Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Thế giới nghệ thuật truyện ngắn Dạ Ngân : Luận văn ThS. Văn học: 60 22 01 20

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------

ĐẶNG THỊ CÚC

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN
DẠ NGÂN

LUẬN VĂN THẠC SI ̃ VĂN HỌC

Hà Nội - 2014

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------

ĐẶNG THỊ CÚC

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN
DẠ NGÂN
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. ĐOÀN ĐỨC PHƢƠNG

Hà Nội - 2014
ii


LỜI CAM ĐOAN
LuậnvănvớitêngọiThếgiớinghệthuậttruyệnngắnDạNgânlàcôngtrìnhn
ghiêncứucủacánhân.Nhữngnhậnxétvàkếtluậnđƣợcrútratrongđóhoàntoànđộcl
ập, chƣatừngđƣợccôngbố ở bấtkỳtàiliệunàotrƣớcđây

iii


MỤC LỤC
Mở đầu .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 3
3. Đối tƣợng, mục đích, phạm vi nghiên cứu ................................................ 7
3.1.

Đối tượng nghiên cứu .......................................................................... 7

3.2.

Mục đích nghiên cứu ............................................................................ 7

3.3.


Phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 7

3.4.

Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 7

4.

Cấu trúc luận văn .................................................................................... 8

Chƣơng 1: KHÁI LƢỢC VỀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT VÀ SÁNG TÁC CỦA
DẠ NGÂN .......................................................................................... 9
1.1.

Khái lƣợc về thế giới nghệ thuật ............................................................ 9

1.1.1. Khái niệm về thế giới nghệ thuật ......................................................... 9
1.1.2. Quan niệm nghệ thuật về cuộc sống và con người ........................... 11
1.2. Sáng tác của Dạ Ngân ............................................................................... 14
1.2.1. Hành trình sáng tác ............................................................................ 14
1.2.2. Quan điểm sáng tác của Dạ Ngân ..................................................... 16
Chƣơng 2: CUỘC SỐNG VÀ CON NGƢỜI TRONG TRUYỆN NGẮN DẠ
NGÂN ................................................................................................................... 20
2.1. Mảng đề tài ............................................................................................... 20
2.1.1. Khái niệm đề tài .................................................................................. 20
iv


2.1.1. Một số đề tài trong truyện ngắn của Dạ Ngân .................................. 20


2.2.

2.1.1.1.

Đề tài gia đình............................................................................ 21

2.1.1.2.

Đề tài người lính ........................................................................ 24

2.1.1.3.

Đề tài người trí thức .................................................................. 25

Các vấn đề xã hội ................................................................................... 26

2.2.1. Nỗi đau chiến tranh trong mỗi gia đình giữa nhịp sống hiện đại... 26
2.2.2. Gia đình hiện đại dưới tác động của nhịp sống hiện đại................. 28
2.2.3. Sự lệch pha giữa hai tâm hồn người đàn ông và đàn bà trong gia
đình hiện đại .................................................................................................. 30
2.2.4. Sự cô đơn của mỗi thành viên trong gia đình hiện đại .................... 35
2.2.5. Sự mâu thuẫn về tư tưởng, cách sống của các thành viên trong gia
đình ............................................................. Error! Bookmark not defined.
2.3.

Thế giới nhân vật trong sáng tác của Dạ Ngân ................................... 41

2.3.1. Khái niệm về nhân vật ........................................................................ 41
2.3.2. Nhân vật trong văn học đương đại .................................................... 42
2.3.3. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn của Dạ Ngân ......................... 44

2.3.3.1. Kiểu nhân vật gặp nhiều bất hạnh trong tình yêu, hôn nhân và
gia đình. .................................................................................................... 46
2.3.3.2.

Người phụ nữ giàu tình thương yêu, đức hi sinh, thủy chung ... 50

2.3.3.3.

Kiểu nhân vật người trí thức trong thời hậu chiến .................... 57

2.3.3.4.

Nhân vật là người chứng kiến sự việc ........................................ 59

2.3.3.5.

Nhân vật người lính ................................................................... 60

Chƣơng 3: PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN ........................................................... 64
v


3.1.

Ngôn ngữ................................................................................................. 64

3.1.1. Ngôn ngữ mang sắc thái nữ tính ....................................................... 65
3.1.2. Ngôn ngữ đời thường, dung dị nhưng phong phú và sống động ..... 69
3.1.3. Ngôn ngữ giàu chất triết lý................................................................. 70
3.1.4. Ngôn ngữ đậm chất trữ tình............................................................... 74

3.2.

Nghệ thuật xây dựng nhân vật ............................................................ 75

3.2.1. Miêu tả ngoại hình, hành động ......................................................... 76
3.2.2. Thủ pháp độc thoại nội tâm ............................................................... 79
3.2.3. Đặt nhân vật vào các tình huống để nhân vật tự bộc lộ bản chất, tính
cách ............................................................................................................. 81
3.3.

Không gian, thời gian ............................................................................ 83

3.3.1. Không gian ......................................................................................... 84
3.3.1.1.

Không gian trong chiến tranh .................................................... 86

3.3.1.2.

Không gian sinh hoạt thường ngày ............................................ 88

3.3.1.3.

Thiên nhiên ................................................................................. 89

3.3.2. Thời gian ............................................................................................. 92
3.3.2.1.

Thời gian hồi tưởng.................................................................... 93


3.3.2.2.

Nhịp thời gian ............................................................................ 96

KếT LUậN ............................................................................................................. 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................... 101

vi


Mở đầu
1.

Lý do chọn đề tài
Từ năm 1986 đến nay, xã hội ta đã có những chuyển biến sâu sắc trên

mọi phƣơng diện: sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã và đang đƣợc
đẩy nhanh tốc độ phát triển; việc giao lƣu, hội nhập đa phƣơng với thế giới
cũng đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ta đặc biệt quan tâm trong xu thế mở cửa.
Đổi mới vừa là cơ hội, vừa là thử thách đối với mỗi nhà văn. Trong bối
cảnh xã hội đƣợc dân chủ hóa, đời sống văn học dần mang một sắc diện
mới trong quan niệm và cách đánh giá. Sự đa dạng về nhu cầu và thị hiếu
của ngƣời đọc đƣợc tôn trọng. Lịch sử xã hội luôn tác động và chi phối đến
văn học. Văn học Việt Nam sau năm 1975 cũng không nằm ngoài quy luật
đó. Với một tiền đề xã hội – thẩm mỹ nhƣ thế, sự đổi mới của văn học Việt
Nam sau năm 1975 là tất yếu.
Từ nửa sau thập kỷ 1980, nhờ công cuộc đổi mới của Đảng Cộng sản
Việt Nam, văn học thực sự có bƣớc chuyển đổi lớn. Từ sau năm 1986, văn
học bƣớc vào công cuộc “cởi trói” cho mình. Sự cởi mở nhiều chiều đã
mang đến những chuyển biến lớn lao về tƣ duy văn học. Văn học thời kỳ

này phản ánh hiện thực theo những quan điểm mới và những cách nhìn
hoàn toàn mới. Đề tài đƣợc mở rộng theo hƣớng tiếp cận với hiện thực đời
sống. Quan điểm sáng tác của nhà văn cũng mang những sắc thái thẩm mỹ
mới, cảm hứng sử thi đƣợc thay thế bởi cảm hứng đời tƣ – thế sự, xu hƣớng
ngợi ca đƣợc thay thế bằng xu hƣớng phê phán hiện thực. Cách nhìn cuộc
sống ở góc độ lạc quan, tốt đẹp đƣợc thay bằng cách nhìn trực diện những
vấn đề của đời sống xã hội. Chính vì vậy, văn học thời kỳ này đa dạng hơn
1


về giọng điệu, phong phú hơn về thể loại và cũng gây nhiều tranh cãi hơn.
Bƣớc chuyển mình của văn học đƣợc thể hiện ở cả ba thể loại: thơ, kịch và
văn xuôi. Ở văn xuôi, thể loại truyện ngắn tạo đƣợc dấu ấn rõ rệt nhất. Với
lợi thế nhỏ gọn và cơ động, truyện ngắn bắt nhịp một cách nhạy bén và linh
hoạt với những biến chuyển của đời sống. Truyện ngắn đi sâu vào phản ánh
cái hàng ngày, cái thƣờng nhật của cuộc sống. Hình thức truyện ngắn cũng
đa dạng hơn với truyền kì hiện đại, giả cổ tích, truyện ngắn – kịch, truyện
cực ngắn, truyện ngắn triết luận. Về ngôn ngữ và phƣơng thức trần thuật
cũng có nhiều thủ pháp mới nhƣ: tăng cƣờng đối thoại, độc thoại nội tâm,
miêu tả theo dòng ý thức, đồng hiện. Tất cả những điều đó đã làm tăng
thêm sức hấp dẫn cho truyện ngắn.
Văn học Việt Nam sau năm 1975 thực sự có nhiều khởi sắc. Những
đóng góp cả về phƣơng diện nội dung lẫn hình thức nghệ thuật của văn học
giai đoạn này đã khẳng định những bƣớc chuyển mạnh mẽ của văn học
nƣớc nhà. Việc xuất hiện ngày càng nhiều các cây bút nữ đã tạo nên sự
phong phú, đa dạng cho văn xuôi giai đoạn này nhƣ: Nguyễn Thị Thu Huệ,
Lê Minh Khuê, Phan Thị Vàng Anh, Y Ban, Dạ Ngân…đặc biệt là với thể
loại truyện ngắn. Họ là những cây bút giàu nội lực sáng tạo. Những tìm tòi,
đổi mới về tƣ tƣởng, chủ đề, về hình thức nghệ thuật trong truyện ngắn là
những đóng góp quan trọng tạo nên diện mạo chung cho những bƣớc phát

triển của thể loại truyện ngắn.
Dạ Ngân là một trong những nhà văn nữ đã ít nhiều thể hiện đƣợc
phong cách nghệ thuật của mình trên văn đàn. Nhà văn Dạ Ngân không còn
xa lạ gì với bạn đọc cả nƣớc. Chị nổi danh với truyện ngắn Con chó và vụ
ly hôn và có một bƣớc rẽ khá quyết liệt trong đời: ra Hà Nội làm vợ nhà
2


văn Nguyễn Quang Thân và theo học Trƣờng viết văn Nguyễn Du. Những
thành công bƣớc đầu của nhà văn chủ yếu là ở thể loại truyện ngắn. Dạ
Ngân là một trong số ít những nhà văn nữ đƣợc sống và cảm nhận giá trị
của cuộc sống trong chiến tranh và những năm đầu sau chiến tranh. Vì vậy,
qua những sáng tác của chị, ngƣời đọc có thể cảm nhận đƣợc những giá trị
tinh thần mà nhà văn gửi gắm ở mỗi giai đoạn phát triển của đất nƣớc cũng
nhƣ của nền văn học. Với lối văn phong chững chạc, thẳng thắn nhƣng
không kém phần nữ tính, Dạ Ngân thƣờng khai thác những đề tài dung dị,
đời thƣờng nhƣng cũng không kém phần sâu sắc. Văn phong của chị cũng
tiêu biểu cho những cây bút nữ giai đoạn văn học này. Vì vậy, việc tìm hiểu
thế giới nghệ thuật truyện ngắn Dạ Ngân sẽ góp phần quan trọng trong việc
tìm hiểu thế giới nghệ thuật của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn đổi mới.
2.

Lịch sử vấn đề
Văn học Việt Nam sau năm 1975 đƣợc gọi là “văn học của thời kỳ đổi

mới”. Để tạo nên những đổi mới của thời kỳ văn học này không thể không
nhắc đến những đóng của các nhà văn nữ. Họ là lớp nhà văn trẻ, tài năng,
giàu nhiệt huyết. Văn phong của họ bên cạnh sự kế thừa tinh hoa của nền
văn học truyền thống còn có sự sáng tạo, đột phá cả về phƣơng diện nội
dung lẫn hình thức.

Tuy nhiên, sáng tác của những cây bút nữ giai đoạn văn học đổi mới
vẫn còn là những tác phẩm khá mới mẻ với bạn đọc. Việc tìm hiểu, nghiên
cứu về một tác giả, tác phẩm cụ thể vẫn chƣa có hệ thống, chƣa đáp ứng
đƣợc nhu cầu của ngƣời đọc.
Dạ Ngân là một nhà văn khá thành công ở mảng truyện ngắn và đã có
những dấu ấn trên văn đàn. Giải nhất Hội nhà văn Hà Nội, Giải thƣởng Hội
3


nhà văn Việt Nam, Giải nhì Tạp chí Văn nghệ Quân đội, giải nhì truyện
ngắn báo Tuổi trẻ… đã phần nào ghi nhận những đóng góp cho sự nghiệp
văn học của Dạ Ngân. Tuy nhiên, những nghiên cứu về sáng tác của Dạ
Ngân vẫn chƣa nhiều, còn tản mạn nhƣ các bài viết trên báo mạng, tạp chí
hay đƣợc nghiên cứu lồng ghép với các sáng tác của những nhà văn khác.
Trong khóa luận tốt nghiệp Gia đình hiện đại trong sáng tác của một
số cây bút nữ Dạ Ngân, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Hoàng Diệu,
Nguyễn Ngọc Tư của Hoàng Lan Phƣơng (khoa Văn học, Đại học
KHXH&NV HN) vấn đề những góc khuất trong gia đình hiện đại trong
truyện ngắn Dạ Ngân đã đƣợc ngƣời viết nghiên cứu cùng với các sáng tác
của các nhà văn khác nhƣ: Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo.
Trong đó, những thiệt thòi và sự hy sinh của ngƣời phụ nữ trong gia đình
đƣợc ngƣời viết nhấn mạnh nhiều hơn cả.
Tác giả Nguyễn Hoàng Sơn với bài viết Duyên văn (Dạ Ngân, Nguyễn
Quang – hai mươi năm tình yêu và tác phẩm) đã có những nhận xét rất sâu
sắc về truyện ngắn đầu tay Quãng đời ấm áp của Dạ Ngân: “Tôi đọc truyện
ngắn Quãng đời ấm áp của Dạ Ngân từ hồi nó mới xuất hiện trên báo Văn
nghệ. Đọc mà ngạc nhiên vì một cây bút ở tít tắp một vùng quê Nam Bộ
nào đó mà có đƣợc một truyện ngắn chững chạc nhƣ vậy, chững chạ từ cốt
truyện đến giọng điệu, câu chữ. Truyện ngắn này báo hiệu một cây bút giàu
nữ tính, có khả năng đi vào những tình huống phức tạp trong đời sống tinh

thần của nhân vật”.
Nhà văn Tô Hoài trong bài viết Bức tranh lịch sử của người mở cõi
phương Nam đã nhận xét về tác phẩm Miệt vườn xa lắm của Dạ Ngân:
“Đọc Miệt vườn xa lắm mỗi đoạn, mỗi chữ dƣờng nhƣ tôi lẫn lộn những
4


làng mạc và vƣờn tƣợc ven sông trong trang sách và trong kỷ niệm của tôi,
những câu hò không phân biệt đƣợc xƣa kia hay chỉ mới đây. Miệt vườn xa
lắm là bức tranh lịch sử trƣờng kỳ của ngƣời đi vào phƣơng Nam mở cõi”.1
Về tiểu thuyết Gia đình bé mọn tác giả Lê Tú Anh với bài viết “Gia
đình bé mọn” dưới góc nhìn thể loại đã chỉ ra: “Gia đình bé mọn là một
cuốn tiểu thuyết trong đó nhà văn rõ ràng đã sử dụng chất liệu đời mình một
cách có chủ ý chứ không hoàn toàn hƣ tâm”2. Ngoài ra, liên quan đến vấn
đề thể loại của tiểu thuyết Gia đình bé mọn của Dạ Ngân cũng có khá nhiều
các bài viết của các tác giả: Bốn lời bình cho Gia đình bé mọn (Hoài Nam,
in trong Gia đình bé mọn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 2006), Tự truyện và tiểu
thuyết trong Gia đình bé mọn (Lê Tú Anh, in trên Văn nghệ số 15/2006),
Gia đình bé mọn và sự khác nhau giữa tự truyện và tiểu thuyết (Phan Quý
Bích, in trên Văn nghệ trẻ, số 47/2006), Khuynh hướng tự truyện trong tiểu
thuyết Việt Nam đương đại (Đỗ Hải Ninh, in trong tạp chí Khoa học, trƣờng
ĐHSP Hà Nội 2, số 7/2009)...
Tác giả Hoàng Thị Huế trong bài viết Tiểu thuyết Dạ Ngân - nhìn từ
tâm thức hậu thực dân đăng trên trang điện tử Tạp chí khoa học – Đại học
Huế (jos.hueuni.edu.vn) đã nhận định: “Tiểu thuyết Dạ Ngân không phải là
sự tái hiện quá trình xã hội hậu thực dân mà tồn tại nhƣ một sự diễn giải,
minh định thực tại ấy. Chất liệu đời sống và chiều sâu nhân bản từ cuộc đời
thực khiến tiểu thuyết của Dạ Ngân tồn tại nhƣ một chứng từ lịch sử, khắc
họa một thời kì hậu chiến khó khăn của đất nƣớc. Đồng thời, ở một phƣơng
diện khác, không xuất phát từ những sự kiện chính trị lớn mà từ logic của

1 Tô Hoài, Bức tranh lịch sử của người mở cõi phương Nam, />2
/>5


những điều thƣờng nhật, từ điểm nhìn của các cá nhân, Dạ Ngân đã diễn
giải một thời kỳ của lịch sử từ một góc nhìn khác, một cách chép sử bằng
hình tƣợng, theo quan điểm cá nhân, lịch sử là cái cớ, là chứng nhân để
khơi dậy những vấn đề đời tƣ cá nhân.”
Tác giả Tuy Hòa trong bài viết Nhà văn Dạ Ngân giữa Nước nguồn
xuôi mãi đăng trên báo điện tử Sài Gòn giải phóng (tp//sggp.org.vn) đã lý
giải: “Truyện ngắn Dạ Ngân không phải đọc để nắm bắt cuộc sống mà đọc
để nghĩ ngợi cuộc sống. Không còn một Dạ Ngân náo nức xông thẳng vào
những xung đột nhân tình, mà là một Dạ Ngân xao xác thƣơng lƣợng với
những quan hệ xã hội. Nước nguồn xuôi mãi nôn nao nhìn vào những góc
khuất chứa đựng nhiều bất an nhƣng lúc nào cũng phải cố nƣơng nhẹ đi, để
khỏi tổn thƣơng, để đỡ giày vò, để bớt ray rứt”. Bên cạnh đó, tác giả cũng
chỉ ra rằng nhà văn Dạ Ngân đã có chuyển biến đáng kể về bút pháp từ
giọng điệu, chữ nghĩa cho đến nhấn nhá tình tiết của mỗi truyện ngắn.
Đọc 100 tản mạn hồn quê của Dạ Ngân, tác giả Bùi Ngọc Tân đã phát
hiện ra “Một Dạ Ngân nhà văn tinh tế biết bao khi cảm thụ cuộc đời. Chị
nhìn cây gạo nhƣ nhìn một ngƣời phụ nữ”.3 Bên cạnh đó tác giả cũng khẳng
định: 100 tản mạn hồn quê tuy chỉ là những bài báo cho một chuyên mục
hàng tuần nhƣng là những bài báo giàu chất thơ, những bài báo về một hồn
quê đƣợc viết ra với một ngòi bút có trách nhiệm, giàu cảm xúc.
Nhìn chung, những bài viết, công trình nghiên cứu trên đã đề cập tới
những nét tiêu biểu về con ngƣời và văn chƣơng của Dạ Ngân. Tuy nhiên,
với tám tập truyện ngắn, bốn tiểu thuyết và hai kịch bản phim, sáng tác của

3


Hồn quê của Dạ Ngân - />6


Dạ Ngân cần có thêm những công trình nghiên cứu cụ thể để ngƣời đọc có
thêm nhiều cơ hội tìm hiểu và yêu mến cây bút này hơn.
3. Đối tƣợng, mục đích, phạm vi nghiên cứu
3.1.

Đối tượng nghiên cứu
Việc tìm hiểu thế giới nghệ thuật truyện ngắn Dạ Ngân: bức tranh cuộc

sống thế giới nhân vật, các phƣơng diện nghệ thuật cụ thể… góp phần
khẳng định những đóng góp về những cách tân nghệ thuật của Dạ Ngân đối
với văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.
3.2.

Mục đích nghiên cứu
Đối tƣợng khảo sát chính là thế giới nghệ thuật truyện ngắn Dạ Ngân:

các vấn đề xã hội, thế giới nhân vật, các phƣơng diện nghệ thuật đặc sắc.
3.3.

Phạm vi nghiên cứu

Luận văn khảo sát 5 tập truyện ngắn của Dạ Ngân:
1.

Quãng đời ấm áp, Nxb Phụ nữ, 1986

2.


Con chó và vụ li hôn, Nxb Hội nhà văn, 1990

3.

Cõi nhà, Nxb Thanh niên, 1993

4.

Nhìn từ phía khác, Nxb Hà Nội, 2002

5.

Nước nguồn xuôi mãi, Nxb Phụ nữ, 2008

3.4.

Phương pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: Phƣơng pháp này vừa đi sâu nghiên

cứu thế giới nghệ thuật truyện ngắn Dạ Ngân, vừa hệ thống, tổng hợp các
kết quả để minh chứng cho các luận điểm của luận văn.
7


Phƣơng pháp so sánh: So sánh truyện ngắn của Dạ Ngân với các nhà
văn khác để thấy đƣợc điểm khác biệt và đặc trƣng trong sáng tác của Dạ
Ngân.
Phƣơng pháp thống kê: Phƣơng pháp này giúp phân loại các đặc điểm
nổi bật về nội dung, các kiểu dạng nhân vật và các phƣơng thức nghệ thuật

trong truyện ngắn Dạ Ngân.
4.

Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung luận văn gồm ba chƣơng:

Chƣơng 1: Khái lƣợc về thế giới nghệ thuật và sáng tác của Dạ Ngân
Chƣơng 2: Cuộc sống và con ngƣời trong truyện ngắn Dạ Ngân
Chƣơng 3: Phƣơng thức biểu hiện

8


Chƣơng 1
KHÁI LƢợC Về THế GIớI NGHệ THUậT
VÀ SÁNG TÁC CủA Dạ NGÂN
1.1.

Khái lƣợc về thế giới nghệ thuật

1.1.1.

Khái niệm về thế giới nghệ thuật

Thế giới nghệ thuật là thiên nhiên thứ hai do ngƣời nghệ sĩ sáng tạo ra.
Một mặt nó phản ánh hiện thực, mặt khác nó biểu hiện những khát vọng
chân, thiện, mĩ của chủ thể sáng tạo. Với ý nghĩa này, vấn đề đặt ra là cần
phải có một khái niệm về thế giới nghệ thuật thật bao quát, thật đầy đủ để
làm cơ sở cho việc tiếp cận các hiện tƣợng và tác giả văn học.
Đáp ứng yêu cầu đó, ở Liên Xô cũ vào những năm 70 đã có một số

công trình nghiên cứu về khái niệm này nhƣ các công trình: Thế giới nghệ
thuật của M.Gorki, Thế giới nghệ thuật của Sôlôkhốp... Ở Việt Nam khái
niệm đƣợc nhắc đến vào những năm 80 nhƣng cách hiểu của các tác giả
chƣa hoàn toàn cụ thể về nội dung của nó.
Năm 1985 trong luận án Tiến sĩ khoa học Sự hình thành và những vấn
đề của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học Việt Nam hiện
đại, Nguyễn Nghĩa Trọng đã xác định hàm nghĩa khái niệm thế giới nghệ
thuật nhƣ sau: “Thế giới nghệ thuật là một phạm trù mĩ học bao gồm tất cả
các yếu tố của quá trình sáng tạo nghệ thuật và tất cả kết quả của quá trình
hoạt động nghệ thuật của nhà văn. Nó là một chỉnh thể nghệ thuật và một
giá trị thẩm mĩ. Thế giới nghệ thuật bao gồm hiện thực - đối tƣợng khách
quan của nhận thức nghệ thuật, cá tính sáng tạo của nhà văn hay chủ thể
nhận thức nghệ thuật, ngôn ngữ hay chất liệu nghệ thuật. Trong thế giới
9


nghệ thuật chứa đựng sự phản ánh hiện thực, tƣ tƣởng, tình cảm cửa nhà
văn. Thế giới nghệ thuật không chỉ tƣơng đƣơng đối với tác phẩm nghệ
thuật mà còn rộng hơn bản thân nó. Nó có thể bao gồm tất cả các tác phẩm
nghệ thuật của một nhà văn, một trào lƣu nghệ thuật, một thời kỳ nhất định
của văn học, một nền văn học của dân tộc hay nhiều dân tộc nhƣng đồng
thời cũng có thể liên quan đến nhiều yếu tố khác của sáng tạo nghệ thuật
nhỏ hơn khái niệm hình tƣợng nghệ thuật. Thế giới nghệ thuật là thiên
nhiên thứ hai đƣợc ngƣời nghệ sĩ tạo dựng trong đó chứa đựng hiện thực
và quan niệm về hiện thực, tự nhiên và con ngƣời …là thế giới sinh động và
đa dạng vô cùng, mỗi nhà văn, mỗi trào lƣu văn học. mỗi dân tộc, mỗi thời
kỳ lịch sử để có thế giới nghệ thuật riêng của mình”.
Đây là một khái niệm rộng, đƣợc triển khai với nhiều cấp độ. Tuy còn
dừng ở mức khái quát song quan niệm sẽ là những gợi ý hết sức quý báu,
phù hợp với nhiều luận điểm mà chúng tôi sẽ triển khai trong luận văn.

Năm 1992, nhóm tác giả Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi đã
định nghĩa: “Thế giới nghệ thuật là khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng
tạo nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, một tác giả, một trào
lƣu). Sáng tác nghệ thuật là một thế giới riêng đƣợc tạo ra theo các nguyên
tắc riêng của nghệ thuật. Thế giới nghệ thuật có thời gian, không gian riêng,
có quy luật tâm lí thang bậc giá trị riêng trong việc phản ánh thế giới. Mỗi
thế giới nghệ thuật ứng với một cách cắt nghĩa về thế giới. [14; 201, 202].
Ngoài những cách hiểu tiêu biểu trên còn một số công trình nghiên cứu
khác cũng đề cập đến khái niệm này nhƣ : Nguyễn Đăng Mạnh với Con
đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn (1996), Trần Đình Sử với
Những thế giới nghệ thuật thơ (1997). Khái niệm thế giới nghệ thuật là
10


phƣơng diện của thi pháp học. Theo Trần Đình Sử: “Thi pháp học là bộ
môn cổ xƣa nhất đồng thời cũng là bộ môn hiện đại nhất [16;55]. Qua đó,
chúng ta thấy rằng rằng: Nội hàm của thế giới nghệ thuật đã đƣợc nghiên
cứu từ rất xa xƣa dù chƣa đƣợc hình thành khái niệm cụ thể nhƣ ngày nay.
Các quan niệm đƣa ra ở trên có giá trị rất lớn về mặt lí luận để ta vận
dụng vào thực tiễn tìm ra giá trị đích thực của văn học. Việc khẳng định thế
giới nghệ thuật là một chỉnh thể ngoài việc chỉ ra mối quan hệ mật thiết
giữa các yếu tố còn giúp ngƣời nghiên cứu tránh đƣợc những suy diễn chủ
quan, lệch lạc trong việc khám phá, chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật. Vì vậy,
dù nghiên cứu văn học ở cấp độ nào đều phải làm rõ thuật ngữ này.
1.1.2.

Quan niệm nghệ thuật về cuộc sống và con người

Thế giới nghệ thuật của một nhà văn là thế giới riêng, không trộn lẫn
mà nhà văn đó đã tạo dựng nên, chứa đựng những quan niệm nhân sinh, xã

hội của ngƣời sáng tạo. Có thể nói, một trong những yếu tố cơ bản cấu tạo
nên thế giới nghệ thuật của một nhà văn chính là quan niệm nghệ thuật về
cuộc sống và con ngƣời của nhà văn.
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa quan niệm nghệ thuật là:
“nguyên tắc cắt nghĩa thế giới và con ngƣời vốn có của hình thức nghệ
thuật, đảm bảo cho nó khả năng thể hiện đời sống với một chiều sâu nào
đó” [11; 229]. Cuộc sống và con ngƣời là đối tƣợng hƣớng tới của văn
chƣơng, nhà văn phải hiểu cách họ giao tiếp với nhau, với thế giới và với
bản thân, cách họ sống, hành động và suy nghĩ, điều họ quan tâm và không
quan tâm trong cuộc đời. Những điều đó tạo thành mô hình nghệ thuật về
thế giới và con ngƣời bao quát mà tác giả xuất phát để khắc họa hình tƣợng
những con ngƣời, số phận cụ thể, tổ chức quan hệ của các nhân vật, giải
11


quyết xung đột, xây dựng kết cấu cho tác phẩm. Cuộc sống và con ngƣời
trong văn học không phải là cuộc sống và con ngƣời có trong thực tế mà là
cách quan niệm về cuộc sống và con ngƣời ấy một cách thẩm mỹ và nghệ
thuật của nhà văn. Quan niệm nghệ thuật thể hiện “giới hạn tối đa trong
cách hiểu thế giới và con ngƣời của một hệ thống nghệ thuật, thể hiện khả
năng, phạm vi, mức độ chiếm lĩnh đời sống của nó” [11; 229]. Vấn đề quan
niệm nghệ thuật về cuộc sống và con ngƣời thực chất là vấn đề tính năng
động của nghệ thuật trong việc phản ánh hiện thực, lí giải cuộc sống, con
ngƣời bằng các phƣơng tiện nghệ thuật, là vấn đề về giới hạn, phạm vi
chiếm lĩnh đời sống của một hệ thống nghệ thuật.
Con ngƣời là trung tâm của cuộc sống đồng thời cũng là đối tƣợng chủ
yếu của văn học. Do đó, cốt lõi trong quan niệm nghệ thuật của nhà văn
chính là quan niệm nghệ thuật về con ngƣời. Quan niệm nghệ thuật về con
ngƣời là hình thức đặc thù thể hiện con ngƣời trong văn học. Trần Đình Sử
trong Thi pháp học đã cho rằng: “Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời là sự

lý giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con ngƣời đã đƣợc hóa thân thành các
nguyên tắc, phƣơng tiện, biện pháp hình thức thể hiện con ngƣời trong văn
học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tƣợng nhân vật
trong đó [29; 55]. Nhân vật là hình thức cơ bản để miêu tả con ngƣời trong
văn học và quan niệm nghệ thuật về con ngƣời hƣớng ngƣời ta khám phá
cách cảm thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể, ngay cả khi miêu
tả con ngƣời giống hay không giống với đối tƣợng. Quan niệm nghệ thuật
về con ngƣời chính là sự khám phá về con ngƣời. Nó phản ánh cấu trúc của
nhân cách con ngƣời và các hình thức phức tạp tƣơng ứng trong quan hệ

12


con ngƣời đối với thế giới, gắn liền với cái nhìn nghệ sĩ, mang dấu ấn sáng
tạo của cá tính nghệ sĩ.
Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời không phải là bất cứ cách cắt
nghĩa, lý giải nào về con ngƣời, mà là “cách cắt nghĩa có tính phổ quát, tột
cùng mang ý vị triết học, nó thể hiện cái giới hạn tối đa trong việc miêu tả
con ngƣời” [29; 59]. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời luôn hƣớng vào
con ngƣời trong mọi chiều sâu của nó. Vì vậy, đây là tiêu chuẩn quan trọng
nhất để đánh giá giá trị nhân văn vốn có của văn học. Nghệ sĩ là ngƣời suy
nghĩ về con ngƣời, cho con ngƣời, nêu ra những tƣ tƣởng mới để hiểu về
con ngƣời, do đó càng khám phá nhiều quan niệm nghệ thuật về con ngƣời
thì càng đi sâu vào thực chất sáng tạo của họ, càng đánh giá đúng thành tựu
của họ.
Mỗi nhà văn có quan điểm, tƣ tƣởng, cách cảm thụ, cách phản ánh
khác nhau…nên thế giới qua “sự thanh lọc” của lăng kính thẩm mỹ của mỗi
ngƣời cũng rất khác nhau, tạo nên sự phong phú, đa dạng, đa sắc trong văn
chƣơng nghệ thuật. Thế giới trong tác phẩm còn là sự phản chiếu thế giới
tâm hồn của nhà văn. Tuy nhiên không phải ngƣời sáng tác nào cũng đủ tài

năng để tạo dựng cho mình một thế giới nghệ thuật riêng, không trộn lẫn.
Dạ Ngân là một trong số những nhà văn làm đƣợc điều đó. Dạ Ngân đã tìm
cho mình những góc độ riêng khi phản ánh, cắt nghĩa, lý giải về cuộc sống
và con ngƣời, để khám phá ra những giá trị, chiều sâu trong bức tranh cuộc
sống và con ngƣời.

13


1.2. Sáng tác của Dạ Ngân
1.2.1. Hành trình sáng tác
Nhà văn Dạ Ngân tên thật là Lê Hồng Nga sinh ngày 06/02/1952 ở
Cao Lãnh, Đồng Tháp. Dạ Ngân là bút danh sáng tác cùng với những bút
danh khác nhƣ Lê Long Mỹ, Dạ Hƣơng.
Tuổi thơ của Dạ Ngân đƣợc bao bọc bởi nghề vƣờn, cây vƣờn và nhà
nội, trong đó vai trò quyết định thuộc ngƣời cô của Dạ Ngân – ngƣời đàn bà
góa đã ở vậy đến già để chăm lo cho bầy cháu. Tâm hồn và tính cách của
ngƣời cha và ngƣời cô đã quyết định tƣ chất của Dạ Ngân sau này. Gia đình
Dạ Ngân có truyền thống yêu nƣớc, cha hi sinh trong kháng chiến còn tất cả
các chị em gái của Dạ Ngân đều vào Cứ tham gia đánh giặc.
Dạ Ngân yêu thích văn chƣơng từ khi còn ở Cứ. Mỗi đêm chị đều lén
đọc Sông Đông êm đềm – cuốn sách thời đó bị coi là “có vấn đề về chính
trị và đạo đức. Năm 1978, vì nhiều nguyên nhân do nội tâm chị thấy mình
cần phải viết. Truyện ấy đƣợc tạp chí Văn nghệ tỉnh in vào số Tết, đó chính
là kiệt tác đầu tay của Dạ Ngân.
Từ bộ phận làm tin thuộc Sở văn hóa thông tin tỉnh Hậu Giang, Dạ
Ngân đƣợc chuyển sang Hội văn nghệ tỉnh sau truyện ngắn ấy. Đầu năm
1982, truyện ngắn Quãng đời ấm áp của Dạ Ngân khi mới xuất hiện trên
tuần báo Văn nghệ của Hội nhà văn đã gây đƣợc sự chú ý của ngƣời đọc
bởi phong cách viết chững chạc, giàu nữ tính, có khả năng đi sâu vào những

diễn biến phức tạp trong nội tâm nhân vật. Tháng tƣ năm đó, Dạ Ngân đƣợc
mời đi dự Trại sáng tác của Hội ở Vũng Tàu. Tại đây, cuộc đời rồng rắn đã
đƣa chị bƣớc xuống một con đò khác. Dạ Ngân tâm sự: “Đời tƣ của tôi
đóng vai trò rất lớn trong công việc của một nhà văn, ngƣợc lại văn chƣơng
14


cũng không rời tôi trong mọi chặng đƣờng do chính tôi thiết kế và xả thân
cho nó”4.
Dạ Ngân là một trong số không nhiều cây bút văn xuôi đến từ miền
Tây Nam Bộ trƣởng thành trong đội ngũ các tác giả xuất hiện sau năm
1975. Mặc dù đƣợc dƣ luận đặc biệt chú ý kể từ sau truyện ngắn Con chó
và vụ ly hôn (1985) khi lần đầu tiên, những chuyện thầm kín khó nói của
đời sống vợ chồng đƣợc một nhà văn nữ phơi bày thẳng thắn nhƣng sự hiện
diện nở rộ của một loạt những tên tuổi nữ sĩ trẻ: Nguyễn Thị Thu Huệ, Y
Ban, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan trong thập kỉ 90 sau đó dƣờng nhƣ khiến
bạn đọc bỏ lại đằng sau cái tên Dạ Ngân. Song, trải qua hơn một phần tƣ thế
kỷ cầm bút suốt trong Nam ngoài Bắc, ngƣời phụ nữ miệt vƣờn viết văn ấy
đã chứng minh đƣợc sức bền trong sáng tạo nghệ thuật khi chị lần lƣợt cho
ra đời cả thảy mƣời đầu sách, kịch bản phim và mới đây nhất là tiểu thuyết
Miệt vườn xa lắm, Gia đình bé mọn cùng hàng trăm tản văn, hàng nghìn kì
thƣ Tư vấn gia đình với bút danh Dạ Hƣơng.
Năm 1987, Dạ Ngân đƣợc kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam và con
đò thứ hai đã đƣa chị đi thật xa miệt vƣờn của mình nhƣng đó là hành trình
thuận theo nhiều nghĩa. Cuối cùng Dạ Ngân cũng đƣợc tu nghiệp bốn năm
ở Trƣờng viết văn Nguyễn Du, cũng đƣợc sống trong bầu không khí của
văn hóa cội nguồn, giữa Hà Nội từng cƣu mang chị và ngƣời chồng sau của
chị, hai nhà văn, hai con ngƣời khốn khó trong thời kỳ đi tìm một chỗ dừng
chân để tồn tại cùng với văn chƣơng.


4

Dạ Ngân, Tự thuật tiểu sử văn học, truy cập />ngày 15/11/2013
15


Tiểu thuyết và truyện ngắn là hai mảng mà Dạ Ngân đạt nhiều thành
công nhất, trong đó phải kể đến những tác phẩm: Cõi nhà (1993), Nhìn từ
phía khác (2002), Nước nguồn xuôi mãi (2008)… Bên cạnh đó, Dạ Ngân
còn có những sáng tác cho thiếu nhi: Mẹ mèo (1992), Miệt vườn xa lắm (
2003); tản văn Mùa đốt đồng (2000), 100 tản mạn hồn quê (2007); tiểu
thuyết Gia đình bé mọn (2005).
Gia đình bé mọn là cuồn tiểu thuyết thứ hai trong văn nghiệp của Dạ
Ngân (sau Miệt vườn xa lắm) và đƣợc xem là tác phẩm thành công nhất
của chị cho tới thời điểm này khi vinh dự đƣợc nhận liền hai giải thƣởng
của Hội nhà văn Hà Nội năm 2005, với số phiếu tuyệt đối và Hội nhà văn
Việt Nam năm 2006. Đồng thời mới đây trở thành cuốn tiểu thuyết đầu tiên
ở Việt Nam đƣợc nhà xuất bản Curbstone Press dịch sang tiếng Anh, xuất
bản ở Mỹ với sự chuyển ngữ của bà Rosemary Nguyễn – một trong hai
ngƣời phụ nữ nói tiếng Việt giỏi nhất nƣớc Mỹ, đƣợc mệnh danh là thần
đồng ngôn ngữ Việt Nam.
Ngoải ra, Dạ Ngân còn viết kịch bản phim với hai kịch bản Chuyến đi
của mẹ - kịch bản phim nhựa sản xuất năm 1988 và Chân trời nơi ấy – kịch
bản phim nhựa sản xuất năm 1995. Những tác phẩm này đã góp phần làm
đầy đặn thêm hành trình sáng tác của Dạ Ngân trên con đƣờng đến với công
chúng.
1.2.2.

Quan điểm sáng tác của Dạ Ngân


Dạ Ngân viết không nhiều, nhƣ chị từng thú nhận cũng “ham vui lắm”.
Những dòng bộc bạch trong cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại có thể là chìa
khóa để ngƣời đọc hiểu đƣợc quan niệm về văn học và cuộc sống của cây
bút nữ rất có phong cách này: “Văn chƣơng, đó không chỉ là nghề nhƣ mọi
16


nghề mà còn là con đƣờng khổ ải cho những ngƣời đàn bà cầm bút. Dù vậy,
vẫn hơn, vì con đƣờng ấy cho ngƣời ta sự cô độc tối cao, niềm tin dai dẳng
và có thể khóc, cƣời thoải mái một mình. Với tôi, văn chƣơng hoàn toàn
xứng đáng đƣợc coi nhƣ đạo, bởi có nói gì, nó vẫn có nghĩa cứu rỗi, hƣớng
thiện cho con ngƣời. Tôi chấp nhận nó cày xới mặt trái của xã hội loài
ngƣời và mảnh đất tâm linh của kiếp ngƣời. Tôi quan niệm nhà văn phải
sống trƣớc đã. Sống tức là viết đƣợc phần nửa điều mình muốn tuyên ngôn.
Cũng có chỗ khác ngƣời ở vấn đề sống này. Nghĩa là sống với tất cả các
cung bậc tình cảm, với sự nhảy cảm của từng tế bào nguyên liệu sẽ sinh ra
từ từng giây phút ấy”.
Trong lần trả lời phỏng vấn của phóng viên trên báo Vnexpress, Dạ
Ngân tâm sự: “Mỗi ngƣời có một miền sáng tác. Quê hƣơng trong tôi rất
đầy đặn, cho tôi trữ lƣợng dồi dào để sống và viết. Và có lẽ sự xa cách về
không gian, thời gian đã cho tôi cái nhìn đẹp nhất, trong sáng nhất về nơi
mình sinh ra”5. Quê hƣơng mà chị nói tới ấy là Đồng Tháp. Dạ Ngân vẫn
luôn coi mình là một ngƣời con của miền Tây, không chỉ bởi đó là mảnh đất
nơi chị đƣợc sinh ra, lớn lên mà còn là cái nôi nuôi dƣỡng, rèn luyện tƣ
chất, lối sống của chị.
Trên báo VanVN.net (Cơ quan ngôn luận của Hội nhà văn Việt Nam)
Dạ Ngân bày tỏ những suy nghĩ về nghề văn mà chị dấn thân bằng tất cả
trái tim, trí tuệ và tâm hồn: “Là một nghề khổ nhọc và cao quý. Trong xã
hội nhiều biến động của Việt Nam, nhân cách nhà văn đôi khi quan trọng


5

Thu Hà, Dạ Ngân, mỗi người có một miền sáng tác, Vnexpress.net, truy cập
ngày 15/12/2013
17


hơn cả các tài năng và các giải thƣởng. Tôi biết mình có thể mƣu sinh bằng
nghề dạy học, làm vƣờn, chăn nuôi, bán hàng… nhƣng nghề văn cho tôi sự
giác ngộ”6.
Với tám tập truyện ngắn, hai tiểu thuyết và kịch bản phim, Dạ Ngân đã
miệt mài, cần mẫn tạo dựng cho mình một vị trí trên văn đàn. Chị luôn ý
thức đƣợc sứ mệnh, tình yêu và trách nhiệm của ngƣời cầm bút. Chia sẻ về
công việc sáng tác của mình, Dạ Ngân cho rằng: “Với truyện ngắn, trƣớc
tiên tôi chuẩn bị một cái tứ. Tôi quan niệm thiếu tứ nhƣ hoa thiếu hƣơng,
món hàng thiếu cái đặc sắc của dấu ấn. Có ngƣời gọi nó là chủ đề tƣ tƣởng,
có ngƣời gọi nó thành tiêu chí triết học, tôi gọi nó là tứ cho gọn, cho vừa
với sức mình. Tứ càng kín, truyện càng đậm, càng thấm thía”.
Có một nhà văn nói đại ý rằng: “Viết văn phải đứng trên đôi bờ cảm
xúc, một là yêu thƣơng mãnh liệt, hai là căm ghét tột cùng”. Và với Dạ
Ngân thì cảm xúc “chính là máu, thiếu nó các tế bào từ ngữ sẽ xanh xao và
đứa con sẽ èo uột, có khi chẳng ra hình thù gì. Đó là những giây phút tuyệt
diệu khi cảm xúc ùa đến giống nhƣ cảm giác nhập thần, ngay từ khi đƣa tờ
giấy trắng vào máy chủ ta đã có thể nghe vang trong ta những dòng kết
thúc. Một cái gì đó vừa xuyên qua ta, vắt lấy ta và cuối cùng để lại cảm giác
tan rã thiêng liêng, ngọt ngào.” Không phải ngẫu nhiên mà thể loại truyện
ngắn đƣợc Dạ Ngân chú trọng sáng tác nhiều hơn cả bởi với chị “truyện
ngắn là những tiếng nói thỏ thẻ cần cho mọi ngƣời, mãi mãi là những chốc
lát bổ ngang để có thể nhìn thấy đƣợc cái lõi của cuộc sống và với nhà văn
nó mãi mãi là những chốc lát tuyệt vời”.

6

VanVn.net (2012), Chùm truyện ngắn của Dạ Ngân, truy cập
ngày 15/12/2013
18


Bằng một vốn sống đủ đầy, từng trải, bằng chất văn hồn hậu, tinh tế,
phóng khoáng mà cũng cẩn trọng đến từng chi tiết, những trang viết của Dạ
Ngân thực sự đã tạo đƣợc một chỗ đứng vững vàng trong lòng độc giả trong
dòng chảy ồ ạt của văn chƣơng hiện nay. Với bút pháp hiện thực nghiêm
ngặt và nhịp điệu trần thuật nhanh Dạ Ngân đã đƣa vào tác phẩm một lƣợng
thông tin khá đồ sộ. Qua những tác phẩm của chị, ngƣời đọc không những
hình dung ra bối cảnh xã hội lúc bấy giờ mà còn cung cấp cho bạn đọc
những thông điệp, quan niệm sống rất bổ ích. Đó chính là lí do vì sao nói
tác phẩm của Dạ Ngân là bức tranh chân thực và sinh động về hiện thực
cuộc sống khó khăn thời bao cấp.
Dạ Ngân – ngƣời phụ nữ miền Tây viết văn bằng bản năng và trải
nghiệm của chính mình nên sự chân thực trong tác phẩm là yếu tố tạo ấn
tƣợng mạnh với bạn đọc. Phần lớn các tác phẩm của Dạ Ngân đều viết về
gia đình mà đặc biệt là sự đổ vỡ trong hôn nhân, chẳng hạn nhƣ truyện ngắn
Con chó và vụ li hôn hay tiểu thuyết Gia đình bé mọn…
Với sức viết bền bỉ, đề tài hấp dẫn, văn phong lôi cuốn, luôn có sự tìm
tòi, đổi mới trong nghệ thuật thể hiện, Dạ Ngân đã góp phần không nhỏ vào
dòng chảy sôi động của văn học Việt Nam đƣơng đại.

19



×