Tải bản đầy đủ (.pdf) (198 trang)

Trách nhiệm hình sự trong đồng phạm theo luật hình sự việt nam luận án TS luật 623801

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 198 trang )

®¹i häc quèc gia hµ néi
khoa luËt

phÝ thµnh chung

TR¸CH NHIÖM H×NH Sù TRONG §åNG PH¹M
THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM

luËn ¸n tiÕn sÜ luËt häc

Hµ néi - 2016


đại học quốc gia hà nội
khoa luật

phí thành chung

TRáCH NHIệM HìNH Sự TRONG ĐồNG PHạM
THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 62 38 01 04

luận án tiến sĩ luật học

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: GS.TSKH Lê Văn Cảm
PGS.TS Trần Văn Luyện

Hà nội - 2016




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận
án là trung thực. Những kết luận khoa học của
luận án chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Phí Thành Chung


mục lục
Trang
mở đầu

1

Ch-ơng 1: TNG QUAN TèNH HèNH NGHIấN CU

8

1.1.

Tỡnh hỡnh nghiờn cu trong nc

8


1.2.

Tỡnh hỡnh nghiờn cu ngoi nc

18

1.3.

Nhng vn t ra cn tip tc nghiờn cu

26

Ch-ơng 2: NHNG VN Lí LUN V TRCH NHIM HèNH S

30

TRONG NG PHM

2.1.

ng phm v khỏi nim trỏch nhim hỡnh s trong ng phm

30

2.2.

Cỏc cn c quy nh trỏch nhim hỡnh s trong ng phm

45


2.3.

Ni dung ca ch nh trỏch nhim hỡnh s trong ng phm theo

53

lut hỡnh s
2.4.

Trỏch nhim hỡnh s trong ng phm theo phỏp lut hỡnh s mt s

66

nc v lut hỡnh s quc t
Ch-ơng 3: PHP LUT HèNH S VIT NAM V THC TIN P

83

DNG CC QUY NH V TRCH NHIM HèNH S
TRONG NG PHM GIAI ON XẫT X

3.1.

Phỏp lut hỡnh s Vit Nam v trỏch nhim hỡnh s trong ng phm

83

t sau Cỏch mng thỏng Tỏm 1945 n nay
3.2.


Thc tin ỏp dng cỏc quy nh v trỏch nhim hỡnh s trong ng

96

phm giai on xột x
Ch-ơng 4: TIP TC HON THIN CC QUY NH CA PHP

123

LUT HèNH S VIT NAM V TRCH NHIM HèNH S
TRONG NG PHM V CC GII PHP BO M
P DNG

4.1.

C s tip tc hon thin cỏc quy nh ca phỏp lut hỡnh s Vit
Nam v trỏch nhim hỡnh s trong ng phm

123


4.2.

Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về

129

trách nhiệm hình sự trong đồng phạm
4.3.


Các giải pháp bảo đảm áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt

140

Nam về trách nhiệm hình sự trong đồng phạm
KẾT LUẬN

148

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN

151

ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

152


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

CTTP

: Cấu thành tội phạm


PLHS

: Pháp luật hình sự

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Tội phạm là một chế định bao trùm, không những là cơ sở cho mọi chế định
khác mà còn có tính chất quyết định, nền tảng của luật hình sự. Trên cơ sở này các
chế định trách nhiệm hình sự (TNHS), miễn TNHS, hình phạt… được hình thành
tạo thành hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự (PLHS) làm cơ sở cho việc
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Chế định đồng phạm, với những quy định
về căn cứ, hình thức đồng phạm và các loại người cũng như TNHS đối với họ...là

một bộ phận quan trọng của bất kỳ luật hình sự quốc gia nào. Tuy nhiên, ở những
giai đoạn lịch sử và ở những cấp độ khác nhau luật hình sự mỗi nước có quy định
về TNHS đối với những người trong đồng phạm phù hợp, đáp ứng yêu cầu phòng
ngừa, đấu tranh chống tội phạm đối với hình thức phạm tội đặc biệt này.
Dưới góc độ khoa học, TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý và được
thể hiện bằng việc người phạm tội bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế
về hình sự mà Nhà nước quy định. Với tư cách là hậu quả pháp lý của việc thực
hiện tội phạm, TNHS chỉ phát sinh khi có tội phạm và người phạm tội. Tội phạm có
thể do một người, nhưng cũng có thể do nhiều người thực hiện và nếu họ cùng cố ý
thực hiện tội phạm thì coi là đồng phạm. Khoa học pháp lý xem đồng phạm là hình
thức phạm tội đặc biệt, do sự tương tác, hỗ trợ để đạt tới mục đích chung mà những
người phạm tội cùng hướng tới. Do có sự bàn bạc, phân công vai trò khi thực hiện
tội phạm nên hậu quả gây ra cho xã hội thường lớn hơn tội phạm đơn lẻ do một
người thực hiện, thậm chí có những trường hợp tội phạm chỉ có thể thực hiện khi có
đồng phạm. Theo thống kê của Tòa án nhân dân (TAND) thành phố Hà Nội thì
phạm tội bằng hình thức đồng phạm chiếm tỷ lệ đáng kể trong cơ cấu tội phạm:
15,42% trên tổng số vụ án và 28,11% bị cáo trên tổng số bị cáo do TAND hai cấp
thành phố Hà Nội thụ lý, giải quyết. Mặt khác, vai trò của những người trong đồng
phạm cũng khác nhau về tính chất, mức độ tham gia nên đòi hỏi phải có sự phân
hóa TNHS giữa những người trong đồng phạm với nhau. Vì vậy, ngoài việc phải

1


chịu trách nhiệm chung, khi xác định TNHS đối với những người trong đồng phạm
còn phải căn cứ vào tính chất phạm tội và mức độ tham gia của họ trong đồng
phạm. Đây là hai mặt của nguyên tắc xác định TNHS trong đồng phạm có quan hệ
biện chứng với nhau, tạo nên sự thống nhất, nhưng công bằng khi áp dụng các quy
định về TNHS đối với những người trong đồng phạm.
Ở nước ta, ngay từ khi chưa có Bộ luật hình sự (BLHS), trong một số văn

bản pháp luật đã quy định đồng phạm với các tên gọi khác nhau, như: "cộng phạm",
"chính phạm", "tòng phạm"… và giải quyết vấn đề TNHS trong vụ án đồng phạm.
Khi BLHS 1985 ra đời, lần đầu tiên chế định đồng phạm được pháp điển hóa tập
hợp hệ thống các quy phạm pháp luật về đồng phạm cả ở phần chung và phần các
tội phạm quy định không chỉ nội hàm của đồng phạm mà còn bao gồm cả việc phân
loại đồng phạm làm cơ sở cho việc xác định TNHS của những người trong đồng
phạm. BLHS 1999 ra đời đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển kinh tế xã hội và nhất là
yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội phạm, trong đó có sự sửa đổi bổ sung các quy
định về đồng phạm. Tại Bộ luật này, trên cơ sở kế thừa BLHS 1985, các quy định
về đồng phạm và TNHS trong đồng phạm được thể hiện chi tiết, cụ thể hơn, phù
hợp với thực tiễn giải quyết vụ án đồng phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Vì
vậy, đã góp phần tích cực vào việc đấu tranh xử lý tội phạm nói chung và đồng
phạm nói riêng, nhiều vụ án đồng phạm có tổ chức gây thiệt hại lớn cho lợi ích của
nhà nước, của xã hội và của nhân dân được xét xử đúng người, đúng tội, công bằng
khách quan, được xã hội đồng tình, nhân dân tin tưởng vào tòa án và nền tư pháp
Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Tuy nhiên, chế định đồng phạm của BLHS 1999 chưa đáp ứng được yêu
cầu của chiến lược cải cách tư pháp, đòi hỏi của yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và
hội nhập quốc tế, còn bộc lộ nhiều hạn chế. Cụ thể là: i) Tuy có quy định về đồng
phạm, nhưng phạm tội có tổ chức, hình thức đồng phạm nguy hiểm nhất, gây hậu
quả đặc biệt lớn, tác động tiêu cực nghiêm trọng đến ổn định xã hội, phát triển kinh
tế xã hội chưa được quy định chặt chẽ, chưa phù hợp với việc hình thành các băng
nhóm xã hội đen, xuất hiện các tổ chức phạm tội có dấu hiệu của mafia…ii) Các

2


quy định này mới thể hiện ở mức độ hạn chế, chưa đầy đủ, nhiều vấn đề liên quan
đến xác định TNHS trong đồng phạm chưa được quy định riêng biệt, có tính chất
đặc thù cho hình thức phạm tội đặc biệt này như: cơ sở TNHS trong đồng phạm,

TNHS trong trường hợp đồng phạm chưa hoàn thành, tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội trong đồng phạm, nguyên tắc xác định trách nhiệm trong đồng phạm, miễn
TNHS trong đồng phạm, phân hóa TNHS trong đồng phạm... BLHS 2015 có sửa
đổi, bổ sung một số quy định về TNHS trong đồng phạm nhưng vẫn chưa giải quyết
được những hạn chế nêu trên. Trong khi đó, TNHS trong đồng phạm là chế định
được quy định khác nhau trong PLHS của các nước trên thế giới và về mặt lý luận
vẫn đang còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Mặt khác, thực tiễn áp dụng các quy định về TNHS trong đồng phạm còn
nhiều quan điểm khác nhau dẫn đến việc áp dụng các quy định về TNHS trong đồng
phạm ở từng thời điểm, ở các địa phương và ở các cơ quan tiến hành tố tụng khác
nhau ảnh hưởng tới nguyên tắc công bằng trong xử lý tội phạm. Trong thực tiễn, các
cơ quan tố tụng còn có sự đánh giá khác nhau trong việc áp dụng các quy định
PLHS để xác định TNHS trong đồng phạm, dẫn đến việc áp dụng quá nặng hoặc
quá nhẹ TNHS của những người đồng phạm. Nhiều vụ án bị hủy, sửa (như TAND
cấp huyện của thành phố Hà Nội có tỷ lệ lần lượt là 1,53% và 9,81%, cao hơn so
với các vụ án hình sự nói chung và các vụ án không có đồng phạm) do xác định
không chính xác đường lối xử lý hình sự hoặc thiếu sự phân hóa về giai đoạn thực
hiện tội phạm của từng người đồng phạm... Đặc biệt, việc điều tra, truy tố, xét xử
sai, bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội trong các vụ án đồng phạm vẫn còn chiếm
tỷ lệ cao.
Do đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về mặt lý luận, trên cơ sở
tổng kết thực tiễn vấn đề TNHS trong đồng phạm nhằm hoàn thiện các quy định của
PLHS, giải quyết các vướng mắc mà thực tiễn đặt ra liên quan đến TNHS trong
đồng phạm là vấn đề mang tính cấp bách, có ý nghĩa quan trọng của giai đoạn hiện
nay. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn: "Trách nhiệm hình sự trong đồng phạm theo
luật hình sự Việt Nam" làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.

3



2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án làm sâu sắc hơn những vấn đề lý luận về
TNHS trong đồng phạm, thực trạng PLHS và thực tiễn áp dụng các quy định của
PLHS về TNHS trong đồng phạm; trên cơ sở đó đề xuất giải pháp hoàn thiện PLHS
và những giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định về TNHS đối với đồng phạm
trong quá trình giải quyết vụ án, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội, yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và hội nhập
quốc tế ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nêu trên, luận án giải quyết các nhiệm vụ sau:
a) Làm rõ những vấn đề lý luận về TNHS trong đồng phạm như: khái niệm,
cơ sở xác định TNHS trong đồng phạm; nguyên tắc xác định TNHS trong đồng
phạm, TNHS trong đồng phạm chưa hoàn thành; tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội trong đồng phạm;
b) Phân tích các quy định của PLHS Việt Nam, cũng như PLHS của một số
nước trên thế giới và luật hình sự quốc tế về TNHS trong đồng phạm dưới góc độ
luật học so sánh để khẳng định những điểm kế thừa và những kinh nghiệm có thể
tiếp thu khi hoàn thiện PLHS về đồng phạm;
c) Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm PLHS Việt
Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay về TNHS trong đồng phạm
để rút ra những nhận xét, đánh giá;
d) Phân tích thực tiễn áp dụng các quy định của PLHS về TNHS trong đồng
phạm ở giai đoạn xét xử; đánh giá những kết quả, đồng thời chỉ rõ hạn chế, các
nguyên nhân của những hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy định về TNHS
trong đồng phạm;
đ) Đề xuất việc tiếp tục sửa đổi, bổ sung theo định hướng để hoàn thiện các
quy định PLHS Việt Nam hiện hành về TNHS trong đồng phạm và những giải pháp
bảo đảm áp dụng của quy định này trong thực tiễn.


4


3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu các quy định PLHS, cũng như những vấn đề lý luận và
thực tiễn về TNHS trong đồng phạm theo luật hình sự Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu "Trách nhiệm hình sự trong đồng phạm theo luật hình
sự Việt Nam" dưới góc độ Luật hình sự, đề cập có hệ thống những vấn đề thuộc về
cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, cũng như các quy định của PLHS về TNHS trong
đồng phạm ở Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay. Nghiên
cứu thực tiễn xét xử các vụ án đồng phạm trong phạm vi cả nước, đánh giá tình hình
áp dụng các quy định về TNHS trong đồng phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Thống kê thực tiễn xét xử các vụ án có đồng phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội
trong giai đoạn 10 năm (2006-2015).
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Cơ sở phương pháp luận của luận án là học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách hệ thống tư pháp,
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.
Luận án sử dụng một số phương pháp nghiên cứu làm sáng tỏ các tri thức
khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu như:
Luận án sử dụng phương pháp phân tích để làm rõ nội hàm các quy phạm
pháp luật trong và ngoài nước về đồng phạm và TNHS trong đồng phạm, qua đó đánh
giá bản chất, cũng như những hạn chế của các hệ thống pháp luật về TNHS trong đồng
phạm. Đồng thời, phương pháp này còn được sử dụng để phân tích thực trạng áp dụng
các quy định về TNHS trong đồng phạm ở Việt Nam, chỉ ra những mặt thành công
và hạn chế của Tòa án trong việc đưa ra các phán quyết về TNHS trong đồng phạm.
Phương pháp lịch sử được sử dụng để khảo cứu các tài liệu và các nguồn sử
liệu khác nhau về nhà nước và pháp luật liên quan đến TNHS trong đồng phạm.

Luận án sử dụng phương pháp tổng hợp để khái quát hóa những quan điểm
khoa học về TNHS và TNHS trong đồng phạm, chỉ ra những đặc điểm có tính quy

5


luật của pháp luật thực định cũng như thực tiễn áp dụng các quy định về TNHS
trong đồng phạm.
Phương pháp thống kê được sử dụng để tổng hợp số liệu liên quan đến thực
tiễn áp dụng các quy định về TNHS trong đồng phạm, phản ánh tính khách quan
của thực trạng này, làm cơ sở cho việc đánh giá cũng như đưa ra các giải pháp hoàn
thiện pháp luật liên quan đến TNHS trong đồng phạm.
Luận án sử dụng phương pháp xã hội học để thu thập ý kiến của cán bộ
trong các cơ quan tiến hành tố tụng về thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các
quy định về TNHS trong đồng phạm ở nước ta những năm gần đây. Thông qua đó,
làm sâu sắc thêm những đánh giá của luận án về thực trạng pháp luật và thực tiễn áp
dụng các quy định về TNHS trong đồng phạm.
Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu điển hình để nghiên cứu thực
tiễn áp dụng các quy định PLHS về TNHS trong đồng phạm trên địa bàn Hà Nội,
phân tích ngẫu nhiên 300 bản án hình sự có đồng phạm và các quy định PLHS về
TNHS trong đồng phạm của một số nước đại diện cho các truyền thống pháp luật,
làm cơ sở đánh giá thực trạng áp dụng quy định pháp luật về TNHS trong đồng
phạm ở nước ta và thực tiễn lập pháp quốc tế liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp so sánh luật học được sử dụng để so sánh, từ đó chỉ ra những
tương đồng và khác biệt về các quy phạm pháp luật tương ứng có liên quan đến TNHS
trong đồng phạm của Việt Nam với của một số nước trên thế giới và rút ra bài học
kinh nghiệm cho các đề xuất hoàn thiện PLHS Việt Nam về TNHS trong đồng phạm.
5. Tính mới và những đóng góp của luận án
Luận án nghiên cứu toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý luận và thực
tiễn về TNHS trong đồng phạm theo luật hình sự Việt Nam. Luận án là công trình

chuyên khảo đầu tiên ở cấp độ tiến sĩ luật học nghiên cứu vấn đề TNHS trong đồng
phạm. Luận án phân tích các quy định pháp luật, những luận điểm khoa học để từ
đó thống nhất quan điểm khoa học liên quan đến vấn đề nội dung TNHS trong đồng
phạm, đồng phạm chưa hoàn thành, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong
đồng phạm…

6


Phân tích, so sánh, đối chiếu các quy định của PLHS Việt Nam về TNHS
trong đồng phạm với quy định PLHS của một số nước trên thế giới tiêu biểu cho
các hệ thống pháp luật, luật hình sự quốc tế và nghiên cứu chế định TNHS trong
đồng phạm theo PLHS Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay. Qua
việc đánh giá thực tiễn áp dụng chế định, chỉ ra những hạn chế, thiếu sót (cụ thể là 9
hạn chế với các ví dụ cụ thể của thực tiễn xét xử để chứng minh) và nguyên nhân
của những hạn chế, thiếu sót. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất các giải pháp bảo đảm
áp dụng các quy định của PLHS về TNHS trong đồng phạm.
Với những kết quả nghiên cứu sẽ làm sâu sắc hơn hệ thống các tri thức
khoa học pháp lý hình sự về TNHS trong đồng phạm, luận án có thể được dùng làm
tài liệu tham khảo nhằm hoàn thiện PLHS, trong thực tiễn áp dụng pháp luật, công
tác giảng dạy, học tập tại các cơ sở đào tạo luật hình sự ở Việt Nam đối với những
vấn đề liên quan đến chế định TNHS trong đồng phạm.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội
dung của luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Chương 2: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự trong đồng phạm.
Chương 3: Pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng các quy định
về trách nhiệm hình sự trong đồng phạm ở giai đoạn xét xử.
Chương 4: Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt

Nam về trách nhiệm hình sự trong đồng phạm và các giải pháp bảo đảm áp dụng.

7


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Trách nhiệm hình sự trong đồng phạm là vấn đề có nội dung phức tạp và
phong phú, được các nhà nghiên cứu và những người làm công tác lập pháp cũng
như thực tiễn áp dụng pháp luật quan tâm. Sự quan tâm này được thể hiện qua các
công trình nghiên cứu khoa học trong nước và ngoài nước sau đây.
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƢỚC

Đồng phạm và TNHS trong đồng phạm được quan tâm nghiên cứu khá sớm
ở nước ta, đặc biệt từ những năm 80 của thế kỷ trước đã xuất hiện những bài tạp
chí, các sách tham khảo đề cập trực tiếp đến vấn đề này [14], [16], [18], [19], [32],
[33], [77], [89], [93], [96], [108], [121], [127], [130]. Việc nghiên cứu trước hết
xuất phát từ nhu cầu thực tiễn xét xử những vụ án đồng phạm mà kết quả là Tòa án
phải ra quyết định áp dụng hình phạt phù hợp với vai trò, tính chất, mức độ phạm
tội của từng người trong đồng phạm. Đồng thời, quá trình nghiên cứu này cũng định
hình, đặt nền móng cho khoa học pháp lý hình sự Việt Nam về đồng phạm nói
chung và TNHS trong đồng phạm nói riêng. Các công trình sau này đều có sự kế
thừa, bình luận, đánh giá hoặc phê phán kết quả nghiên cứu của thời kỳ này. Cho
đến hiện nay, việc nghiên cứu TNHS trong đồng phạm khá phong phú, ở các cấp độ
khác nhau, hàng trăm công trình nghiên cứu đến đề tài này đã được công bố.
Kết quả nghiên cứu của các công trình này đã đề cập đến những vấn đề chủ
yếu sau đây.
a) Về khái niệm trách nhiệm hình sự và khái niệm đồng phạm
Các nghiên cứu đề cập khá đa dạng, phong phú dưới những cách tiếp cận
khác nhau về khái niệm TNHS và đồng phạm, đồng thời coi trách nhiệm hình sự

trong đồng phạm là dạng đặc biệt của TNHS. Cụ thể:
Các nghiên cứu về cơ bản đều cho rằng TNHS là hậu quả pháp lý bất lợi mà
người phạm tội phải chịu trước Nhà nước do việc (tham gia) thực hiện tội phạm,
theo một trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định, thể hiện ở bản án kết
tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật, hình phạt và một số biện pháp cưỡng chế hình
sự khác do luật hình sự quy định [7, tr. 22], [69, tr. 14], [94, tr. 65], [116, tr. 41].

8


Bên cạnh đó, có quan điểm đã đồng nhất TNHS với hình phạt, coi TNHS phát
sinh từ khi áp dụng hình phạt đối với người phạm tội: "Trách nhiệm hình sự là việc
thực hiện chế tài pháp lý hình sự, phát sinh từ khi áp dụng hình phạt đối với người
phạm tội" [33, tr. 59]; "trách nhiệm hình sự là nghĩa vụ của người phạm tội: phải chịu
hình phạt và được thể hiện trong việc tước bỏ có tính chất cá nhân hoặc tính chất tài sản
đối với người đó vì tội phạm đã thực hiện" [13, tr. 606]. Trong nghiên cứu chuyên sâu
về TNHS ở luận án tiến sĩ luật học, tác giả Nguyễn Mạnh Hùng đưa ra định nghĩa:
Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, là hậu quả
bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu trước Nhà nước do việc người
đó thực hiện tội phạm và kết quả của việc áp dụng các quy phạm pháp
luật hình sự, được thể hiện ở bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp
luật và một số biện pháp cưỡng chế hình sự khác do luật hình sự quy
định [48, tr. 41].
PGS.TS Lê Thị Sơn đặt vấn đề nghiên cứu TNHS phải bao gồm hai mặt:
"Thực hiện trách nhiệm hình sự từ phía Nhà nước và chịu TNHS của người phạm
tội. Đó là hai mặt đan xen, hợp thành thể thống nhất là trách nhiệm hình sự" [36, tr. 7].
TNHS (có khả năng) phát sinh ngay từ khi tội phạm được thực hiện và (sẽ) chấm
dứt khi người phạm tội đã được xóa án tích [36, tr. 8]. "Trách nhiệm hình sự là tổng
hợp các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể: Nhà nước - bên thực hiện trách nhiệm
hình sự và người phạm tội - bên chịu trách nhiệm hình sự" [36, tr. 8]. GS.TSKH Lê

Văn Cảm cho rằng: theo nghĩa tích cực, "trách nhiệm hình sự là trách nhiệm phải xử
sự hợp pháp của một người trong việc ý thức được nghĩa vụ của mình là không
được thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm" (đây là cách hiểu
không truyền thống, không có tính chất phổ biến), còn theo nghĩa tiêu cực, "trách
nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà
luật hình sự quy định là tội phạm và hậu quả pháp lý ấy được thể hiện trong việc Tòa
án nhân danh Nhà nước kết án người đã bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội
phạm đó, còn người bị kết án phải chịu sự tác động về mặt pháp lý hình sự theo một
trình tự tố tụng riêng" [13, tr. 610] (cách hiểu theo quan điểm truyền thống, có tính
chất phổ biến).

9


Trách nhiệm hình sự trong đồng phạm là hậu quả pháp lý bất lợi mà những người
đồng phạm phải chịu do việc cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm. Theo quan
điểm của đa số các nhà khoa học pháp lý hình sự, "đồng phạm là trường hợp có hai
người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm" [8, tr. 251], [38, tr. 167], [51, tr. 117],
[109, tr. 174], [132, tr. 281], [133, tr. 198]. Đây cũng là định nghĩa pháp lý về đồng
phạm được ghi nhận tại Điều 20 BLHS 1999. Cho rằng khái niệm pháp lý về đồng
phạm không những chưa chính xác về mặt khoa học, mà còn không phù hợp với thực
tiễn pháp lý do chỉ đề cập đến hình thức đồng phạm duy nhất (đồng phạm giản đơn)
và một loại người đồng phạm (người thực hành) khi sử dụng thuật ngữ "cùng thực
hiện một" tội phạm, GS.TSKH Lê Văn Cảm đưa ra định nghĩa khoa học về đồng
phạm như sau: "Đồng phạm là hình thức phạm tội do cố ý được thực hiện với sự cố ý
cùng tham gia của hai người trở lên" [13, tr. 458-459], tác giả khác lại cho rằng:
"Đồng phạm là hình thức phạm tội do hai người trở lên cố ý cùng tham gia vào việc
thực hiện tội phạm" [99, tr. 52]. "Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố
ý cùng tham gia thực hiện một hoặc nhiều tội phạm do cố ý" [125, tr. 145]. Quan
điểm này cũng đã từng được đề cập trong công trình nghiên cứu Hình luật XHCN

phần chung của tập thể tác giả Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội, năm 1983: "Khi
có hai hoặc nhiều người cùng cố ý tham gia thực hiện một tội phạm thì được gọi là
cộng phạm" [108, tr. 167]. Xem xét vấn đề đồng phạm trên cơ sở tham khảo lý luận
chung về đồng phạm, căn cứ vào thực tiễn xử lý của các cơ quan làm công tác pháp
luật ở nước ta đề ra cách giải quyết vấn đề đồng phạm cho sát với thực tiễn đấu tranh
chống tội phạm, nhà nghiên cứu Đặng Văn Doãn cho rằng: Đồng phạm là một thuật
ngữ được BLHS dùng để chỉ một sự kiện hay một mối quan hệ: Khi hai hoặc nhiều
người cùng cố ý cùng thực hiện một tội phạm thì sự kiện đó là sự kiện đồng phạm
hay quan hệ giữa những người cùng thực hiện một tội phạm đó là quan hệ đồng
phạm [18, tr. 6]. Khi từ đồng phạm chỉ con người, theo tác giả, thì nó thường có hai
nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, người đồng phạm là người cùng
tham gia thực hiện tội phạm, bất cứ với hình thức tham gia nào. Ở nghĩa hẹp, nó chỉ
những người tham gia thực hiện tội phạm, nhưng không trực tiếp thực hiện tội phạm
như người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức [18, tr. 6].

10


Về các dấu hiệu đồng phạm, các nhà khoa học cơ bản đều thống nhất, đồng
phạm đòi hỏi có hai dấu hiệu về mặt khách quan và về mặt chủ quan. Về mặt khách
quan, đồng phạm phải có hai dấu hiệu: Có từ hai người trở lên và những người này
có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm; Những người này phải cùng thực hiện tội
phạm (cố ý). Về mặt chủ quan, đồng phạm đòi hỏi những người cùng thực hiện tội
phạm đều có lỗi cố ý. Ngoài ra, đối với những tội phạm có dấu hiệu mục đích phạm
tội là dấu hiệu bắt buộc, đồng phạm đòi hỏi những người cùng thực hiện phải có
cùng mục đích phạm tội.
Như vậy, các công trình khoa học đã đưa ra khá nhiều quan điểm, cách tiếp
cận và nội dung của TNHS theo các mục đích nghiên cứu của từng công trình, việc
phân tích sâu, đầy đủ về đặc điểm, nội dung của TNHS trong đồng phạm trong một
thể thống nhất lại chưa được đề cập.

b) Về các nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự trong đồng phạm
Đồng phạm là hình thức phạm tội đặc biệt, nên việc xác định TNHS của
những người đồng phạm vừa phải tuân thủ nguyên tắc chung được áp dụng cho tất
cả những trường hợp phạm tội, đồng thời còn phải tuân thủ các nguyên tắc đặc thù
của đồng phạm. Việc xác định TNHS trong đồng phạm phải tuân thủ theo ba nguyên
tắc, được đa số các nhà khoa học đồng tình, đó là: Nguyên tắc chịu trách nhiệm chung
về toàn bộ tội phạm trong đồng phạm; nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập về hành vi
tham gia thực hiện tội phạm trong đồng phạm; nguyên tắc cá thể hóa TNHS của những
người đồng phạm [8, tr. 268-273], [51, tr. 132-135], [94, tr. 192-196], [99, tr. 208-248],
[108, tr. 181-184], [109, tr.188-192], [110, tr. 185-188], [133, tr. 218-223]. Theo đó,
tất cả những người đồng phạm đều bị truy tố, xét xử về cùng một tội danh, theo
cùng điều luật và trong phạm vi chế tài điều luật quy định. Những quy định có tính
nguyên tắc chung cho tất cả các trường hợp phạm tội đều được áp dụng chung cho
tất cả những người đồng phạm trong vụ đồng phạm. Những người đồng phạm chỉ
chịu TNHS về những hành vi mà cả bọn chung hành động, chung ý định phạm tội,
không phải chịu TNHS về hành vi vượt quá của những người đồng phạm khác.
Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS liên quan đến người đồng phạm nào thì
chỉ áp dụng đối với riêng người đó. Việc miễn TNHS đối với người đồng phạm nào

11


thì chỉ người đó được hưởng chứ không được áp dụng đối với những người đồng
phạm khác. Hành vi của người tổ chức, xúi giục hay giúp sức mặc dù chưa đưa đến
việc thực hiện tội phạm nhưng vẫn phải chịu TNHS. Việc cá thể hóa của những
người đồng phạm phải căn cứ vào tính chất, mức độ tham gia vào hoạt động phạm
tội chung của mỗi người đồng phạm.
Thống nhất về nội hàm nói trên nhưng khác về tên gọi của các nguyên tắc
xác định TNHS trong đồng phạm, GS.TSKH Lê Văn Cảm cho rằng khi giải quyết
vấn đề TNHS trong đồng phạm mức độ TNHS của những người đồng phạm không

phải và không thể ngang bằng như nhau mà phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản
quan trọng: Nguyên tắc không tránh khỏi TNHS - tất cả những người đồng phạm
đều phải chịu TNHS liên đới đối với tội phạm chung; Nguyên tắc phân hóa TNHS mỗi người đồng phạm phải chịu TNHS độc lập đối với hành vi phạm tội do cố ý mà
mình đã tham gia vào việc thực hiện căn cứ vào tính chất, mức độ mà mỗi người đã
cố ý cùng tham gia với những người đồng phạm khác để đạt được kết quả phạm tội
chung; Nguyên tắc cá thể hóa TNHS - các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS
thuộc người đồng phạm nào thì chỉ áp dụng đối với riêng người đó, chỉ người thực
hành phải chịu trách nhiệm về hành vi thái quá của mình [13, tr. 466-469].
Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu về TNHS trong đồng phạm mặc
dù không chỉ rõ các nguyên tắc xác định TNHS trong đồng phạm nhưng trong các
phần nghiên cứu, phân tích TNHS của mỗi người đồng phạm cũng đã dựa trên ba
nguyên tắc xác định TNHS trong đồng phạm nêu trên [18], [89], [116].
c) Về mức độ trách nhiệm hình sự trong đồng phạm
Trong vụ án đồng phạm, những người tham gia tuy cùng phạm một tội nhưng
tính chất, mức độ tham gia của mỗi người khác nhau và vì vậy tính chất và mức độ
nguy hiểm của hành vi của mỗi người đồng phạm là khác nhau. Để quyết định hình
phạt công bằng đòi hỏi tất yếu phải có quy định phân hóa TNHS trong đồng phạm.
Nghiên cứu nội dung TNHS trước yêu cầu phân hóa, là một nguyên tắc của
Luật hình sự Việt Nam, PGS.TS Cao Thị Oanh khẳng định yêu cầu phân hóa đối
với quy định về quyết định hình phạt trong đồng phạm là một trong những yêu cầu
của nguyên tắc phân hóa TNHS.

12


Các quy định về quyết định hình phạt đối với trường hợp đồng phạm cần
thể hiện sự phân hóa đường lối xử lý giữa những người tham gia đồng phạm mà
hành vi của họ có tính nguy hiểm cho xã hội khác nhau cũng như giữa các trường
hợp đồng phạm mà tính nguy hiểm cho xã hội tăng lên đáng kể so với các trường
hợp đồng phạm thông thường (phạm tội có tổ chức) [67, tr. 96-97].

Trách nhiệm hình sự được dựa trên hai cơ sở (hoặc có tác giả gọi là hai căn
cứ), đó là: cơ sở pháp lý, tức là những quy định của luật hình sự liên quan đến
TNHS và cơ sở thực tiễn là tính chất, mức độ của hành vi phạm tội trên thực tế.
TNHS trong đồng phạm cũng phải dựa trên nguyên lý này, GS.TSKH Đào Trí Úc
cho rằng: "Điều quan trọng trong đồng phạm là vấn đề xác định vai trò và mức độ
tham gia của từng người để có sự đánh giá sát đúng và cụ thể hóa trách nhiệm của
những người phạm tội" [109, tr. 128].
Phân tích tính chất nguy hiểm của đồng phạm cho thấy, đồng phạm làm cho
hành vi của mỗi người tham gia thực hiện tội phạm thay đổi về chất và mang tính
nguy hiểm cho xã hội cao hơn trường hợp phạm tội riêng rẽ [18, tr. 7-9]. Trong thực
tế, nếu có hành vi đồng phạm chưa hoàn thành thông thường rất ít khi bị truy tố xét
xử vì có mức độ nguy hiểm cho xã hội chưa đáng kể nhưng không có nghĩa là trên
nguyên tắc hành vi phải đã hoàn thành mới có thể là đồng phạm. Về TNHS của
những người đồng phạm, nhà nghiên cứu Đặng Văn Doãn đặt vấn đề nghiên cứu
dưới hai góc độ: ảnh hưởng tăng nặng trách nhiệm của quan hệ đồng phạm đối với
những người đồng phạm (trường hợp phạm tội có tổ chức; trường hợp luật quy định
khung hình phạt tăng nặng đối với một số người đồng phạm hoặc quy định khung
hình phạt tăng nặng đối với một số tình tiết như: nhiều người hiếp một người, lôi
kéo người khác phạm tội…) [18, tr. 78-90], ảnh hưởng của những tình tiết tăng
nặng hoặc giảm nhẹ TNHS của người đồng phạm này đối với người đồng phạm
khác, nhất là của người thực hành đối với các người đồng phạm theo nghĩa hẹp, tức
là những người đồng phạm không trực tiếp thực hiện tội phạm: người tổ chức,
người xúi giục, người giúp sức [16, tr. 90-98].
d) Về quyết định hình phạt trong đồng phạm
Trong khoa học pháp lý hình sự hiện nay, cũng có khá nhiều quan điểm về
khái niệm quyết định hình phạt, nhưng tựu chung lại, khái niệm quyết định hình

13



phạt có thể được hiểu theo hai nghĩa rộng và hẹp: a) Quyết định hình phạt theo
nghĩa hẹp là việc "Tòa án lựa chọn loại hình phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính
và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp
dụng đối với người phạm tội" [61, tr. 59]. b) Quyết định hình phạt theo nghĩa rộng bao
gồm: quyết định hình phạt chính, quyết định hình phạt bổ sung, quyết định biện
pháp chấp hành hình phạt, quyết định các biện pháp tư pháp với mục đích thay thế
hoặc hỗ trợ cho hình phạt. Một số tác giả còn cho rằng, quyết định hình phạt có thể
được hiểu theo nghĩa rộng hơn nữa là quyết định biện pháp xử lý đối với người phạm
tội [36, tr. 65-67].
Bộ luật hình sự 1985, BLHS 1999 cũng như BLHS 2015 không đưa ra định
nghĩa pháp lý của khái niệm căn cứ quyết định hình phạt, tuy nhiên, quan điểm của
các nhà khoa học hiện nay về căn cứ quyết định hình phạt cơ bản thống nhất với
nhau và chỉ khác nhau ở cách thức xây dựng định nghĩa.
Theo GS.TS Võ Khánh Vinh thì "các căn cứ quyết định hình phạt là những
đòi hỏi cơ bản có tính nguyên tắc do luật hình sự quy định hoặc do giải thích pháp
luật mà có buộc Tòa án phải tuân theo khi quyết định hình phạt đối với người thực
hiện tội phạm" [117, tr. 237]. PGS.TS Dương Tuyết Miên cho rằng "các căn cứ quyết
định hình phạt là những cơ sở pháp lý được quy định trong Bộ luật hình sự mà Tòa
án buộc phải tuân thủ khi quyết định hình phạt cho người phạm tội nhằm đảm bảo
hình phạt đã tuyên đạt được mục đích hình phạt" [61, tr. 120]. Còn theo ThS. Trần
Văn Sơn thì "các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi có tính chất bắt buộc
do luật hình sự quy định mà Tòa án phải tuân thủ khi quyết định hình phạt đối với
người phạm tội" [51, tr. 26].
Như vậy, theo các tác giả, các căn cứ quyết định hình phạt trước hết là
những đòi hỏi được luật quy định một cách rõ ràng, cụ thể và các đòi hỏi đó mang
tính chất bắt buộc đối với Tòa án, Tòa án không thể tùy tiện thêm, bớt trong việc
cân nhắc căn cứ quyết định hình phạt. Trong mọi trường hợp khi quyết định hình
phạt Tòa án phải căn cứ vào những đòi hỏi của luật.
Khi quyết định hình phạt đối với người đồng phạm thì về nguyên tắc phải tuân
thủ các quy định chung về quyết định hình phạt. Tuy nhiên, đồng phạm là một quy


14


định bổ sung cho chế định tội phạm, có những đặc thù riêng nên khi quyết định hình
phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án còn cần phải căn cứ vào những quy định
có tính chất bổ sung quy định tại Điều 53 BLHS 1999: Các quy định của BLHS;
tính chất và mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội; các
tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS; tính chất đồng phạm; tính chất, mức độ tham
gia của từng người đồng phạm. Những căn cứ quyết định hình phạt trong đồng
phạm này nhìn chung được sự đồng thuận của các nhà khoa học PLHS, chỉ khác trong
việc phân tích và bình luận từng căn cứ pháp lý [8, tr. 420-422], [38, tr. 281-284],
[61, tr. 216-220], [133, tr. 353-355]. Làm rõ hơn căn cứ để phân hóa TNHS trong
đồng phạm để xác định hình phạt cho từng người đồng phạm, GS.TS Nguyễn Ngọc
Hòa cho rằng phải căn cứ: "a) Tính chất tham gia (vai trò đối với hoạt động của nhóm
phạm tội); b) Mức độ tham gia (phần đóng góp thực tế vào quá trình thực hiện tội
phạm); c) Mức độ lỗi; d) Các tình tiết về nhân thân có ý nghĩa đối với việc quyết định
hình phạt" [38, tr. 100]. Phân tích căn cứ quyết định hình phạt, GS.TSKH Đào Trí
Úc cho rằng các căn cứ quyết định hình phạt trong đồng phạm có sự kết hợp giữa
hai yếu tố: "Bản thân hành vi do đồng phạm gây ra và mức độ tham gia của từng
người. Quy định căn cứ quyết định hình phạt nêu trên chưa nói rõ được một thực tế
Tòa án đã từng xác định tất cả những người tham gia đồng phạm đều phải được
quyết định hình phạt theo điều quy định hành vi của người thực hiện" [116, tr. 127].
đ) Về các vấn đề khác có liên quan đến trách nhiệm hình sự trong đồng phạm
Thứ nhất, về vấn đề chủ thể đặc biệt trong đồng phạm: Mặc dù chủ thể đặc
biệt trong đồng phạm không được quy định trong các BLHS Việt Nam nhưng trong
khoa học pháp lý hình sự Việt Nam luôn có nhận thức thống nhất: Đối với những
tội phạm đòi hỏi chủ thể đặc biệt, chỉ cần người thực hành có những đặc điểm của
chủ thể đó. Những người đồng phạm khác không nhất thiết phải có những đặc điểm
của chủ thể đặc biệt [8, tr. 273], [34, tr. 138], [38, tr. 183], [94, tr. 199], [99, tr. 76].

Thứ hai, về vấn đề xác định giai đoạn thực hiện tội phạm trong đồng phạm:
Vì nguyên nhân ngoài ý muốn, người đồng phạm đã không thực hiện được toàn bộ quá
trình phạm tội mà phải dừng lại ở các thời điểm khác nhau. Người đồng phạm dừng
việc phạm tội có giai đoạn phạm tội nào phải chịu TNHS tương ứng ở giai đoạn đó.

15


BLHS 1985 và BLHS 1999 không có điều luật nào trực tiếp quy định về các giai đoạn
thực hiện tội phạm của những người đồng phạm. Do vậy, trong thực tế việc nhận thức
cũng như vận dụng chế định này không thống nhất. Quan điểm phổ biến hiện nay là
việc xác định các giai đoạn thực hiện tội phạm của những người đồng phạm hoàn toàn
phụ thuộc vào mức độ thực hiện tội phạm của người thực hành. "Nếu những người
đồng phạm không thực hiện được tội phạm đến cùng do những nguyên nhân khách quan
thì người thực hành thực hiện tội phạm đến giai đoạn nào họ phải chịu trách nhiệm
hình sự đến giai đoạn đó" [8, tr. 273], [38, tr. 183-184], [132, tr. 304]. Tuy nhiên,
nhiều ý kiến cho rằng, quan điểm này chưa hợp lý vì tuyệt đối hóa vai trò của người thực
hành, xem nhẹ tính độc lập tương đối của những người đồng phạm khác [99, tr. 139].
Hiện nay, trong khoa học luật hình sự có nhiều quan điểm khác nhau về việc xác
định giai đoạn thực hiện tội phạm của những người đồng phạm [82, tr. 29]. Quan
điểm tương đối phổ biến khác chỉ xem xét hai trường hợp xúi giục chưa đạt, giúp sức
chưa đạt và coi hai trường hợp này tương tự như chuẩn bị phạm tội [99, tr. 253-254].
TS. Trần Quang Tiệp cho rằng, để xác định TNHS đối với xúi giục chưa đạt, giúp sức
chưa đạt hay tổ chức thực hiện tội phạm chưa đạt, cũng như các giai đoạn thực hiện tội
phạm khác của từng người đồng phạm, cần phải nghiên cứu toàn bộ các giai đoạn thực
hiện tội phạm của người thực hành, người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức
một cách độc lập tương đối. Phải làm rõ đặc điểm của từng giai đoạn phạm tội từ chuẩn
bị phạm tội, phạm tội chưa đạt đến tội phạm hoàn thành của cả bốn loại người đồng
phạm [99, tr. 254-255]. PGS.TS Lê Thị Sơn cũng có quan điểm không thể xác định
giai đoạn của những người đồng phạm lệ thuộc hoàn toàn vào giai đoạn phạm tội

của người thực hành, bởi vì tất cả các hành vi tham gia, tuy có mối liên kết thống
nhất với nhau nhưng mỗi loại hành vi vẫn có đặc điểm riêng và có tính độc lập tương
đối, phản ánh vai trò nhất định đối với quá trình thực hiện tội phạm [79, tr. 29].
Thứ ba, về vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm:
Trong vụ đồng phạm, khi có sự tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của một
người hay một số người thì việc miễn TNHS chỉ được áp dụng đối với người đã tự ý
nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Khoa học pháp lý hình sự Việt Nam cơ bản
thống nhất các điều kiện về vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đối với

16


người thực hành. Nếu trong vụ đồng phạm chỉ có một người thực hành thì vấn đề tự
ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội như trường hợp phạm tội riêng lẻ. Trong vụ án
có nhiều người thực hành đã có người từ bỏ ý định phạm tội, có người không từ bỏ
ý định phạm tội thì người từ bỏ ý định phạm tội chỉ được miễn TNHS trong trường
hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội nếu họ không làm hoặc những việc họ
đã làm trước khi từ bỏ ý định phạm tội không giúp gì cho những người đồng phạm
khác. Còn nếu những việc mà họ đã làm được những người đồng phạm khác sử
dụng thì họ phải có hành vi tích cực ngăn chặn được việc thực hiện tội phạm đó.
Đối với người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức được miễn TNHS trong
trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội nếu họ ngăn chặn được việc thực
hiện tội phạm, hậu quả của tội phạm không xảy ra. Về thời điểm chấm dứt phải trước
khi hành vi của người thực hành ở giai đoạn chưa đạt đã hoàn thành hoặc giai đoạn
hoàn thành [8, tr. 274-275], [38, tr. 184-185], [99, tr. 291-293], [116, tr. 120-122],
[125, tr. 132-133], [133, tr. 224-227]. Thống nhất với các điều kiện về hành vi khách
quan đối với việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người tổ chức, người xúi
giục, người giúp sức nhưng tập thể tác giả Trường Đại học Luật Hà Nội trong giáo
trình luật hình sự Việt Nam năm 1994 và các tác giả Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà
Nội cho rằng hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của các loại người đồng

phạm này phải được thực hiện trước khi người thực hành bắt tay vào việc thực hiện tội
phạm [108, tr. 187], [125, tr. 198]. Ngoài ra, trong sách chuyên khảo "Hình luật tổng
quát", tác giả Nguyễn Quang Quýnh trong mục "Những trường hợp bó tay" đã phân
tích, nếu người thực hành tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thì bên cạnh người
thực hành, những người còn lại cũng được miễn TNHS. Quan điểm này dựa trên PLHS
của chính phủ Việt Nam cộng hòa. Tuy nhiên, tác giả cũng có sự băn khoăn về việc các
tòng phạm đều thực hiện hành vi một cách tích cực cho việc thực hiện tội phạm
nhưng khi người thực hành tự ý dừng lại thì họ được coi như vô can [77, tr. 342].
Thứ tư, về vấn đề TNHS của đồng phạm là pháp nhân: TNHS của pháp nhân
(tổ chức) ở Việt Nam là chủ đề được quan tâm nghiên cứu của nhiều chuyên gia, nhà
khoa học pháp lý. Với quan điểm trước đây, không ủng hộ việc quy định TNHS của
pháp nhân, tổ chức với lý do TNHS của tổ chức không phù hợp với nguyên tắc hành vi

17


và nguyên tắc lỗi trong luật hình sự; TNHS của tổ chức không phù hợp với nguyên tắc
cá thể hóa TNHS và mục đích của hình phạt; khả năng áp dụng hình phạt (hình thức
TNHS) đối với tổ chức; và TNHS của tổ chức không phù hợp với quan niệm đạo đức,
nguyên tắc công bằng trong luật hình sự... [13, tr. 648-655], [66, tr. 10]. Bên cạnh quan
điểm không ủng hộ, hiện nay, có nhiều học giả ủng hộ quy định TNHS của pháp nhân
[68, tr. 13-20] và hiện nay BLHS 2015 đã chính thức quy định TNHS của pháp nhân.
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân bao giờ cũng phải chịu TNHS thông
qua hành vi phạm tội của thể nhân. Thể nhân đó có thể là người làm công, đại lý
hoặc bất cứ nhân viên nào của pháp nhân; có thể là người lãnh đạo, quản lý, điều
hành (nhân viên cao cấp) của pháp nhân. Thể nhân đó có thể là một người, có thể là
nhiều người cùng phạm tội. Những người phạm tội có thể cùng cố ý hoặc không
nhưng đã thực hiện hành vi cấu thành tội phạm (CTTP) theo PLHS quốc gia. Về cơ
bản, các nhà khoa học pháp lý Việt Nam thống nhất cho rằng, để truy cứu TNHS
pháp nhân (tổ chức), giữa pháp nhân và thể nhân bao giờ cũng tồn tại mối quan hệ

ràng buộc nhất định, pháp nhân phải chịu TNHS về hành vi phạm tội của thể nhân
khi người đó thực hiện hành vi nhân danh tổ chức, thay mặt và đại diện cho tổ chức
hoặc chịu sự giám sát và lợi ích của tổ chức. Đồng thời, thể nhân đó thực hiện hành
vi trong phạm vi chức năng, thẩm quyền và nhiệm vụ được tổ chức giao. Việc truy
cứu TNHS đối với pháp nhân thông thường không loại trừ TNHS của cá nhân đã thực
hiện hành vi CTTP cụ thể [68, tr. 32]. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu đề cập đến vấn
đề đồng phạm khi chủ thể tội phạm là pháp nhân, hay về TNHS của các thể nhân là
những người đồng phạm khi truy cứu TNHS của pháp nhân mà họ đại diện...
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NGOÀI NƢỚC

Trách nhiệm hình sự và đồng phạm là những vấn đề cơ bản, phong phú và
phức tạp của luật hình sự nên từ trước đến nay luôn được các nhà luật hình sự trên
thế giới quan tâm.
Ở Liên Xô trước đây và Liên bang Nga hiện nay, các tác giả đã có khá nhiều
công nghiên cứu các vấn đề liên quan đến TNHS trong đồng phạm, GS.TSKH Lê Văn
Cảm trong sách chuyên khảo sau đại học "Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật
hình sự (Phần chung)", Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005 [13, tr. 601-639] đã đề cập

18


đến các công trình nghiên cứu nổi bật về TNHS như: Trách nhiệm hình sự và cơ sở của
trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Xô Viết của tác giả Brainhin Ia.M, năm 1963;
Nhân thân người phạm tội và trách nhiệm hình sự của tác giả Lêikina N.X, năm 1968;
Trách nhiệm hình sự và cấu thành tội phạm của tác giả Karpusin M.P, Kurlianđxki V.I,
năm 1974; Trách nhiệm hình sự và hình phạt của tác giả Bagri-Sakhmatôv L.V, năm
1976; Những vấn đề lý luận của trách nhiệm hình sự của tác giả Xantalôv A.I, năm
1982; Cơ sở của trách nhiệm hình sự theo pháp luật Xô viết của tác giả Alêkxeev N.X,
Xmirnôv V.G, Sargorôđxki M.Đ, Tạp chí Luật học, số 2/1961; Luật hình sự Xô viết,
Phần chung của tác giả Braihin Ia.M, Kiev, năm 1955; Về khái niệm án tích của

Zelđôv X.I, Tạp chí Luật học, số 2/1974; Sự buộc tội do lỗi và trách nhiệm hình sự
trong sách: Những vấn đề cấp bách của luật hình sự, Matxcơva, năm 1988; Tội phạm
và trách nhiệm của tác giả Prokhorô B.X, năm 1984; Trách nhiệm hình sự và việc
thực hiện nó trong cuộc đấu tranh chống tội phạm của tác giả Xtrutchkôv N.A, năm
1978; Giáo trình luật hình sự Xô viết, Phần chung, tập 1 của tác giả Sargorôđxki M.Đ
(chủ biên), năm 1968; Luật hình sự Xô Viết, tập bài giảng, nhập môn luật hình sự,
quyển 1 của tác giả Kôvalev M.I, năm 1971; Những vấn đề lý luận đang còn tranh
cãi về trách nhiệm pháp lý của tác giả Bratux X.I, Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
số 4; Giáo trình Luật hình sự, Phần chung, Nxb Sách pháp lý, Matxcơva, 1994;
Giáo trình Luật hình sự Liên bang Nga (Phần chung) của Học viện pháp lý Quốc
gia Matxcơva, Nxb Luật gia, năm 2001; Giáo trình luật hình sự Nga, Phần chung,
Nxb Luật gia, Matxcơva, năm 2004; Luật hình sự phần chung, Nxb trường Đại
học Tổng hợp Matxcơva, năm 1993; Luật hình sự phần chung, tập bài giảng của
tác giả Ignatôv A.N, Kôxtareva T.A, năm 1996…
Những nghiên cứu về đồng phạm điển hình như: Đồng phạm: Những vấn
đề xã hội, tội phạm học và pháp luật của tác giả Ph.G. Burơtrắc, Nxb Gôlôv, Kiev,
năm 1986; Học thuyết về đồng phạm trong luật hình sự Xô Viết của tác giả Ph.G.
Burơtrắc, Nxb Khoa học, Kiev, năm 1969; Đồng phạm trong Luật hình sự Xô viết
của tác giả P.I. Grisaev, Nxb Sách pháp lý, Matxcơva, năm 1959; Bình luận Bộ luật
hình sự Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga, Nxb Sách pháp lý,
Matxcơva, năm 1984; Pháp luật hình sự mới của các nước xã hội chủ nghĩa Châu Âu,

19


×