Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Tiểu luận môn Thương mại điện tử Chiến lược kinh doanh quốc tế của google

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.5 KB, 35 trang )


TIỂU LUẬN

Chiến lược kinh doanh
quốc tế của Google
NHÓM-06




trong đề án nghiên cứu bao gồm Quản lý dữ liệu trên diện rộng, công nghệ nano, sắp xếp công
việc sử dụng máy tính… Google cũng tham gia cộng tác với Sun Microsystem để chia sẻ và
phân loại các công nghệ của nhau. Công ty cũng tham gia cộng tác với American Online của
Time Warner để cải tiến dịch vụ video trực tuyến.
Ngày 22 tháng 3 năm 2010, Google rời khỏi thị trường khổng lồ Trung Quốc (tuy nhiên,
các dịch vụ bản đồ trực tuyến và âm nhạc vẫn tiếp tục hoạt động). Google đóng cửa website
google.cn, và thay vào đó chuyển tới trang google.com.hk để tránh bị kiểm duyệt nội dung.
Nguyên nhân chính được cho là vì bất đồng quan điểm với chính quyền Trung Quốc.

1.2. Sản phẩm và dịch vụ
Trước hết, hãy điểm qua các lĩnh vực kinh doanh mà Google theo đuổi. Đó là quảng cáo
theo ngữ cảnh tìm kiếm, ứng dụng Internet, điện toán đám mây và nhiều dịch vụ khác nữa…
Quảng cáo: Cuối năm 2000, Google đã giới thiệu nền tảng AdWords cho quảng cáo
theo ngữ cảnh trong trang kết quả tìm kiếm của Google. Ngay từ đầu, các chương trình
AdWords được thiết kế để tạo ra một sự đánh dấu tối thiểu trên các trang kết quả tìm kiếm thưa
thớt của Google. Tất cả các quảng cáo được hiển thị trong một định dạng văn bản. Đây là chỉ
là khởi đầu, mặc dù, như Google đã mở ra nền tảng quảng cáo của mình cho thế giới. Bất cứ ai
từ một cá nhân đang chạy một blog với một công ty truyền thông cung cấp nội dung thông qua
trang web của mình cho một nhóm tư vấn bằng văn bản về một chủ đề thích hợp có thể đặt
Google AdWords trên trang web của họ và gặt hái được một phần của lợi nhuận. Chẳng bao
lâu, Google AdWords đã trở thành tiêu chuẩn thực tế trong quảng cáo web nhờ vào tính tế nhị


của nó và bản chất của quảng cáo theo ngữ cảnh.

Nhiều sản phẩm nổi tiếng nhất của Google, bao gồm Blogger, Google Voice, YouTube,
Google Analytics và nhiều hơn nữa đã không được thiết kế bởi Google. Trong đó có thể nói
thương vụ thành công nhất có thể kể đến Android, Chrome và Double Click. Những vụ mua lại
này đã phục vụ để mở rộng đối tượng người dùng của Google, và nó đã cung cấp cho Google
một hướng đi thông minh để kết thêm các kỹ sư tài năng và các nhà phát triển web vào hàng
ngũ của mình. Đây cũng là nước đi khôn ngoan và chiến lược giúp Google thoát khỏi các nguy
cơ khủng hoảng tài chính qua các năm.


Các ứng dụng Internet: Tìm kiếm của Google có thể cho những kết quả khá hài hước,
nhưng ổn định ngày càng tăng của các ứng dụng Internet được thiết kế để cung cấp cho người
dùng truy cập toàn bộ vào phần mềm tiện ích vẫn tiếp tục mang lại lợi ích to lớn cho người sử
dụng Google. Các ứng dụng như Gmail, Google Voice, Google Docs, Google Wave, Google
Analytics và nhiều hơn nữa thường được coi là các ứng dụng dựa trên web hàng đầu và làm
cho nó có thể cho Google một liên kết lớn hơn với người dùng.
Điện toán đám mây: Đến năm 2010, Google sở hữu hơn 1 triệu máy chủ dữ liệu trên
toàn thế giới. Và nhiều hơn nữa, những máy chủ dữ liệu được sử dụng để cung cấp cho người
dùng với khả năng điện toán đám mây. Bắt đầu từ năm 2009, Google đã đề nghị người sử dụng
không gian trên các máy chủ của nó để lưu trữ bất kỳ tập tin. Không gian này có sẵn để mua, và
như nhiều người dùng hơn từ lưu trữ dữ liệu trên các máy tính cá nhân của họ để lưu trữ nó
trong đám mây để truy cập dễ dàng từ điện thoại di động và các thiết bị cầm tay khác, ngành
thương mại này sẽ tiếp tục mở rộng.

Như "Business Week" báo cáo, người sử dụng biết rằng Google có thể được tính để cung
cấp lưu trữ đám mây an toàn và đáng tin cậy, và điều này sẽ gây ra một tỷ lệ phần trăm của
người sử dụng điện toán đám mây kéo đến Google. Từ cơ sở ấy, Google là nhà cung cấp thành
công nhất trong lĩnh vực điện toán đám mấy với nền tảng Google App cho doanh nghiệp và
Google App Engine cho các nhà phát triển.



Giải pháp phần cứng và di động: Kể từ khi Google mua lại Android, công ty đã chính
thức bước một chân vào lĩnh vực di động. Một số người có thể nghĩ rằng sự ra đời của điện
thoại di động Nexus One của Google trong đầu năm 2010 lần đầu tiên được cung cấp phần
cứng của nó, nhưng đó không phải là trường hợp đầy tiên. Từ năm 2002, Google đã bán các
máy chủ tìm kiếm được thiết kế để cung cấp cho các công ty lớn với khả năng tìm kiếm của
Google sử dụng trong một thiết lập mạng nội bộ. Các dịch vụ phần cứng, bao gồm Nexus One,
có thể không tạo ra cùng một loại doanh thu như quảng cáo, nhưng họ chắc chắn là một phần
trung tâm của chiến lược kinh doanh của Google. Nước đi mua lại Motorola Mobility càng
khẳng định rõ hơn những bước đi vững chắc hơn trong lĩnh vực này.

2. MÔI TRƯỜNG KINH DOANH QUỐC TẾ CỦA GOOGLE
Phân tích SWOT là một trong 5 bước hình thành chiến lược kinh doanh của một doanh
nghiệp bao gồm: xác lập tôn chỉ của doanh nghiệp, phân tích SWOT, xác định mục tiêu chiến
lược, hình thành các mục tiêu và kế hoạch chiến lược, xác định cơ chế kiểm soát chiến lược.
Nó không chỉ có ý nghĩa đối với doanh nghiệp trong việc hình thành chiến lược kinh doanh nội
địa mà còn có ý nghĩa rất lớn trong việc hình thành chiến lược kinh doanh quốc tế nhằm đáp
ứng nhu cầu phát triển của doanh nghiệp. Một khi doanh nghiệp muốn phát triển, từng bước
tạo lập uy tín, thương hiệu cho mình một cách chắc chắn và bền vững thì phân tích SWOT là
một khâu không thể thiếu trong quá trình hoạch định chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
.

Phân tích SWOT là phân tích các yếu tố môi trường bên ngoài mà doanh nghiệp phải đối
mặt (các cơ hội và nguy cơ) cũng như các yếu tố thuộc môi trường nội bộ doanh nghiệp (các
mặt mạnh và mặt yếu). Như vậy, để nhìn nhận được rõ Môi trường Kinh doanh quốc tế


của Google, chúng ta có thể dựa trên những phân tích cơ bản về môi trường bên ngoài và
môi trường nội bộ doanh nghiệp - phân tích SWOT.


2.1. Môi trường bên ngoài Doanh nghiệp
2.1.1. Môi trường vĩ mô
Các yếu tố môi trường vĩ mô có tác động rất lớn đến sự phát triển của mỗi công ty.
Trong phần này chúng ta sẽ phân tích các ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế, khoa học kỹ thuật,
chính trị, văn hóa và pháp luật tới sự phát triển của Google.
Hiện nay rất nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang xây dựng chiến lược phát triển nền
kinh tế tri thức nhằm nâng cao năng suất lao động. Khái niệm kinh tế tri thức ra đời từ năm
1995 do Tổ chức OPCD nêu ra "Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, truyền
bá và sử dụng tri thức trở thành yếu tố quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, không
ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống". Công nghệ thông tin là một trong những ngành mũi
nhọn trong nền kinh tế tri thức (bên cạnh các ngành vật liệu mới, năng lượng mới và năng
lượng tái sinh, công nghệ phỏng sinh học, công nghệ nano...). Cùng với xu hướng toàn cầu hóa,
nhu cầu trong đổi thông tin, kiến thức, khoa học công nghệ bùng nổ một các nhanh chóng.
Google vừa là sản phẩm cũng vừa được hưởng lợi từ sự phát triển của nền kinh tế tri thức. Các
yếu tố này sẽ được phân tích cụ thể hơn trong phần môi trường ngành.
Sự phát triển mạnh mẽ của Goolge nói chung và công nghệ thông tin nói riêng có tác
động lớn đến các hoạt động chính trị. Vụ Wikileak công bố các thông tin chính trị nhạy cảm lên
mạng Internet là một cú sốc đối với giới chính trị của các nước trên toàn thế giới. Eric Schmidt,
chủ tịch Hội Đồng Quản Trị kiêm giám đốc điều hành của địa chỉ tìm kiếm phổ biến nhất trên
Internet đã từng phát biểu "Chúng tôi, những người làm việc tại Google, không phải là người
kiểm soát sự thật, nhưng chúng tôi có thể cho bạn những thông tin rất gần với sự thật". Các
công ty công nghệ lớn trên thế giới có thể nắm giữ nhiều thông tin bí mật đối với hoạt động
chính trị. Vì vậy, các quốc gia luôn tìm cách hạn chế các ảnh hưởng không mong muốn này.
Bản thân Google cũng đã từng phải đối diện với các vấn đề này ở Trung Quốc hay ngay chính
tại Hoa Kỳ. Năm 2009, Tân Hoa Xã đã cáo buộc Google là công cụ chính trị để “xuất khẩu văn
hóa, những giá trị và tư tưởng”. Google đã phát hiện ra các cuộc tấn công tinh vi và phức tạp
có nguồn gốc từ Trung Quốc nhằm vào hệ thống các tài khoản của công ty và hơn 31 công ty
khác. Công ty này buộc phải rút khỏi Trung Quốc do quan ngại về công tác kiểm duyệt Internet
ở đây. Google đã chuyển máy chủ của công ty này hiện đặt tại Trung Quốc sang Hong Kong để

tránh không bị kiểm duyệt. Tuy nhiên nhiều bộ phận của công ty vẫn hoạt động tại Trung Quốc
bao gồm cả nhóm nhân viên phụ trách nghiên cứu, phát triển và lực lượng nhân viên bán
hàng. Chính phủ Trung Quốc đã có các tác động để hạn chế sự phát triển cũng như tầm ảnh
hưởng của Google. Sự việc này mởi ra cơ hội lớn cho Baidu, đối thủ chính của Google, thực
hiện một cú nhảy ngoạn mục tại “sân nhà”. Ngoài ra, Google cũng từng gặp rắc rối khi hoạt
động tại một số quốc gia, chẳng hạn


như Youtube đã bị nhà cầm quyền Thổ Nhĩ Kỳ chặn trong một thời gian và tại Ý các nhân viên
cao cấp công ty này đã bị kết án về tội hình sự khi cho phép download âm nhạc và khi cung cấp
các thông tin trực tuyến.
Ngoài yếu tố chính trị thì Google cũng phải đối diện với rất nhiều vụ kiện khác trên
khắp thế giới. Khi Google tham gia vào thị trường toàn cầu thì đồng nghĩa với việc công ty
phải tuân thủ không chỉ các điều luật liên quan đến công nghệ của tổ chức thương mại toàn cầu
(WTO) mà còn chịu sự chi phối của luật pháp từng quốc gia. Các điều luật này có thể được sử
dụng để bảo vệ các công ty nhưng cũng chống lại các hoạt động không phù hợp của nó. Google
ngày càng lớn mạnh luôn là mục tiêu kiện tụng của các công ty cạnh tranh cũng như các tổ
chức bảo vệ người sử dụng. Năm 2011 là năm của kiện cáo với hàng loạt các vụ kiện giữa
Apple và Samsung, rồi HTC, Google, Microsoft… . Một vụ kiện đáng quan tâm xảy ra giữa
Google với nhà mạng British Telecom của Anh. British Telecom kiện Google vi phạm 6 bằng
sáng chế của hãng trên Android và đòi hàng tỉ USD bồi thường tại Delaware, Mĩ. Rất có thể
British Telecom sẽ tiếp tục đệ đơn kiện Google tại toàn Châu Âu. Các bằng sáng chế này liên
quan đến dịch vụ định vị vị trí, chỉ đường, dẫn đường và truy cập vào các dịch vụ, dữ liệu cá
nhân. Trước đó Google cũng phải đối mặt với các vụ kiện túng khác như vụ kiện với Oracle
vào năm 2010. Oracle, khẳng định rằng Android vi phạm bản quyền Oracle và các bằng sáng
chế có liên quan đến Java. Phát ngôn viên Karen Tillman của Oracle tuyên bố: "Trong việc phát
triển Android, Google cố ý, trực tiếp và liên tục vi phạm sở hữu trí tuệ liên quan đến Java của
Oracle. Vụ kiện này tìm những biện pháp khắc phục thích hợp cho vi phạm của họ".Google thì
nhìn nhận khác: Android không sử dụng Java, mà thay vào đó là công nghệ tương thích Java
gọi là Dalvik. Google tuyên bố, vụ kiện của Oracle là "vô căn cứ" và Google sẽ chống lại. Năm

2004 Louis Vuitton Malletier đã khởi kiện Google và toà án Pháp xử Google vi phạm nhãn hiệu
sản phẩm của tập đoàn kinh doanh khách sạn Louis Vuitton Malletier. Google sẽ phải trả hơn
250.000USD cho bên nguyên đơn. Cụ thể, Google và chi nhánh của hãng này tại Pháp bị cấm
bán các đoạn quảng cáo có liên quan tới thương hiệu của Louis Vuitton Malletier. Các “tội” của
Google bao gồm: vi phạm nhãn hiệu sản phẩm, cạnh tranh không lành mạnh và quảng cáo gây
nhầm lẫn cho người xem.. Ngày 11 tháng 11 năm 2011 Shopcity cũng khiếu kiên Google lên
Ủy ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (FTC) cáo buộc Tập đoàn này hạn chế cạnh tranh trong
lĩnh vực internet. Là chủ sở hữu của công cụ tìm kiếm phổ biến nhất thế giới, Google đã sử
dụng không công bằng việc kiểm soát các kết quả tìm kiếm để gây thiệt hại cho ShopCity.com,
một trang web giúp các doanh nghiệp trong nước bán sản phẩm, và Google lại ưu tiên dịch vụ
của riêng mình, theo một khiếu kiện của ShopCity vào ngày 11 tháng 11 năm 2011 tới Ủy ban
Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (FTC). Google cũng gặp rất nhiều vụ kiện khác liên quan đến
người sử dụng như: Sau khi bị tai nạn khi đang đi bộ trên đường cao tốc năm 2009, Lauren
Rosenberg không chỉ kiện lái xe đã đâm cô mà "ăn vạ" cả Google vì tội dịch vụ chỉ đường của
hãng này đã hướng dẫn sai, khiến cô lạc giữa dòng xe cộ nguy hiểm. Tòa án đã bác đơn
kiện vào giữa tháng


6/2011. Hay việc Google thua nhiều vụ kiện ở Pháp, Italy và Argentina vì dịch vụ tìm kiếm gợi
ý những từ như "lừa đảo", "quỷ Satan"... khi người dùng nhập tên một tổ chức. Google tốn khá
nhiều thời gian và gặp không ít rắc rối khi thuyết phục các tòa án quốc tế rằng những cơ chế tự
động hoàn thiện tự khóa của họ hoàn toàn vô hại. Với đặc thù sản phẩm kinh doanh chủ đạo là
các phần mềm, các sản phẩm vô hình mang tính trí tuệ cao nên các vấn đề liên quan đến pháp
luật luôn tạo ra rào cản mà Google cần phải đặc biệt quan tâm trên con đường phát triển của
mình.
Yếu tố cuối cùng chúng ta sẽ xem xét là môi trường văn hóa. Lúc mới ra đời, sản phẩm
tìm kiếm Google chỉ hỗ trợ giao diện tiếng Anh. Hiện nay, sản phẩm này đã hỗ trợ hầu hết các
ngôn ngữ khác nhau trên thế giới (đồng thời Google cũng đã tung ra sản phẩm Google
Translate cho phép người dùng có thể biên dịch giữa các ngôn ngữ khác nhau). Với mục tiêu
phát triển thành công ty đa quốc gia, cũng cấp sản phẩm cho toàn thế giới thì việc khác biệt văn

hóa và ngôn ngữ ở quốc gia luôn đặt ra thử thách cho Google. Tuy nhiên, theo khía cạnh khác
thì nhờ xu hướng hội nhập văn, nhu cầu sử dụng internet của các nước đã thực sự bùng nổ lại
là điều kiện để Google phát triển. Văn hóa sử dụng Internet của giới trẻ hiện nay chính là thị
trường lớn của Google nói riêng và các công ty công nghệ nói chung. Kho tri thức của con
người hiện nay có thể coi là vô cùng tận, Google cung cấp cho con người một sản phẩm hiệu
quả để tiếp cận kho tầng tri thức và văn hóa của nhân loại.

2.1.2. Môi trường ngành (mô hình 5 áp lực)
Việc phân tích môi trường ngành của Goolge sẽ tuân theo mô hình 5 áp lực, bao gồm: áp
lực từ khác hàng, áp lực cạnh tranh nội bộ ngành, áp lực từ sản phẩm thay thế, áp lực từ nhà
cung cấp và cuối cùng là áp lực từ đối thủ tiềm ẩn.
Yếu tố đầu tiên và cũng quan trong nhất tạo nên động lực phát triển cho Google chính là
khách hàng. Trước hết chúng ta cần hiểu khách hàng của Google là ai? Khách hàng của Google
có thể là bất kỳ doanh nghiệp, bất kỳ cá nhân nào có nhu cầu sử dụng các sản phẩm của
Google, với một thiết kết nối Internet bạn hoàn toàn có thể sử dụng miễn phí các sản phẩm của
Google. Như chúng ta đã nói ở trên, thế giới đang bước vào thời kỳ bùng nổ về thông tin và
công nghệ thông tin. Các doanh nghiệp muốn đưa ra các chiến lược đúng đắn kịp thời thì phải
có các thông tin nhanh chóng và chính xác, đó là các thông tin về đối tác, về khách hàng. Ngoài
ra các doanh nghiệp cũng đến sự hỗ trợ của các ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt
động PR, marketing, tuyển dụng… Đối với cá nhân thì nhu cầu về việc tìm kiếm các thông tin
tri thức, các hoạt động giải trí, tham gia các mạng xã hội hay mua sắm trực tuyến hiện nay là
rất lớn. Sử dụng các công nghệ mới, hiện đại đang là xu hướng thịnh hành trong giới trẻ. Đây
chính là một thị trường rộng lớn cho Google và các công ty công nghệ khai thác. Tuy nhiên,
việc thay đổi công nghệ, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng vừa là động lực
nhưng cũng là thách thức đối với Google: Các công cụ tìm kiếm, trình duyệt Chrome phải
ngày càng nhanh hơn, chính xác hơn, bảo mật hơn; Đối

Comment [U1]: Don’t be evil



với sản phẩm điện thoại phải có cấu hình ngày càng cao hơn, thời trang hơn, các phần mềm
tương tác hiệu quả hơn; Các sản phẩm mới phải đáp ứng được những xu hướng của công nghệ
thế giới như điện toán đảm mây, công nghệ xanh… Điều này yêu cầu Google phải luôn luôn
nghiên cứu và đưa ra các sản phẩm mới phù hợp với thị trường.
Một điều kiện thuận lợi khác không thể nhắc tới là sự phát triển mạnh mẽ cũng Internet
đã mang Google đến với khách hàng. Google không mất chi phí để “vận chuyển” sản phẩm
của mình tới khách hàng. Chính khách hàng đã tự bỏ chi phí để thuê các kết nối Internet này và
việc của Google sẽ đơn giản hơn nhiều là đưa sản phẩm của mình lên Internet và mọi người có
thể sử dụng nó.
Thị trường công nghệ thông tin thế giới hiện nay là một thị trường hấp dẫn nhưng cạnh
tranh rất quyết liệt. Trong top 10 thương hiệu lớn nhất thế giới 2011 do Interbrand đánh giá có
tới 6 công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin (IBM, Microsoft, Google, Intel,
Apple và HP) trong đó Microsoft và Apple là những đối thủ cạnh tranh trực tiếp của Google,
HP đang bắt đầu tham gia và thị trường điện thoại đi động. IBM, HP là đối thủ của Google
trong phát triển công nghệ mới:điện toán đám mây.

Top 10 thương hiệu lớn nhất thế giới 2011
Đối với thị trường tìm kiếm hiện nay,bao gồm cả tìm kiếm trên web và qua thiết bị di
động, thì Google vẫn đang giữ thế độc quyền. Theo thống kê của StatCounter, Google đang
chiếm hơn 90% thị phần mảng tìm kiếm trên mạng của toàn thế giới. Ngôi vị độc tôn của họ
hẳn là không thể bị lung lay chỉ trong ngày một ngày hai. Sau Web Search, chúng ta nói đến
Mobile Search, mảng Google đang hoàn toàn “độc chiếm”. Google là công cụ tìm kiếm mặc
định của phần lớn các smartphone, trong đó có cả iPhone lẫn Android. Tại phân khúc di


động, Google hiện nắm giữ 97% thị phần. Tuy nhiên Google cũng cần phải đề phòng các đối thủ
cạnh như Yahoo, Microsoft-Bing.
Trong thị trường điện thoại đi động, sau khi Google vực điện thoại di động của Motorola
với giá 12,5 tỉ USD, hiện nổi lên ba ông lớn Google-Motorola, Apple và Microsoft-Nokia đang
tranh giành thị trường công nghệ thông tin thế giới. Kể từ năm 2008, điện thoại di động dùng

hệ điều hành Android của Google đã phát triển rất nhanh, nhất là khi Google cho các nhà sản
xuất sử dụng miễn phí hệ điều hành này. Tới quí 2/2011, điện thoại di động Android của
Google đã chiếm tới 48% thị phần thế giới, thách thức mạnh mẽ các đối thủ như Apple,
Microsoft, Nokia, Oracle. Tuy nhiên nhược điểm lớn Google là nắm trong tay quá ít các bản
quyền kỹ thuật sản xuất và phát triển các sản phẩm mới. Bởi vậy, các đối thủ đã lợi dụng nhược
điểm này để cạnh trạnh với Google.
Ngoài các lĩnh vực thế mạnh của mình thì Google cũng thực hiện phát triển các thị
trường mới, giàu tiềm năng. Ở những thị trường này đã và đang tồn tại các đối thủ cạnh tranh
rất mạnh, nắm ưu thế lớn như Mạng xã hội (FaceBook, Twitter), bán hàng theo nhóm
(Groupon).
Với đặc thù các sản phẩm phần mềm nên các nhà cung cấp cũng có thể là đối thủ cạnh
tranh của chính Google. Ngoài các đối thủ lớn cạnh tranh trực tiếp với Google thì trên thế giới
hàng ngày, hàng giờ luôn xuất hiện các công ty mới, sở hữu các sản phẩm trí tuệ sáng tạo có
thể mang lại các lợi thế canh trang mới cho Google. Nhờ lợi thế về tài chính hiện nay có thể
giúp Google thâu tóm các công ty này hoặc mua lại các bản quyền, sáng chế để tiếp tục phát
triển thành sản phẩm hoàn thiện. Điển hình là vụ mua lại Nền tảng di động Android với giá trị
‘ước đoán lên tới’ 50 triệu USD; Dịch vụ e-mail và bảo mật thư điện tử Postini, 625 triệu USD;
Chia sẻ video YouTube, 1,65 tỷ USD hay Công nghệ quảng cáo hiển thị DoubleClick, 3,1 tỷ
USD.
Thị trường công nghệ thông tin việc xuất hiện các đối thủ tiềm ẩn rất dễ xảy ra. Đây là
một thị trường hết sức sáng tạo với tốc độ thay đổi rất nhanh. Thế giới đã ghi nhận sự phát triển
ngoạn mục của nhiều công ty như Google, Facebook. Chính Google với sự sáng tạo của mình
đã đánh bại MSN trên thị trường tìm kiếm trực tuyến. Ngoài ra, bài học về thất bại của Google
trước đối thủ Bing tại Trung quốc cũng nhắc nhở Google về vấn đề chính trị. Với thị trường đa
quốc gia, sự phức tạp về văn hóa, chính trị, pháp luật có thể là cơ hội xuất hiện thêm một phiên
bản khác của Bing.
Với sự phát triển của kinh tế tri thức, nhu cầu về công nghệ thông tin bùng nổ là điều
kiện hết sức thuận lợi cho sự phát triển của Google. Tuy nhiên, Google cũng cần phải có các
chiến lược hợp lý trước các rào cản ngành về pháp luật, chính trị, văn hóa và các đối thủ cạnh
tranh. Việc tham gia các thị trường sản phẩm mới như mạng xã hội, sản phẩm nhóm mua với

các đối thủ cạnh tranh có ưu thế lớn là một thách thức. Xu hướng công nghệ thay đổi nhanh
chóng đòi hỏi đội ngũ lãnh đạo cũng như nhân viên Google phải luôn luôn nghiên


cứu, sáng tạo, cải tiến các sản phẩm cũ, phát triển các sản phẩm mới đáp ứng được nhu cầu
của người sử dụng.

2.2. Môi trường bên trong
Phân tích môi trường nội bộ của Công ty Google, có thể nhận thấy Google luôn có nhiều
lợi thế về tổ chức doanh nghiệp như các kỹ năng, nguồn lực mà Google có được trước các đối
thủ cạnh tranh.
2.2.1. Tiềm lực của công ty lớn mạnh và mức độ tăng trưởng ổn định
Theo báo cáo từ Google, tổng doanh thu trong quý 1/2011 đạt 8,58 tỷ USD – tăng 27%
so với quý 1/2010, trong đó 4,57 tỷ USD là doanh thu từ thị trường nước ngoài và 4,01 tỷ USD
là doanh thu từ thị trường nội địa. Tuy nhiên một yếu tố làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của
Google là việc tuyển dụng thêm tới 2000 nhân viên mới, làm tăng chi phí hoạt động lên 33%
tương ứng là 2,8 tỉ USD.

Larry Page đang nỗ lực xâm nhập vào những thị trường mới như quảng cáo trên di động
và quảng cáo hiển thị, đồng thời duy trì vị trí dẫn đầu trên thị trường tìm kiếm - lĩnh vực vẫn
đóng góp phần lớn doanh thu của Google. Công cụ tìm kiếm này cũng đang đẩy nhanh tốc độ
tăng giá quảng cáo. Trong quý 2, giá quảng cáo mà Google áp dụng tăng 12%, so với mức tăng
8% trong quý 1.Từ đầu năm đến ngày 13/7/2011, giá cổ phiếu của Google đã giảm 11%, còn
528,94 USD/cổ phiếu. Tuy nhiên, sau khi báo cáo tài chính quý 2 được công bố, giá cổ phiếu
này đã tăng vọt.
Hãng nghiên cứu thị trường Emarketer dự báo, Google được cho là sẽ kiểm soát
9,3% thị trường quảng cáo hiển thị tại Mỹ trong năm nay, đứng ở vị trí số 3 sau Yahoo Mặc dù
thị phần của Google tăng, chi phí mà công ty này phải bỏ ra cũng tăng cao do số



nhân viên tăng. Trong quý 2, Google tăng số nhân viên thêm 2.452 người, tương đương
9,3%, lên 28.768 người.
Theo báo cáo tài chính của Google, tổng doanh thu của hãng trong quý III đạt 9,72 tỉ
USD - tăng 33% so với cùng kì năm ngoái. Trong đó lợi nhuận từ các thương vụ mua bán đã
thu về 2,21 tỉ USD. Doanh thu của Google trong quý III chủ yếu thu được từ dịch vụ quảng cáo
trên các website Google sỡ hữu và điều hành với 6,74 tỉ USD (chiếm 69 % tổng doanh thu).
Trong đó, chỉ tính riêng công cụ quảng cáo trực tuyến AdSense đã mang về cho Google 2,6 tỉ
USD, tăng 18% so với quý 03/2010. Trong buổi công bố báo cáo tài chính quý III, Google cũng
cho biết mạng xã hội Google+ đã có hơn 43 triệu thành viên kể từ ngày phát hành chính thức,
trình duyệt Chrome cũng thu hút hơn 200 triệu người dùng. Đặc biệt đã có khoảng 190 triệu
thiết bị di động sử dụng HĐH Android với mạng lưới rộng khắp trên 130 quốc gia và đem lại
cho Google khoản lợi nhuận 2.5 tỉ USD. Google đang cố gắng mở rộng các sản phẩm và dịch
vụ do hãng cung cấp nhằm chiếm lĩnh thị trường công nghệ đang có sự cạnh tranh khốc liệt của
nhiều tên tuổi lớn.

2.2.2. Văn hóa công sở
Văn hóa Google đã trở thành một huyền thoại, là biểu tượng thành công của các công ty
Internet. Tuy là một trong những công ty lớn và thành công nhất trên thế giới, Google vẫn duy
trì nét văn hóa kiểu các công ty nhỏ, và đã trở thành một biểu tượng, một xu thế mới, độc đáo
trong văn hóa công sở. Điều này thực sự mang tính cách mạng khi Google thậm chí còn đưa ra
một chức vụ chưa từng có trong các công ty kinh doanh, gọi là “giám đốc phụ trách các vấn đề
về văn hóa” (Chief Culture Officcer).
Đây là một sáng kiến nữa của hai nhà đồng sáng lập, và vị trí này hiện nay thuộc về
Stacy Savides Sullivan, kiêm giám đốc điều hành nhân sự. Là một nhà quản lý văn hóa của
Google, bà có nhiệm vụ gìn giữ nét văn hóa độc đáo của Google và bảo đảm cho các nhân viên
của Google luôn vui vẻ, hạnh phúc. Tiêu chí về văn hóa công ty của Google vẫn được giữ
nguyên kể từ khi được thành lập, đó là một môi trường bình đẳng, không có hệ thống cấp bậc
quản lý khắt khe, có tinh thần tương trợ lẫn nhau, và khích lệ tính sáng tạo, đổi mới.
Những người đứng đầu Google cho rằng khi đã được chu cấp đầy đủ, nhân viên của họ
sẽ không bị vướng bận những chuyện ngoài lề, và có thể toàn tâm toàn ý cho công việc. Larry

và Sergey muốn tạo nên một môi trường vui nhộn và cung cấp rất nhiều dịch vụ miễn phí cho
nhân viên. Theo tinh thần đó, khu làm việc tại Googleplex được trang trí với những gam màu
sắc sặc sỡ của logo "Google".
Nhân viên Google được phép mang vật nuôi vào chỗ làm, được cung cấp đồ ăn nhẹ, ăn
trưa, và bữa tối được chuẩn bị bởi bếp trưởng danh tiếng Charlie Ayers. Googleplex có các
phòng ăn điểm tâm với ngũ cốc, kẹo gôm, hạt điều, và các loại đồ ăn nhẹ khác với nước quả,
soda và cappuccino…


Công tác quản trị của Google cũng quan tâm cổ vũ, khích lệ sự đổi mới sáng tạo ở công
sở. Nhân viên của công ty được đối xử giống như những thành viên trong một gia đình hơn là
người được tuyển dụng vào để làm việc. Mỗi người được phép dành ra tối đa 20% thời gian
làm việc để theo đuổi và phát triển ý tưởng của riêng mình. Những dịch vụ như Gmail chính là
kết quả của chế độ 20% giờ làm việc này.
Dù sao, công ty vẫn phải đối mặt với những vấn để như làm thế nào để biến những ý
tưởng khả thi thành những sản phẩm thành công. Nói như Silverstein, "Thực tế là chúng tôi
luôn có những ý tưởng rất tuyệt nhưng lại không biết cách diễn đạt hay lưu giữ nó. Để giải
quyết được khó khăn này, Google đã lập nên một trang web tầm cỡ quốc tế để tìm tòi và thử
nghiệm những ý tưởng mới. Có nhiều ý tưởng đã bị loại bỏ. Nhưng chỉ cần vài ý tưởng thành
công, nó đã có thể đem lại lợi nhuận lớn cho công ty”.
Bên cạnh đó, Google cũng dành cổ phiếu ưu đãi cho 99% nhân viên, áp dụng chế độ
lương bổng rất cao để tạo động lực làm việc và giúp họ có được sự gắn bó lâu dài với công ty.
Google không ngừng thu hút nhân tài với những chính sách quản trị nhân lực độc đáo, và cái
tên Googleplex đã trở thành địa điểm làm việc mơ ước không chỉ đối với người dân Mỹ. Điều
đó được xác minh bằng vị trí đứng đầu của Google trong danh sách bình chọn “Top công ty lý
tưởng để làm việc” năm 2008 của tạp chí Fortune, CNN.

2.2.3. Tuyển dụng nhân sự
Suốt thời kỳ bùng nổ về dịch vụ "dotcom" vào cuối những năm 1990, khi các công ty kỹ
thuật hàng đầu có chỉ số thay thế nhân viên vào khoảng 20-25% thì Google là công ty duy nhất

không phải đối mặt với vấn nạn này. Cho đến nay, chỉ số này của Google vẫn chỉ xấp xỉ ở mức
zero, và Google trở thành nơi lý tưởng, là địa điểm làm việc mơ ước của hàng triệu ứng viên.
Mặc dù vậy, Google không ngừng tuyển dụng những người tài năng. Công ty nhận được
khoảng 1000 bản CV mỗi ngày (năm 2003) so với số nhân viên hiện có là trên 20 nghìn
người. Để lôi cuốn nhiều ứng viên tham gia, Google còn đưa ra hàng loạt những lý do tại sao
bạn nên đầu quân vào Google trên website của công ty.
Song tiêu chí tuyển dụng của Google lại rất khắt khe. Sergey và Larry cũng chú trọng
tuyển dụng nhân sự với những phẩm chất cần thiết. Chính họ cũng tham gia trực tiếp vào quá
trình tuyển dụng. Google tuyển dụng những người có kỹ năng và phẩm chất đa dạng. Khi tuyển
dụng, Google bám sát vào kết quả học tập cũng như điểm số trong bài thi SAT (Scholastic
Assessment Test - Một tiêu chí quan trọng trong việc xét tuyển đầu vào tại các trường đại học
của Mỹ) và các bài thi tốt nghiệp khác.Công ty quan tâm đến sự thông minh và trí tuệ hơn là
kinh nghiệm làm việc của người dự tuyển. Bên cạnh đó, họ cũng rất coi trọng tinh thần cầu
tiến của ứng viên. Một tiêu chí phụ nữa mà các nhà quản trị Google áp


dụng dựa trên sự phù hợp với văn hóa và tinh thần chung của doanh nghiệp.
Cũng
có những ý kiến không đồng tình với những chính sách quản trị nhân lực của doanh nghiệp này.
Tuy nhiên trên thực tế, sự tăng trưởng không ngừng của công ty cũng như môi trường làm việc
của Google trở thành mơ ước của hàng triệu người đã là những minh chứng không thể chối cãi
cho sự thành công của chính sách quản trị nhân sự ở Google. Với nhiều người, Google đại diện
cho sự hòa trộn hữu hiệu nhất giữa văn hóa và kỹ thuật ở Silicon Valley.

3. HOẠT ĐỘNG KINH DOANH QUỐC TẾ CỦA GOOGLE
3.1. Chiến lược kinh doanh của Google
3.1.1. Chiến lược kinh doanh quốc tế
3.1.1.1. Luôn luôn tập trung vào người dùng
Google nỗ lực làm việc để khám phá ra những nhu cầu thực sự của mọi người, kể cả
những nhu cầu mà chính họ không phải lúc nào cũng có thể nói rõ. Nhờ có thông tin đó,

Google có thể tạo ra sản phẩm giải quyết các vấn đề của thế giới thực và khuấy động tinh thần
sáng tạo của tất cả mọi người. Cải thiện cuộc sống của mọi người chứ không chỉ giúp công việc
dần trở nên dễ dàng là mục tiêu của công ty.
Kể từ khi bắt đầu, Google đã tập trung vào việc cung cấp trải nghiệm người dùng tốt
nhất có thể. Cho dù công ty thiết kế một trình duyệt Internet mới hay một chỉnh sửa mới cho
giao diện trang chủ, Google luôn chú trọng đến việc đảm bảo rằng chúng cuối cùng sẽ phục vụ
người dùng hơn là mục tiêu nội bộ hay kết quả kinh doanh của chính Google. Giao điện trang
chủ của Google rõ ràng, đơn giản và các trang được tải nhanh chóng. Vị trí trong kết quả tìm
kiếm không bao giờ được bán cho bất kỳ ai và quảng cáo không chỉ được đánh dấu rõ mà còn
cung cấp nội dung có liên quan và không gây rối trí. Và khi Google tạo các công cụ và ứng
dụng mới, Google cho rằng chúng phải hoạt động thật tốt để người dùng không phải suy nghĩ
đến chuyện thiết kế chúng theo một cách khác.
3.1.1.2. Tuyển dụng và giữ nhân tài
Để có được thành công và tốc độ tăng trưởng đáng ngưỡng mộ như ngày hôm nay,
Google hiểu hơn bất cứ ai tầm quan trọng của đội ngũ kỹ sư tài năng mà hãng đang chiêu nạp
dưới trướng. Cũng chính vì thế, không hãng nào tỏ ra "máu lửa" bằng Google trong các cuộc
chiến tranh giành nhân tài.Google săn đuổi bất cứ tài năng nào mà họ tình cờ biết được/bắt
gặp/nghe nói đến, coi nhân tài như "xăng" để vận hành guồng máy khổng lồ. Nguồn nhân lực
của Google đã tăng gần gấp đôi mỗi năm, và tính đến hiện nay thì dừng lại ở con số hơn
20.000 người.
Mỗi tháng, Google bổ sung thêm khoảng 500 nhân viên. Và trên website của hãng,
người ta vẫn còn nhìn thấy tới… 800 vị trí trống chưa tuyển được. Trong hoạt động tuyển dụng,
Google đặc biệt chú trọng đến vấn đề xây dựng một môi trường làm việc toàn cầu và ưu tiên
khả năng hơn kinh nghiệm. Để thu hút nhân tài, Google đã xếp xó cái gọi là "phỏng


vấn tuyển dụng" truyền thống vì sự vô tích sự của nó. Thay vào đấy,công ty đã tổ chức những
sự kiện như Bài giảng ngoại khóa về công nghệ, tiệc cocktail, buffet Pizza, các cuộc thi săn
lùng kho báu, các cuộc thi lập trình có tên "Ngày hack" … Công ty có văn phòng trên khắp
thế giới và nhân viên của Google nói hàng chục ngôn ngữ, từ tiếng Thổ Nhỹ Kỳ cho đến tiếng

Telugu. Do đó, công ty có một đội ngũ nhân viên đáp ứng được yêu cầu của người dùng trên
toàn thế giới mà Google phục vụ.
3.1.1.3. Nâng cao và củng cố thương hiệu trên toàn cầu
Chiến lược nâng cao thương hiệu của Google đã thành công đến mức “Google” nay đã
trở thành một động từ trong từ điển. Google nắm giữ vị trí hàng đầu trong hàng năm của
Millward Brown top 100 danh sách toàn cầu sức mạnh thương hiệu. Nó đã giữ vị trí trong bốn
năm qua. Làm thế nào để làm điều đó? Sức mạnh đằng sau chiến lược thương hiệu của Google
là gì?
Nó không phải là nhất thiết phải là công cụ tìm kiếm mạnh mẽ. Với những thăng trầm
của công nghệ, đặc biệt là những người có liên quan với internet, sức mạnh thương hiệu của
bạn chỉ trên công nghệ của mình là nguy hiểm. Thậm chí nhiều hơn như vậy khi công nghệ làm
cho nó dễ dàng hơn cho các thương hiệu khác để bắt kịp với bạn. Google có thể biết rằng, họ
thực sự có một khái niệm vị tha. Dù là trường hợp, Google đã xây dựng giá trị thương hiệu của
mình xung quanh bản chất mở và dân chủ của nó. Google không chỉ đơn thuần là một công cụ
tìm kiếm. Đây là một công cụ tìm kiếm với tính toàn vẹn. Nó là một công cụ tìm kiếm trung
thực.
Chỉ nói những lời không đủ. Hành động của bạn cũng rất quan trọng. Và Google đã thể
hiện điều này theo nhiều cách. Trong khi năm 2006 họ đã xem xét chấp nhận yêu cầu của
Chính phủ Trung Quốc của mà họ hạn chế các nội dung chính trị nhạy cảm dành cho người
dùng Trung Quốc, trong năm 2010 cuối cùng đã quyết định chống lại nó và làm nó rõ ràng rằng
họ vẫn đứng để thông tin mở và sẽ rút từ Trung Quốc nếu bắt buộc. Chỉ cần hành động này một
mình cho Google đạo đức đất cao. Lấy ví dụ khác. Gmail, Google Maps, YouTube (video có
sẵn cho hàng triệu và thậm chí đã thông tin liên lạc lên một tầm cao), tất cả đều miễn phí. Tất
cả những điều này cũng đại diện cho thông tin mở.
Thêm hành động này của Google chẳng hạn như liên doanh của nó vào nền tảng phát
triển phần mềm di động mở (hệ điều hành Android) và cung cấp cho điều hướng GPS miễn phí
applet cho điện thoại Android, thương hiệu vẫn tiếp tục giữ vị trí của nó của sự cởi mở và
toàn vẹn trong suy nghĩ của công chúng.
3.1.1.4. Chiến lược thôn tính các công ty nhỏ
Xem xét Google từ bên ngoài, chiến lược M&A của Google phục vụ các mục tiêu:

✓ Dữ liệu: Giống như bài viết, dữ liệu meta, lưu trữ kỹ thuật số, hình ảnh.
✓ Người dùng: Hoặc trong những thuật ngữ chung, khách hàng hay chia sẻ thị trường.
✓ Công nghệ: Chủ yếu là các phần mềm, như các ứng dụng web hoặc máy tính để bàn.
✓ Các lập trình viên: Hoặc, trong thuật ngữ chung, gọi nó là nhân viên.


Một số nội dung trên có quan hệ với nhau, đặc biệt là với công nghệ và phát triển, có
không phải luôn luôn là một sự phân biệt rõ ràng. Hơn nữa, Google đôi khi đầu tư vào các đối
tác nước ngoài cần thiết hợp pháp hay chính trị, giống như khi họ hợp tác với Tianya hoặc
Ganji ở Trung Quốc, hoặc họ có thể trợ cấp cho một công ty để thị trường nghiêng không ưa
của các đối thủ cạnh tranh ... Ví dụ: khi họ phải trả các nhà phát triển Mozilla tiến bộ Firefox,
hoặc trả Mozilla khi người dùng tìm kiếm của Google bằng cách sử dụng Firefox, để cân
bằng thị trường đối với Microsoft Internet Explorer. Đôi khi Google mua các công ty chỉ để im
lặng một đối thủ cạnh tranh, hoặc để ngăn chặn một đối thủ cạnh tranh từ việc mua và phát
triển quá mạnh. Các cánh tay từ thiện của Google, được gọi là Google.org, cũng đầu tư vào
năng lượng xanh và nhiều hơn nữa để cải thiện thế giới nói chung. Mục tiêu cuối cùng có được
một công ty phù hợp với nhiệm vụ tổng thể của Google.

3.1.2. Chiến lược kinh doanh đa quốc gia của Google
Đối với một doanh nghiệp kinh doanh quốc tế đặc biệt là doanh nghiệp nội dung thông
tin số 1 thế giới, việc thâm nhập và mở rộng thị trường trên quy mô quốc tế sẽ góp phần tăng
trưởng và tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp và cả tốc độ tăng trưởng lợi nhuận doanh nghiệp
qua thời gian. Vậy có thể nói chiến lược kinh doanh quốc tế kà một bộ phận của chiến lược
kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm các kế hoạch và bước đi của doanh nghiệp trên thị
trường quốc tế nhằm tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp. Vậy Google đã xây dựng chiến lược
kinh doanh quốc tế của mình như thế nào?
Google đã nhận ra rằng càng hiểu rõ khách hàng, đối tác và tình hình của họ thì càng có
khả năng đưa ra những giải pháp đúng, xây dựng mô hình kinh doanh đúng và chiến thắng
nhờ mở rộng phạm vi quốc tế. Cho đến nay, Google đã đặt trụ sở ở 33 quốc gia và 68 văn
phòng với số lượng nhân viên lên tới hơn 20.000 người đến từ nhiều dân tộc và nền văn hóa

khác nhau.
3.1.2.1. Thị trường Châu Mỹ La Tinh
Châu Mỹ La Tinh chiếm 2% đến 3% doanh thu của Google tuy nhiên, CEO Eric
Schmidt cho biết tỷ trọng tương đối khiêm tốn của khu vực cần phát triển nhanh chóng. Minh
chứng cho phát biểu ấy, Brazil đang trên con đường trở thành quốc gia đứng thứ 6 trong
doanh thu của Google. Hiện tại, Google có khoảng 500 nhân viên ở Mỹ Latinh, với các văn
phòng mới ở Chile, Colombia và Peru. Google đẩy mạnh chiến được kinh doanh tôn trọng sự
đa dạng và bản sắc văn hóa các dân tộc.
Một minh chứng điển hình, cách tiếp cận của Google vào thị trường Mỹ gốc Tây Ban
Nha tăng sự tập trung về bản sắc văn hóa của Châu Mỹ La Tinh hơn về sự khác biệt trong ngôn
ngữ. Đây là chiến lược được thiết kế bởi Mark Lopez, người đứng đầu của đơn vị Mỹ gốc Tây
Ban Nha của Google, từ các văn phòng mới của mình ở Miami là cố gắng để làm tăng đáng kể
số lượng quảng cáo trực tiếp đối với các phương tiện truyền thông kỹ thuật số ở Tây Ban Nha.
Quan điểm của Google là hướng tới xác định một phân đoạn của người Tây Ban Nha nói tiếng
Anh và tiếng Tây Ban Nha nhiều hơn hoặc ít thành thạo và các thành viên trong đó giữ gìn bản
sắc Tây Ban Nha và thích bởi các phương tiện của nền văn hóa La tinh.


3.1.2.2. Thị trường Châu Âu
Châu Âu luôn là một thị trường hấp dẫn nhưng cũng đầy khó khăn với các quy định,
điều khoản và luật lệ ngặt nghèo. Ngay tại Châu Âu, toàn bộ các nhân viên Google đang dành
toàn bộ trái tim và khối óc nỗ lực để vượt qua những thách thức pháp luật, quy định về những
vấn đề riêng tư, tranh chấp bản quyền, độc quyền và thuế. Giám đốc điều hành Google cho
biết rằng chiến lược của họ đã được xây dựng vào cuối năm 2009, khi họ nhận ra rằng vấn đề
của họ ở châu Âu nghiêm trọng hơn so với bất kỳ phần nào khác trên thế giới, với ngoại lệ của
Trung Quốc. Tại thị trường này Google vẫn kiên trì tuân thủ và theo đuổi là khẩu hiệu của công
ty “Don’t be evil”.
Tại Đức, Google đang đặt trong vòng điều tra vì dịch vụ Street View đã phá vỡ quy định
của pháp luật về bảo vệ dữ liệu. Google đang có kế hoạch mở một Viện Internet và Xã hội. Các
trung tâm, được thành lập tại Berlin sẽ nghiên cứu các vấn đề như bảo mật trong thời đại kỹ

thuật số. Tại Pháp, những nỗ lực của Google để số hóa sách và tài liệu văn hoá khác đã bị lên
án là chủ nghĩa đế quốc văn hóa của một số nhà phê bình. Dưới sự chỉ trích ấy, Carlo d'Asaro
Biondo, một phó chủ tịch Google giám sát kinh doanh của công ty ở miền nam châu Âu đã
khẳng định rằng ”Động cơ của Google là hoàn toàn trong sáng, Tất cả những kế hoạch này là
cách để thể hiện sự tôn trọng các nền văn hóa bản địa”.
Ngoài ra, Google cũng dành được một loạt các thằng lợi quan trọng ở các quốc gia khác:
Giải quyết khiếu nại chống độc quyền ở Pháp và Italy. Đã ký kết thỏa thuận quét sách với các
thư viện quốc gia ở Ý, Áo và Cộng hòa Séc.
3.1.2.3. Thị trường châu Á
Khu vực Châu Á Thái Bình Dương không chỉ có dân số cao nhất (56%) và người sử
dụng Internet lớn nhất (41%) của toàn thế giới, đóng góp 27% GDP của toàn thế giới thế giới
mà cũng là thị trường mang lại tỷ suất doanh thu lớn nhất cho Google (39.5%) . Trong năm
2011, Google đã tuyển dụng them 6000 nhân viên trong đó 500 nhân viên ở Châu Á. Các vị trí
trải rộng từ phụ trách kinh doanh tới phát triển kỹ thuật. Vừa mới đây, Google đã mở một văn
phòng chuyên trách về kinh doanh cho toàn Đông Nam Á ở Malaysia, sự hiện diện đầu tiên ở
Đông Nam Á sau việc thành lập văn phòng Singapore năm 2007. Vậy thực chất chiến lược của
Google ở Châu Á là gì?
Nó cho thấy sự sâu sắc trong đấu tư và sự cam kết lâu dài của Google ở Châu Á mà đặc
biệt là Đông Nam Á, khu vực kinh tế năng động nhất thế giới. Trong số các nhân viên mà
Google mới tuyển dụng thì 2 mảng quan trọng nhất là kinh doanh và kỹ thuật. Về mảng kỹ
thuật, một số dự án quan trọng bao gồm GoogleMap, Android, Search và Ads đang chịu trách
nhiệm bởi các trung tâm kỹ thuật đặt ở châu Á. Về mảng kinh doanh, các nhân viên mới sẽ
giúp các doanh nghiệp tận dụng tối đa ích lợi của Internet để phát triển công ty của họ và thu
hút them nhiều khách hàng trong khu vực. Theo nhận định của Julian Persaud – giám đốc điều
hành của Google ở khu vực Đông Nam Á: “ Đây là một thị trường rất đa dạng, nơi bạn có một
thị trường công nghệ tiên tiến như Singapore, thị trường trưởng thành về công


nghệ cao như Malaysia và Thái Lan, các thị trường đang phát triển nhanh trong công nghệ
cao như Philippines, Indonesia và Việt Nam.”

Đối với thị tiên tiến và trưởng thành công nghệ, Google tập trung vào kết nối người
dùng với các nhà quảng cáo và tung ra các dịch vụ web và nền tảng cộng tác như Google Maps
và Google Docs. Đối với thị trường công nghệ đang phát triển nhanh chóng, Google nỗ lực
để mở rộng truy cập Internet và tạo them niềm đam mê trực tuyến cho người dùng ở đó.Về mặt
kinh doanh, Google đặt trọng tâm phát triển nền kinh tế kỹ thuật số của khu vực. Cụ thể,
Google sẽ đẩy mạnh kênh kết nối giữa các doanh nghiệp với người dùng tìm kiếm các sản
phẩm và dịch vụ của họ. Google giới thiệu các định dạng quảng cáo mới, đặc biệt nhắm tới
mảng di động, mở rộng mảng hiện thị quảng cáo. Google muốn đảm bảo rằng ngay cả những
doanh nghiệp nhỏ cũng có chỗ đứng và hiện diện nhất định trên Internet.
3.1.2.4. Thị trường Châu Phi
Trong một buổi sáng lạnh và mưa thứ hai tại Cape Town, Google khởi động gSouth
Châu Phi, sự kiện Châu Phi lần thứ 6 trong 12 tháng qua, thu hút các nhà phát triển và doanh
nghiệp công nghệ từ khắp nơi trên lục địa đen nhằm tạo ra một môi trường Internet tốt và phù
hợp hơn cho Châu Phi. Hơn 1 tỷ người đang háo hức chờ đợi sự xuất hiện của mạng, của cơ sở
hạ tầng mạng vươn tới từng bờ biển cùng với giá thành giảm xuống mức tối thiểu.
Trong bài phát biểu, Nelson Mattos, phó chủ tịch phát triển thị trường Châu Âu, Trung
Đông và Châu Phi, thừa nhận rằng lợi ích trực tiếp từ Internet mạnh mẽ. Công ty có một cam
kết to lớn để làm cho thông tin trở nên tự do và bình đẳng trên toàn thế giới. Với Châu phi một khu vực thách thức lớn, khẩu hiệu của Google ở khu vực này là “Sự truy cập, tính phù hợp
và tính bền vững”.
Truy cập sẽ tăng lên nhờ vào việc xây dựng các hệ thống Google cache khắp Châu Phi.
Nội dung của Châu Phi sẽ hiện diện ở Châu Phi nhờ đó mà làm giảm chi phí và thời gian tải
dữ liệu. Hiện tại, Google đang lên kế hoạch cho một mạng không dây tại các thành phố lớn ở
Châu Phi, trước tiên là Nairobi.
Hàng loạt các sản phẩm mới đang được phát triển để giải quyết các vấn đề về tính phù
hợp. Về mảng ngôn ngữ, Google tăng khả năng dịch và tìm kiếm trên các ngôn ngữ Châu Phi.
Về mảng bản đồ, Google Maps đã bao quát 1,2 triệu km vuông ở châu lục này. Với 1 triệu
điểm thu hút và vùng phủ song trải khắp 300 thành phố, Google Maps trở thành một nguồn lực
mạnh mẽ cho các khách du lịch tới lục địa này.
Tính bền vững sẽ đạt được bằng cách làm việc chặt chẽ với các nhà phát triển và các nhà
khai thác di động. Thông qua việc tài trợ, kinh phí và học bổng sẽ củng cố vị thế Google ở

châu Phi.

3.2. Cơ cấu tổ chức của Google
Mô hình mà Google đang theo đuổi là mô hình ma trận, các khu vực, sản phẩm quan hệ
mật thiết với nhau và cùng chịu sự điều hành từ tổng dinh đặt tại California. Trong đó có


sự tách biệt giữa công nghệ với sản phẩm, giữa phụ trách kinh doanh, phát triển kỹ thuật.
quản lý các vấn đề pháp lý và quản lý tài chính…

3.2.1. Ban lãnh đạo cấp cao
Eric E. Schmidt Chủ tịch điều hành: Schmidt đã giúp phát triển công ty từ một doanh
nghiệp non trẻ tại Thung lũng Silicon trở thành một doanh nghiệp dẫn đầu thế giới trong lĩnh
vực công nghệ. Với tư cách là chủ tịch điều hành, ông chịu trách nhiệm về các vấn đề đối ngoại
của Google: tạo dựng các mối quan hệ đối tác và mở rộng quan hệ kinh doanh, điều hành ở
cương vị lãnh đạo các ý tưởng về công nghệ và đối ngoại cũng như tư vấn cho CEO và bộ phận
lãnh đạo cấp cao về các vấn đề kinh doanh và chính sách.
Larry Page - Giám đốc điều hành: Với tư cách là giám đốc điều hành của Google,
Larry chịu trách nhiệm về các hoạt động hàng ngày của Google cũng như dẫn dắt chiến lược
công nghệ và phát triển sản phẩm của công ty. Ông đã đồng sáng lập Google với Sergey Brin
vào năm 1998 trong khi đang theo đuổi học vị Tiến sĩ tại trường Đại học Stanford và là CEO
đầu tiên cho tới năm 2001—phát triển công ty lên hơn 200 nhân viên và bắt đầu có lãi. Từ năm
2001 đến năm 2011, Larry là tổng giám đốc chịu trách nhiệm về sản phẩm.
Sergey Brin- Nhà đồng sáng lập: Sergey Brin đã đồng sáng lập Google Inc. vào năm
1998. Hiện tại, ông quản lý các dự án đặc biệt. Từ năm 2001 đến năm 2011, Sergey là tổng
giám đốc công nghệ, chức vụ mà ở đó ông chia sẻ trách nhiệm điều hành hoạt động hàng ngày
của công ty với Larry Page và Eric Schmidt.
Nikesh Arora - Phó chủ tịch cấp cao kiêm Giám đốc kinh doanh: Nikesh giám sát tất
cả doanh thu và hoạt động khách hàng cũng như tiếp thị và các quan hệ đối tác. Từ khi gia
nhập Google vào năm 2004, ông đã giữ một số chức vụ trong công ty. Gần đây nhất, ông lãnh

đạo các hoạt động bán hàng trực tiếp trên toàn cầu của Google. Ông cũng phát triển và quản lý
hoạt động của công ty tại các thị trường Châu Âu, Trung Đông và Châu Phi đồng thời chịu
trách nhiệm tạo ra và mở rộng các quan hệ đối tác chiến lược trong các khu vực này vì lợi ích
của số lượng ngày càng đông đảo người dùng và các nhà quảng cáo của Google.
David C. Drummond - Phó chủ tịch cấp cao, Giám đốc pháp lý và phát triển công
ty: David Drummond gia nhập Google năm 2002, ban đầu là phó tổng giám đốc phát triển công
ty. Hiện tại, với tư cách là phó chủ tịch cấp cao và giám đốc pháp lý, ông lãnh đạo các nhóm
Google trên toàn cầu về pháp lý, quan hệ với chính phủ, phát triển công ty (các dự án M&A và
đầu tư) cũng như phát triển công việc kinh doanh mới (các quan hệ đối tác chiến lược và cơ hội
cấp phép).
Patrick Pichette - Phó chủ tịch cấp cao kiêm Giám đốc tài chính: Patrick Pichette là
giám đốc tài chính của Google. Ông có gần 20 năm kinh nghiệm về quản lý và hoạt động tài
chính trong lĩnh vực viễn thông, bao gồm bảy năm ở Bell Canada, nơi ông gia nhập năm 2001
với tư cách là phó chủ tịch điều hành chịu trách nhiệm lập kế hoạch và quản lý hiệu quả hoạt
động.
3.2.2. Nguyên tắc tổ chức công ty


Để điều hành và tổ chức công ty một các hiệu quả nhất, Google đã đề ra bộ quy tắc
ứng xử và hướng dẫn quản trị doanh nghiệp.
Bộ qui tắc ứng xử đòi hỏi toàn bộ nhân viên và ban quản trị đều phải tuân thủ và thực
hiện. Nó là một trong những cách Google đưa "Don’t be evil" vào thực tế. Đó là sự thừa nhận
rằng tất cả những gì Google làm trong kết nối với công việc của toàn thể nhân viên tại Google
sẽ được xây dựng xung quanh những tiêu chuẩn cao nhất hiện thực hóa đạo đức kinh doanh.
Tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau giữa các nhân viên và người sử dụng là nền tảng của sự thành
công của Google, và chúng là một cái gì đó toàn bộ nhân viên cần phải theo đuổi mỗi ngày.
Hướng dẫn quản trị doanh nghiệp được thành lập bởi Ban Lãnh đạo của Google cung
cấp một cấu trúc mà trong đó giám đốc và quản lý của công ty có hiệu quả có thể theo đuổi
mục tiêu của Google vì lợi ích của các cổ đông của nó. Hội đồng quản trị dự định rằng những
nguyên tắc phục vụ như là một khuôn khổ linh hoạt trong việc tiến hành các hoạt động kinh

doanh, không phải là một tập hợp các nghĩa vụ ràng buộc pháp lý. Trong đó xác lập các điểm
cơ bản sau:
 Cơ cấu và hội động quản trị: quy mô, tiêu chí lựa chọn, nhiệm kỳ của giám đốc,….
 Nhiệm vụ của hội đồng quản trị: Giám sát Quản lý và Đánh giá Chiến lược, giám
sát rủi ro, bầu chọn chủ tịch và giám đốc điều hành, giám sát hiệu quả của tài chính…
 Thủ tục vận hành hội đồng quản trị: tần suất cuộc họp, tư cách các thành viên…

3.2.3. Phân cấp tổ chức
Tính đến năm 2008, số lượng các nhà điều hành(President & Vice President) đã vượt
qua con số 50. Họ nắm vai trò điều hành quản lý các ủy ban và các nhóm dưới sự quản lý trực
tiếp của chủ tịch Eric Smitch và hội đồng quản trị. Mỗi ủy ban đều hoạt động tương đối gắn kết
với nhau và nhưng lại có các điều lệ riêng biệt:

Ban cố vấn và giám sát

Ban điều hành

Ủy ban kiểm toán

Ủy ban phát triển kỹ năng lãnh đạo và bồi dưỡng nhân lực

Ban M&A
Bên cạnh các ủy ban là các nhóm phụ trách các mảng khác nhau: kỹ thuật, kinh doanh, pháp
lý và tài chính.

Nhóm phụ trách kinh doanh: Đây là nhóm đông nhất với 13 vị trí điều hành
phụ trách các khu vực địa lý và văn hóa khác nhau(Mỹ Latin, Bắc Mỹ, Trung Đông, Châu Á
Thái Bình Dương, Trung Quốc…). Kinh doanh là mảng được ưu ái thứ 2 trong Google.

Nhóm phát triển kỹ thuật: Đây là nhóm được ưu tiên số 1 trong Google gồm có

12 vị trí điều hành. Bất cứ ai quen thuộc với nền văn hóa Google sẽ cho bạn biết điều này.
“Engineering is first”

Nhóm phụ trách sản phẩm





Nhóm pháp lý
Nhóm quản lý tài chính

3.3. Phương thức thâm nhập thị trường của Google
3.3.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến phương thức thâm nhập thị trường của Google
3.3.1.1. Đặc điểm của sản phẩm
Như chúng ta đã biết Google là một công ty Internet có trụ sở tạị Hoa Kỳ, được thành
lập vào năm 1998. Sản phẩm chính của Google là công cụ tìm kiếm Google, được đánh giá là
công cụ tìm kiếm hữu ích và mạnh mẽ nhất trên Internet.
Không như các mạng truyền thông đa phương tiện như radio hay truyền hình, Internet
không có một địa chỉ trung tâm phân phối nào. Người ta có thể dùng Internet để liên lạc với bất
kì ai đang kết nối, chia sẻ thông tin, trao đổi hay mua bán trên phạm vi toàn cầu. Theo Tổ chức
Internet World Stats cho biết tính đến ngày 31/3/2011 có 2,1 tỷ người dùng Internet trên toàn
cầu. Google tiếp nhận khoảng 1 tỷ yêu cầu tìm kiếm mỗi ngày, được quản lý bởi hơn 1 triệu
máy chủ trên khắp quả đất. Bên cạnh việc tìm kiếm địa chỉ web cùng với các công cụ tinh
chỉnh và video, hình ảnh và nhiều tùy chọn đa dạng khác, Google ngày càng chi phối sâu sắc
môi trường mạng hiện nay.
Như vậy chính bản thân sản phẩm của Google đã mang tính quốc tế. Google đã phổ cập
hóa rộng rãi trong cộng đồng mạng vì nó bao gồm công cụ cực kỳ hữu hiệu, không thể thiếu
trên internet. Giao diện của Google gồm trên 100 ngôn ngữ, kể cả TiếngViệt.
3.3.1.2. Tiềm lực của doanh nghiệp

Google có hệ thống 77 văn phòng đặt tại các quốc gia trên phạm vi toàn cầu. Google
hiện tại có 20 văn phòng tại Mỹ, 30 văn phòng tại Châu Âu, 15 văn phòng tại Châu Á, 8 văn
phòng tại Châu Mỹ La Tinh, 4 văn phòng tại Châu Phi . Tổng tài sản tiền mặt trị giá 43 tỉ USD
và 200 tỷ USD giá trị vốn hoá thị trường. Số lượng nhân viên của Google dự tính sẽ vượt con
số 30.000 vào đầu năm 2012.
Qua đó cho thấy Google, một công ty có đủ tiềm lực và điều kiện để biến bất cứ một thứ gì đó
trở nên hữu dụng bằng việc khai thác hàng trăm ngàn máy chủ và vô số những lập trình viên
nội bộ của mình. Rõ ràng Google có thừa tiềm lực để mở rộng lĩnh vực kinh doanh của mình để
mở rộng thâm nhập trên thị trường quốc tế.

3.3.2. Các phương thức thâm nhập thị trường của Google
3.3.2.1. Mua lại các công ty con
Với một tiềm lực tài chính cực mạnh và khao khát trở thành tập đoàn công nghệ thống
trị toàn cầu. Google đã không ngừng mở rộng hoạt động kinh doanh của mình, một trong số
bước đi đó là thâu tóm các công ty con với tốc độ chóng mặt. Tính đến hết tháng 10/2011 thì
trong năm 2011 Google đã chi ra 1,4 tỉ USD để thâu tóm 57 công ty. Như vậy, với 52 tuần/năm
thì mỗi tuần Google mua lại một công ty.


Từ năm 2001, Google đã mua được nhiều công ty nhỏ mới thành lập, thường là công ty
có nhiều sản phẩm và đội ngũ nhân viên tốt. Một trong những công ty mà Google mua lại sớm
nhất là Pyra Labs. Họ chính là những người sáng tạo ra Blogger, một nền tảng của việc xuất
bản weblog, giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1999
Đầu năm 2006, Google mua lại Upstartle, một công ty chịu trách nhiệm xử lý từ ngữ
trên mạng, Writely. Công nghệ của sản phẩm này rốt cuộc đã được Google sử dụng để tạo ra
Google Docs.
Tháng 1/2006, Google đã mua lại hãng quảng cáo dMarc Broadcasting với giá 102 triệu
USD. Sau đó, hãng đã tích hợp công nghệ của dMarc vào trong ứng dụng quảng cáo "đinh"
AdSense của mình
Tháng 2 năm 2006, mua phần mềm Measure Map, một ứng dụng thống kê weblog cho

Google.
Tháng 10 năm 2006, Google công bố họ đã mua lại Jotspot, một nhà phát triển của công
nghệ wiki cho các website cộng đồng.
Cuối năm 2006, Google mua lại trang web chia sẻ video trực tuyến YouTube với giá
1,65 tỷ USD bằng cổ phần
Tháng 4/2007, Google đã mua lại hãng quảng cáo DoubleClick với một số tiền khổng
lồ: 3,1 tỷ USD. Hiện công ty này cung cấp các dịch vụ quảng cáo và hỗ trợ kỹ thuật cho nền
tảng AdSense của hãng.
Tháng 7/2007, Google mua lại hãng bảo mật kiêm lưu trữ dữ liệu trực tuyến Postini
trong một thương vụ trị giá 625 triệu USD. Postini cung cấp các dịch vụ điện toán đám mây và
lọc thư rác mà Google đã tích hợp ngay vào Gmail sau khi hoàn tất vụ mua bán.
Tháng 11 năm 2009 Android chính là động lực thúc đẩy thị trường tìm kiếm di động,
nhưng có vẻ vẫn chưa đủ đối với Google. Hãng đã trả 750 triệu USD để mua lại AdMob
Thương vụ gần đây nhất và cũng là tốn kém nhất của Google từ trước tới nay vừa được
công bố tối qua. Motorola hiện là một trong số 39 doanh nghiệp sản xuất dế Android. Với việc
mua lại hãng sản xuất thiết bị di động này, Google hy vọng sẽ tạo ra một cú hích mạnh cho hệ
sinh thái Android.
3.3.2.2. Mua bằng phát minh sáng chế
Tháng 9 năm 2011, Google đã hoàn thành việc mua lại 1000 bằng sáng chế từ IBM và
đến tháng đầu 1/2012 Google tiếp tục hợp tác với IBM bằng cách mua lại 217 bằng sáng chế
liên quan đến ứng dụng nhắn tin tức thời và một số công nghệ di động. Tuy nhiên, chỉ có 188
bằng sáng chế đã được cấp và 29 bằng sáng chế đang chờ được cấp từ IBM.
3.3.2.3. Đầu tư trực tiếp toàn phần
Google đã đầu tư xây dựng 77 văn phòng tại hầu hết các quốc gia trọng điểm sử dụng
Internet trên toàn cầu.
Tháng 9/2011 Google xây trung tâm dữ liệu ở Hồng Kông với số vốn đầu tư hơn 100
triệu USD. Google vừa khởi công xây dựng một trung tâm dữ liệu mới tại Singapore vào tháng
12/2011. Việc làm này của Google nhằm đối phó với sự tăng trưởng bùng nổ của lưu



lượng truy cập Internet khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Vốn đầu tư của Google cho dự án
này là 120 triệu USD. Trung tâm dữ liệu mới nhất của Google đang được xây dựng tại Hamini,
Phần Lan với 260 triệu USD. Điều đặc biệt của trung tâm dữ liệu mới mà Google đang xây
dựng tại Phần Lan là hệ thống làm mát được sử dụng trực tiếp từ nước của biển Baltic. Ngoài
ra, Google cũng sử dụng nguồn năng lượng sạch để duy trì hoạt động cho trung tâm.
Google trong thời gian sắp tới sẽ có một trung tâm phát triển hệ điều hành mã nguồn mở
Android tại Đài Loan, trung tâm này sẽ nghiên cứu phát triển ứng dụng cho thị trường di động,
netbook Châu Á
Giữa tháng 11/2011, đại diện Google đến VN để tham dự Hội thảo quốc tế Việt Nam
– Nhật Bản. Google đã tặng 200 voucher sử dụng dịch vụ quảng cáo trên Google, mỗi voucher
trị giá 75 USD (hơn 1,5 triệu VND). Mặc dù số tiền 300 triệu USD chỉ là tượng trưng nhưng
thấy được phía Google rất quan tâm tới tiềm năng của thị trường VN
Goolge đã đầu tư vào nhiều chương trình. Mặc dù không liên quan trực tiếp đến lĩnh vực
kinh doanh chính nhằm khuyến khích đổi mới trong các lĩnh vực mà Google quan tâm.
3.3.2.4 . Các liên doanh dự án
Năm 2005, Google gia nhập hiệp hội với các công ty và tổ chức chính phủ khác để phát
triển phần mềm và dịch vụ. Google công bố mối cộng tác với NASA Ames Reseach Center,
xây dựng đến 1 triệu phòng chuyên trách và làm việc trong đề án nghiên cứu bao gồm Quản lý
dữ liệu trên diện rộng, công nghệ nano, sắp xếp công việc sử dụng máy tính…
Google cũng tham gia cộng tác với Sun Microsystem để chia sẻ và phân loại các công
nghệ của nhau. Công ty cũng tham gia cộng tác với American Online của Time Warner để cải
tiến dịch vụ video trực tuyến.
Tháng 8 năm 2007, Google đầu tư 900 triệu USD để phục vụ tìm kiếm vào quảng cáo
trên trang mạng xã hội nổi tiếng, Myspace trong vòng 3 tháng
Năm 2007, Google và New Corp’s Fox Interactive Media tham gia vào bản hợp đồng trị
giá 900 triệu USD để phục vụ tìm kiếm vào quảng cáo trên trang mạng xã hội nổi tiếng,
Myspace.
Tại Việt Nam:theo thoả thuận giữa Google và Viettel, Google sẽ đặt 8 server tại
ViệtNam. Đầu năm 2011 Viettel đã hoàn thành việc thực hiện lắp đặt, khai báo để đưa hệ thống
4 server của Google tại Tp.HCM. 4 server còn lại đặt tại Trung tâm dữ liệu ở Hà Nội vào tháng

3/2011. Việc Google đặt server tại Trung tâm Dữ liệu của Viettel sẽ giúp khách hàng sử dụng
dịch vụ ADSL Viettel truy cập các dịch vụ trực tuyến của Google với tốc độ nhanh gấp đôi
thông thường do không phải thực hiện kết nối ra quốc tế
3.3.2.5. Các thỏa thuận hợp tác
Google và Mozilla ký thỏa thuận tìm kiếm vào năm 2006 và khi đó trình duyệt IE có
tích hợp các dịch vụ tìm kiếm của Microsoft đang dẫn đầu thị trường. Lợi ích của Google khi
ký thỏa thuận tìm kiếm với Mozilla là hãng có thể đưa các dịch vụ của Google gắn liền với
Firefox: Firefox mở rộng thị phần sẽ kéo theo cả các dịch vụ của Google cũng phát triển.


×