ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC VÀ SẢN XUẤT GIỐNG CÁ HÔ
(Catlocarpio siamensis, Boulenger 1898)
Huỳnh Hữu Ngãi, Lê Trung Đỉnh – Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II
I. Đặc điểm sinh học
1.1. Đặc điểm hình thái, phân loại và phân bố cá hô (Catlocarpio siamensis)
- Đặc điểm hình thái
Số lượng mẫu cá phân tích phân tích tổng cộng là 47 có khối lượng từ 26,1 đến 21.800
gam, tương ứng với chiều dài từ 14 – 107 cm.
Vây ngực: P. I, 11 – 16; vây bụng: V. II, 7; vây lưng: D. III – IV, 9 – 10; vây hậu môn: A.
III, 5 – 6; vây đuôi: C. IV – VI, 18 – 22; số vẩy đường bên: 38 – 40.
So sánh kết quả này với một số tác giã khác thì không có sự khác biệt nhiều, theo (Mai
Đình Yên, 1992) mô tả số lượng các tia vây của cá hô như sau: P. I, 11; V: II, 7; D. IV, 9;
A, III, 5, còn kết quả phân tích của (Trương Thủ Khoa, 1993) cũng không có sự khác biệt
nhiều: P. 15 – 16; V. II, 8; D. III, 7; A. III, 5.
-Đặc điểm phân loại và phân bố
Theo A,F. Poulsen, 2005. Ví trí phân loại của cá hô như sau:
Họ Cyprinidae
Giống Catlocarpio
Loài Catlocarpio siamensis
Cá hô phân bố ở sông Mê Kông, gặp ở mọi nơi thuộc hạ lưu của sông này, nhưng rất
hiếm đoạn từ trên thác Khôn trở lên, là cá phổ thông ở Campuchia và Việt Nam. Những
nơi này thường đánh được cá giống ở các vùng ngập, nhưng cá cỡ lớn hiện nay rất hiếm
(A. F. Poulsen, 2005). Theo (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993) cho rằng
cá hô sống ở nước ngọt, phân bố ở Thái Lan, Lào, Campuchia và đồng bằng sông Cửu
Long, Việt Nam. Cá này là loài cá kinh tế quan trọng của vùng hạ lưu sông Mê Kông.
Gần đây một số xã ở huyện Cao Lãnh, Đồng Tháp và huyện Chợ Mới, An Giang đã nuôi
1
cá hô. Nguồn cá giống chủ yếu theo mùa lũ vào hoặc mua của ngư dân đánh bằng lưới
vét, lưới rê. Hiện nay do bị đánh bắt quá mức không kiểm soát được nên trong tự nhiên
cá các cỡ ngày càng rất ít gặp. Ở Việt Nam, đoạn sông tiếp giáp giữa sông Tiền và sông
Hậu (vùng Vàm Nao) hiếm khi gặp được cá cỡ lớn trên 100 kg và người dân vùng này
cũng đã bỏ nghề đánh bắt cá hô tự nhiên. Trong mùa khô Catlocarpio siamensis tìm nơi
ẩn náu ở các vực sâu trên dòng chính của sông. Đoạn sông từ Kra-chê cho đến Stung
Treng là nơi rất quan trọng đối với chúng.
Hình 1. Cá hô (Catlocarpio siamensis)
1.2. Đặc điểm dinh dưỡng và sinh trưởng
Cá hô là loài cá nước ngọt có kích thước rất lớn, thịt ngon, giá trị thực phẩm cao, được
nhân dân ưa thích. Cá hô chủ yếu ăn thực vật tảo. Trong mùa lũ ăn quả và cây cỏ trên
cạn, thỉnh thoảng cũng ăn cá con (A, F. Poulsen, 2005). (Theo MRC, 2008) cho rằng cá
hô là loài cá ăn thực vật, thực vật thượng đẳng, tảo, mùn bã hữu cơ và động vật phù du.
Kết quả phân tích thức ăn trong ruột cá hô giống lớn được trình bày như sau:
2
Bảng 1: Kết quả phân tích các loại thức ăn trong ruột cá hô với n = 30, cỡ cá từ 16 –
20 gam, chiều dài từ 9,1 – 11,9 cm.
Loại thức ăn
Động vật phù du
Thực vật phù du
Mùn bã hữu cỡ
Mức độ bắt gặp
++
+++
+
Tần số bắt gặp
9/30
19/30
3/30
Tỷ lệ %
30
63
13
Kết quả phân tích ở bảng 1 cho thấy thức ăn trong ruột phần lớn là thực vật phù du phù
hợp với nhận định của các tác giã trước.
Trong điều kiện nuôi cá thường được nuôi hổn hợp với cá tra, cá chép và mè vinh. Thức
ăn chính là cám gạo nấu chín (Nguyễn Văn Hảo, 1993). Cá hô nuôi ghép trong ao với
một số loài cá khác như: cá tra, mè vinh, cá chép… với nguồn giống chủ yếu được đánh
bắt từ tự nhiên rất hiếm nên tỷ lệ cá hô ghép rất thấp, do đó các tăng trưởng rất nhanh một
năm có thể đạt từ 2 – 3 kg/con. Cá lớn nhất được tìm thấy ở hồ chứa Lam pao có chiều
dài 59 cm (Jaiyen, 1976; trích dẫn bởi Leelapatra và ctv, 2.000). Ở hồ chứa Ubonlaratana,
kích cỡ lớn nhất 63,3 cm nặng 4,35 kg (Murada và Benjakarn, 1987; trích dẫn bởi
Leelapatra và ctv, 2.000). Một năm đạt trọng lượng từ 100 – 200 g/con, nếu có thức ăn
phù hợp có thể đạt 400 – 500 g/con (Phạm Văn Khánh, 1994). Ngoài tự nhiên bắt được
cá có chiều dài tới 300 cm, nhưng thông thường chỉ đến 100 – 200 cm (A, F. Poulsen,
2005). Cở cá ngư dân thường đánh bắt được có khôi lượng từ 80 – 150 kg. Đây là một
trong các loài cá nước ngọt có kích thước lớn, thịt cá ngon có giá trị thương phẩm
(Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993). Trong mùa lũ cá con và cá non kiếm
ăn ở các vùng ngập và bãi ngập ven sông chính. Cá lớn sống ở sông chính quanh năm nên
không biết được tính ăn của nó.
1.3. Đặc điểm sinh sản
Ngoài tự nhiên cá hô thành thục khi đạt 5 tuổi với chiều dài 60 – 70 cm nặng 50 – 60 kg
(Nguyễn Văn Hảo, 1993). Cá thể cái 60 kg có thể đẻ 400.000 trứng. Trong điều kiện tự
nhiên người ta đã bắt được cá thể khá lớn, nặng tới 158 kg, trong đó buồng trứng cân
được 24 kg gần 6 triệu trứng. Đến mùa sinh sản cá di cư lên phần trung lưu sông để đẻ
trứng. Cá con thường xâm nhập vào các sông nhỏ và đồng bằng ngập nước trong mùa lũ
3
để kiếm ăn. Mùa vụ sinh sản của cá hô ngoài tự nhiện từ tháng 5 đến tháng 7 (Bộ Thủy
Sản, 1996). Hiện hiểu biết rất ít về tập tính sinh sản và nơi sinh sản của loài cá này. Đã có
giả thiết cho rằng đẻ trứng diễn ra gần nơi cư trú vùng ngập. Tuy nhiên, một như dân ở
Kra-chê của Camouchia nói đã tìm thấy cá thể cỡ lớn cá này bơi trên bề mặt một vực sâu
gần Kra-chê giống như đang đẻ. Cho dù không thể dựa vào thông tin như vậy để khẳng
định nơi đẻ trứng của cá, nhưng đối với loài cá cỡ lớn như thế này thì những vùng sâu
của sông đương nhiên có khả năng là nơi đẻ trứng hơn nhiều so với các vùng ngập. Do
một số cá thê lớn cũng thường đánh được ở Biển Hồ và sông Tông – lê Sap ở một thời
điểm nhất định trong năm cho nên cũng có thể có bãi đẻ của chúng ở những vùng nước
sâu của hồ này (A, F. Poulsen, 2005). Loài này có vòng đời gần giống với một số loài cá
di cư khác ở sông Mê Kông, tức là chúng đẻ trứng ở dòng chính, trứng và ấu trùng trôi
xuôi dòng đến nơi kiếm mồi và sinh trưởng ở đó trong suốt mùa lũ. Khi mức nước bắt
đầu xuống chúng di chuyển ngươc lại ra sông chính, di cư đến nơi ẩn náu mùa khô. Tuy
nhiên, nếu so sánh với nhiều loài khác thì loài này phải trải qua nhiều năm mới thành
thục. Số liệu điều tra ngư dân chỉ ra rằng cá non có thể quay trở lại vùng ngập liên tục vài
năn, nhưng khi đã đạt đến kích thước nhất định thì có thể chỉ sống ở sông mà thôi. Cá con
bắt được thường xuyên khắp vùng ngập ở Campuchia và Việt Nam. Nghề đáy ở Tonle
Sap cũng thường bắt được cá non cỡ lớn nhưng số lượng không nhiều. Cá trưởng thành
thỉnh thoảng cũng đánh được dọc theo lưu vực nhưng ngày càng hiếm. Cá này giữ địa vị
quan trọng đối với nghề đánh cá ở Thái Lan, nó đã được sinh sản nhân tạo và thả giống
vào hồ (A, F. Poulsen, 2005)
II. Kỹ thuật sinh sản nhân tạo
2.1. Nuôi vỗ cá bố mẹ
Cá hô sau khi được thuần dưỡng trong điều kiện nước tĩnh thì nuôi vỗ được trong ao
không cần nước chảy, chỉ cần hàm lượng ôxy hòa tan đảm bảo đủ cho nhu cầu sự sống
của cá.
-Vị trí ao
4
Ao nuôi vỗ cá bố mẹ nên chọn những nơi gần nhà để dễ chăm sóc bảo vệ tuy nhiên phải
ít rậm rạp bởi bóng cây. Do đây là loài cá có kích thước rất lớn nên ao phải có diện tích
tương ứng từ 2.000 m2 trở lên, độ sâu từ 1,2 – 2 mét. Ao rộng thoáng để các yếu tố môi
trường ổn định.
Ao phải gần nguồn nước nước sạch, để dễ dàng và chủ động cất thoát nước cho ao. Bờ ao
phải chắc chắn, không rò rỉ và cao hơn mực nước cao nhất trong năm. Đáy ao bằng phẳng
và hơi nghiêng về phía cống thoát.
-Chuẩn bị ao trước khi thả cá bố mẹ
Trước khi thả cá bố mẹ phải cải tạo lại ao: tát cạn ao, bắt hết cá tạp, vét bớt bùn đáy, đắp
lại chỗ sạt lỡ, dùng vôi bột rải đều đáy và mái bờ ao (7 – 10 kg/100 m2). Phơi nắng đáy ao
1 – 2 ngày và cho nước vào ao qua lưới chắn lọc, khi mức nước đạt từ 1,2 – 1,5 mét từ 3
– 5 sau thì tiến hành thả cá.
-Chọn cá bố mẹ nuôi vỗ
Chọn cá khỏe mạnh, ngoại hình cân đối, không bị dịnh hình, khối lượng từ 15 kg đến 30
kg, mật độ nuôi cá bố mẹ là 20 kg/100 m 2. Có thể nuôi chung cá đực, cá cái với tỷ lệ 1:1.
Đánh số thứ tự cho cá bố mẹ, dùng que nhọn đầu để đánh số lên đầu của cá (số La mã
dùng cho cá đực, số Ả Rập cho cá cái) để dễ dàng theo dõi sự thành thục của cá trong quá
trình kiểm tra. Mùa vụ nuôi vỗ cá hô bắt đầu từ tháng 12 năm trước, thời gian cá thành
thục và bước vào sinh sản từ tháng 3, mùa cá đẻ có thể kéo dài tới tháng 10. Trong mùa
vụ nuôi vỗ nhiệt độ thích hợp cho cá từ 28 – 30 0C, nhiệt độ nước thích hợp cho cá đẻ và
ấp trứng từ 28 – 30 0C.
-Thức ăn cho cá bố mẹ
Dùng thức ăn viên công nghiệp chứa hàm lượng đạm từ 26 – 30 %, khẩu phần ăn hàng
ngày từ 2 – 3% khối lượng thân. Ngoài ra còn bổ sung thêm 0,5% vitamin E,C, 0,2% trái
ổi. Cho ăn mỗi ngày 2 lần vào lức 8 – 9 giờ sáng và 16 – 17 giờ chiều, bằng cách rải nổi
thức ăn trên mặt nước.
Hàng ngày dựa vào mức ăn của cá để điều chỉnh tăng giảm lượng thức ăn cho hợp lý.
Thông thương cá ăn nhiều khi mới bắt đầu đưa vào nuôi vỗ và khẩu phần ăn cao hơn giai
5
đoạn sau. Khi cá thành thục và sắp đẻ thì cá ăn ít, khầu phần ăn nên giảm đi có thể cho ăn
từ 1,5 – 2% khối lượng thân.
-Quản lý ao
Định kỳ thay nước một tháng 2 lần theo thủy triều, mỗi lần thay từ 20 – 30% lượng nước
trong ao. Khi nước ao bị xấu phải thay nhiều nước hơn lượng nước thay định kỳ. Khi xảy
ra hiện tượng cá nổi đầu phải nhanh chống cấp nước mới, sạch hoặc bơm phun mưa cho
ao nhằm tăng thêm lượng ôxy hòa tan trong nước giúp cho cá khỏe lại.
2.2. Cho cá sinh sản nhân tạo
- Kiểm tra cá bố mẹ
Trong quá trình nuôi vỗ cá bố mẹ, định kỳ kiểm tra tình trạng phát dục và sức khỏe của
cá để điểu chỉnh thức ăn và chế độ nuôi vỗ cho hợp lý. Dùng que thăm trứng để thu trứng
cá cái và vuốt bụng cá đực xem tinh dịch, đồng thời thu trứng cá cái cố định trong dung
dịch bouin để phân tích các giai đoạn phát triển của tế bào trứng bằng phương pháp mô
học
- Giai đoạn I: chỉ gặp cá thành thục lần đầu và chỉ trải qua giai đoạn I một lần trong đời,
về hình thái ở giai đoạn này toàn bộ buồng trứng dẹp và mỏng nằm sát hai bên xương
sống, màu trắng trong, hống nhạt hơi xám, trên bề mặt của nó mạch máu và mô liên kết
kém phát triển, về mặt tổ chức học tế bào trứng là các noãn nguyên bào, có hình tròn,
kích thước khoảng 40 – 80 µ, chưa phân biệt cá đực, cá cái bằng mắt thường, chưa thể
hiện ra bên ngoài các dấu hiệu sinh dục phụ, trừ một số loài (cá trê, tai tượng) có cơ quan
sinh dục đực khác cơ quan sinh dục cái (Nguyễn Văn Kiểm, 2005). Thực tế quan sát
tuyến sinh dục của cá hô trong giai đoạn này còn rất nhỏ, có dạng sợi mảnh và trong rất
khó phân biệt tinh sào hay noãn hoàng.
- Giai đoạn II: Buồng trứng có kích thước to hơn giai đoạn I nên có thể nhìn thấy và
phân biệt đực cái bằng mắt thường. Quan sát trên tiêu bản mô học thấy nhân to nằm ở
trung tâm, kích thước trung bình của hạt trứng = 0,22 ± 0,04 mm
6
Hình 2: trứng cá hô giai đoạn 2 độ phóng đại x 40
- Giai đoạn III: Hình dạng ngoài buồng trứng đã lớn, bằng mắt thường quan sát thấy hạt
trứng có màu vàng nhạt, hay màu xám, kích thước trứng nhỏ không đồng đều dính lại với
nhau bằng mô liên kết rất khó tách rời, trên tiêu bản mô học nhân hơi lệch tâm ở cuối
phase, xuất nhiện những hạt không bào và hình thành vỏ phóng xạ. Kích thước trung bình
của trứng = 0,53 ± 0,17 mm
Hình 3: Trứng cá hô giai đoạn III, độ phóng đại x 40
- Giai đoạn IV: Buồng trứng rất lớn chiếm gần đầy xoang bụng. Kích thước trứng tương
đối đồng đều và đạt kích thước tối đa trung bình = 0,92 ± 0,08 mm. Trứng đã hoàn chỉnh
cấu tạo bắt đầu chuyển sang giai đoạn chin. Quan sát trên tiêu bản mô học thấy nhân dịch
hẳn về cực động vật, có sự trộn lẫn từng phần hoặc toàn bộ noãn hoàng và mỡ. Đến cuối
giai đoạn IV trứng chín và được giải phóng khỏi mô liên kết. Trứng bắt đầu rụng chuẩn bị
cho thụ tinh. Khi kiểm tra để cá có thể sinh sản được thì hạt trứng phải căng, màu sắc
đồng đều, các hạt trứng dễ tách rời nhau, hơi khô.
7
Hình 4: Trứng cá hô giai đoạn độ phóng đại x 40
-Giai đoạn V: Buồng trứng sau khi đẻ xẹp và nhảo, hạt trứng bị nhầy, màu sắc nhạt hơn.
Trên tiêu bản mô học có nhiều hạt trứng vỡ, rách hình dạng không ổn định.
Hình 5: Trứng cá hô giai đoạn V độ phóng đại x 40
Vào những tháng chính vụ sinh sản cứ 2 tuần kiểm tra 1 lần, đánh dấu để theo dõi những
cá phát triển tốt và dự định ngày cho sinh sản.
Các trang thiết bị chủ yếu phục vụ cho cá sinh sản nhân tạo gồm có:
+ Bể sinh sản nhân tạo: Do cá hô có kích thước lớn nên thường được cho sinh sản trong
bể xi măng có kích thước lớn 24 m3 hình chủ nhật (6 x 4 x 1 mét)
+ Bể ấp: Trứng cá hô thuộc loại trứng bán trôi nổi nên được ấp trong bể composite có thể
tích từ 700 – 1.000 m3. Chứa từ 300.000 – 500.000 trứng.
-Mùa vụ sinh sản
Mùa vụ sinh sản của cá hô kéo dài từ tháng 3 đến tháng 10 dương lịch, nhưng tập trung từ
tháng 5 đến tháng 8. Cá hô bố mẹ nuôi vỗ trong ao có khả năng tái phát dục. Thời gian tái
phát dục từ 30 – 60 ngày.
-Chọn cá cho sinh sản
8
+ Cá đực: Khỏe mạnh, vuốt nhẹ ở mặt bụng về hướng lỗ sinh có tinh màu trắng sữa chảy
ra
+ Cá cái: Bụng tương đối to, mềm, dùng que thăm trứng thu trứng, tế bào trứng to, căng
tròn, tương đối đồng đều, dễ tách rời nhau.
+ Tỷ lệ đực : cái là 1:1
-Sử dụng kích thích tố
Cá hô không đẻ tự nhiên trong ao, do đó phải tiêm kích thích tố để kích thích cá rụng
trứng, các kích thích tố đang được sử dụng cho cá hô gồm: Não thùy thể cá, HCG
(Human Chorionic Gonadotropin), LH-Rha (Luteinizing Hormone Releasing Hormone
analogue).
+ Phương pháp tiêm
Dùng phép tiêm 2 lần đối với cá cái, sơ bộ và quyết định. Đối với cá đực thì tiêm một lần
cùng lúc với lần tiêm quyết định của cá cái. Thời gian giữa lần sơ bộ và quyết định là 6
giờ.
Vị trí tiêm: tiêm vào gốc vây ngực của cá, nghiêng mũi kim một gốc 45 0 so với thân cá.
Hình 6: tiêm kích thích tố
+ Liều lượng kích thích tố
Liều sơ bộ: dùng 2 mg nảo thùy + 500 UI (HCG)/kg
9
Liều quyết định: dùng (4 mg não thùy + 180 – 200 microgam LH-Rha + 18 – 20 mg
motilium)/kg hoặc 4 mg não thùy + 4.000 UI (HCG)/kg. Cá đực tiêm bằng 1/2 liều cá cái.
Thời gian hiệu ứng kích thích tố từ 6 – 8 giờ.
Vài chi tiêu về kết quả nuôi vỗ và kích thích sinh sản nhân tạo cá hô của chúng tôi như
sau: Tỷ lệ thành thục đạt 87,6%, tỷ lệ cá sinh sản 79,4%, sức sinh sản thực tế đạt tới
38.878 trứng/kg. Một cá cái 20 kg đẻ được 777.560 trứng, sức sinh sản này cao hơn so
với cá ngoài tự nhiên của (Nguyễn Văn Hảo, 1993) cho rằng cá hô 60 kg đẻ được
400.000 trứng.
-Thụ tinh nhân tạo
Dùng phương pháp thụ tinh khô, khi cá có dầu hiệu rụng trứng thì tiến hành vuốt tinh cá
đực trước cho vào xyranh có chứa nước muối sinh lý 6 – 9%o. Sau đó bảo quản ở nhiệt
độ lạnh tránh ánh sáng chiếu trực tiếp.
Hình 7. Thu tinh cá đực
Tiến hành vuốt trứng cá cái cho vào thau cho kịp thời, thường phải gây mê cá bố mẹ
trước khi thụ tinh và vuốt trứng.
10
Hình 8. Vuốt trứng cá cái
Hình 9. Cho tinh dịch vào thau đựng trứng
11
Hình 10: Thụ tinh và rửa trứng cho vào ấp trong bể composite
Trứng cá hô thuộc loại bán trôi nổi sau khi trương nước trứng nổi lơ lững trong điều kiện
nước chảy, cho nên ấp được trong bể composite có sục khí và thay đổi nước liên
tục, mật độ từ 300.000 – 500.000 trứng/ 700 m 3. Điểu chỉnh lưu lượng nước ấp để
trứng đảo đều, luôn đủ ôxy, nhiệt độ nước thích hợp cho phôi cá phát triển từ 28 –
30 0C ở nhiệt độ này trứng nở sau 12 đến 12 giờ 30 phút. Tỷ lệ thụ tinh và nở đạt
tương đối cao lần lượt là 79% và 82,5%. Sau khi nở 2 ngày thi cá tiêu hết noãn
hoàng.
Kết quả theo dõi quá trình phát triển phôi của cá hô
Phôi nhô lên
2 tế bào
4 tế bào
12
8 tế bào
Nhiều tế bào
Phôi nang thấp
Bọc mắt
16 tế bào
Phôi dâu
Phôi vị
Phôi thần kinh
32 tế bào
Phôi nang cao
Cuối phôi vị
Đốt cơ
13
Phôi cử động
Cá bột mới nở
Hình 11: Quá trình phát triển phôi cá hô
2.3. Kỹ thuật ương nuôi cá hô
Sau khi cá nở được 2 – 3 ngày thì hết noãn hoàng và chuyển đi ương nuôi. Kích thước cá
bột mới nở dài trung bình 5,61 ± 0,23 mm, đến ngày thứ 2 sau khi nở đạt 6,59 ± 0,34 mm
và kích cỡ miệng cá lúc này là 0,43 ± 0,07 mm, kích cỡ Moina dài 0,38 ± 0,03mm, ngang
0,2 ± 0,03 mm, do đó trong giai đoạn này cá có thể sử dụng được Moina và các loại thực
vật phù du.
Ương cá hô bằng hai phương pháp một và hai giai đoạn
2.3.1. Ương theo phương một giai đoạn (ương trực tiếp dưới ao)
- Chuẩn bị ao:
+ Diện tích ao từ 800 – 5.000 m2 hoặc lớn hơn. Độ sâu thích hợp từ 1 – 1,5 mét. Đáy ao
có lớp bùn vừa phải từ 15 – 20 cm để dễ dàng gây nuôi thức ăn tự nhiên.
+ Tát cạn ao, bắt hết cá, bón vôi ở nền đáy và mái bờ ao từ 7 – 10 kg/100 m 2, phơi đáy từ
1 – 2 ngày. Lọc nước vào ao qua lưới mịn khi đạt độ sâu 0,7 – 0,8 mét thì thả cá, đồng
thời đưa Moina xuống ao với lượng 0,5 kg/100 m2.
- Mật độ ương nuôi trong ao: 80 – 100 con/m2
- Thức ăn và chăm sóc cá ương nuôi
+ Từ 1 đến 10 ngày đầu: ngoài thức ăn là Moina còn cung cấp thêm các loại thức ăn
khác: lòng đỏ trứng luộc 2 trứng + 200 gam bột đậu nành cho 10.000 con cá bột. Mỗi
ngày cho ăn 2 lần vào lúc 8 – 9 giờ sáng, chiều từ 16 – 17 giờ.
+ Từ 11 đến ngày thứ 20: cho ăn Moina cũng với lượng trên nhưng thả thưa dần cách 5
ngày bổ sung một lần, lúc này cho ăn thêm bột mịn 200 gam cho 10.000 con cá bột.
+ Từ 21 đến ngày thứ 30: cho ăn thức ăn công nghiệp mảnh nhỏ với lượng 300 gam cho
10.000 con cá bột
+ Từ 31 đến 50 ngày tuổi: cho ăn thức ăn mảnh lớn với khẩu tứ 10 – 15 % khối lượng
thân.
+ Từ 51 – 60 ngày tuổi: cho ăn 50% thức ăn mảnh lớn + 50% thức ăn viên nhỏ 1 mm,
khẩu phần ăn từ 7 – 10% khối lượng thân.
14
-Quản lý ao nuôi: ao được thay nước một tháng 2 lần, trường hợp cá bị nổi đầu phải bơm
nước sạch vào và phun trên mặt ao, đồng thời đưa thêm sục khí xuống ao để làm thêm
hàm lượng ôxy hòa tan.
2.3.2. Ương theo phương pháp 2 giai đoạn
- Giai đoạn 1: (từ 1 – 30 ngày tuổi) ương trên bể với mật độ 500 con/m3
+ Chuẩn bị bể: Bể cũng được vệ sinh kỹ trước khi thả cá, rửa sạch bể, khử trùng bằng
vôi, phơi bể một ngày, trước khi cho nước vào dùng lưới mịn đậy kính bề mặt bể để tránh
địch hại.
+ Cho nước vào qua lưới lọc khi mực nước đạt 0,6 – 0,7 mét thì dừng lại, qua ngày sau
thì thả cá, có thể đưa Moina trước một ngày hoặc cùng ngày thả cá bột. Bể được sục khí
liên tục
+ Từ 1 đến 10 ngày đầu: chỉ cho ăn Moina với lượng 0,5 kg cho 20.000 con cá bột
+ Từ ngày 11 đến ngày thứ 20: cho ăn Moina với lượng trên nhưng từ 4 – 5 ngày bổ sung
một lần + thức ăn đậm đặc dạng viên mịn 200 gam cho 20.000 con cá bột
+ Từ ngày 21 đến ngày thứ 30: cho ăn thức ăn đặm đặc + thức ăn mảnh nhỏ với lượng
300 gam cho 20.000 con cá bột, có thể duy trí thêm Moina trong trường hợp cá tăng
trưởng chậm
+ Quản lý bể ương: Khi cá đạt từ 10 – 15 ngày tuổi thì không cần phải đậy lưới, thường
xuyến theo dõi xy phong nền đáy kết hợp với thay nước.
-Giai đoạn 2: (Từ 31 đến 60 ngày tuổi) ương dưới ao
+ Mật độ thả: 50 con/m2
+ Thức ăn và chế độ chăm sóc tương tự như cá ương trực tiếp dưới ao từ 31 – 60 ngày
tuổi.
15
Hình 12. Cá hô giống 65 ngày tuổi
Bảng 2.1. So sánh tỷ lệ sống của cá hô giống với một số loài cá bản địa khác
Loài cá
% Tỷ lệ sống của cá giống 60 ngày tuổi
Ương 2 giai đoạnn (ương trên bể và
Ương một giai đoạn (trực
dưới ao)
Cá chai
Mè hôi
Ét mọi
Cá hô
tiếp dưới ao)
86
39,29
72
63,96
58
10,3
44
54.8
Tỷ lệ sống của cá hô tương đương với cá chài và ét mọi, cao hơn cá mè hôi dù ương theo
pương một hay hai giai đoạn. Cá chài và ét mọi ở giai đoạn cá hương, cá giống bắt mồi
rất tích cực, còn cá hô thì ngược lại ăn rất chậm ít khi lên tầng mặt. Tỷ lệ sống của cá hô
giống đạt tương đối cao là do cách bố trí thí nghiệm ương hợp lý, cung cấp thức ăn đầy
đủ phù hợp theo từng giai đoạn phát triển của cá, quản lý môi trường tốt, phòng trị bệnh
kịp thời. Tóm lại, tỷ lệ sống của cá hô giống ương theo phương một và hai giai đoạn có tỷ
lệ sống tương đương nhau, tuy nhiên nếu chuẩn bị ao thật kỹ thì ương theo phương pháp
một giai đoạn cá đạt tỷ lệ sống cao và tăng trưởng nhanh hơn ương theo phương pháp hai
giai đoạn.
Tài liệu tham khảo
1. A, F. Poulsen K.G. Hortle, J. Valbo-Jorgensen, S. Chan, C.K.Chhuon, S.
Viravong, K. Bouakhamvongsa, U. Suntornratana, N. Yoorong, Nguyễn Thanh
Tùng và Trần Quốc Bảo, 2005. Phân bố và sinh thái một số loài cá sông quan
trọng ở hạ lưu sông Mê Kông, 119 trang
2. Đặng Văn Trường, Thi Thanh Vinh, Hoàng Quang Bảo, Phạm Đình Khôi, Đinh
Hùng, Nguyễn Minh Thành, Trịnh Quốc Trọng (2005). Sinh sản nhân tạo và ương
nuôi cá mè hôi (Osteochilus melanopleurus). Tuyển tập Hội thảo quốc gia về phát
triển thủy sản vùng hạ lưu sông Mekong Việt Nam. Trang 272-275. Nhà xuất bản
Nông nghiệp TP. HCM.
3. Leelapatra,W., Srisakultiew, P., Sukumasavin, N. (2000). Biology and Breeding of
Indigenous fish Species in Thailand. MRRF Technical Report
16
4. Mai Đình Yên, Nguyễn Văn Trọng, Nguyễn Văn Thiện, Lê Hoàng Yến và Hứa
Bạch Loan. 1992. Định loại các loài cá nước ngọt Nam Bộ. Nhà Xuất bản Khoa
học và Kỹ thuật, 347 trang
5. Mekong River Commission, 2008. Field guide to Fishes of the Mekong Delta.
Published in Vientiane, Lao PDR, 288p
6. Nguyễn Văn Hảo, 1993. Cá nước ngọt Việt Nam, tập 1 họ cá chép (Cyprinidae),
trang 267-269
7. Nguyễn Văn Kiểm, 2005. Giáo trình kỹ thuật sản xuất cá giống, tủ sách Đại Học
Cần Thơ, 95 trang.
8. Phạm Văn Khánh, 1994. Kỹ thuật sản xuất giống cá mè vinh, NXB Nông Nghiệp
1994. 40 trang
9. Rainboth, W. J., 1996. Fishes of the Cambodian Mekong. FAO, Rome, 265 pp
10. Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993. Định loại cá nước ngọt vùng
Đồng Bằng Sông Cửu Long. Khoa Thuỷ sản - Đại học Cần Thơ, 361 trang
17