TÊN GỌI DẠNG ÂU YẾM, TRÌU MẾN CỦA NGƯỜI NGA
TS. Nguyễn Văn Hòa
Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG HN
Tel: 0903492332 - 38715253
Email:
Tóm TắT
Bài viết nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ và văn hóa dân tộc của tên gọi dạng âu yếm, trìu mến
trong tiếng Nga.
Từ khóa: tên gọi âu yếm, tên gọi không chính thức, уменьшительно-ласкательные формы
имен
Tên gọi âu yếm, trìu mến là tên gọi không chính thức, được hình thành nhờ các phương
tiện cấu tạo từ. Nói một cách khác nó là phiên bản tên gọi của cá nhân, có kèm theo tình cảm
của người nói. Thông thường tên gọi dạng này được sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày, trong
không khí thân mật, cởi mở. Để cho việc giao tiếp được dễ dàng giữa những người quen biết
hoặc có mối quan hệ thân thiết thì dạng tên gọi trìu mến được dùng khá phổ biến.
Ví dụ:
Александр - Саша
Александра - Шура
Анастасия - Настя, Ася, Стася
Từ dạng tên riêng trong tiếng Nga được tạo ra một dạng khác biệt: đó là dạng âu yếm,
trìu mến. Khác biệt với tên gọi đầy đủ, chính thức, tên gọi âu yếm, trìu mến mang sắc thái
biểu cảm. Ở dạng này, nó mất đi văn phong trung hòa thường thấy. Việc sử dụng dạng trìu
mến, âu yếm phản ánh rõ nét tình cảm, quan hệ của người nói với đối tượng được đề cập đến.
Tuy nhiên, một số hình thức nhỏ bé mang những sắc thái cảm xúc khác nhau - chê bai hay xúc
phạm. Điều đó có nghĩa là các dạng của tên người cũng biểu thị tính tình thái. Như một quy
tắc, để phù hợp với cách sử dụng dạng giảm nhẹ, trìu mến, âu yếm, thường chỉ sử dụng trong
phạm vi hẹp trong gia đình, bạn bè, người thân, giữa những người có mối quan hệ đặc biệt
thân thiết. Dạng tên gọi này được dùng nhiều trong giao tiếp giữa cha mẹ và con cái.
Những hậu tố khác nhau tham gia vào việc cấu tạo tên gọi âu yếm, thân mật. Đó là hậu
tố -очк-, -ечк-, -оньк-, -еньк-, -ушк-, -юшк-, -юш-, -яш-, -уш-, -ул-, -ун-, -ус-, -к-, -ик ...
Ví dụ: Từ dạng tên đầy đủ là Мария и Марья ta có các dạng tên gọi âu yếm khác nhau như:
Марюня, Маруня, Маруся, Марюша и Марьюшка, Марьяша; và dạng rút gọn của tên gọi
Маша sẽ là Машка, Машенька, Машуля; và dạng rút gọn của tên gọi Маня sẽ là Манечка,
Манюся, Манюша, Маняша... Sự lựa chọn chọn dạng tên gọi cho phù hợp với hoàn cảnh
giao tiếp, hoàn toàn phụ thuộc vào quan hệ, thái độ của người nói, có tính đến sự đa dạng của
các hình thức gọi ngắn gọn và các hậu tố âu yếm, trìu mến. Qua đó người nói có thể lựa chọn
những tên gọi phù hợp với sắc thái tình cảm khác nhau.
Trong hai dạng âu yếm, quý mến là Юрочка và Юрик (cả hai cũng vẫn còn nhỏ bé) từ
Юрочка liên tưởng tới sự nhỏ bé, trẻ thơ, còn từ Юрик dành cho trẻ em, lớn hơn một chút. Ấn
tượng này được củng cố thêm bởi thực tế hậu tố -ик chủ yếu là ở các từ giống đực, còn –очка
có thể có ở cả hai giống. Tất nhiên, các từ có hậu tố -ик có thể được cấu tạo tên của phụ nữ, ví
dụ: Света > Светик, Люся > Люсик, nhưng dạng này tạo cảm giác có tình cảm vui đùa, suồng
sã, được sử dụng cho mục đích biểu cảm thuần túy, mang tính cách con trai của hậu tố -ик
Tên gọi làm giảm nhẹ được hình thành với hậu tố -к mang sắc thái khinh miệt, coi thường,
hạ thấp giá trị như Сашка, Гришка, Светка... Điều này gắn với lịch sử, do truyền thống sử
dụng tên gọi không đầy đủ đã được đề cập (được hình thành bởi hậu tố -к-) để tự hạ mình khi
tiếp xúc với tầng lớp đặc quyền đặc lợi. Tuy nhiên, trong số những người dân thường khi giao
tiếp với những người có cùng địa vị xã hội, bình đẳng như nhau, hình thức tên gọi , như một
quy luật, không có sắc thái như vậy. Ở đây nó cho thấy chỉ có sự đơn giản trong cách xưng hô.
Đó là sự rõ ràng và gần gũi. Tuy nhiên, trong tiếng Nga hiện đại hình thức tên gọi trìu mến
hoặc nhỏ bé như Vaska, Marina, Alka được coi là sắc thái coi thường, hình thức giao tiếp như
vậy là không phù hợp với thực tế văn minh, bình đẳng và tôn trọng trong giao tiếp. Trong một
dạng tên gọi có sử dụng với các hậu tố -к, -очк-, -ечк-, -оньк-, -еньк- (Леночка, Толечка,
Феденька). Việc sử dụng tên riêng như vậy là đặc trưng của tầng lớp trí thức.
―Верочка, Веруша, Веруля! Победа!‖
(Валерий Осипов, Неотправленное письмо)
―Vêrôsca! Ôi Vêrôsca yêu quý! Thắng lợi rồi!‖
(Valeri Osipôp, Bức thư không gửi, Đoàn Tử Huyến dịch)
―Здравствуй, Верочка, милая! Снова привал, снова ночь и костѐр, и мне снова
захотелось поговорить с тобой. Пожалуй, это письмо я привезу тебе зимой сам – раньше
оно не дойдѐт до тебя‖.
(Валерий Осипов, Неотправленное письмо)
―Chào em thân yêu, Vêrôsca! Lại một chặng nghỉ, lại đêm tối và đống lửa, và anh lại muốn
nói cùng em. Có lẽ bức thư này anh sẽ tự mang về cho em khi mùa đông tới – không có cách
nào khác sớm hơn‖.
(Valeri Osipôp, Bức thư không gửi, Đoàn Tử Huyến dịch)
Tên gọi dạng âu yếm, trìu mến với hậu tố -ик được sử dụng trong các phương ngữ truyền
thống của các vùng phía tây của Nga, có thể góp phần vào sự lây lan của ảnh hưởng của tiếng
Ba Lan, được đặc trưng bằng cách cấu tạo tên riêng bởi hậu tố -ек (Зденек, Владек).
Như vậy, tên gọi dưới hình thức âu yếm, trìu mến, không chỉ biểu đạt sắc thái tình cảm,
mà cũng có thể biểu đạt tình trạng xã hội, phẩm chất và tâm lý xã hội của người được gọi tên.
Một trong những truyện ngắn đầu tiên của Mikhail Bulgakov được gọi là ―Lidka‖, trong đó
chứa đựng tính tình thái đặc biệt, kết hợp quan hệ ấm áp với một cô gái và tình trạng xã hội
thấp hèn của con gái nông dân. Nếu như nhân vật nữ cô gái của câu chuyện có nguồn gốc xuất
thân cao hơn, thì tên gọi ―Lidka‖ khó có thể được gọi như vậy.
Ngoài các hình thức trìu mến, âu yếm, trong tiếng Nga còn có cả dạng tên gọi thô lỗ, cục
cằn. Trong cách cấu tạo từ, ở trường hợp này có sự tham gia của các hậu tố mang tính cường
điệu, lỗ mãng như: -х-, -ах-, -ух-, -юх-, -ин-, -ян и другие: Лѐша → Лѐха, Наталья → Натаха,
Мария → Маруха, Настя → Настюха, Толя → Толина, Вася → Васян. Các chỉ số trong mối
quan hệ với tên gọi Вован, Колян и Толян (từ tên gọi Владимир, Николай và Анатолий), kể
từ sau thời kỳ cải tổ vào những năm 90 của thế kỷ trước, được gán cho các nhân vật trong các
câu chuyện tiếu lâm về ―người Nga mới‖. Đó là Вован và ―người anh em‖ Колян và Толян
– những kẻ ―đột nhiên‖ giàu có trong thế giới tội phạm với một nền văn hóa chung vô cùng
thấp kém.
Sự phong phú của tên gọi âu yếm, trìu mến với nhiều màu sắc mang ý nghĩa tình thái,
được tiếp nhận một cách tự nhiên do ảnh hưởng của kiến thức nền, gắn với con người từ thuở
ấu thơ, và không thể tách rời nền văn hóa Xlavơ, và hoàn toàn khó hiểu đối với những người
có xuất xứ ngoài khu vực Xlavơ. Trong các ngôn ngữ của mình, họ không có các tên gọi âu yếm
nhiều như trong tiếng Nga. Ví dụ, trong tiếng Anh, dạng ngắn gọn của tên của Alexander là
Alec, tương tự như tên gọi Алик của tiếng Nga, nhưng hình thái giữa tiếng Anh và tiếng Nga
hoàn toàn không đồng nhất về mặt tu từ. Tên gọi Алик là một dạng các tên gọi phái sinh, cùng
với Саша, Сашка, Сашенька, Шурик, Алька và những tên khác. Mỗi tên gọi chứa đựng các
sắc thái tình cảm và xã hội riêng, mà điều này không thể có trong các ngôn ngữ khác.
Ví dụ: Митя là cách gọi thông thường của tên gọi Дмитрия. Tên gọi Митенька rõ
ràng có vẻ suồng sã hơn, Митюха thì hơi miệt thị, còn Митюша thì nhẹ nhàng, âu yếm, và
Митюшенька thì hết sức trìu mến, thân tình...
Việc bổ sung các hậu tố giảm nghĩa làm thay đổi ý nghĩa của từ, hoặc là về ý nghĩa tu từ,
hoặc là về mặt tình cảm, biểu cảm, thái độ của người nói. Ví dụ, hậu tố -уша: Катюша, Танюша
или Андрюша, có ý nghĩa kép, đôi khi nó dùng để thể hiện tình cảm, sự thân mật, âu yếm, đôi
khi nó lại bị mất đi sự ấm áp của cảm xúc. Như các hậu tố biểu đạt sự thân thương, trìu mến
khác,ví dụ: hậu tố -енька hoặc -очка chẳng hạn, chỉ đơn giản thể hiện sự trìu mến, và trong
trường hợp này biểu hiện cả sự ―quen thuộc, thân mật và suồng sã‖.
―В минуты близости, которые вскоре стали повторяться все чаще, уже называла его
Петрушей и говорила о той ночи как об их общем заветном прошлом‖. (И. Бунин,
Таня)
―Rồitrongnhữngphútgiâygầngũimàchẳngbaolâusauđãlặplạithườngxuyênhơn,nàngbắt
đầu gọi anh là Pet’ruska và nhắc đến cái đêm hôm ấy như một quá khứ thiêng liêng chung của họ‖.
(I. Bunhin, Tanhia. Nguyễn Thị Kim Hiền dịch)
―И вдруг, выехав за деревню и погрузившись уже в подлый мрак, перевел лошадь
на шаг, взял вожжи в левую руку и сжал правой ее плечи в осыпанной холодным мокрым
бисером жакетке, бормоча и смеясь:
- Таня, Танечка...‖
(И. Бунин, Таня)
―Rồi bất ngờ, khi đã ra khỏi làng và chìm hẳn vào màn đêm tối đen như mực, anh cho
ngựa bước chậm lại, cầm cương bằng tay trái và dùng tay phải ôm chặt bờ vai khoác chiếc gilê
phủ đầy những hạt sương lạnh buốt của nàng, vừa cười vừa thì thào: - Tanhia, Tanhiechka...‖
(I. Bunhin, Tanhia. Nguyễn Thị Kim Hiền dịch)
Sự âu yếm, trìu mến là một phạm trù tình cảm đặc biệt, dùng để thể hiện thái độ, cảm
xúc của người nói với các đối tượng khác nhau, và các mối quan hệ khác. Một loạt các hậu tố
âu yếm, trìu mến có thể được thêm vào cả hai dạng thân từ: đầy đủ và ngắn gọn: Екатерина –
Катюшка – Катенька – Катя, Иван – Иванушка – Ивашка. Việc sử dụng các hậu tố này thể
hiện sự tôn trọng đối với những người khác, nó diễn đạt sự lịch thiệp, tế nhị, nó bày tỏ sự thiện
cảm, lòng tốt và tình yêu.
―На потолке этот белый отсвет, а в углу дрожит, гудит и постукивает втягиваемая
разгорающимся огнем заслонка печки - как хорошо, он спал, ничего не слыхал, а
Таня, Танечка, верная, любимая,растворила ставни, потом тихо вошла в валенках, вся
холодная, в снегу на плечах и на голове, закутанной пеньковым платком, и, став на
колени, затопила‖.
(И. Бунин, Таня)
―Một ngọn lửa uốn éo reo tí tách trong lò sưởi - thì ra trong lúc anh say sưa ngủ và không
nghe thấy gì thì Tanhia, nàng Tanhiechka yêu thương và tận tuỵ của anh, chân đi ủng dạ, tuyết
rắc dầy trên vai, trên mái đầu quấn chiếc khăn san Penkop đã vào phòng quỳ gối nhóm lò‖.
(I. Bunhin, Tanhia. Nguyễn Thị Kim Hiền dịch)
Ngoài các hậu tố thể hiện sự quý mến, âu yếm, Суперанская А.В. làm nổi bật một số hình
thức với hậu tố «đánh giá chủ quan». Từ tên gọi Юрий – Юра, có thể bổ sung các hậu tố tùy
thuộc vào mối quan hệ, hoặc tình cảm với người này:
- Nhỏ bé - Юрик
- Thân quen / suồng sã - Юрка
- Trêu chọc - Юрище
- Miệt thị, nghĩa xấu - Юришка
- Khinh miệt, coi thường - Юрище
Tên gọi trìu mến, âu yếm dùng để thể hiện tình cảm, mối quan hệ thân mật, sự thiện
cảm, tình yêu và tình bạn. Các hậu tố sau thường dùng để diễn đạt những tình cảm này: -очка
(-ечка), -онька (-енька), -ушка, -урка, -утка (Верочка, Юлечка, Коленька, Мишутка,
Дашутка, Темочка).
Để tạo nên các hình thức giảm nghĩa, trìu mến khi gọi tên người, thường sử dụng bằng
cách thêm các hậu tố để hình thành hoàn chỉnh hoặc cắt ngắn của tên riêng, ví dụ: Антон —
Антоша, Антошка, Антошенька, Людмила - Люда, Людочка, Людаша, Павел — Павлик,
Павлуша, Павлуня.
Trong mô hình này phổ biến nhất là các hậu tố giảm nghĩa âu yếm sau -к, -еньк, -ушк,
-юшк, -очк, -ечк. Ví dụ, hình thức đầy đủ của tên Мария và Марья, cấu tạo nên Маруся,
Маруня, Марьяша Марюня, Марюша và Марьюшка,; từ tên gọi ngắn gọn Маша - Машка,
Машенька, Машуня, Машута, Машуля; dạng ngắn gọn: Маня - Манечка, Манюся, Маняша ...
Song song với việc sử dụng những hậu tố trìu mến, còn có thể sử dụng các hậu tố thân
mật, suồng sã như: Максим - Максимец, Тимофей - Тимоха, Дмитрий - Димон.
Có thể sử dụng hình thức rút gọn tên riêng như: Артѐм - Тѐма, Геракл - Гера, Михаил Миша. Trong thập kỷ qua, do ảnh hưởng của các hình thức giao lưu phương Tây, phương
thức này ngày càng phổ biến: Александр - Алекс, Максим - Макс.
Do đó, một hình thức giảm nghĩa-âu yếm tên riêng của người, không chỉ đề cập đến tên
gọi, được hình thành bằng cách thêm các hậu tố của loại hình này, mà còn có thể được sử dụng
như cách thể hiện tình cảm, thái độ của người với người trong giao tiếp.
Khi mô tả nguồn gốc biểu cảm tên gọi của người Nga, Анна Вежбицкая đã nhận xét
rằng ―trong truyền thống văn hóa Nga, mức độ gần gũi của mối quan hệ cá nhân có một vai
trò rất quan trọng‖.
Việc lựa chọn một hình thức này hay hình thức khác của tên riêng, được quy định bởi
tình cảm, cảm xúc trong mối quan hệ của người nói với các đối tượng. Tên gọi trìu mến, âu
yếm, được sử dụng để biểu thị các sắc thái tình cảm với các hình thức tên gọi ngắn và các hậu
tố khác nhau.
Đối với nhiều tên gọi, đặc biệt là những tên gọi có thân từ ngắn, kết thúc bằng một phụ
âm cứng, để cấu tạo các hình thức phổ biến nhất, thường sử dụng các hậu tố trìu mến như:
-очка: Людочка, Юрочка, Любочка. Ý nghĩa cơ bản của các hậu tố trìu mến, là truyền tải một
tình cảm ấm áp, thân mật đến người nhận.
Hậu tố -енька trong nhiều hình thái tên của người Nga, đóng vai trò vừa là cấu trúc, vừa
là chức năng như các hậu tố -очка: Мишенька, Коленька. Vì vậy, những cái tên có tận cùng
là -очка và -енька thường có một mức độ ngữ dụng.
Hậu tố -енок và -еныш (ví dụ, Катенок, Клареныш mang sắc thái vui tươi, trêu chọc,
lại vừa thể hiện sự dịu dàng và thái độ kẻ cả của người nói.
Tên có tận cùng là -уша như: Веруша, Андрюша, Павлуша ... có một bản chất kép, có
nghĩa là đôi khi là tình cảm trìu mến, thân thiết, và đôi khi không là tình cảm đó, tùy thuộc vào
phạm vi của người sử dụng nó.
―Однажды я получаю от Лили письмо. Она называет меня «милый» и подписывается:
«Твоя старая, старая знакомая Лилька‖.
(Юрий Казаков, Голубое и Зелѐное)
―Một lần tôi nhận được thư của Li-li-a. Cô gọi tôi là ―thân yêu‖ và dưới chữ ký tên:
―Người quen cũ xưa của anh, Lin-ca‖.
(I-u-ri Ca-da-côp, Những ô cửa sổ màu xanh. Đoàn Tử Huyến dịch)
Như vậy, tên gọi ở dạng âu yếm, có thể không chỉ mang các sắc thái tình cảm khác nhau,
mà nó còn được dùng để chỉ ra địa vị xã hội hoặc đặc điểm tâm lý-xã hội của người mang tên
đó. Hình thức âu yếm, trìu mến trong tên gọi, thường được sử dụng trong phạn vi gia đình,
người thân hoặc giữa những người đã thiết lập một tình cảm nhất định, sự thiện cảm và tình
bạn. Ngoài ra còn có trường hợp tên riêng, giống như hình thức của tên người, lại mang sắc
thái tình cảm khác nhau, tùy thuộc vào phạm vi sử dụng. Ví dụ, tên Андрюша, sử dụng trong
phạm vi gia đình, mang ý nghĩa thân mật và ấm áp giữa những bạn bè, đồng nghiệp, có thể
trở nên trung tính và được dùng trong xưng hô không chính thức.
Việc hình thành các hậu tố đánh giá mang tính chủ quan mang tính đặc thù của văn
phong hội thoại, tràn đầy màu sắc biểu cảm. Hình thức giảm nhẹ nghĩa, âu yếm, trìu mến nhỏ
bé thường được sử dụng để biểu đạt những mối quan hệ thân thiết, gần gũi.
Hiện tượng các từ giảm nghĩa hay mang nghĩa nhỏ bé, giảm nhẹ kích cỡ, khối lượng...
trong tiếng Nga hoặc là hình thức biểu cảm, đã được nhiều nhà ngôn ngữ quan tâm nghiên
cứu, nhưng còn nhiều vấn đề vẫn chưa rõ ràng. Một số nhà ngôn ngữ học xếp các từ này vào
lớp từ riêng biệt, trong khi những người khác cho rằng nó chỉ là các hình thái của một từ trung
tính. Mỗi quan điểm đều có những bằng chứng chứng minh cho sự đúng đắn của mình. Cho
đến nay chưa có câu trả lời duy nhất, hầu hết có xu hướng nghĩ rằng lớp từ này được phái sinh
của một từ, bởi vì chúng được hình thành một cách khá thường xuyên. Trong quá khứ đã có
những mối quan hệ chặt chẽ giữa phạm trù giảm nghĩa với các phạm trù biểu cảm.
Sự đa dạng của các sắc thái tình cảm, truyền đạt được rất nhiều cảm xúc, thái độ khác
nhau, được hình thành với sự trợ giúp của các hậu tố mang nghĩa âu yếm, trìu mến trong tiếng
Nga, là sự phản ánh của ngôn ngữ và bản sắc văn hóa của người Nga.
T ài L i ệu TH A m K H
ảo
1.
Арутюнова Н.Д. (1999) Язык и мир человека. – М: «Язык русской культуры» – 896 с.
2.
Вежбицкая А. (1996) Язык. Культура. Познание. Москва: Русские словари.
3.
Воротников, Ю.Л. (1988) Милое и малое // Русский язык в школе № 6, с. 62-66.
4.
Голуб И.Б. (1976) Стилистика современного русского языка. Москва: Высшая школа.
5.
Кожина М. Н. (1993) Стилистика русского языка. Москва: Просвещение.
6.
Лосев А.Ф. (1976) Проблема символа и реалистическое искусство. – М.: Искусство –
367 с.
7.
Лукьянова
Н.А. (1986) Экспрессивная лексика разговорного употребления.
Новосибирск. Наука.
8.
Суперанская А.В. (2010) О русских именах. M., Изд. «Азбука», «Авалонъ».