ
Tiêu chuẩn cán bộ là vấn đề rất quan trọng trong công
tác cán bộ. Đó là cơ sở để tiến hành tổ chức, xem xét, đánh
giá, lựa chọn, bố trí sắp xếp và sử dụng cán bộ; đó cũng là
cơ sở để
bản thân mỗi ngời cán bộ phấn đấu, tự rèn luyện, hoàn
thiện mình. Chủ nghĩa Mác-Lênin đòi hỏi cán bộ phải là ngời
"Có nhiều trí tuệ hơn một chút, nhiều sự phân minh trong t
tởng hơn một chút và kiến thức rộng", và yêu cầu ngời cán
bộ "Không nấp sau một chế độ quan liêu giấy tờ, không ngại
thừa nhận những sai lầm của mình bằng cách sửa chữa
những sai lầm ấy".
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí
Minh đánh giá rất cao vị trí, vai trò của ngời cán bộ, đồng
thời cũng đòi hỏi ở ngời cán bộ phải có những tiêu chuẩn
nhất định, phải tự giác rèn luyện mình về mọi mặt, không
16



ngừng nâng cao phẩm chất, năng lực để xứng đáng với vị
trí, vai trò của mình. Đa ra những tiêu chuẩn đó đối với cán
bộ là Hồ Chí Minh xuất phát từ những yêu cầu khách quan
của cách mạng chứ không phải xuất phát từ ý chí chủ quan
của mình. T tởng Hồ Chí Minh về những tiêu chuẩn ấy mang
tính toàn diện và đầy đủ, gồm các tiêu chuẩn về đạo đức,
phẩm chất năng lực, về trình độ lý luận, về phong cách và
phơng pháp của ngời cán bộ.
2.1 Ngời cán bộ phải có t cách đạo đức cách mạng
Làm cách mạng với khát vọng giải phóng dân tộc, điều
mà Hồ Chí Minh quan tâm trớc hết ở ngời cán bộ cách mạng
là vấn đề đạo đức. Ngời cho rằng, đạo đức chính là cái gốc
quan trọng hàng đầu của ngời cách mạng "Ngời cách mạng
phải có đức, không có đức thì dù tài giỏi mấy cũng không
lãnh đạo đợc nhân dân". Đối với ngời cán bộ, nếu thiếu hoặc
yếu về đạo đức cách mạng thì không thể làm tốt những
công việc đợc giao. Đạo đức là hết sức cần thiết cho tất cả
mọi ngời, và đặc biệt cần thiết cho ngời cán bộ. "Ngời cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn
thành đợc nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Ngời đòi hỏi cán bộ
phải giữ đợc đạo đức cách mạng, đó mới là ngời cán bộ chân
chính. Chỉ khi có đầy đủ đạo đức cách mạng thì cán bộ
mới có đủ điều kiện làm cách mạng. "Muốn giải phóng dân
tộc, giải phóng cho loài ngời là một công việc to tát, mà tự
mình không có đạo đức, không căn bản, tự mình đã hủ
hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì".
Nội dung đạo đức cách mạng trong t tởng Hồ Chí Minh
đợc thể hiện một cách dễ hiểu, thiết thực nhng cũng đầy
đủ và toàn diện. Tiêu chí đạo đức ngời cán bộ cách mạng đợc Hồ Chí Minh chỉ ra hết sức cụ thể, đó là nhân, nghĩa,
trí, dũng, liêm; mỗi ngời cán bộ phải hội

đủ các phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
t. Hồ Chí Minh so sánh bốn đức cần, kiệm, liêm, chính của
17


ngời cán bộ cách mạng nh bốn mùa xuân, hạ, thu, đông của
trời, nh bốn phơng đông, nam, tây, bắc của đất, mà thiếu
một đức đó thì không thành ngời, cũng nh thiếu một mùa
không thành trời, thiếu một phơng không thành đất. Ngời
đòi hỏi ngời cán bộ phải giữ bốn đức đó để không trở nên
hủ bại, không biến thành sâu mọt của nhân dân, mà phải là
công bộc của nhân dân. Ngời cách mạng bớc vào vị thế ngời
cán bộ không phải để làm quan cách mạng hay cầu mong lợi
lộc, mà phải hiểu rằng cán bộ trong các cơ quan từ trung ơng
đến địa phơng đều là công bộc của dân, gánh vác công
việc chung cho nhân dân, chứ không phải để đè đầu cỡi
cổ dân, phải là ngời lo trớc thiên hạ và vui sau thiên hạ.
Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng đạo đức cách mạng đòi
hỏi ngời cán bộ phải trung thành với Đảng, trung thành với Tổ
quốc, đồng thời đặt mình trong mối quan hệ với chính
mình, với đồng đội, với công việc, với nhân dân, với đoàn
thể một cách hài hòa.
Bên cạnh việc chỉ ra những tiêu chí đạo đức ngời cán
bộ cách mạng, Hồ Chí Minh còn chỉ ra những căn bệnh mà
cán bộ phải phòng tránh, sửa chữa. Đó là óc địa phơng chủ
nghĩa, bè phái, quân phiệt, hẹp hòi, chuộng hình thức, lối
làm việc bàn giấy, vô kỷ luật, tham lam, lời biếng, kiêu ngạo,
lãng phí.
Về con đờng hình thành đạo đức ngời cán bộ, Hồ Chí
Minh cho rằng vấn đề là phải tự bản thân mỗi ngời cán bộ

rèn luyện thờng xuyên, hàng ngày. "Đạo đức cách mạng không
phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ
hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng nh ngọc càng mài
càng sáng, vàng càng luyện càng trong".
Nh vậy, vấn đề đạo đức đợc Hồ Chí Minh coi là cái
nền, cái gốc của ngời cán bộ cách mạng. T tởng ấy của Hồ Chí
Minh trớc sau cơ bản là nhất quán, thể hiện ở mấy điểm:
Trung với nớc, hiếu với dân, ngời cán bộ phải là đầy tớ của
nhân dân, dũng cảm hy sinh, không sợ khó khăn, gian khổ,
18


gạt bỏ lợi ích cá nhân để phục tùng lợi ích tập thể, khiêm tốn
học hỏi, không tự cao, tự đại, cần kiệm liêm chính và tinh
thần đoàn kết hữu nghị.
2.2 Ngời cán bộ phải có năng lực tổ chức thực hành
Chú trọng và đánh giá rất cao vai trò của đạo đức đối
với ngời cán bộ, Hồ Chí Minh cũng đòi hỏi ngời cán bộ phải thờng xuyên nâng cao trình độ, năng lực tổ chức thực hành
để hoàn thành các nhiệm vụ đợc giao. Theo Hồ Chí Minh,
ngời cán bộ chỉ có đạo đức trong sáng cùng lòng nhiệt tình
hăng hái sẵn sàng hy sinh thôi thì cha đủ, mà còn phải có
năng lực, trí tuệ, biết nhận thức và vận dụng đúng đắn
những quy luật của tự nhiên và xã hội vào hoạt động thực
tiễn của mình.
Năng lực đầu tiên mà Hồ Chí Minh đòi hỏi ở ngời cán bộ
cách mạng là năng lực lãnh đạo, quản lý, là khả năng tổ chức
động viên quần chúng thực hiện tốt đờng lối, chủ trơng của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nớc. Vì cán bộ chính là
cầu nối, là ngời đem chính sách của Đảng, của Chính phủ
đến với nhân dân, nên đòi hỏi cán bộ phải có năng lực này,

nếu không
thì không xứng đáng là cán bộ cách mạng. Và để tuyên
truyền thực hiện tốt đợc đờng lối của Đảng và Nhà nớc trong
quần chúng, đòi hỏi cán bộ phải có năng lực thực hành dân
chủ, nghĩa là phải có mối liên hệ mật thiết với quần chúng,
tin ở quần chúng và học hỏi ở chính quần chúng, "Không học
hỏi dân thì không lãnh đạo đợc dân"; và phải cần có sự
giúp đỡ của dân, vì "Dân chúng đồng lòng việc gì cũng
làm đợc. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không
nên.
Theo Hồ Chí Minh, năng lực tổ chức thực hành của ngời
cán bộ thể hiện ở những điểm là: quyết định vấn đề một
cách cho đúng, tổ chức thi hành cho đúng và tổ chức kiểm
soát cho đúng. Để quyết định vấn đề một cách cho đúng

19


cần phải có năng lực, trí tuệ, nắm đợc thông tin và xử lý
thông tin, đa ra phơng án để lựa chọn, quyết định.
Hồ Chí Minh cho rằng, năng lực tổ chức thực hành còn
thể hiện ở chỗ phải biết: "Một là liên hợp chính sách chung với
sự chỉ đạo riêng. Hai là liên hợp ngời lãnh đạo với quần
chúng".
2.3 Ngời cán bộ phải có trình độ lý luận
Với Hồ Chí Minh: "Lý luận là sự tổng kết những kinh
nghiệm của loài ngời, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên
và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử". Vì vậy, lý luận
là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn; kém lý luận thì
gặp công việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho

đúng, xử trí cho khéo, không thấy rõ điều kiện khách quan,
chỉ làm theo suy nghĩ chủ quan, nên thờng thất bại; vì thế
ngời cán bộ phải học tập, rèn luyện để không ngừng nâng
cao trình độ lý luận. Nhng cũng phải tránh tình trạng lý luận
suông, lý luận không xuất phát, không áp dụng đợc vào thực
tiễn. Để nâng cao lý luận, phải thờng xuyên tổng kết thực
tiễn, mổ xẻ xem xét kỹ càng thực tiễn, để "làm phong phú
thêm lý luận bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực
tiễn".
Theo Hồ Chí Minh, ngời cán bộ nâng cao lý luận không
có nghĩa là thuộc lòng hay mô tả lý luận, mà phải khái quát,
tìm ra quy luật của vấn đề, làm phong phú lý luận bằng
những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn. Đồng thời cũng
đòi hỏi cán bộ tự giác xem học tập lý luận là một nhiệm vụ
phải hoàn thành.
3. T tng ca Ch tch H Chớ Minh v phong cỏch lm vic ca ngi
cỏn b lónh o, qun lý.
3.1 Kt hp tớnh nguyờn tc cng rn vi bin phỏp thc hin linh hot, mm
do.

20


Yêu cầu đầu tiên trong phong cách làm việc của người lãnh đạo, quản lý là
phải có sự thống nhất giữa tính Đảng, tính nguyên tắc cao với tính năng động,
sáng tạo, sự nhạy cảm với cái mới.
"Trung với Đảng", "Trung với nước, hiếu với dân" là phẩm chất cơ bản xuyên
suốt mọi hoạt động của người lãnh đạo, quản lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định rõ điều chủ chốt trong phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý
là phải:

“Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường
lối chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên
trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân
dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi công
việc”
Trong mọi công tác, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể, người lãnh đạo, quản lý có thể
sử dụng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau để hoàn thành chức trách,
nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, ở đây cần có sự vững vàng, không thay đổi
trong những vấn đề thuộc về nguyên tắc. Những vấn đề có tính Cương lĩnh,
quan điểm cơ bản của Đảng, mục tiêu, chính sách, pháp luật của Nhà nước là
bất biến, phải giữ vững như sắt đá.
Để thực thực hiện những điều bất biến đó, các hình thức, phương pháp, biện
pháp, bước đi phải hết sức mềm dẻo, linh hoạt mới có thể đạt kết quả. Như
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn những người lãnh đạo quản lý phải có bản lĩnh
Dĩ bất biến ứng vạn biến.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu đấu tranh bất biến của Hồ
Chí Minh, của Đảng ta và dân tộc ta. Con đường đi đến mục tiêu đó là con
đường đấu tranh lâu dài, đầy khó khăn gian khổ, đòi hỏi trí tuệ, sự hy sinh,
phấn đấu của nhiều lớp người, nhiều thế hệ. Trong mỗi bước đi lên, cách
mạng phải đối phó với muôn vàn sự biến đổi khó lường.Người cách mạng,
các nhà lãnh đạo, quản lý phải luôn tỉnh táo, sáng suốt, nhạy bén để linh hoạt
biến đổi sách lược, có những hình thức, biện pháp đấu tranh biến hóa thích
hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể, đối tượng, con người cụ thể trong mỗi
bước đi lên của cách mạng đặt ra.
21


3.2 Kết hợp tính cách mạng với tính khoa học
Người xưa nói:“Thiếu Nhiệt hứng tất không thành đại sự”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định rõ: “Muốn lên sự nghiệp lớn, tinh thần càng phải cao”. Vì

có nhiệt tình cách mạng, người cán bộ lãnh đạo, quản lý mới say mê, tận tuỵ
với công việc để tìm tòi, sáng tạo, đề ra những phương án tối ưu nhằm thực
thi nhiệm vụ đạt hiệu quả cao.
Song, nhiệt tình cách mạng của người cán bộ lãnh đạo chỉ đem lại hiệu qủa
thiết thực cho cuộc sống của nhân dân khi nó kết hợp chặt chẽ với tri thức
khoa học, tôn trọng và tuân theo quy luật khách quan.
Nhiệt tình cách mạng sẽ trở thành duy tâm, duy ý chí nếu thiếu tính khoa học.
Nhiệt tình cách mạng của người cán bộ lãnh đạo, quản lý chỉ có hiệu quả cao
khi họ thực sự am hiểu công việc, tinh thông nghiệp vụ theo cương vị mình
phụ trách. Có nhiệt tình mà thiếu tri thức khoa học sẽ dẫn tới làm sai đường
lối, chính sách, hành động trái quy luật, thậm chí dẫn đến phá hoại một cách
vô ý thức. “Nhiệt tình cộng với dốt nát bằng đại phá hoại”.
Tính khoa học trong phong cách làm việc phải được đảm bảo bằng tri thức
khoa học, do vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên các cán bộ lãnh đạo, quản lý:
“Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với
công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế
giới ngày càng đổi mới, nhân dân ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải
tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”. “Bất kỳ ở hoàn cảnh nào, đảng
viên và cán bộ cần phải luôn luôn ra sức phấn đấu, ra sức làm việc, cố gắng
học tập để nâng cao trình độ văn hoá, tri thức và chính trị của mình.”.
3.3 Kết hợp tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách và quyết đoán
Là những người có trọng trách trong một tập thể, cán bộ lãnh đạo, quản lý cần
rèn luyện phong cách làm việc dân chủ, tập thể. Thực hành nguyên tắc tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Một người dù tài giỏi đến
đâu cũng không thể nắm được hết mọi mặt của một vấn đề phức tạp, cũng
như không thể biết hết được mọi việc trong đơn vị cũng như đời sống xã hội.
Cho nên, cần phải có cách làm việc tập thể để phát huy được trí tuệ của tập

22



thể, của đông đảo quần chúng nhân dân nhằm hoàn thành sự nghiệp của một
tập thể, một đơn vị hay địa phương mà riêng một mình cán bộ lãnh đạo,

quản lý không làm nổi. Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Lãnh đạo, quản lý không
phát huy trí tuệ tập thể, thì sẽ dẫn đến tệ bao biện, độc đoán, chủ quan, chuyên
quyền.
Tuy nhiên, có ý thức tập thể cao, biết tôn trọng và lắng nghe ý kiến tập
thể, phát huy trí tuệ tập thể, nhưng lại không có tính quyết đoán, không dám
chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể, thì không thể có những quyết định kịp
thời đáp ứng yêu cầu cuộc sống đòi hỏi và công việc cũng không thể tiến triển
được.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý các cán bộ lãnh đạo, quản lý rằng:
“Không phải vấn đề gì nhỏ nhặt, vụn vặt, một người vẫn có thể giải quyết
được, cũng cứ đưa ra bàn mới là tập thể lãnh đạo. Nếu làm như vậy là hiểu
máy móc. Kết quả là cứ khai hội mà hết ngày giờ. Những việc bình thường,
một người có thể giải quyết đúng, thì người phụ trách cứ cẩn thận giải quyết
đi. Những việc quan trọng mới cần tập thể quyết định”
Đặc biệt trong những thời điểm then chốt, khi có thời cơ người lãnh đạo, quản
lý phải dám nghĩ, dám làm, dám quyết đoán. Như Người khẳng định:
“Lạc nước hai xe đành bỏ phí
Gặp thời một tốt cũng thành công”
Phong cách làm việc của người cán bộ lãnh đạo, quản lý đúng đắn là phải kết
hợp chặt chẽ giữa cách làm việc dân chủ tập thể với tính quyết đoán, dám
chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể, trước quốc dân đồng bào, kịp thời đưa
ra những quyết sách đúng. Những hiện tượng coi thường tập thể, hoặc dựa
dẫm, ỷ lại tập thể, không dám quyết đoán, không nêu cao trách nhiệm cá nhân
đều làm trì trệ, suy yếu năng lực lãnh đạo, hiệu quả quản lý của người cán bộ.
3.4 Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, nói với làm
23



Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ
phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì
lúng túng như nhắm mắt mà đi”.“Làm mà không có lý luận thì không khác gì
đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp váp”. Cán bộ lãnh đạo, quản
lý cần phải có lý luận mới có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Song, Người cũng chỉ rõ sự cần thiết phải biết liên hệ lý luận với thực tiễn
trong công tác. “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù
quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”. Lý luận cốt
để áp dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc lòng, để đem lòe thiên hạ thì lý luận ấy
cũng vô ích. Thậm chí, thuộc lý luận mà xa rời thực tiễn thì sẽ dẫn tới bệnh
giáo điều, sách vở, làm tổn hại cho phong trào cách mạng.
Một trong những yêu cầu về phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản
lý là phải có năng lực vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn. Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Học tập chủ nghĩa Mác- Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc,
đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ
biến của chủ nghĩa Mác- Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh
thực tiễn ở nước ta.”.
Điểm nổi bật nhất ở Hồ Chí Minh, chính là luôn luôn có sự thống nhất giữa lý
luận với thực tiễn, tư tưởng và hành động, nói đi đôi với làm. Cả cuộc đời
cách mạng đầy phong ba, bão táp của Người là một bài học lớn chiếu sáng
nguyên tắc tư tưởng, đạo đức, phong cách làm việc - Nói đi đôi với làm.
Người nói: “1 tấm gương sống còn giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền”.
Với người lãnh đạo, quản lý. “Phải lấy kết quả thiết thực đã giúp sức bao
nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình.
Hãy kiên quyết chống bệnh nói suông, thói phô trương hình thức, lối làm việc
không nhằm mục đích nâng cao sản xuất”.

3.5 Phong cách làm việc quần chúng


24


Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên cán bộ, đảng viên nói chung và các cán bộ lãnh
đạo, quản lý trong mọi công tác của Đảng, của Chính phủ, Đoàn thể, phong
cách làm việc tốt nhất là phải:
"Từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng. Nghĩa là gom góp mọi ý
kiến rời rạc, lẻ tẻ của quần chúng, rồi phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp đặt nó
thành những ý kiến có hệ thống. Rồi đem nó tuyên truyền, giải thích cho quần
chúng và làm nó thành ý kiến của quần chúng, và làm cho quần chúng giữ
vững và thực hành ý kiến đó. Đồng thời nhân lúc quần chúng thực hành, ta
xem xét lại, coi ý kiến đó có đúng hay không. Rồi lại tập trung ý kiến của
quần chúng, phát triển những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm, tuyên
truyền, giải thích, làm cho quần chúng giữ vững và thực hành.
Cứ như thế mãi thì lần sau chắc đúng mực hơn, hoạt bát hơn, đầy đủ hơn lần
trước.
Đó là cách lãnh đạo cực kỳ tốt"
Các cán bộ lãnh đạo, quản lý do không biết gom góp ý kiến của quần chúng,
kinh nghiệm của quần chúng, cho nên ý kiến của họ thành ra lý thuyết suông,
không hợp với thực tế. Vì vậy, ngay trong công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, trong cải cách bộ máy Nhà nước và nhiều công việc khác, cần phải
thực hành cách liên hợp sự lãnh đạo với quần chúng và liên hợp chính sách
chung với sự chỉ đạo riêng. Phải dùng cách “Từ trong quần chúng ra, trở lại
với quần chúng”. Biết làm như vậy mới thật là biết lãnh đạo, quản lý.
Đứng đầu Đảng, Nhà nước, quyền cao, chức trọng, nhưng Hồ Chí Minh
không xa cách với quần chúng, Người có phong cách sống và làm việc sâu sát
với thực tiễn, gần gũi với nhân dân, thấu hiểu và chia sẻ mọi niềm vui và nỗi
vất vả của người dân. Với quần chúng, Hồ Chí Minh vừa là người đồng hành
vừa là người dẫn dắt

Hồ Chí Minh dành nhiều công sức giáo dục cho các cán bộ lãnh đạo, quản lý
phong cách làm việc đi sâu, đi sát quần chúng, mong muốn họ trở thành
những người lãnh đạo, quản lý thành công do được dân tin, dân yêu, dân
phục, dân theo, dân ủng hộ.

25


×