Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Tiểu luận cao học, lTư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.57 KB, 42 trang )

MỤC LỤC


Mở đầu
Có một nhà văn châu Á nổi tiếng đã từng viết: "Chúng ta có thể cùng
nhau bàn luận và cũng không dễ thống nhất để tìm xem trên đời này, ai là
người vĩ đại nhất, ai là người danh tiếng nhất, ai là người tài giỏi nhất, ai là
người uyên bác nhất... Nhưng Hồ Chí Minh dứt khoát là người hoàn toàn
nhất, con người giàu chất người nhất trên thế giới này". Con người "giàu chất
người nhất trên thế giới này", “hoàn toàn nhất” này chính là con người có tầm
mắt đại bàng của tư duy (theo cách nói của Heghen - nhà triết học duy tâm
khách quan cổ điển Đức). Có được tầm mắt thiên tài chính là vì nhịp đập của
trái tim Hồ Chí Minh gắn liền với vận mệnh đất nước và nỗi niềm của nhân
dân. Trong suốt quá trình hoạt động lý luận và thực tiễn chỉ đạo cách mạng
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác lập, hiện thực hóa hệ thống quan
điểm về dân chủ trong tổ chức xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực.
Đặc biệt, tư tưởng của Người về dân chủ trong chính trị đã trở thành một bộ
phận văn hóa của dân tộc Việt.
Chúng ta đang sống trong một thời kỳ mà tiếng gọi cho tự do và dân chủ
đang vang lên trên khắp địa cầu. Đông Âu vừa loại bỏ các chính phủ chuyên
chế tồn tại gần nửa thế kỷ và các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ cũng đang
tranh đấu để thay thế chế độ cộng sản tồn tại gần 75 năm bằng một trật tự dân
chủ mới - trật tự mà trước đây có thể họ chưa bao giờ biết đến. Tuy nhiên,
những sự kiện xảy ra xung quanh các biến động chính trị lớn tại châu Âu đang
phủ một bóng đen lên viễn cảnh tươi sáng mà dân chủ hứa sẽ đem lại - chính
sự hứa hẹn này đang liên kết và huy động sức mạnh của mọi người trên khắp
thế giới. Nam Mỹ và Bắc Mỹ hiện nay thực sự đang là một bán cầu của dân
chủ; châu Phi đang trải qua một thời kỳ cải cách dân chủ chưa từng có; và các
thể chế dân chủ mới và năng động hiện đang bén rễ tại châu Á. Tại Việt Nam
thì sao? Từ khi thành lập cho tới nay, Đảng ta luôn kiên định đường lối xây
dựng và hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa trên nền tảng


2


chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừ nhưng giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc và sáng tạo kinh nghiệm của
các nước trên thế giới. Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ
gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Do đó, nghiên cứu, thấm nhuần tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ trong chính trị là việc làm thiết thực và
có ý nghĩa to lớn.
Vì thế, để góp phần nhỏ bé vào việc giải quyết vấn đề này, tôi lựa
chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị”.

3


Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ TRONG CHÍNH TRỊ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Thao tác hóa khái niệm
1.1.1. Dân chủ
Dân chủ có thể là một từ quen thuộc với nhiều người, nhưng nó là một
khái niệm vẫn bị hiểu sai và sử dụng sai khi các chế độ chuyên chính và các
chính thể quân sự độc tài lợi dụng để kêu gọi sự ủng hộ của quần chúng bằng
cách tự gắn cho mình cái mác dân chủ. Tuy thế, sức mạnh của tư tưởng dân
chủ cũng đã tạo nên những biểu hiện sâu sắc nhất và nhanh chóng nhất trong
lịch sử của ý chí và trí tuệ con người: từ Pericles thời Aten cổ đại tới Vaclav
Havel ở Cộng hòa Séc hiện đại, từ Tuyên ngôn Độc lập của Thomas Jefferson
năm 1776 tới các bài diễn văn cuối cùng của Andrei Sakharov năm 1989.
Theo định nghĩa trong từ điển, dân chủ “là chính phủ được thành lập bởi
nhân dân trong đó quyền lực tối cao được trao cho nhân dân và được thực

hiện bởi nhân dân hoặc bởi các đại diện được bầu ra từ một hệ thống bầu cử
tự do”.
Khái niệm dân chủ, vốn gắn liền với nền văn minh La Hy, đã xuất hiện
từ lâu. Chữ “democracy” (dân chủ) trong tiếng Anh và một số ngôn ngữ Tây
phương khác hiện nay có gốc gác từ tiếng Hy Lạp cả hơn hai ngàn năm trăm
năm trước, trong đó, “demos” là dân, nhân dân; và “kratos” là trị, cai trị. Có
lẽ nó hoàn toàn tương đương với chữ “dân chủ” mà chúng ta đang sử dụng:
dân làm chủ. Không có người nào tóm tắt khái niệm dân chủ ấy hay bằng
Abraham Lincoln trong câu nói nổi tiếng: “chính quyền của dân, do dân và
vì dân”.

4


Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về phạm trù “Dân chủ” xét theo đối
tượng, phương pháp và mục đích khác nhau của nhiều bộ môn khoa học. Căn
cứ vào những quan điểm truyền thống về dân chủ trong lịch sử tư tưởng, có
hai cách tiếp cận:
Thứ nhất, dân chủ là một hiện tượng lịch sử - xã hội, xuất hiện và phát
triển với tư cách là sản phẩm trực tiếp của đời sống chính trị, của sự vận động
chính trị trong cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết vấn đề quyền lực
chính trị thuộc về giai cấp nào trong xã hội. Theo ý nghĩa này, thì phải xác
định nguyên nhân sâu xa của dân chủ và quyền dân chủ chính trị trong tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội trong sự chi phối và quyết định từ lợi ích và
địa vị kinh tế của các hình thức chủ thể khác nhau con người. Cũng trên cơ sở
đó, có thể khẳng định dân chủ gắn liền một cách phổ biến, trực tiếp với quyền
lực nhà nước trong quản lý xã hội.
Xuất phát từ sự phân tích ở trên, có thể coi lịch sử hình thành dân chủ
như một đặc trưng của quan hệ quyền lực nhà nước. Và hơn thế nữa, nó còn
được coi là hình thức chính trị của sự biểu đạt một kiểu quan hệ xã hội thường

gắn với lịch sử xuất hiện các giai cấp. Nhà nước như là một thiết chế chính trị
để thực hiện dân chủ. Tuy nhiên, không phải bất cứ chế độ nhà nước nào
trong lịch sử xã hội cũng là chế độ dân chủ.
Xét trên bình diện quản lý xã hội, nội dung căn bản giải quyết vấn đề dân
chủ là giải quyết vấn đề nhà nước. Đó là lĩnh vực các quan hệ tổ chức, cơ cấu
và trật tự pháp lý của quyền lực dân chủ trong hoạt động của nhà nước. Còn
xét từ góc độ lợi ích trong xã hội hình thành nhà nước thì không thể có dân
chủ thuần tuý, dân chủ tuyệt đối và dân chủ chung cho tất cả mọi người không
phân biệt giai cấp. Tính chất giai cấp của dân chủ đã và sẽ còn tồn tại chừng
nào xã hội còn tồn tại giai cấp và nhà nước. Điều này chứng tỏ rằng, mọi
nghiên cứu về dân chủ, nếu không căn cứ trên cơ sở kinh tế – xã hội và việc
5


giải quyết giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị của một giai cấp nhất
định thì không thể chỉ ra bản chất của dân chủ.
Thứ hai, dân chủ là một hiện tượng lịch sử xã hội, một sản phẩm của sự
vận động chính trị bị chế ước bởi trình độ và trạng thái hiện thực của kinh tếxã hội; mà dân chủ còn là thành tựu của sự phát triển văn hoá nhân loại, với
tính cách là thước đo về trình độ giải phóng con người, xã hội mà loài người
đã đạt được trong mỗi thời đại lịch sử. Trong mối quan hệ này dân chủ là một
động lực, một tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội.
Nói một cách tổng quát, dân chủ là yếu tố hợp thành nội dung của tiến
bộ xã hội. Quan niệm về tiến bộ xã hội sẽ trở nên hạn hẹp nếu xác định những
kết quả chung mà tiến bộ xã hội đạt được tách rời khỏi mối liên hệ với dân
chủ trong những điều kiện lịch sử nhất định của qúa trình phát triển xã hội.
Dân chủ trở thành thước đo của tiến bộ xã hội. Lôgic khách quan của sự vận
động lịch sử dẫn tới sự trùng hợp, sự phù hợp ngày càng cao hơn, đầy đủ hơn
giữa dân chủ với tiến bộ xã hội bởi mục tiêu giải phóng con người và xã hội
của nền dân chủ XHCN và tiến bộ xã hội trong CNXH hướng tới con người,
xem “con người là thước đo của tất cả”. Tuy nhiên, không phải bất cứ chế độ

nhà nước nào cũng đồng thời là một chế độ dân chủ, nhưng bất cứ một chế độ
dân chủ nào cũng phải được biểu hiện ra bởi hình thức nhà nước tương ứng,
phù hợp với nó. Ở đây có hai điều cần phải nhấn mạnh, khi nghiên cứu chế độ
nhà nước là một chế độ dân chủ
Thứ nhất, Nhà nước, một sản phẩm tất yếu của xã hội phân chia thành
giai cấp và có đối kháng giai cấp bao giờ cũng mang bản chất giai cấp và
cũng là công cụ quyền lực để duy trì bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
Điều đó, cũng sẽ đúng ngay cả trong điều kiện giai cấp công nhân, nhờ thắng
lợi chính trị trong cuộc đấu tranh giai cấp sử dụng chính quyền của mình để

6


xây dựng xã hội mới theo các mục tiêu của CNXH thì nhà nước xã hội chủ
nghĩa vẫn là nhà nước mang tính chất giai cấp.
Thứ hai, xét về lô gích, chủ nghĩa xã hội và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
là sự thay thế hợp quy luật đối với nền dân chủ tư sản. Do đó, ở trên một trình
độ cao hơn so với chủ nghĩa tư bản và nền dân chủ tư sản cũng là một tất yếu
của lịch sử. Điều đó cũng sẽ đúng, khi xét về mặt thực tiễn lịch sử trong thời
gian qua và hiện nay, thì chủ nghĩa xã hội và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lại
chưa ở trình độ cao, chưa trở thành một hiện thực phổ biến trực tiếp, nó còn
đang trong quá trình hình thành, phát triển.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa
Chính quyền nhà nước kiểu mới – chính quyền của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động, việc Đảng Cộng sản khẳng định vai trò lãnh đạo nhà
nước và xã hội của mình, việc xã hội bước vào thời kỳ quá độ lịch sử – xây
dựng xã hội mới theo các định hướng và mục tiêu XHCN đã được xác định là
những nội dung, nguyên tắc chính trị căn bản nhất để hình thành chủ nghĩa xã
hội.
Những tiền đề và nguyên tắc dẫn tới sự hình thành nền dân chủ xã hội

chủ nghĩa, chỉ xuất hiện trong thắng lợi của cách mạng chính trị giành chính
quyền của giai cấp công nhân gắn liền với sự ra đời của nhà nước kiểu mới –
nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vấn đề bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa
không dừng lại ở bản chất giai cấp công nhân với lợi ích của đông đảo những
người lao động ở quyền tham gia quản lý xã hội và nhà nước của công dân.
Mặc dù, đây là những khía cạnh quan trọng về lý luận và là những yếu tố hợp
thành nội dung thực tiễn của dân chủ xã hội chủ nghĩa; mà phải xem xét một
cách toàn diện về bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, cũng cần
phải xem xét vai trò và ý nghĩa của dân chủ trong các lĩnh vực tổ chức các
7


hoạt động của đời sống, tác động và ảnh hưởng của nó đối với các mối quan
hệ và liên hệ xã hội của con người trong chủ nghĩa xã hội.
Trong cách hiểu về dân chủ cần khắc phục tính chất phiến diện trước dây
thường dẫn tới đồng nhất đơn giản giữa dân chủ với nhà nước, với chế độ nhà
nước và từ đó quan niệm rằng sự tiêu vong của nhà nước cũng đồng thời là sự
tiêu vong của dân chủ. Điều đó thường dẫn đến quan điểm cho rằng, dường
như dân chủ chỉ là một vấn đề tạm thời, vấn đề quyền lực của giai cấp thống
trị gắn liền với nhà nước. Và do đó, trong quan niệm truyền thống về dân chủ
chỉ được xem như một phạm trù lịch sử. Lập luận này không sai, nhưng
không đầy đủ và chính xác. Vì, nó không diễn tả hết nội dung khoa học và ý
nghĩa xã hội của dân chủ đối với sự phát triển của lịch sử .
Phương pháp tiếp cận hệ thống cho phép khắc phục hạn chế nêu trên đây
bằng cách xác định một tập hợp các yếu tố cấu thành nội dung về thể hiện bản
chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đó là:
- Dân chủ được xét với tư cách là một hình thức tổ chức nhà nước, thông
qua tổ chức và quản lý để thực hiện quyền lực. Chỉ với ý nghĩa này và trong
mối quan hệ này giữa chế độ dân chủ với chế độ nhà nước thì dân chủ mới là
một phạm trù lịch sử. Nói một cách chặt chẽ hơn, dân chủ chỉ là một phạm trù

lịch sử và chỉ tiêu vong với chủ nghĩa dân chủ được xây dựng thành chế độ
quyền lực và được tổ chức thành chế độ nhà nước. Sự tiêu vong của nhà nước
chỉ làm mất đi các hình thái biểu hiện quyền lực bằng nhà nước của dân chủ.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, chỉ đến khi chủ nghĩa
Cộng sản thắng lợi hoàn toàn, khi ấy nhà nước trở nên thừa, nó sẽ tự tiêu
vong, lúc ấy mới có thể đi tới sự tiêu vong của chế độ dân chủ. Cho nên, khi
nhà nước tiêu vong không làm mất đi nhu cầu xã hội của dân chủ mà thực
chất của nhu cầu này là nhân dân trở thành người chủ xã hội, toàn bộ quyền
lực xã hội thuộc về nhân dân, do nhân dân tự quản lý, tự quyết định mọi vấn
8


đề của chính bản thân họ. Vì vậy, sự tiêu vong của nhà nước, nó cũng không
làm mất đi cái giá trị của dân chủ mà nội dung cơ bản của các giá trị này là tự
do, là thành quả đấu tranh xã hội để giành lấy tự do cho con người, con người
trở thành tự do, làm chủ và sáng tạo.
- Dân chủ còn được hiểu là một giá trị xã hội. Bởi vì, các cuộc đấu tranh
xã hội để giành lấy dân chủ từ trước đến nay, đều dẫn đến những khả năng
giải phóng con người, nâng cao vị trí của con người trong lịch sử, hình thành
và phát triển ở con người ý thức và năng lực dân chủ, làm chủ xã hội.
Giải phóng nhân dân, giải phóng xã hội dựa trên một đòi hỏi có tính
nguyên tắc là phải xoá bỏ tình trạng bóc lột và áp bức về kinh tế và tư tuởng
tức là phải khắc phục triệt để tình trạng đối kháng giai cấp trong xã hội. Đây
là con đường dẫn tới sự phát triển thực chất và đầy đủ của dân chủ chủ xã hội
chủ nghĩa, các giá trị nhân đạo và pháp lý của nó. Cho nên, giá trị xã hội của
dân chủ xã hội chủ nghĩa cho thấy mối liên hệ hữu cơ giữa dân chủ với công
bằng và bình đẳng xã hội, giữa dân chủ với tự do, dân chủ với pháp luật và
văn hoá,…
- Ngoài những phương diện trên của bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa,
thì dân chủ xã hội chủ nghĩa còn là cơ sở và nguyên tắc của lãnh đạo và quản

lý xã hội theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Chế độ tập trung dân chủ là cần
thiết khách quan để tổ chức xã hội phù hợp với văn hoá dân chủ và nền văn
minh chính trị xã hội chủ nghĩa khác với chế độ dân chủ đã tồn tại trong lịch
sử, nhất là dân chủ tư sản.
Tóm lại, dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ của nhân dân lao động,
vì nhân dân lao động, nó phát triển thuận chiều với tiến bộ, nhân đạo, tự do,
văn minh và văn hoá vì sự hoàn thiện của con người. Với bản chất ấy, dân chủ
xã hội chủ nghĩa tiềm tàng sức mạnh của sự sáng tạo và phát triển, triển vọng
9


của chủ nghĩa xã hội của lịch sử, trong đó nhân dân lao động là đối tượng mà
nó phục vụ.
Như chúng ta đã biết, tự do và dân chủ thường hay được sử dụng thay
lẫn nhau nhưng hai từ này không đồng nghĩa với nhau. Dân chủ thực tế là một
tập hợp những tư tưởng và nguyên tắc về tự do và cũng bao gồm một tập hợp
các thông lệ và các thủ tục đã được đúc kết lại từ quá trình lâu dài, thường
không bằng phẳng, của lịch sử. Một cách ngắn gọn, dân chủ là sự thể chế hóa
tự do. Trên cơ sở này chúng ta có thể định rõ được các nguyên tắc cơ bản đã
được thử thách qua thời gian đối với một chính phủ lập hiến, vấn đề nhân
quyền, vấn đề bình đẳng trước pháp luật mà bất cứ một xã hội nào được gọi là
dân chủ theo đúng nghĩa của nó cũng cần phải có.
Các thể chế dân chủ được phân ra hai loại cơ bản: trực tiếp và đại diện.
Trong nền dân chủ trực tiếp, mọi công dân, không cần thông qua trung gian là
các đại diện được bầu hay chỉ định, có thể tham gia vào quá trình đưa ra các
quyết định cho các vấn đề xã hội. Một hệ thống như thế rõ ràng chỉ có thể
thực hiện được với một số tương đối ít người, ví dụ như trong một tổ chức
cộng đồng hay một hội đồng bộ lạc nào đó hay một đơn vị cấp cơ sở của một
liên đoàn lao động, khi mà các thành viên có thể gặp gỡ nhau trong một
phòng họp để bàn bạc, thảo luận các vấn đề và đi tới quyết định bằng sự đồng

thuận hoặc theo nguyên tắc biểu quyết theo đa số. Những người Aten cổ đại,
những người lập ra thể chế dân chủ đầu tiên, đã thực hiện kiểu dân chủ trực
tiếp với một hội đồng bao gồm số lượng thành viên từ 5.000 đến 6.000 ngườicó thể đây là số lượng tối đa để có thể tập hợp được ở một địa điểm và thực
hiện sự dân chủ trực tiếp.
Sinh thời, C. Mác và Ăngghen là những người trực tiếp chứng kiến các
cuộc cách mạng tư sản ở nhiều nước Châu Âu. Trong Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản Hai ông khẳng định: “Nước Đức hiện đương ở vào đêm trước của
10


một cuộc cách mạng tư sản…Cách mạng tư sản Đức chỉ có thể là màn đầu
trực tiếp cho một cuộc cách mạng vô sản”. Coi dân chủ tư sản như một giai
đoạn quá độ sang nền tự do chân chính của loài người, C.Mác và Ăngghen
đồng thời chỉ rõ hạn chế cơ bản của nền dân chủ này và tính tất yếu tiến lên
một nền dân chủ cao hơn: “Chế độ dân chủ giản đơn không thể chữa lành
những bệnh hoạn xã hội, sự bình đẳng mang tính chất dân chủ là một điều
không tưởng, cuộc đấu tranh của những người nghèo chống lại bọn giàu
không thể hoàn thành trên cơ sở dân chủ hoặc chính trị nói chung…Đó chỉ là
một sự quá độ, là phương tiện cuối cùng thuần túy chính trị còn phải được thử
thách và từ đó, một yếu tố mới, một nguyên tắc vượt ra ngoài giới hạn của
chính trị hiện hành, phải được phát triển ngay lập tức. Nguyên tắc đó là
nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội”.
Vận dụng quan điểm của C.Mác và Ăngghen, Lênin đã hoàn chỉnh thêm
một bước, phát triển thêm những quan điểm đó cả về lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ thực tiễn nước Nga, Lênin đã phân tích hai mâu thuẫn cùng tồn
tại trong lòng nước Nga: mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến tiền đề của cuộc đấu tranh vì dân chủ trong cuộc cách mạng tư sản và mâu
thuẫn giữa vô sản với tư sản - tiền đề của cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội.
Lênin cho rằng, sự tác động giữa hai loại mâu thuẫn đó đã tạo nên trong lòng
nước Nga một “bào thai” mang đậm dấu ấn của thời đại lịch sử mới. Bởi vậy,
cách mạng Nga, do quy định khách quan của lịch sử là một cuộc cách mạng

dân chủ tư sản, mang tính nhân dân và đã có “dấu hiệu vô sản”. Lênin chỉ rõ,
chỉ có giai cấp vô sản mới có thể là người chiến đấu triệt để cho chế độ dân
chủ. Chỉ có trường hợp cách mạng dân chủ hoàn toàn thắng lợi, giai cấp vô
sản mới làm cho toàn bộ cuộc cách mạng mang dấu ấn vô sản của nó, hay nói
cho đúng hơn, mang dấu ấn nông dân và vô sản của nó”
Ngày nay, dù là đối với một thị trấn 50.000 người hay một đất nước trên
50 triệu người, hình thức dân chủ phổ biến nhất là hình thức dân chủ đại diện
11


trong đó công dân bầu ra các công chức là những người đưa ra các quyết định
chính trị, xây dựng pháp luật và quản lý các chương trình vì lợi ích công
cộng. Nhân danh nhân dân, các công chức đó phải cân nhắc kỹ càng các vấn
đề công cộng phức tạp theo một quá trình có tính hệ thống và chu đáo, quá
trình này đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian và sức lực mà thường không thể
thực hiện được đối với một số đông các công dân đơn lẻ.
Tóm lại, dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị, trong đó
thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thông qua một hệ thống bầu
cử tự do.
1.1.2. Chính trị
Chính trị là lĩnh vực có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội.
Bởi nói đến chính trị là nói đến vấn đề quyền lực, quản lí nhà nước và quản lí
xã hội. V.I.Lênin từng nói: “Người ta cần đến kinh tế để khỏi chết đói, cần
đến chính trị để khỏi tự giết chính mình. Nếu không hiểu biết về chính trị thì
không thể có hành động tự giác về thực thi quyền lực của chính mình...”
● Một số quan niệm trước Mác về chính trị
- Platon (khoảng 427-347 TCN): Theo Platon, chính trị là sự thống trị
của trí tuệ tối cao, là nghệ thuật cai trị. Trong các tác phẩm của mình ông đã
bàn rất nhiều về chính trị. Ông cho rằng: “chính trị là lĩnh vực phức tạp, đòi
hỏi phải có sự cai trị của thông thái” hay “chính trị là nghệ thuật cai trị”. Ông

còn nói: “cai trị bằng bạo lực là độc tài, cai trị bằng sự thuyết phục mới đích
thực là chính trị”.
Tuy nhiên, về cơ bản Platôn là đại biểu quyền lợi cho bọn đại quý tộc
chủ nô ruộng đất. Trong tác phẩm “Nước cộng hòa”, ông đã mô tả nhà nước
lý tưởng theo kiểu mẫu của nhà nước Xpactơ. Ông cho rằng xã hội lý tưởng
phải do ba giai cấy hợp thành:
12


+ Thứ nhất là "vương công - triết gia", tức là giai cấp thống trị có đạo
đức cao thượng, đã được huấn luyện đặc biệt để hiểu "ý niệm";
+ Thứ hai là võ sĩ được huấn luyện lỹ về quân sự và có tinh thần chiến
đấu dũng cảm, có nhiệm vụ bảo vệ nhà nước và trấn áp những cuộc khởi
nghĩa của nhân dân;
+ Thứ ba là những người làm nghề nông và công thương, tức là những
kẻ thứ dân, phải cần cù lao động để nuôi giai cấp thống trị và bọn võ sĩ, còn
nô lệ thì không được xếp thứ hạng trong xã hội.
Những lý tưởng chính trị trên của Platôn trong bản chất hết sức phản
động. Platôn đã lý tưởng hóa chế độ chiếm hữu nô lệ phân chia đẳng cấp ở Hy
Lạp cổ đại.
- Aritxtốt: Ông cho rằng, chính trị là khoa học lãnh đạo con người, khoa
học kiến trúc xã hội. Trong hai tác phẩm lớn bàn về chính trị “Chính trị” và
“Hiến pháp Aten” ông đã luận giả về các thành bang, về thể chế (phân loại
các chế độ chính trị như chế dộ quân chủ, các biến thể của chế độ đầu sỏ, chế
độ dân chủ, chế độ bạo chúa) và bộ máy nhà nước,… Aritxtốt nhấn mạnh luận
điểm: “con người là động vật chính trị” và “chính trị là khoa học lãnh đạo con
người”.
- Khổng Tử: chính trị là chính đạo, chính danh. Tư tưởng chính trị
Khổng Tử dựa trên tư tưởng đạo đức của ông. Ông cho rằng chính phủ tốt
nhất là chính phủ cai trị bằng "lễ nghĩa" và đạo đức tự nhiên của con người,

chứ không phải bằng vũ lực và mua chuộc. Ông đã giải thích điều đó tại một
trong những đoạn quan trọng nhất ở cuốn Luận Ngữ: "Dùng mệnh lệnh, pháp
luật để dẫn dắt chỉ đạo dân, dùng hình phạt để quản lý dân, làm như vây tuy
có giảm được phạm pháp, nhưng người phạm pháp không biết xấu hổ, sỉ
nhục. Dùng đạo đức để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng lễ nghĩa để giáo hóa
dân, làm như vậy chẳng những dân hiểu được thế nào là nhục nhã khi phạm
13


tội, mà còn cam tâm tình nguyện sửa chữa sai lầm của mình tận gốc từ mặt tư
tưởng". Sự "biết sỉ nhục" là sự mở rộng của trách nhiệm, nơi mà hành động
trừng phạt đi trước hành động xấu xa, chứ không phải đi sau nó như trong
hình thức luật pháp của Pháp gia.
Trong khi ủng hộ ý tưởng về một vị Hoàng đế đầy quyền lực, có lẽ vì
tình trạng hỗn loạn ở Trung Quốc thời kỳ đó, các triết lý của Khổng Tử chứa
đựng một số yếu tố hạn chế quyền lực của những nhà cai trị. Ông cho rằng lời
lẽ phải luôn ngay thật; vì thế tính trung thực có tầm quan trọng hàng đầu.
Thậm chí trên nét mặt, phải luôn thể hiện sự trung thực. Khi bàn luận về mối
quan hệ giữa thần dân và nhà vua (hay giữa con và cha), ông nhấn mạnh sự
cần thiết phải có sự tôn trọng của người dưới với người trên. Điều này đòi hỏi
người dưới phải đưa ra lời khuyên cho người trên nếu người trên có hành
động sai lầm. Tuy nhiên, quan điểm về người quân tử và kẻ tiểu nhân là một
hạn chế, ông nói “Thiên hạ có đạo quyền lực không rơi vào tay đại phu, thiên
hạ có đạo người dân không bàn việc nước”.
- Thời cận đại, Tôn Trung Sơn - một nhà dân tộc chủ nghĩa và dân chủ
hàng đầu cho rằng, chính trị là quản lý việc của dân chúng. Ông đã nêu ra chủ
thuyết "Tam dân": Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc và
chủ trương đoàn kết mọi lực lượng dân tộc chống phong kiến và thực dân.
Ông được dân chúng Trung Quốc gọi là "Quốc phụ".
● Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chính trị

Mác và ĂngGhen trong quá trình xây dựng học thuyết của mình đã đưa
ra rất nhiều quan điểm, khái niệm về giai cấp, nhà nước, đấu tranh giai cấp,
thể chế, lợi ích, giá trị, các quy luật chung,… nhưng các ông chưa đưa ra định
nghĩa thống nhất về khái niệm chính trị.

14


Lênin - nhà lý luận, nhà hoạt động thực tiễn chính trị. Trong các tác
phẩm của mình, đặc biệt là tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, ông đã đưa
ra nhiều quan điểm, định nghĩa về khái niệm chính trị.
Có thể đi đến khái quát quan điểm của của các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin về chính trị như sau:
Thứ nhất, chính trị là lợi ích mà chủ yếu là quan hệ lợi ích giữa các giai
cấp
Quan điểm này được đề cập tới nhiều trong chủ nghĩa duy vật lịch sử,
bàn về xung quanh vấn đề lợi ích ở đâu (where), khi nào (when), được cái gì
(what). V.I.Lênin nói: “Chừng nào người ta chưa biết phân biệt được lợi ích
của giai cấp này hay của giai cấp khác, ẩn đằng sau bất kỳ những câu nói,
những lời tuyên bố và những lời hứa hẹn nào có tính chất đạo đức, tôn giáo,
chính trị và xã hội, thì trước sau bao giờ người ta vẫn là kẻ ngốc nghếch bị
người khác lừa bịp và tự lừa bịp mình” [10;301-302] và nhận xét: “Khẩu hiệu
công bằng của giai cấp tư sản là hoàn toàn giả dối. Một nhà tư tưởng nào đó,
nhất là nhà tư tưởng chính trị, luôn trình bày trong học thuyết của mình lợi
ích của một giai cấp nhất định, một nhóm giai cấp nhất định và một đảng
nhất định” [10;301-302].
Thứ hai, chính trị là sự tham gia của nhân dân lao động vào công việc
nhà nước, cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chức chính quyền nhà
nước
I.V.Lênin đã khẳng định: “Chủ nghĩa Mác thừa nhận rằng chỉ khi nào

đấu tranh giai cấp không những bao trùm lĩnh vực chính trị, mà nó còn nắm
lấy cái căn bản nhất trong chính trị: tức là việc tổ chức chính quyền nhà
nước, thì khi đó nó mới là một cuộc đấu tranh giai cấp phát triển đầy đủ, có
quy mô toàn dân tộc” [10;49]. Cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chức
chính quyền nhà nước. Chính trị là công việc của nhà nước về xây dựng và tổ
15


chức chính quyền, về định hướng phát triển nhà nước, về xây dựng hệ thống
pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước đó. V.I.Lênin nhấn mạnh rằng: “Ý chí,
nếu nó là ý chí của nhà nước thì phải được biểu hiện bằng một đạo luật do
chính quyền đặt ra” .Về bản chất luật pháp, V.I.Lênin nhận xét: “Một đạo luật
là một biện pháp chính trị, là chính trị” [8;77-78].
Thứ ba, chính trị là biểu hiện tập trung nhất của kinh tế, chính trị
không thể không giữ vị trí hàng đầu so với kinh tế
Khi nghiên cứu sự hình thành và xuất hiện của chính trị, ta đã thấy
nguồn gốc sâu xa của chính trị là kinh tế. Biểu hiện:
- Do sự mâu thuẫn và đụng độ giữa các giai cấp trong xã hội về lợi ích
kinh tế căn bản. Bắt đầu từ sự ham muốn chiếm hữu sản phẩm dư thừa của thị
tộc, bộ lạc làm của riêng, rồi đến xuất hiện sở hữu tư nhân về TLSX. Kẻ sở
hữu TLSX trong xã hội đã buộc những người không có TLSX phải lao động
cho nó, dẫn đến xuất hiện sự đối kháng về kinh tế giữa kẻ bóc lột và người bị
bóc lột. Có mâu thuẫn, có đối kháng giai cấp tất yếu có đấu tranh giai cấp.
Cuộc đấu tranh này đe dọa sự tồn vong của giai cấp bóc lột và có nguy cơ hủy
diệt xã hội. Vì thế, giai cấp bóc lột - kẻ nắm TLSX đã tổ chức ra và sử dụng
một bộ máy bạo lực để tổ chức lại xã hội, giữ cho xã hội yên ổn trong một tự
có lợi cho nó. Xã hội được tổ chức lại như thế gọi là Nhà nước và gắn liền với
nó chính trị đã xuất hiện.
Nguồn gốc kinh tế của chính trị còn được biểu hiện bởi lý do ban đầu
tham gia hoạt động chính trị là vì mục tiêu và động lực lợi ích của bản thân

và giai cấp của họ.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị không đơn giản là
quan hệ phát sinh một chiều mà giữa chúng có mối quan hệ biện chứng. Xuất
phát điểm của chính trị là kinh tế, nhưng chính trị lại tiếp tục nối dài hơn các
lợi ích kinh tế. Vì thế, muốn thực hiện được các lợi ích kinh tế thì các giai cấp
16


phải giành được quyền tổ chức lại xã hội theo trật tự có lợi cho nó và sau đó
chính trị phải được ưu tiên hơn so với kinh tế (hướng dẫn, chỉ đạo, hoạch
định, kiểm soát… các hoạt động kinh tế).
Trong bốn lĩnh vực lớn của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội thì chính trị là biểu hiện tập trung nhất của kinh tế. Kinh tê nào chính
trị ấy, kinh tế bị khủng hoảng thì chính trị khủng hoảng. mọi biến đổi của
chính trị đều có nguyên nhân, nguồn gốc sâu xa từ kinh tế. Các cuộc chiến
tranh trong lịch sử nhân loại từ thời cổ đại đến nay đều có nguồn, nguyên
nhân sâu xa từ kinh tế.
Thứ tư, chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật
* Chính trị là khoa học
Quan điểm này đã được I.V.Lênin kế thừa và phát triển các quan điểm
của Platon và Aritxtot. V.I.Lênin nói: “Ở đâu có số đông, ở đó có chính trị”,
ông còn nói “người quần chúng không thể làm chính trị”. Điều này khẳng
định, người làm chính trị phải là những người có tri thức về các lĩnh vực khác
nhau, có khả năng tổ chức, xây dựng lực lượng, biết đấu tranh, phong cách
làm việc năng động, khoa học.
Chính trị là khoa học, vì đó là lĩnh vực cần phải có sự chính xác, phải
tuân theo những quy luật tự nhiên của xã hội loài người, gắn với thực tiễn
cuộc sống, nó có tính trừu tượng hóa cao,… nhà chính trị phải giỏi, am hiểu,
kiến thức rộng, và phải là nhà tâm lý học để hiểu tâm lý người bị cai trị.
Tóm lại:

- Chính trị là một hiện tượng khách quan trong đời sống xã hội loài
người, xuất hiện cùng với giai cấp và nhà nước, gắn liền với quyền lực, với
đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc.

17


- Chính trị là lĩnh vực tương đối độc lập trong đời sống xã hội, có lôgic
phát triển nội tại, có quy luật phát triển khánh quan.
- Chính trị là một hệ thống tri thức, từ những tri thức kinh nghiệm đến
tri thức lý luận hoàn chỉnh, phản ánh quy luận vận động khách quan của chính
trị.
- Do hạn chế lịch sử và bị chi phối bởi lợi ích giai cấp, nên chính trị trở
thành đặc quyền của giai cấp thống trị. Nó chỉ trở thành khoa học đích thực
khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời.
- Ngày nay, chính trị thực sự trở thành khoa học với đối tượng, phương
pháp nghiên cứu riêng.
- Cách mạng Việt Nam trong đấu tranh giành độc lập cũng như trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội luôn xác định chính trị (đường lối, chính sách và tổ
chức thực tiễn) là một khoa học.
* Chính trị là nghệ thuật
- Chính trị là hoạt động của con người liên quan đến tranh giành quyền
lực, quyết liệt một mất một còn, nên các chủ thể chính trị (trước hết là giai
cấp) không thể không sử dụng mọi biện pháp để đạt mục tiêu chính trị.
- Hoạt động chính trị luôn sáng tạo, linh hoạt, khôn khéo, mềm dẻo,
phù hợp với thực tiễn để đạt hiệu quả cao nhất.
- Chính trị là phạm vi hoạt động hấp dẫn, nhưng phức tạp, “giống đại
số hơn số học”. Nó đòi hỏi kỹ năng, kỹ xảo cao, đòi hỏi tầm trí tuệ tương ứng
của các nhà chính trị.
- Chính trị là nghệ thuật của những bước đi (biết tiến, biết lui đúng lúc),

những giải pháp, thỏa hiệp trong những thời điểm lịch sử quan trọng.

18


- Đó là nghệ thuật vận dụng tri thức lý luận và kinh nghiệm thực tiễn để
xử lý các tình huống chính trị phức tạp, vận dụng đúng đắn phép biện chứng
giữa khách quan và chủ quan trong hoạt động, đấu tranh chính trị.
- Chính trị là nghệ thuật của các khả năng: khả năng nắm bắt sự vận
động của xã hội, dự báo chính xác tình thế và thời cơ cách mạng.
- Chính trị là nghệ thuật tổ chức lực lượng, sử dụng con người, nghệ
thuật vận động quần chúng, nghệ thuật tiến hành chiến tranh cách mạng.
- Chính trị “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”…
Có thể khái quát: Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân
tộc, các quốc gia, các lực lượng xã hội trong việc giành, giữ và thực thi quyền
lực chính trị mà tập trung nhất là quyền lực nhà nước.
1.2. Định nghĩa chính trị và dân chủ của Hồ Chí Minh
1.2.1. Định nghĩa chính trị của Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng lớn, đồng thời còn là một danh
nhân văn hóa. Nhưng sinh thời, Người từ chối tất cả mọi danh hiệu mà nhân
dân và bạn bè quốc tế phong tặng cho mình. Người chỉ duy nhất nhận mình là
một nhà chính trị chuyên nghiệp và làm chính trị để cứu dân, cứu nước. Chính
điều này đã thể hiện giá trị và bản chất đích thực của nền chính trị đạo đức và
nhân văn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh theo đuổi suốt đời. Quan niệm về chính
trị của Người đã phản ánh đầy đủ chân giá trị đó.
Định nghĩa về chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chính trị là: 1.
Đoàn kết. 2. Thanh khiết từ to đến nhỏ”. Đây là một định nghĩa thấm đượm
chủ nghĩa nhân văn, mang giá trị đạo đức và văn hóa. Chính trị mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh xây dựng là một nền chính trị hợp thời đại và thuận lòng dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhìn thấy vai trò to lớn của chính trị trong việc

cải tạo xã hội, giải phóng cho dân tộc và loài người. Người khẳng định: Học
chính trị là để yêu nước, đoàn kết, kháng chiến. Ở đây, “Đoàn kết” trở thành
19


hạt nhân của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh là thuộc tính không thể thiếu của
chính trị. Cho nên, chính trị như một quỹ đạo mà đoàn kết là lực hướng tâm.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm chính trị không chỉ đoàn kết giai cấp, đoàn
kết dân tộc, mà còn phải đoàn kết quốc tế. Nhận thức được điều này thì chính
trị sẽ trở thành: “Cái sức mạnh vô địch mà ta có thể thắng quân địch giành
độc lập thống nhất”, xây dựng một nước Việt Nam dân chủ và giàu mạnh.
Xuất phát từ nhận thức chính trị là Đoàn kết và Thanh khiết mà mục đích
hoạt động chính trị, những nội dung cốt yếu bên trong của nó như chủ trương:
“Xây dựng chính trị, Dân quyền”, hay mục đích, nhiệm vụ chính trị trong chế
độ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Cần trau dồi tư tưởng và đạo đức
của người cán bộ trong chế độ dân chủ: Yêu nước, yêu dân, yêu nghề, đoàn
kết nội bộ, thi đua học tập, thi đua công tác”. Người yêu cầu, mỗi cán bộ,
đảng viên, công chức và nhân dân cần phải thấu hiểu chính trị và thực hiện
đúng nhiệm vụ của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt chính trị trong mối quan
hệ với chuyên môn để tạo thành một thể chế thống nhất chứa đựng và chuyển
tải được tính nhân văn của chính trị. Người viết: “Chính trị là linh hồn,
chuyên môn là cái xác. Có chuyên môn mà không có chính trị thì chỉ có cái
xác không hồn... Chính trị là đức, chuyên môn là tài”.
Như vậy, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò chủa chính trị: “Trong công
cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cùng phải coi trọng
ngang nhau là: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa…”[6;79].
1.2.2. Định nghĩa dân chủ của Hồ Chí Minh
Dân chủ là khát vọng ngàn đời của nhân loại; là động lực, mục tiêu của
sự phát triển trong công cuộc đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng con người.
Có thể thấy, trong xã hội đã có nhiều người viết và nói về vấn đề “dân chủ”

rất hay. Song, để đi vào cuộc sống thì lại không đơn giản. Người dân chỉ
mong muốn giản dị là được quyền phát biểu chính kiến của mình, nói đúng
nguyện vọng của mình, nói thật thực trạng mình đang chứng kiến, làm những
điều gì có lợi cho mình, đồng bào mình, dân tộc mình. Có thể khẳng định, đó

20


là bản chất cơ bản nhất của dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa điều
này thật nôm na dễ hiểu : “Dân chủ là để người dân được mở cái miệng ra”.
Hồ Chí Minh còn quan niệm dân chủ có nghĩa là “Dân là chủ, Chính
phủ là đầy tớ”. Khi xác định như thế, có lúc đem quan niệm “dân là chủ” đối
lập với quan niệm “quan chủ”. Đây là quan niệm được Hồ Chí Minh diễn đạt
ngắn, gọn, rõ nghĩa, đi thẳng vào bản chất của khái niệm trong cấu tạo quyền
lực. Mở rộng theo ý đó, Hồ Chí Minh cho rằng : “Nước ta là nước dân chủ,
nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì
phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ vững đạo đức công
dân…”. Trong tác phẩm “Thường thức chính trị” viết năm 1953, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nhắc nhở Đảng và Nhà nước ta phải thực hành dân chủ. Người
khẳng định :
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Như vậy, kế thừa và phát huy tư tưởng của Mác - Lênin, Hồ Chí Minh
quan niệm:


21


Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân. Dân chủ là khát vọng ngàn
đời của con người. Nhân dân ta hàng ngàn năm nay sống dưới chế độ phong
kiến và gần một trăm năm dưới chế độ thực dân đều không biết đến dân chủ,
tự do.
Dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ . “Dân là chủ” là muốn nói đến vị
thế, quyền lực của dân trong bộ máy nhà nước; vai trò của nhân dân trong sự
phát triển xã hội. Dân phải ở địa vị cao nhất của đất nước. Người nói: “Nước
ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. “Dân làm chủ” là đề
cập đến năng lực và trách nhiệm của nhân dân. “Chế độ ta là chế độ dân chủ.
Tức là nhân dân làm chủ”. Tuy Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền nhưng phải
luôn lấy dân làm gốc. Nghĩa là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo nhưng phải
luôn để cho dân làm chủ và dân là chủ. Hai vế của mệnh đề luôn đi đôi với
nhau, thể hiện vịtrí, vai trò, quyền và trách nhiệm của nhân dân. Quan niệm
đó của Hồ Chí Minh phản ánh đúng nội dung bản chất quan niệm dân chủ
chung trên thế giới được hình thành từ xa xưa: quyền hành và lực lượng đều
thuộc về nhân dân. Xã hội nào bảo đảm cho điều đó được thực thi thì đó là
một xã hội thực sự dân chủ.
Dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Dân chủ trong xã hội
Việt Nam thể hiện trên tất cảcác lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội...,
trong đó dân chủ thể hiện trong lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất và được
biểu hiện tập trung trong hoạt động của Nhà nước do nhân dân thành lập, ủng
hộ, xây dựng.
Điểm cốt lõi của dân chủ trong chính trị là chế độ uỷ quyền của dân
thong qua bầu cử, bằng phương thức dân chủ đại diện, bầu ra Chính phủ với
chế độ phổ thông đầu phiếu. Khi Chính phủ đó ra đời, nhiệm vụ chủ yếu cấp
bách là phải thực hiện dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Đó là mục

đích căn bản sâu xa của dân chủtrong chính trị.
22


Điểm cốt lõi của dân chủ trong kinh tế là vấn đề lợi ích. Theo Hồ Chí
Minh, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân thì việc to, việc nhỏ đều nhằm mục
đích phục vụ lợi ích của nhân dân với tinh thần “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”.
Dân chủ còn thể hiện ở phương thức tổ chức xã hội, ở đó, người dân, cả
trực tiếp lẫn gián tiếp qua dân chủ đại diện đều được tham chính. Thực hiện
dân chủ trong xã hội đòi hỏi phải đảm bảo công bằng trong phân phối lợi ích
và công bằng trong cơ hội phát triển, đảm bảo bình đẳng của mọi công dân
trước pháp luật.
Rõ ràng, Hồ Chí Minh không chỉ coi dân chủ có ý nghĩa là một giá trị
chung, là sản phẩm của văn minh nhân loại mà xem nó là lý tưởng phấnđấu
của các dân tộc; nó không dừng lại với tư cách như là một thiết chế xã hội của
một quốc gia mà còn có ý nghĩa biểu thị mối quan hệ quốc tế. Đó là dân
chủ,bình đẳng trong mọi tổ chức quốc tế, là nguyên tắc ứng xử trong mọi
quan hệ quốc tế.
Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh, một vấn đề mang tính độc đáo,
riêng biệt nếu có thể nói như vậy là vấn đề đạo lý làm người, khi Người cho
rằng dân chủ là giá trị của nhân loại khi, là sản phẩm của nền văn minh, là kết
quả tất yếu của quá trình đầu tranh tự giải phóng con người và giải phóng xã
hội. Và hơn nữa, sự hình thành và phát triển dân chủ là một quá trình tự thân,
từ thấp đến cao trong lịch sử xã hội. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã từng nêu
lên một khi niệm là lý tưởng dân chủ như là tiêu chí của sự phát triển xã hội.
Trong đó, một nguyên tắc, một công thức, một chìa khoá đảm bảo cho nhân
loại thiết lập một nền hòa bình thế giới dựa trên nền tảng dân chủ và bình
đẳng giữa các dân tộc. Đó là: “Hòa bình - một nền hòa bình chân chính xây
dựng trên công bằng và lý tưởng dân chủ phải thay cho chiến tranh, rằng tự
do, bình đẳng, bác ái phải thực hiện trên khắp các nước không phân biệt

chủng tộc, màu da”. Trên cơ sở đó, Người thường xem xét sự phát triển dân
23


chủ đặt trong quan hệ so sánh giữa chế độ về dân chủ cũ (Khái niệm Dân chủ
cũ lần đầu tiên xuất hiện trong sách Thường thức chính trị của Hồ Chí Minh
viết năm 1953 và xuất bản năm 1954. Người viết: “Thời đại mới khiến cách
mạng Việt Nam phải là cách mạng dân chủ mới (tức cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân hiện nay)… cách mạng Việt Nam phải là cách mạng dân chủ
mới chứ không phải là dân chủ cũ”) và dân chủ mới. [ Khái niệm Dân chủ
mới xuất hiện 74 lần trong bộ Hồ Chí Minh Toàn tập (xuất bản lần thứ hai).
Lần đầu tiên cụm từ dân chủ mới xuất hiện trong bài Cách tổ chức các ủy ban
nhân dân (11-9-1945). Trong sách Thường thức chính trị, Hồ Chí minh đã
đăng trong mục 48 nói về Dân chủ mới. Người đã nêu lên 5 đặc điểm về
chính trị, kinh tế, tư tưởng, sự lãnh đạo của Đảng và quyết tâm của nhân dân
với nền dân chủ mới]. Người cho rằng, bước chuyển từ dân chủ cũ sang dân
chủ mới là kết quả của cuộc đấu tranh liên tục của nhân dân toàn thế giới cho
lý tưởng dân chủ, cho sự tự do, bình đẳng giữa các dân tộc và giữa con người
với con người.
Như trên đã phân tích, tư tưởng cơ bản về dân chủ của Hồ Chí Minh là
đề cập đến vấn đề nhà nước - thiết chế chính trị, như là phương thức tồn tại
của nhân dân và là sản phẩm của tiến bộ xã hội và dân chủ vừa là mục đích,
vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Song, một vấn đề hết sức quan trọng
là sự tiếp cận vấn đề dân chủ của Hồ Chí Minh về phương diện lịch sử không
chỉ làm rõ quá trình hình thành, phát triển tư tưởng dân chủ trong lịch sử xã
hội, mà quan trọng hơn là xác định nấc thang giá trị về dân chủ và đặc biệt là
vấn đề dân chủ mới.
Nghiên cứu tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh và nhất là vấn đề dân chủ
mới của Người trên cơ sở xem xét bản chất của dân chủ phải coi dân chủ là
một phạm trù chính trị theo ba nguyên tắc phương pháp luận mà Lênin đã chỉ

ra trong việc giải quyết mối quan hệ giữa chính trị – kinh tế, với quan hệ giai
cấp và sự tham gia của nhân dân vào sự hoạt động của nhà nước. Trong đó,
24


mối quan hệ với kinh tế thì chính trị là sự biểu hiện tập trung nhất của kinh tế.
Điều này, không chỉ phản ánh vai trò của cơ sở kinh tế với nhà nước là một bộ
phận của kiến trúc thượng tầng, mà còn nói lên tính chất, trình độ về sự hoàn
thiện của nhà nước với tính cách là nền dân chủ sẽ tương ứng với tính chất và
trình độ của một nền kinh tế xã hội nhất định. Theo nghĩa đó, trong xã hội có
giai cấp, thì khái niệm chính trị phản ánh về quyền lực nhà nước giữa các giai
cấp khác nhau, chứ không đồng nhất với quyền lực xã hội. Mặc dầu, tính chất
và trình độ dân chủ được đặt ra trong quan hệ trực tiếp với chính trị, phản ánh
mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất thống trị với tư tưởng xã hội, thiết chế xã
hội tương ứng. Nhưng vấn đề cốt lõi, khi xem xét thước đo trình độ dân chủ
của một chế độ xã hội, nhất là xã hội hiện đại là sự tham gia của nhân dân vào
công việc của nhà nước và xã hội. Đặc biệt, trong nền dân chủ mới – dân chủ
xã hội chủ nghĩa.
Tựu chung, quan niệm Hồ Chí Minh về dân chủ được biểu đạt qua hai
mệnh đề ngắn gọn : “Dân là chủ” và “Dân làm chủ”. Khi biểu đạt như thế,
chúng ta có thể hiểu rằng, dân là chủ, nghĩa là đề cập đến vị thế của người
dân; còn dân làm chủ nghĩa là đề cập đến năng lực và trách nhiệm của dân. Cả
hai vế luôn luôn đi đôi với nhau, thể hiện vị trí, vai trò, quyền và trách nhiệm
của người dân. Xã hội nào bảo đảm quyền hành và lực lượng đều thuộc về
nhân dân thì đó là một xã hội thực sự dân chủ. Dân chủ trong xã hội Việt Nam
được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,…
Trong đó, dân chủ thể hiện trên lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất, nổi bật
nhất và được biểu hiện tập trung trong hoạt động của Nhà nước.

25



×