Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị ở Việt Nam thời Lý - Trần ( 1009 - 1400) : Luận văn ThS. Khoa học chính trị: 60 31 20

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (986.39 KB, 87 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ TÂM

VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO
TRONG ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ
Ở VIỆT NAM THỜI LÝ - TRẦN (1009-1400)

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ TÂM

VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO
TRONG ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ
Ở VIỆT NAM THỜI LÝ - TRẦN (1009-1400)

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.20

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Hồng Tung

Hà Nội - 2012


1


LỜI CAM ĐOAN!
Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình khoa học của riêng tôi.
Các tài liệu, số liệu được sử dụng trong luận văn hoàn toàn trung thực,
khách quan, khoa học và có xuất xứ rõ ràng. Nếu không đúng sự thật tôi xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 5 năm 2012
Nguyễn Thị Tâm

2


MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC

1

MỞ ĐẦU

3

Chương 1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CHO SỰ PHÁT

9

TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM THỜI LÝ – TRẦN

(1009-1400)
1.1. Khái lược về sự ra đời của Phật giáo và quá trình Phật giáo

9

du nhập vào Việt Nam
1.1.1. Khái lược về sự ra đời của Phật giáo

9

1.1.2. Quá trình Phật giáo du nhập vào Việt Nam

11

1.2. Những tiền đề kinh tế, chính trị, xã hội và tư tưởng cho sự

14

phát triển Phật giáo ở Việt Nam
1.2.1. Những tiền đề kinh tế và chính trị

14

1.2.2. Những tiền đề xã hội và tư tưởng

20

Chương 2. PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ Ở

26


VIỆT NAM THỜI LÝ – TRẦN (1009-1400)
2.1. Phật giáo trong triết lý chính trị quân chủ ở Việt Nam thời

26

Lý – Trần
2.1.1. Bối cảnh chính trị và vai trò của Phật giáo trong quá

26

trình kiến tạo triều Lý
2.1.1.1. Bối cảnh chính trị - xã hội

26

2.1.1.2. Phật giáo và sự khởi lập vương triều Lý

27

2.1.1.3. Chính sách ủng hộ Phật giáo của hai triều đại Lý

30

– Trần
2.1.2. Xây dựng mô hình tập quyền thân dân thời Lý – Trần
2.2. Phật giáo với vấn đề đào tạo quan lại thời Lý – Trần

3


36
41


2.3. Phật giáo trong văn hóa chính trị thời Lý – Trần
2.3.1. Mối quan hệ tương hỗ giữa triều đình và nhà chùa
2.3.1.1. Phật giáo góp phần định hình tư tưởng trị nước

49
49
49

của các vị vua
2.3.1.2. Phật giáo góp phần tu chỉnh đạo làm vua

52

2.3.1.3. Sự tác động trở lại của triều đình tới nhà chùa

55

2.3.2. Phật giáo tạo ra sự đồng thuận cao trong xã hội Lý – Trần

60

KẾT LUẬN

63

TÀI LIỆU THAM KHẢO


65

PHỤ LỤC

71

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thực tiễn lịch sử bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã
chứng minh rằng, để trường tồn trên mảnh đất đầy hiểm họa xâm lăng và có
nguy cơ bị đồng hóa, ông cha ta đã biết dựa vào sức mạnh tổng hợp của dân
tộc để thực hiện quyền độc lập, tự chủ của mình, một yếu tố quan trọng làm
nên sức mạnh tổng hợp đó chính là bản sắc văn hóa, giá trị tinh thần của dân
tộc ta, trong đó có tôn giáo.
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo và điều đặc biệt là các tôn giáo lớn
trên thế giới đều có mặt ở Việt Nam, cùng tồn tại, tương tác, giao thoa với
nhau, trở thành bệ đỡ tâm linh của người Việt. Trong đó, Phật giáo đã để lại
cho dân tộc ta nhiều dấu ấn, có thể thấy từ tín ngưỡng cho đến văn hoá, phong
tục tập quán, từ thế giới quan đến nhân sinh quan, từ tư tưởng đến tình cảm
đến sự ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống chính trị.
Tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều tư liệu viết về Phật giáo và
vai trò Phật giáo trong lịch sử dân tộc, nhưng còn ít những công trình nghiên
cứu về vai trò của Phật giáo trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, đặc biệt là rất
ít những tư liệu, công trình nghiên cứu viết về vai trò của Phật giáo trong đời
sống chính trị thời Lý – Trần, một trong những giai đoạn lịch sử hào hùng và
oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Mặt khác giai đoạn Lý – Trần cũng là giai

đoạn cực thịnh trong lịch sử phát triển của Phật giáo, vì thời kỳ này triều đình
rất quan tâm và tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển.
Với mong muốn được góp phần, dù nhỏ bé vào giai đoạn lịch sử đầy ý
nghĩa này của Phật giáo, nên chúng tôi chọn viết luận văn thạc sĩ với đề tài:
“Vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị ở Việt Nam thời Lý - Trần
1009-1400”.

5


2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ta từ xưa cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về tôn
giáo nói chung và Phật giáo nói riêng. Khảo cứu tình hình nghiên cứu ở Việt
Nam chúng tôi tạm chia thành hai khuynh hướng nghiên cứu như sau:
Thứ nhất là khuynh hướng nghiên cứu dưới góc độ lịch sử, tài liệu cổ
nhất có liên quan đến Phật giáo thời Lý – Trần là cuốn sách “Thiền uyển tập
anh”. Đây là tài liệu ghi chép lại những hành trạng của các thiền sư nổi tiếng
trong vườn thiền Việt Nam từ cuối thế kỷ thứ VI đến thế kỷ XII. Kế đến là
các cuốn sách như: “Thiền uyển Truyền đăng lục”, “Tam tổ thực lục” được
biên tập vào những năm Cảnh Hưng thứ 11 (1750) và thứ 16 (1765). Trong
các cuốn sách này chủ yếu ghi về cuộc đời của các Phật Hoàng như: Trần
Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông và Minh Tông hoặc kể về sự
hành đạo của ba vị tổ thiền phái Trúc Lâm.
Trong số các bộ sử biên niên Việt Nam, Đại Việt sử ký toàn thư là bộ
sử có giá trị, được khắc in lần đầu tiên vào năm 1697, gắn liền với tên tuổi
của những nhà sử học nổi tiếng như Ngô Sĩ Liên, Phạm Công Trứ, Lê Hy. Có
thế nói đây là nguồn sử liệu quan trọng để nghiên cứu tiến trình lịch sử dân
tộc Việt Nam từ khởi nguyên đến hậu Lê nói chung và Phật giáo nói riêng.
Hầu như tất cả các học giả sau này đều coi đây là tư liệu gốc cho việc nghiên
cứu tư tưởng chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, quân sự và tôn giáo của

các triều đại phong kiến Việt Nam. Bên cạnh đó còn có các bộ sử cũ cũng
được coi là những nguồn sử liệu quý báu, có giá trị tham khảo cao như: Việt
sử lược của một số tác giả đời Trần, An Nam chí lược của Lê Tắc, Lịch triều
hiến chương loại chí của Phan Huy Chú… Đây là một trong những nguồn
thông tin quan trọng nhất mà luận án này sử dụng.
Từ những năm 40 của thế kỷ XX đến nay đã có những tác phẩm có giá
trị nghiên cứu Phật giáo Việt Nam về mặt lịch sử tư tưởng như: “Phật giáo
Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ XIII” của Trần Văn Giáp, “Việt Nam
6


Phật giáo sử lược” của Thượng tọa Thích Mật Thể, bộ sách 3 tập của học giả
Nguyễn Lang “Việt Nam Phật giáo sử luận”. Bộ sách “Việt Nam Phật giáo sử
luận” của Nguyễn Lang như cái mốc quan trọng trong làng nghiên cứu Phật
giáo Việt Nam. Ông đã chọn cho mình một phương thức tiếp cận mới để xử lý
những tài liệu lịch sử, cố gắng làm chúng sống dậy và biểu lộ như đúng bản
thân vốn có của nó. Một số vấn đề có liên quan đến Lịch sử Phật giáo Việt
Nam cũng được khảo cứu và bàn luận trong quyển I của bộ sách lịch sử: Sự
phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế ký XIX đến cách mạng tháng Tám của
Giáo sư Trần Văn Giàu, xuất bản năm 1973.
Nói về sự tác động qua lại giữa chính quyền với tôn giáo thời Lý không
thế không nhắc tới tác phẩm Lý Thường Kiệt – Lịch sử ngoại giao và tôn giáo
triều Lý của Hoàng Xuân Hãn, xuất bản năm 1941 và được chỉnh lý tái bản
nhiều lần. Tuy tác phẩm tập trung nghiên cứu về đường lối ngoại giao và tôn
giáo triều Lý, nhưng toàn bộ xã hội thời Lý và cuộc chiến chống Tống đã
được tái hiện một cách chân thực và sinh động.
Trong những năm gần đây, có hai cuốn sách đáng lưu ý do tập thể tác
giả có uy tín và đã nhiều năm nghiên cứu lĩnh vực này như: GS. Hà Văn Tấn,
PGS. Nguyễn Tài Thư, Minh Chi “Lịch sử phật giáo Việt Nam”; Nguyễn Tài
Thư, Hà Văn Tấn, Nguyễn Đức Sự, Phan Đại Doãn “Lịch sử tư tưởng Việt

Nam”. Những công trình nghiên cứu đã để lại nhiều điều bổ ích về lịch sử
Phật giáo, lịch sử tư tưởng Việt Nam. Đặc biệt là cuốn sách “Lịch sử Phật
giáo Việt Nam” của PGS Nguyễn Tài Thư, đã mang lại một phương pháp
nghiên cứu khoa học về một đề tài đã được bàn đến nhiều trong lịch sử. Vận
dụng kết quả của khoa học hiện đại, các tác giả đã tìm ra được kết cấu hợp lý
cho bức tranh sống động của lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Ngoài ra cũng phải kể đến cuốn “Những đặc trưng cơ bản của bộ máy
quản lý đất nước và hệ thống chính trị nước ta thời kỳ trước đổi mới” của GS.
TSKH Vũ Minh Giang chủ biên. Trên cơ sở tái hiện lại tiến trình lịch sử
7


khách quan, cuốn sách giúp người đọc nhận thức những đặc trưng cơ bản của
thiết chế chính trị ở từng giai đoạn và chỉ ra những đặc trưng xuyên suốt của
các thiết chế và hệ thống chính trị ở nước ta trước đổi mới, góp phần đưa ra
những luận cứ khoa học cho việc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống
chính trị ở nước ta hiện nay.
Thứ hai là khuynh hướng nghiên cứu dưới góc độ văn hóa, văn hóa
chính trị và tôn giáo phải kể đến chuyên luận “Văn hóa chính trị và lịch sử
dưới góc nhìn văn hóa chính trị” của PGS.TS. Phạm Hồng Tung, đã đưa ra
một cách tiếp cận mới theo góc độ văn hóa chính trị nhằm nhận diện, khám
phá, phân tích một số sự kiện, quá trình lịch sử và văn hóa chính trị Việt Nam.
Đồng thời chuyên luận còn làm sáng tỏ một số khái niệm công cụ cơ bản của
môn nghiên cứu văn hóa chính trị.
Tiếp đến là cuốn sách do tập thể của các nhà nghiên cứu Viện Sử học
và Viện Văn học như cuốn: “Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần” đã
xem xét một cách tổng thể các mặt của đời sống xã hội đời Trần như chế độ
sở hữu ruộng đất, chế độ chính trị, tổ chức nhà nước, văn hóa tư tưởng thời
Đại Việt. Đặc biệt là những bài viết về tư tưởng, tôn giáo thời Lý – Trần của
Nguyễn Đức Sự, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Duy Hinh, đã vạch ra cơ sở xã

hội, cơ sở tư tưởng của Phật giáo Lý – Trần và ảnh hưởng của nó tới đời sống
tinh thần xã hội.
Ngoài ra còn rất nhiều công trình nghiên cứu về Phật giáo dưới góc độ
triết học, mỹ thuật của những học giả trong và ngoài nước. Những công trình
nghiên cứu ở trên ít nhiều có đề cập đến Phật giáo và vai trò của Phật giáo
trong đời sống chính trị quân chủ thời Lý – Trần nhưng chưa đầy đủ và hệ
thống. Như vậy, cho đến nay thì rất ít những công trình nghiên cứu về Phật
giáo mà lại tiếp cập dưới góc độ khoa học chính trị. Đây là một khoảng trống
để tác giả của luận văn, các nhà nghiên cứu, thầy cô giáo và các bạn đồng
nghiệp quan tâm, đi sâu vào tìm hiểu.
8


3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn làm rõ 3 vai trò chính trị của Phật giáo: 1. Phật giáo trong tư
tưởng chính trị thời Lý – Trần; 2. Phật giáo trong vai trò đào tạo đội ngũ quan
lại; 3. Vai trò của Phật giáo trong văn hóa chính trị
Đối tượng nghiên cứu:
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, nên chúng tôi đặt đối tượng nghiên
cứu trong khung cảnh vai trò của Phật giáo trong đời sống chính trị ở Việt
Nam thời Lý – Trần. Luận văn chỉ đề cập đến vấn đề giáo lý, tổ chức giáo hội,
ma thuật, lời sấm truyền…khi cần làm rõ đối tượng nghiên cứu.
Về phạm vi nghiên cứu:
Trải qua hai triều đại: Triều Lý (1009-1225), triều Trần (1226-1400).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
- Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn này chúng tôi đã sử dụng các nhóm phương

pháp nghiên cứu:
1). Hệ thống các phương pháp nghiên cứu của khoa học Lịch sử bao
gồm phương pháp đồng đại và lịch đại.
2). Hệ thống các phương pháp nghiên cứu liên ngành của khoa học
chính trị như: phương pháp lôgic, phân tích, tổng hợp, so sánh.
3). Một số cách tiếp cận đặc thù như: Thứ nhất, coi tôn giáo Phật giáo
như một thực thể tâm linh. Thứ hai, thông tin chính trị được mã hóa dưới khía
cạnh Phật giáo thông qua những câu kinh kệ, những lời sấm truyền… Thứ ba,
đặt Phật giáo trong văn hóa chính trị và lịch sử. Thứ tư, coi giáo lý của Phật

9


giáo như một cầu nối giữa triều đình với nhân dân, giữa triều đình với nhà
chùa và ngược lại.
5. Đóng góp và ý nghĩa của Luận văn
- Nội dung nghiên cứu của luận văn đã góp phần làm sáng tỏ vai trò
chính trị của Phật giáo trong đời sống chính trị thời Lý - Trần một cách hệ
thống và kết quả nghiên cứu chỉ ra vai trò và ảnh hưởng của Phật giáo trong
xã hội đương thời trên các phương diện tư tưởng chính trị, văn hoá chính trị
và xã hội. Trong đó nổi bật là vai trò lãnh đạo của các minh quân, cũng như
vai trò của các vị quốc sư trong quá trình hình thành nên hệ tư tưởng chủ đạo
của các bậc quân vương cũng như quần chúng.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên chuyên ngành
chính trị học, lịch sử, triết học...
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn gồm hai chương:

Chương 1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CHO SỰ PHÁT
TRIỂN PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM THỜI LÝ – TRẦN (1009-1400)


Chương 2. PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ Ở
VIỆT NAM THỜI LÝ – TRẦN (1009 – 1400)

10


Chương 1
NHỮNG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CHO SỰ PHÁT TRIỂN
PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM THỜI LÝ – TRẦN (1009-1400)

1.1. Khái lược về sự ra đời của Phật giáo và quá trình Phật
giáo du nhập vào Việt Nam
1.1.1. Khái lược về sự ra đời của Phật giáo
Phật giáo là một hệ thống tư tưởng triết học cổ đại, một tôn giáo lớn
của thế giới, phát nguyên từ một Vương quốc nhỏ ở lục địa Ấn Độ dưới chân
dải Hy Mã Lạp Sơn, phía Bắc Hồng Hà vào thế kỷ thứ VI TCN, cùng thời với
Khổng giáo và Lão giáo ở Trung Quốc.
Phật giáo ra đời sau khi ở Ấn Độ tư tưởng Triết học được phát triển vài
trăm năm. Trước khi Phật giáo ra đời tư tưởng phổ biến ở Ấn Độ là phiếm
thần giáo: vạn vật cái gì cũng có thần cách, cũng là hình thức biểu hiện của
Brahma và do Brahma sinh ra, cuối cùng cũng trở về Brahma. Con người
thuộc vạn vật, tất cả chẳng qua là hình thức tồn tại của Brahma, sinh từ
Brahma, khi chết trở về Brahma.
Ấn Độ là một quốc gia có nền văn minh sớm nhưng có sự phân hoá
đẳng cấp khắc nghiệt, cả xã hội có 4 đẳng cấp: đẳng cấp Brahma - nhóm
người có học thuật, cầm quyền tôn giáo; đẳng cấp ksatrya - nhóm vua chúa,
cầm quyền cai trị; đẳng cấp Vaysia - tầng lớp công thương và đẳng cấp sudra
- hạng cùng khổ bị mọi đẳng cấp khác khinh miệt, xem là dơ bẩn, chỉ được
làm tớ, không được làm bất cứ việc gì có quyền thế. Xã hội loạn lạc liên

miên, không có sự bình đẳng, khốn cùng tràn ngập khắp nơi, áp bức vô cùng
nặng nề. Ngay cả đẳng cấp Bà La Môn cũng bị lay chuyển tới tận gốc rễ. Con
người, kẻ thì tu luyện khắc khổ, kẻ khác lao vào khoái lạc xác thịt. Phật giáo
ra đời trong tiền đề tư tưởng và điều kiện xã hội đó.

11


Người sáng lập Phật giáo tên là Tất Đạt Đa (Siddhartha) họ là Gôtama,
là thái tử của vua Tịnh Phạn, sinh ở kinh thành Kapilavastu. Lúc tuổi còn trẻ
Ngài đã có ý xuất gia. Sau bốn lượt dạo chơi ngoài bốn cửa thành, mắt được
thấy nỗi khổ của con người, Ngài quyết định từ bỏ cuộc đời vương bá để theo
thầy học đạo.
Sáu năm ròng Tất Đạt Đa tu khổ hạnh. Rồi Tất Đạt Đa nhận thấy cách
tu khổ hạnh, cực đoan đó không đem lại Giác. Ông nhận thấy cần có thân thể
khoẻ mạnh mới đủ sức, duy trì tìm ra chân lý. Ông bèn xuống sông tắm và
uống sữa bò, rồi xin một bó cỏ cát tường đến ngồi dưới gốc cây tất bà la (sau
này gọi là cây bồ đề). Tất Đà Đa phát nguyện nhập thiền cho đến bao giờ giác
mới đứng dậy. Tương truyền sau 49 ngày đêm thì Tất Đạt Đa đại Giác vào lúc
nửa đêm. Giáo pháp mà Đức Phật chứng ngộ đã được Ngài thuyết giảng trong
suốt 49 năm.
Tôn giáo mới gắn liền với tên tuổi của người hình thành và dần dần lan
rộng ra nhiều vùng Ấn Độ đương thời. Người đời gọi đó là đạo Phật (giác
ngộ).
Sinh thời Thích Ca không viết sách. Người chỉ bàn luận với học trò
bằng lời nói của mình. Về sau những đệ tử thuộc nhiều thế hệ khác nhau đã
biên tập lại thành những Kinh, Luật và truyền bá lại cho đời sau.
Sau khi Phật Thích Ca mất, Phật giáo dần dần chia thành nhiều tông
phái, trong đó nổi lên là hai tông phái lớn: Tiểu thừa (Hynayàna) và Đại Thừa
(Mahayàna). Tông phái tiểu thừa phát triển ở miền Nam Ấn Độ và truyền

sang các nước Sơrilanca, Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào...còn gọi là
Phật giáo Nam phương. Tông phái Đại thừa phát triển ở Miền Bắc Ấn Độ và
truyền sang các nước Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản...còn gọi là Phật giáo
Bắc phương.

12


1.1.2. Quá trình Phật giáo du nhập vào Việt Nam
Đạo Phật được truyền vào Việt Nam khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch.
Tài liệu chắc chắn cho ta biết rằng vào bán hạ thế kỷ thứ hai, tại nước ta đã có
một trung tâm Phật giáo phồn vinh và quan trọng rồi, nhưng có thể Đạo phật
đã du nhập vào nước ta trong thế kỷ đầu của kỷ nguyên. Các tài liệu như Hán
Hậu Thư trong đó có câu truyện Sở Vương Anh theo Phật giáo, sách Lý hoặc
Luận của Mâu Tử viết tại Việt Nam vào bán hạ thứ hai, Kinh Tứ Thập Nhị
Chương và một số tài liệu khác cho ta thấy trong đời Hậu Hán ngoài hai trung
tâm Phật giáo ở Trung Hoa là Lạc Dương và Bành Thành ở nước ta còn có
trung tâm Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) [30, Tr. 23].
Qua sử liệu, ta có thể khẳng định Phật giáo truyền vào Việt Nam bằng
hai con đường: Một là, con đường biển từ phương Nam Ấn Độ trực tiếp
truyền sang; Hai là, con đường bộ từ phương Bắc truyền xuống. Bằng con
đường biển từ phương Nam, Phật giáo truyền vào Việt Nam rất sớm và sớm
hơn bằng con đường bộ từ phương Bắc truyền xuống. Theo nhà nghiên cứu
Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận, (tập 1), thì hồi ấy, các tu sĩ
đi theo thuyền buôn Ấn Độ là những người đầu tiên truyền đạo Phật vào nước
ta với tín ngưỡng đơn sơ: thờ Phật, đốt trầm, tụng kinh, chữa bệnh, trừ tà và
bày phép cúng dường, bố thí cho dân bản địa cùng truyền pháp Tam quy Ngũ
giới cho cư dân ở đây chứ chưa có sự truyền giảng kinh điển gì.
Tiếp theo, Phật giáo với hệ thống kinh điển đại thừa mang tính Thiền
học của Phật giáo vùng Nam Ấn đã truyền vào Việt Nam. Cũng theo Nguyễn

Lang và các nhà nghiên cứu Phật giáo thì Nam Ấn là vùng đầu tiên dùng kinh
văn hệ Bát nhã (Prajna) như Kim Cương, Tượng đầu tịnh xá, Bát thiên tụng
Bát nhã, Bát nhã tâm kinh, Bát nhã ba la mật, Đại bát Niết bàn v.v… Chẳng
hạn, kinh Kim Cương là một cuốn kinh Đại thừa Phật giáo thuộc kinh văn hệ
Bát nhã phổ biến và có vị trí quan trọng trong Phật giáo, trong Thiền giới
13


Trung Quốc, Việt Nam. Nhờ bộ kinh này mà Lục tổ Huệ Năng ở Trung Quốc,
nhà vua - thiền sư Trần Thái Tông ở Việt Nam đã đắc pháp, ngộ đạo khi đọc
đến câu Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm mà Huệ Năng có ghi lại trong Pháp
bảo đàn kinh và Trần Thái Tông có viết trong Thiền tông chỉ nam tự. Nhờ hệ
thống kinh văn hệ Bát nhã mà thế kỷ thứ II sau Công nguyên, Long Thọ Bồ
Tát (Nagarjãna) đã viết bộ Trung Quán luận nổi tiếng với tư tưởng Vô trụ,
Siêu việt hữu vô, Chân không. Bộ luận này đã có ảnh hưởng sâu rộng trong
Thiền giới ở Trung Quốc và Việt Nam. Tư tưởng Chân không của bộ luận
cũng chính là chủ đề của bộ kinh Bát thiên tụng Bát nhã mà Khương Tăng
Hội đã dịch ở nước ta vào thế kỷ thứ III. Các nhà nghiên cứu còn cho rằng
đây là bộ kinh văn hệ Bát nhã xuất hiện xưa nhất ở Việt Nam.
Tư tưởng Phật giáo Đại thừa ở Việt Nam cũng đã có trước đó với tác
phẩm Lý hoặc luận của Mâu Tử ở thế kỷ thứ II. Tiếp đến là một loạt tác phẩm
dịch, chú sớ, đề tựa của nhiều nhà Phật học đều là những bộ kinh thuộc hệ
thống Thiền học Đại thừa như An ban thủ ý kinh bàn về phép thiền quán sổ
tức (phép đếm hơi thở) do Khương Tăng Hội dịch, chú sớ; Pháp hoa tam
muội kinh do Cương Lương Lâu Chí và Đạo Thanh dịch. Bấy nhiêu cũng đủ
khẳng định ở thời kỳ đầu, Phật giáo truyền vào nước ta chủ yếu là Phật giáo
Đại thừa với khuynh hướng Thiền học và kinh điển chủ yếu là kinh văn hệ
Bát nhã xuất hiện ở Nam Ấn. Để đến thế kỷ thứ IV, V tại Giao Châu, Thiền
học Đại thừa cũng đã được phát triển với các bậc danh tăng như Huệ Thắng,
Đạo Thiền… và các vị này còn truyền bá Thiền học Đại thừa sang tận Trung

Quốc, trước khi tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi sang Việt Nam truyền dòng Thiền đầu
tiên.
Từ khi ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi đem dòng Thiền của mình truyền sang
nước ta vào thế kỷ thứ VI, thì Phật giáo Việt Nam bấy giờ lại có thêm một
mối giao lưu - tiếp biến khác đó là Phật giáo Thiền tông từ Ấn Độ sang Trung
14


Quốc rồi truyền đến Việt Nam với hệ thống kinh Đại thừa thuộc văn hệ Bát
nhã nhấn mạnh tư tưởng Vô trụ, Siêu việt hữu vô. Tuy Tỳ Ni Đa Lưu Chi đắc
pháp với tổ thứ 3 Tăng Xán của dòng Thiền Bồ Đề Đạt Ma ở Trung Quốc
nhưng Tỳ Ni Đa Lưu Chi lại ít chịu ảnh hưởng Thiền học của thầy mình mà
lại chịu ảnh hưởng Phật giáo Thiền ở Ấn Độ bấy giờ. Lúc này, Phật giáo Mật
tông Ấn Độ và Tây Tạng đã phát triển mạnh. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn
Lang thì Mật giáo (Mật tông) là giai đoạn phát triển thứ ba của lịch sử Phật
giáo Đại thừa Ấn Độ (giai đoạn thứ nhất là Bát nhã, giai đoạn thứ hai là Duy
thức). Giáo lý và thực hành của Mật tông có nét gần gũi tương đồng với Thiền
tông như nhấn mạnh sự quan trọng của tọa thiền, trực cảm tâm linh, sử dụng
những thoại đầu, công án với những hình ảnh cụ thể, dùng những mật ngữ để
khai mở trí tuệ giác ngộ, sử dụng thần chú ấn quyết … để hỗ trợ đắc lực cho
sự Thiền quán hành đạo. Vì thế mà Phật giáo Mật tông đã bao trùm mọi tín
ngưỡng bình dân trong lòng nó tại Ấn Độ cũng như ở Việt Nam (Giao Châu)
lúc bấy giờ. Riêng ở ta, khuynh hướng này rất phù hợp với tín ngưỡng dân
gian thờ phúc thần, nhiên thần, thờ Mẫu, tín ngưỡng vật linh…, đồng thời phù
hợp với phong tục của người Việt nên nó trở thành một yếu tố khá quan trọng
trong sinh hoạt Thiền môn.
Sang thế kỷ thứ IX, Phật giáo Việt Nam còn có thêm một mối giao lưu tiếp biến khác là Thiền tông Trung Quốc truyền sang với dòng Thiền Vô
Ngôn Thông. Thiền phái này mang đậm dấu ấn Thiền học Trung Hoa với tư
tưởng chân lý ở ngay trong lòng mình, Phật tại tâm. Chân lý đó con người có
thể tu chứng trực tiếp, chứ không cần nắm bắt qua ngôn ngữ, văn tự. Thiền

phái Vô Ngôn Thông chủ trương bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tính
thành Phật. Đó chính là pháp môn Đốn ngộ mà Lục tổ Huệ Năng đã đề ra
trước đó. Sau này, tổ Bách Trượng cũng đã phát biểu: Tâm địa nhược không,

15


tuệ nhật tự chiếu (Nếu đất tâm trống không, thì mặt trời trí tuệ sẽ tự chiếu
sáng).
Tóm lại, Phật giáo Việt Nam thời Lý - Trần (1009-1400) được kế thừa
và phát triển trên cơ sở của ba mối giao lưu - tiếp biến bởi có 3 nguồn du nhập
trước đó:
Một là, Phật giáo Đại thừa với khuynh hướng Thiền học từ Nam Ấn
trực tiếp truyền sang bằng đường biển vào cuối thế kỷ thứ I trước công
nguyên, cũng có thể là vào những năm đầu sau công nguyên với kinh văn hệ
Bát nhã.
Hai là, Thiền tông Ấn Độ truyền sang Trung Quốc rồi đến Việt Nam
bởi vai trò của ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi vào thế kỷ thứ VI với tư tưởng vô trụ,
siêu việt hữu – vô.
Ba là, Thiền tông Trung Quốc truyền vào Việt Nam bởi vai trò của ngài
Vô Ngôn Thông vào thế kỷ thứ IX với pháp môn Đốn ngộ và tư tưởng Phật
tại tâm.

1.2. Những tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội và tư tưởng cho
sự phát triển Phật giáo ở Việt Nam thời Lý – Trần
1.2.1. Những tiền đề về kinh tế và chính trị
Sau hơn một nghìn năm đấu tranh kiên cường và bền bỉ, người Việt đã
làm chủ được vận mệnh của mình từ năm 906, khi hào trưởng người Việt
Nam là Khúc Thùa Dụ lên giành chính quyền làm Tiết độ sứ, thực thi đường
lối kinh tế chính trị vì lợi ích của người Việt. Tuy nhiên do tương quan lực

lượng chưa cho phép và tính chất phức tạp của thời kỳ đó, những người đứng
đầu đất nước trong khoảng thời gian từ 906 đến 938 chưa công khai tuyên bố
nền độc lập của đất nước. Người tiếp tục công cuộc cải cách theo hướng tự
chủ là Dương Đình Nghệ, tuy đã đoạn tuyệt quan hệ thần thuộc với các triều

16


đại cai trị ở phương Bắc, nhưng trên danh nghĩa vẫn tự nhận là một quan cai
trị ở Trung Quốc.
Thời kỳ Bắc thuộc kết thúc với chiến thắng vang dội trên sông Bạch
Đằng của Ngô Quyền vào năm 938. Đất nước chính thức bước vào thời kỳ
độc lập tự chủ. Năm 939 Ngô Quyền chính thức xưng Vương. Tuy nhiên
vương hay bá, theo quan niệm của Trung Hoa chỉ là những người đứng đầu
những nước chư hầu mà thôi. Do đó xét về mặt thể chế, Việt Nam thực sự là
một quốc gia độc lập, bình đẳng với Trung Quốc, phải kể đến Đinh Bộ Lĩnh
thống nhất đất nước, xưng là Hoàng Đế và đặt tên nước là Đại Cồ Việt vào
năm 968. Từ đó cho đến khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp (1884)
những người đứng đầu đất nước đều xưng là Hoàng Đế, đặt niên hiệu riêng và
là người có quyền chủ tể. Có thể coi chế độ quân chủ Việt Nam bắt đầu từ đó.
Thời mới giành lại độc lập, các vua Ngô, Đinh, Tiền Lê chưa phải thực
hiện một quyền chủ tể của mình trên mọi phương diện của đất nước. Thực
chất các ông vua thời kỳ này là các thủ lĩnh quân sự, duy trì quyền lực chủ
yếu bằng lực lượng quân sự và bằng những hình phạt khắc nghiệt để răn đe
những người chống lại chính quyền trung ương. Tuy nhiên xét về bệ đỡ tư
tưởng, các triều Đinh và Tiền Lê lại đề cao Phật giáo với ý thức “Giải Hán
Hoá”.Vì về mặt ngoại giao, trong thời gian này đất nước vẫn đang trong giai
đoạn khẳng định vị thế với các nước lân bang, đặc biệt với đế chế Tống
phương Bắc.
Vào thế kỷ X khi Phật giáo tỏa rộng và thấm dần vào đời sống nhân

dân, thì giữa triều đình, Phật giáo được công nhận như một tôn giáo chính
thức. Đinh Tiên Hoàng ngay sau khi lên ngôi, năm 971 đã quy định các cấp
bậc tăng đạo đồng thời với các cấp bậc quan lại văn võ. Sách Thiền Uyển Tập
Anh cho biết, khi mới lên ngôi, dựng đô ở Hoa Lư vua đã phong chức Tăng
Thống cho thiền sư Ngô Chân Lưu, tức chức quan đứng đầu Phật giáo. Vào
năm thứ 2 niên hiệu Thái Bình (971) Đinh Tiên Hoàng đã ban danh hiệu
17


Khuông Việt Đại Sư cho Ngô Chân Lưu. Đồng thời Trương Ma Ni được cử
làm Tăng Lục, chức quan dưới tăng thống. Tăng thống, tăng lục là các chức
quan mà triều đại về sau vẫn dùng. Việc quy định các chức quan tăng đạo
đồng thời với xây dựng bộ máy nhà nước, chứng tỏ vua Đinh rất chú trọng
đến vị trí của tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo. Và dường như vua Đinh Tiên
Hoàng đã chọn Phật giáo làm bệ đỡ tư tưởng cho chính quyền của mình,
nhưng mặt khác chính quyền cũng tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển.
Tên hiệu Khuông Việt mà Đinh Tiên Hoàng ban cho thiền sư Ngô
Chân Lưu là có ý nghĩa “giúp nước Việt”. Theo sách Thiền uyển Tập Anh,
Đinh Tiên Hoàng thường mời Khuông Việt đến để hỏi chuyện và rất mến
phục sư. Đối với Khuông Việt ông cũng luôn trăn trở làm sao giúp vua vạch
ra đường lối trị nước nhằm ổn định nhân tâm. Ông đã từng căn dặn vua Đinh
Tiên Hoàng rằng: “Hoàng thượng nay đã làm vua nên tuân theo lời Phật tổ
dạy; nhứ nhất phải như mặt trời soi sáng khắp thế gian; thứ hai phải như mặt
đất nuôi dưỡng muôn loài; thứ ba phải như cái cầu không quản khó nhọc đem
lưng ra tế độ mọi người; thứ tư phải như cái cân không vì họ hàng thân thích
mà nghiêng lệch, không vì kẻ yêu, người ghét mà nặng nhẹ; thứ năm phải như
người mẹ hiền ruột thắt gan mòn nuôi nấng con dân” [11, Tr.89]. Những lời
nói ấy là những lời tâm huyết của một bậc thiền sư hết lòng vì dân, vì nước.
Nó khắc sâu vào tâm trí của các vị vua nước ta thời bấy giờ. Nhưng rồi để giữ
vững thế nước trước nguy cơ xâm lược của phong kiến phương Bắc, ông vẫn

gác tình riêng để ủng hộ Lê Hoàn lên thay thế vua Đinh - khi cha con vua
Đinh ngày càng đi vào con đường hưởng lạc.
Xét về tư tưởng có thể nói Lê Hoàn là người có nhân duyên với Phật
giáo. Nếu Đinh Tiên Hoàng là người phát hiện ra vai trò và giá trị của Phật
giáo thì Lê Hoàn là người đưa những giá trị tư tưởng của Phật giáo áp dụng
triệt để trong công cuộc trị nước, an dân. Ngay cả sách lược đối nội, đối ngoại
và quân sự Lê Hoàn đều tham vấn các bậc cao tăng phật giáo.
18


Căn cứ vào Đại Việt sử ký toàn thư và Thiền uyển tập anh thì Lê Hoàn
đã được ít nhất 4 vị cao tăng giúp đỡ như: Khuông Việt, Pháp Thuận, Ma Ha
và Vạn Hạnh. Trong số các bậc cao tăng thì Pháp Thuận là người gần gũi với
Lê Hoàn ngay từ buổi đầu dựng nghiệp, được Lê Hoàn rất coi trọng. Cuốn
Thiền uyển tập anh có chép: “Khi nhà Tiền Lê mới sáng nghiệp, sư vận trù kế
hoạch rất là đắc lực. Đến khi trong nước thái bình, sư không nhận phong
thưởng của nhà vua, nên vua Lê Đại Hành lại càng kính trọng, thường chỉ gọi
là Đỗ Pháp sư chứ không dám gọi tên và giao cho sư giữ việc văn hàn”. Vua
từng sư hỏi sư về vận nước ngắn hay dài, sư đáp:
Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh
Bài thơ ngũ ngôn này được hòa thượng Thích Thanh Từ trong cuốn
Thiền sư Việt Nam có dịch:
Vận nước như mây cuốn
Trời Nam sống thái bình
Rảnh rang trên điện các
Chốn chốn dứt đao binh [59, Tr. 42]
Nhà sư đã giúp vua nhận rõ thực trạng của vận nước lúc này đang khó

khăn, phức tạp: triều đình đang phải chống lại quân Tống xâm lược (981);
lòng dân chưa yên khi vua “lập Hoàng Thái Hậu nhà Đinh là Dương Thị làm
Đại Thắng minh hoàng hậu” [11, Tr. 79]; rồi sự quấy nhiễu ở biên giới
phương Nam (Chiêm Thành) và nạn đói đang hoành hành trong nhân dân.
Lúc này muốn giữ yên được vận nước theo Pháp Thuận khuyên là nên xây
dựng nền thái bình.
Năm 986, khi nhà Tống sai Lý Giác sang phong tước cho vua, Lê Đại
Hành đã sai Pháp Thuận giả làm người trong coi bến đò để quan sát những
19


hành vi của Lý Giác: “Thầy tăng họ Đỗ thông nho học, tính lại hay nói thơ,
nói văn, có thể làm cho sứ Tống giật mình kinh sợ mà bỏ thói kiêu ngạo ” [11,
Tr. 98]. Sự uyên thâm và tinh thần yêu nước được Pháp Thuận thể hiện khi
đưa Lý Giác qua sông. Lúc qua sông có hai con ngỗng đang bơi giữa dòng,
Lý Giác ứng khẩu ngâm:
Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nga
(Ngỗng ngỗng hai con ngỗng
Ngửa mặt nhìn chân trời)
Pháp Thuận đang cầm chèo, bèn đọc họa tiếp hai cấu kết:
Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh nga
(Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân hồng bơi) [31, Tr. 230]
Lúc Lý Giác trở về Trung Quốc, vua lại sai Quốc sư Khuông Việt làm
bài thơ Vương Lang quy để tiễn biệt:
Tường quang phong hảo cấm phàm trương
Dao vọng thần tiên phục đế hương.
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lang

Cửu thiên quy lộ trường.
Tình thảm thiết, đối ly thương,
Phan luyến sứ tinh lang.
Nguyện tương thâm ý vị biên cương
Phân minh tấu ngã hoàng.
(Gió xuân đầm ấm cánh buồm giương,
Trông vị thần tiên về đế hương.
Muôn lần non nước vượt trùng dương
Đường về bao dặm trường.
20


Tình lưu luyến, chén đưa đường.
Nhờ vị sứ lang
Xin lưu ý đến việc biên cương,
Tấu rõ lên thánh hoàng). [31, Tr. 231]
Đây là bài thơ không chỉ hay về mặt văn chương mà còn có ý nghĩa
chính trị, ngoại giao biểu hiện rõ ràng ý thức độc lập tự chủ. Có thế nói Pháp
Thuận và Khuông Việt Đại sư là những người đã góp phần tạo nên một thế
ngoại giao có lợi cho dân tộc, đồng thời cũng tác động không nhỏ đến quan
điểm và nguyên tắc đối ngoại của vua Lê Đại Hành.
Trong các bậc cao tăng phò cho Lê Hoàn phải kể đến Vạn Hạnh. Ông
là người không những am hiểu giáo lý của đạo Phật mà còn tinh thông về
thuật phong thủy và sấm ký: “Bấy giờ sư nói ra điều gì, thiên hạ đều coi như
lời sấm. Vua Lê Đại Hành đặc biệt tôn kính sư. Năm thiên phúc thứ nhất
(980) nhà Tống sai Hầu Nhân Bảo đem quân sang xâm lược nước ta, đóng
quân ở gò Tử Cương, núi Giáp Lăng. Vua Lê mời sư đến hỏi tình thế. Vua
muốn đi đánh Chiêm Thành cùng bàn bạc với triều thần, nhưng chưa quyết,
sư đề nghị vua xin cấp tốc tiến quân, nếu không sẽ lỡ dịp. Vua bèn đem quân
đi đánh, quả nhiên thu được toàn thắng” [46, Tr. 188].

Ngoài ba vị cao tăng như: Khuông Việt, Pháp Thuận, Vạn Hạnh, còn có
Ma Ha cũng là một bậc chân tu có nhiều phẩm chất rất đặc biệt. Tuy không
thường xuyên ra vào cung cấm, trực tiếp giúp việc cho vua, nhưng thiền sư
cũng có nhiều đóng góp cho đất nước. Theo sách Thiền uyển tập anh thiền sư
Ma Ha đã từng được Lê Hoàn ba lần thỉnh mời về triều để hỏi han việc nước
nhưng sư chắp tay từ chối, khiến vua bực mình cho nhốt vào chùa Vạn Tuế
trong đại nội. Nhưng cũng chính tính khảng khái ấy mà vua lại càng thêm
kính nể.
Dưới triều Tiền Lê ta có thể thấy sự nhập thế mạnh mẽ của Phật giáo,
từ Phật giáo cung đình cho đến Phật giáo dân gian. Bất kể vai trò nào giới tu
21


sĩ đều thể hiện tốt vai trò tích cực của mình. Mặc dù các nhà sư tuy không
tham chính, với ý nghĩa là tham dự vào bộ máy chính quyền, nhưng ảnh
hưởng của họ đối với chính trị rõ ràng là lớn - họ đóng vai trò là kiến trúc
thượng tầng của chế độ phong kiến. Như vậy Phật giáo bên ngoài thì giúp cho
triều đình việc bang giao, còn bên trong thì chắc cũng góp phần đem lại
những yêu tố tư tưởng nhân ái, từ bi, hỷ xả, thuần hậu cần thiết cho sự bình
trị. Đây là những tiền đề chính trị quan trọng cho sự phát triển cực thịnh của
Phật giáo trong thời kỳ Lý – Trần, mà mở đầu là vai trò của sư Vạn Hạnh và
sự vận động lên ngôi của vua Lý Công Uẩn.
1.2.2. Những tiền đề về xã hội và tư tưởng
Trong thế kỷ X, Nhà nước độc lập mới được xây dựng, đang dần dần tự
củng cố, vua phải chuẩn bị đương đầu với những cuộc chiến tranh xâm lược
từ bên ngoài, vừa phải đối phó với những yếu tố phân tán cát cứ ở trong nước.
Trong bối cảnh đó, tất nhiên, bạo lực và quân sự là ứng xử trội của các ông
vua và bộ máy nhà nước. Song cũng thật kỳ lạ, đó cũng là thời kỳ bước đầu
phát triển mạnh mẽ của Phật giáo. Chính những ông vua từng “đặt vạc dầu
giữa sân, nuôi hổ báo trong cũi” để trấn áp mọi chống đối, lại ủng hộ Phật

giáo.
Đến cuối thời kỳ Bắc thuộc, Phật giáo đã lan khắp mọi miền của xứ An
Nam đô hộ phủ. Không chỉ ở Giao Châu, tức miền lưu vực sông Hồng, mà
đến tận Ái Châu, Hoan Châu, tức đất Thanh Nghệ xưa. Nhưng khu vực Phật
giáo phát triển mạnh nhất là vùng Bắc Sông Hồng, ngoài những trung tâm
Phật giáo lâu đời như Luy Lâu (Thuận Thành, Hà Bắc), Kiến Sơ (Phù Đổng,
Gia Lâm), trên đất Bắc Giang bấy giờ đã có rất nhiều chùa. Chỉ trong Châu
Cổ Pháp (thời Lý đổi thành phủ Thiên Đức) đã có nhiều chùa nổi tiếng như
Kiến Dương ở Hương Hoa Lâm, chùa Thiên Chúng và chùa Lục Tổ ở Dịch
Bảng, ở Hương Phù Ninh, Chùa Cảm Ứng trên núi Ba Sơn (Tiên Sơn)...

22


Thời kỳ này cũng đã xuất hiện những lớp cao tăng người Việt, trong đó
nhiều người đã đến Trung Quốc, xuống Nam Dương, sang Ấn Độ, hiểu rộng
biết nhiều, kiêm thông Hán Phạn, có thể coi là những tri thức đương thời. Lực
lượng Phật giáo, các nhà sư và các tín đồ, đã thực sự tham gia vào cuộc vận
động giải phóng dân tộc, đứng vào hàng ngũ nhân dân chống áp bức, giành lại
nền độc lập cho đất nước.
Trong thế kỷ X, cũng có những trung tâm Phật giáo mới. Trước hết
phải nói đến trung tâm Đại La, mà sau này thời Lý là Thăng Long. Ở đây từ
thế kỷ VI, Lý Nam Đế đã cho dựng chùa Khai Quốc (chùa Trấn Quốc) ở Hà
Nội ngày nay. Cho đến giữa thế kỷ X, chùa này là nơi trụ trì của thiền sư Vân
Phong, người thuộc thế hệ thứ ba của dòng thiền Vô Ngôn Thông, học trò của
Vân Phong là Khuông Việt đại sư Ngô Chân Lưu, vị tăng thống thời Đinh, đã
cho mở mang chùa Khai Quốc, biến nơi đây trở thành một trung tâm truyền
thụ Phật giáo. Sách Thiền Uyển tập Anh chép rằng khi đại sư Khuông Việt mở
rộng Phật học ở Chùa Khai Quốc, chùa Đa Bảo, người đến dự học.
Khi Hoa Lư được xây dựng thành Kinh đô của đất nước trong hai triều

Đinh và Lê thì nhiều ngôi chùa đã được xây dựng như: chùa Tháp là ngôi
chùa cổ mà nay chỉ còn thấy di tích nền cũ ở ven sông Hoàng Long; chùa
Nhất Trụ ở Hoa Lư hiện nay không còn giữ được dấu vết gì của kiến trúc cổ;
chùa Bà Ngô ở Hoa Lư tương truyền cũng được xây dựng từ thời Đinh, tấm
bia đá thời Nguyễn ở chùa này có ghi: Chùa Bà Ngô trong ấp ta là một danh
lam ở đô cũ nước Cồ Việt.
Như vậy, sự hình thành những trung tâm Phật giáo mới đã nói lên sự
ảnh hưởng của Phật giáo trong xã hội. Nho Giáo cũng được truyền vào nước
ta từ rất sớm nhằm mục đích đồng hóa, nhưng việc đào tạo, dạy chữ nghĩa cho
đại đa số quần chúng nhân dân lại được tiến hành ở các ngôi chùa, do đó tăng
ni không chỉ làm công việc dạy chữ và truyền giáo lý đạo Phật mà họ góp
phần củng cố ý thức cộng đồng cho người dân đất Việt.
23


Về phương diện văn hóa tư tưởng người Việt có một tín ngưỡng đặc
sắc là tục thờ cúng tổ tiên. Khi du nhập vào Việt Nam Phật giáo không những
không bị bài xích mà còn được dân chúng hoan nghênh. Việc một văn hóa
mới được chấp nhận phụ thuộc rất nhiều vào tính cách của người dân bản địa.
Đối với người Việt Nam tính cách đó được hình thành trên nền văn hóa lúa
nước. Công việc trị thủy là yếu tố khách quan cần có sự hợp sức của tập thể,
điều đó dần hình thành nên tính cách làng xã của người Việt. Phật giáo Đại
thừa với tư tưởng tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn đã bồi đắp thêm tinh
thần đoàn kết cộng đồng làng xóm và khi có giặc xâm lăng nó phát triển thành
tinh thần yêu nước. Có thể nói với hệ thống giáo lý cao siêu nhưng lại gần gũi
với con người, Phật giáo và hình ảnh của Đức Phật đã hòa nhập vào tâm hồn,
tình cảm của người dân Việt Nam đặc biệt là sau khi dòng thiền Tỳ Ni Đa
Lưu Chi được truyền bá vào Việt Nam năm 580 và dòng thiền Vô Ngôn
Thông được du nhập từ Trung Quốc năm 820.
Đối với xã hội bình dân, hình ảnh Phật giáo được chuyển hóa thành

những bậc thần linh. Ví như, Phật Mẫu Man Nương là một cô gái bình dị nơi
thôn quê đã trở thành một vị Phật trong tín ngưỡng dân gian của người Việt.
Truyền thuyết kể rằng năm 12 tuổi bà Man Nương (Phật Mẫu Man nương)
đến theo học đạo ở chùa Linh Quang, Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Tại chùa có
thiền sư Khâu Đà La là một vị cao tăng đầu tiên sang Việt Nam truyền đạo và
ông đã trao cho bà Man Nương cây gậy và dặn khi nào hạn hán thì đem gậy
cắm xuống đất để cứu nhân dân. Khi vùng Dâu bị hạn hán ba năm liền, nhớ
đến lời dặn của ông, Man Nương đã đem cây gậy thần cắm xuống đất. Ngay
lập tức nước phun lên, cây cối, ruộng đồng lại tươi tốt và chúng sinh thoát nạn
hạn hán. Ở Chùa Dâu (Bắc Ninh) có bốn vị thần Mây (Pháp Vân), thần Sấm
(Pháp Lôi), thần Sét (Pháp Điện) và thần Mưa (Pháp Vũ) của cư dân trông lúa
nước cũng được chuyển hóa thành bốn vị Phật (Pháp Vân, Pháp Lôi, Pháp
24


×