Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

Tổ chức và hoạt động của bộ binh dưới triều Minh Mệnh ( 1820-1840) : Luận văn ThS. Lịch sử: 60 22 54

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.11 MB, 166 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------

HÀ DUY BIỂN

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ BINH
DƢỚI TRIỀU MINH MỆNH (1820-1840)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------

HÀ DUY BIỂN

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ BINH
DƢỚI TRIỀU MINH MỆNH (1820-1840)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 54

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Vũ Văn Quân

Hà Nội - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của Phó giáo sư, Tiến sĩ Vũ Văn Quân.
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều trung thực và có
nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 23 tháng 09 năm 2015
Tác giả luận văn

Hà Duy Biển

118


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy giáo hướng dẫn luận
văn của tôi - Phó giáo sư, Tiến sĩ Vũ Văn Quân, người Thầy đã dìu dắt tôi trên
con đường học tập và nghiên cứu sử học liên tục từ những năm học Đại học đầy
ý nghĩa!
Từ nơi sâu thẳm của trái tim và khối óc, tôi vô cùng biết ơn và trân
trọng sự quan tâm, xẻ chia đầy thân tình và nghiêm cẩn, trong tinh thần khơi
gợi và tiếp dẫn của người Thầy đã quá cố - Phó giáo sư, Tiến sĩ khoa học
Nguyễn Hải Kế, và vị Thầy giáo già kính yêu - Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn
Thừa Hỷ!
Tinh thần khoa học, sự độ lượng và tính nhân văn trong suy nghĩ, lời
nói và việc làm của các Thầy chính là tấm gương sáng, như ngọn đèn biển rọi
đường dẫn lối trên đại dương mênh mông, mờ mịt của cuộc sống và tri thức!
Tôi trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, cán bộ công tác tại Khoa
Lịch sử và Phòng Sau đại học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn,
và Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, đều thuộc Đại học Quốc gia Hà

Nội; các đồng chí, đồng đội tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, đặc biệt là Bộ
môn Lịch sử quân sự cổ - trung - cận đại; các cán bộ Thư viện Quốc gia Việt
Nam, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I và nhiều
anh chị em, bạn bè ở trong nước và nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi trong quá trình thực hiện và hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Tôi luôn
biết ơn gia đình - cả gia đình lớn và gia đình nhỏ - đã không ngừng tin tưởng,
động viên, tạo điều kiện để tôi được theo đuổi sự học tập lâu dài của mình!
Hà Nội, ngày 23 tháng 09 năm 2015
Tác giả luận văn

Hà Duy Biển

119


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU .......................................................................................................
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................
3. Mục đích nghiên cứu ..........................................................................
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .....................................................
5. Nguồn tài liệu ......................................................................................
6. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................
7. Đóng góp của luận văn ......................................................................
8. Cấu trúc luận văn ..............................................................................
CHƢƠNG 1: CƠ CẤU NHÂN SỰ VÀ CƠ CẤU BỘ MÁY TỔ CHỨC ....
1.1. Tổ chức quản lý hành chính quân sự cấp trung ƣơng thời các
chúa Nguyễn (1614-1802) và dƣới triều Gia Long (1802-1820)

1.1.1. Tổ chức quản lý hành chính quân sự cấp trung ương
thời các chúa Nguyễn ..........
1.1.2. Tổ chức quản lý hành chính quân sự cấp trung ương
dưới triều Gia Long ...........
1.2. Quá trình biến chuyển cơ cấu nhân sự của Bộ Binh
dƣới triều Minh Mệnh (1820-1840) ....................
1.2.1. Cơ cấu nhân sự năm 1820 ......................................................
1.2.2. Cơ cấu nhân sự năm 1821 ......................................................
1.2.3. Cơ cấu nhân sự từ năm 1824 đến 1826 .................................
1.2.4. Cơ cấu nhân sự từ năm 1827 đến 1840 .................................
1.2.5. Nhân sự Bộ Binh - “tăng chứ không giảm” .........................
1.2.6. Vài nét về Thượng thư Bộ Binh .............................................
1.3. Quá trình biến chuyển cơ cấu bộ máy tổ chức của Bộ Binh
dƣới triều Minh Mệnh (1820-1840) ........
1.3.1. Một vài khúc mắc về sử liệu ............................................................
1.3.1.1. Về cơ cấu bộ máy tổ chức trong sách Khâm định Đại
Nam hội điển sự lệ.........
1.3.1.2. Về cơ cấu bộ máy tổ chức năm 1820 ..................................
1.3.1.3. Về sự chuyển đổi các Ty Lệnh sử thành những Ty Thanh lại
vào năm 1821 ...........
1.3.2. Cơ cấu bộ máy tổ chức Bộ Binh triều Minh Mệnh .......................
1.3.2.1. Giai đoạn từ năm 1821 đến 1826 .................................
1.3.2.2. Giai đoạn từ năm 1826 đến 1840 .................................
Tiểu kết Chương 1 ...................................................................................
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH BẢO ĐẢM VÀ QUY CHẾ VẬN HÀNH ......
2.1. Quy định bảo đảm ...........................................................................
2.1.1. Công đường .............................................................................
2.1.2. Vật dụng công .........................................................................
120


4
4
5
8
8
9
9
10
11
12
12
12
13
16
16
17
21
22
23
25
28
28
28
30
30
31
31
33
38
39

39
39
40


2.1.2.1. Thuyền ..........................................................................
2.1.2.2. Đồng hồ ........................................................................
2.1.2.3. Văn phòng tứ bảo (nghiên, bút, giấy, mực) .................
2.1.2.4. Ống trạm và Bài trạm ..................................................
2.1.2.5. Tiền công nhu ..............................................................
2.1.2.6. Triều phục ...................................................................
2.1.3. Chế độ lương bổng ................................................................
2.1.3.1. Cách thức tính lương bổng .........................................
2.1.3.2. Cách thức lĩnh lương bổng ..........................................
2.1.3.2. Định mức lương bổng ..................................................
2.1.4. Cáo sắc, văn bằng ..................................................................
2.1.4.1. Thành phần được cấp cáo sắc, văn bằng ....................
2.1.4.2. Thể thức cáo sắc, văn bằng .........................................
2.1.4.3. Quy định sử dụng cáo sắc, văn bằng ...........................
2.1.5. Phong tặng phẩm hàm và thụy hiệu .....................................
2.1.5.1. Phong tặng phẩm hàm và thụy hiệu cho quan lại .......
2.1.5.2. Phong tặng phẩm hàm và thụy hiệu cho thân nhân quan lại .....
2.1.6. Chế độ tử tuất .........................................................................
2.2. Quy chế vận hành ...........................................................................
2.2.1. Quy chế ấn triện ....................................................................
2.2.1.1. Ấn triện công của Bộ Binh .........................................
2.2.1.2. Ấn triện riêng của quan lại Bộ Binh ...........................
2.2.2. Quy cách vận hành ................................................................
2.2.2.1. Quy định về Văn thư ...................................................
2.2.2.2. Thời gian làm việc ......................................................

Tiểu kết Chương 2 .................................................................................
CHƢƠNG 3: CHỨC TRÁCH VÀ HOẠT ĐỘNG ...................................
3.1. Chức trách .......................................................................................
3.2. Hoạt động quản lý ngạch quan võ .................................................
3.2.1. Tuyển chọn trong ngạch quan võ .........................................
3.2.1.1. Tuyển chọn con cháu quan lại ....................................
3.2.1.2. Tuyển chọn từ những binh lính có kinh nghiệm và có công mộ lính
3.2.2. Bổ nhiệm, thuyên chuyển trong ngạch quan võ ..................
3.2.2.1. Lệ hậu thăng và hậu điệu, lệ thí sai và thực thụ .........
3.2.2.2. Bổ nhiệm, thuyên chuyển các cấp trong ngạch quan võ
3.2.3. Khảo xét (công, tội) trong ngạch quan võ .............................
3.2.3.1. Các quy định về khảo xét (công, tội) ...........................
3.2.3.2. Khảo xét công lao và khen thưởng ..............................
3.2.3.3. Khảo xét tội lỗi và trừng phạt ......................................
3.2.4. Làm sổ sách ngạch quan võ ... ...............................................
3.2.4.1. Quy định về việc làm sổ sách ngạch quan võ ..............
3.2.4.2. Làm sổ sách thường kỳ ngạch quan võ ........................
3.2.4.3. Làm sổ sách ngạch quan võ vào những dịp lễ lớn .......
3.2.4.4. Làm sổ sách ngạch quan võ theo yêu cầu đột xuất của nhà vua
3.3. Hoạt động quản lý ngạch binh .......................................................
121

40
40
41
41
41
41
43
43

45
46
52
52
53
54
55
55
56
57
59
59
59
60
62
62
66
69
70
70
74
74
75
77
78
78
79
80
80
80

81
83
83
83
84
84
85


3.3.1. Tuyển chọn quân lính ..........................................................
3.3.2. Huấn luyện quân lính ..........................................................
3.3.2.1. Thao diễn thường kỳ.....................................................
3.3.2.2. Duyệt binh đầu năm ....................................................
3.3.2.3. Huấn luyện không theo định kỳ ...................................
3.3.3. Điều bổ quân lính ...................................................................
3.3.3.1. Điều bổ quân lính để tổ chức, sắp xếp quân đội trong cả nước
3.3.3.2. Điều động binh lính canh gác ......................................
3.3.3.3. Phân ban binh lính .......................................................
3.3.4. Khảo xét quân lính ..................................................................
3.3.4.1. Các quy định khảo xét quân lính .................................
3.3.4.2. Khảo xét công lao và khen thưởng ..............................
3.3.4.3. Khảo sát tội lỗi và xử phạt ...........................................
3.3.5. Làm sổ sách ngạch binh .........................................................
3.3.5.1. Quy định làm sổ sách ngạch binh ................................
3.3.5.2. Làm sổ sách ngạch binh thường kỳ ..............................
3.3.5.3. Làm sổ sách ngạch binh không thường kỳ ...................
3.4. Quản lý hoạt động quân sự, lập đồn ải .........................................
3.4.1. Quản lý hoạt động quân sự ...................................................
3.4.1.1. Quản lý hoạt động quân sự trên đất liền ....................
3.4.1.2. Quản lý hoạt động quân sự trên biển ..........................

3.4.1.3. Quản lý, điều hành hoạt động khác liên quan đến binh lính
3.4.2. Quản lý việc lập đồn ải ..........................................................
3.4.2.1. Tham mưu và thẩm định các việc liên quan đến lập đồn ải
3.4.2.2. Điều hành việc xây dựng, tu bổ và trang bị cho các đồn ải
3.5. Hoạt động quản đốc Sở Bƣu chính, hai kho súng ống và thuốc súng...
3.5.1. Hoạt động quản đốc Sở Bưu chính ........................................
3.5.2. Hoạt động quản đốc hai kho súng ống và thuốc súng ..........
3.6. Hoạt động khác . ..............................................................................
3.6.1. Thanh tra .................................................................................
3.6.2. Quản đốc viện Thượng tứ và mua voi, ngựa công ................
3.6.3. Quản lý vũ khí, trang bị quân sự ............................................
Tiểu kết Chương 3 ...................................................................................
KẾT LUẬN ..................................................................................................

85
86
86
87
87
88
88
89
89
90
90
90
91
91
91
92

92
93
93
93
94
95
95
96
96
97
97
98
99
99
100
101
101
103

TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................

105

PHỤ LỤC .......................................................... .........................................

117

122



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Triều vua Minh Mệnh (1820-1840)1 là thời đoạn có vai trò quan
trọng và ý nghĩa nhiều mặt trong lịch sử vương triều Nguyễn nói riêng, lịch sử
Việt Nam nói chung. Đây là thời kỳ mà lãnh thổ Việt Nam có diện tích lớn
nhất và quốc gia Việt Nam - Đại Nam trở thành một cường quốc trong khu
vực. Đây cũng là thời kỳ nước ta có những tiếp xúc và giao lưu mạnh mẽ với
cả văn hóa văn minh phương Đông (Trung Quốc, Ấn Độ, Đông Nam Á) cũng
như văn hóa văn minh phương Tây, đương diện với các nguy cơ ngày càng lộ
rõ từ bên ngoài, đồng thời có nhiều cơ hội để mở cửa hội nhập với khu vực và
thế giới. Trong bối cảnh đó, tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà
nước thời Minh Mệnh là một chủ đề quan trọng, có nhiều ý nghĩa về khoa học
và thực tiễn, cần được đào sâu nghiên cứu.
1.2. Sự biến chuyển liên tục của bộ máy nhà nước với điểm nút là cuộc
cải cách quy mô lớn dưới triều Minh Mệnh (1831-1832) đã mang lại cho vương
triều Nguyễn một bộ máy quản lý hành chính khá đồ sộ, tiến hành quản lý và
điều hành một lãnh thổ rộng lớn chưa từng có trong lịch sử Việt Nam. Tuy
nhiên, tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý hành chính triều Minh Mệnh
nói riêng, bộ máy quản lý hành chính triều Nguyễn nói chung, cùng những bộ
phận cấu thành của nó vẫn còn chưa được nghiên cứu một cách chi tiết, cụ thể
với tư cách như một bộ phận trong cấu trúc và cấu trúc bao gồm những bộ phận,
cũng như đặt trong các mối quan hệ lịch đại và đồng đại. Bộ Binh với tư cách
như một cơ quan quản lý hành chính cấp trung ương, thực hiện nhiệm vụ quản
lý nhà nước về hành chính quân sự của nước Việt Nam - Đại Nam2, cũng chưa
được chú ý nghiên cứu và hiện còn chưa có những công trình riêng biệt, tương

1

Minh Mệnh (Nguyễn Phúc Đảm) sinh ngày 23 tháng 4 năm Tân Hợi, tức ngày 25/5/1791, tại làng Tân Lộc
thuộc Gia Định, chính thức lên nối ngôi vua từ ngày mồng 1 Tết Nguyên đán năm Canh Thìn, tức ngày

14/2/1820, làm vua 21 năm với niên hiệu Minh Mệnh (cũng đọc là Minh Mạng) cho đến khi mất vào giờ Hợi
(23-01 giờ) ngày 28 (Giáp Thân) tháng Chạp năm Canh Tý niên hiệu Minh Mệnh thứ 21 (1840), tức ngày
20/1/1841, hưởng thọ 50 tuổi, được tôn dâng miếu hiệu là Thánh Tổ, Thể Thiên, Xương Vận, Chí Hiếu,
Thuần Đức, Văn Vũ, Minh Đoán, Sáng Thuật, Đại Thành, Hậu Trạch, Phong Công, Nhân hoàng đế [116,
tr.889]. Như vậy, thời gian cầm quyền của ông cũng như niêu hiệu Minh Mệnh đúng ra phải tính chính xác từ
ngày 14/2/1820 đến 20/1/1841, tức là đã bước sang năm 1841. Tuy nhiên, hiện này các tài liệu đều chỉ tính
đến năm 1840. Trước khi có những nghiên cứu, thảo luận chuyên sâu và được thừa nhận rộng rãi hơn, trong
luận văn này tạm thời vẫn tính niên hiệu Minh Mệnh từ năm 1820 đến 1840.
2
Tháng 3 năm Mậu Tuất (1838), vua Minh Mệnh mới chính thức đổi tên nước: “trước gọi là Việt
Nam, nay gọi là Đại Nam” [116, tr.276-277].

123


xứng với vai trò và ảnh hưởng của cơ quan này trong tổ chức bộ máy quản lý
nhà nước dưới triều Minh Mệnh.
Thêm nữa, một công trình nghiên cứu riêng biệt về tổ chức và hoạt
động của Bộ Binh dưới triều Minh Mệnh hứa hẹn có thể cung cấp thêm những
thông tin về mô hình tổ chức và hoạt động thực tiễn có tính chất tham khảo, so
sánh trong thực tiễn xây dựng và điều hành tổ chức Bộ Quốc phòng cũng như
xây dựng quân đội và nền quốc phòng - an ninh hiện nay.
1.3. Cùng với việc dịch và công bố rộng rãi một loạt tư liệu của/về triều
Nguyễn có liên quan, một đề tài nghiên cứu chi tiết về tổ chức và hoạt động
của Bộ Binh dưới triều Minh Mệnh hoàn toàn có thể thực hiện được.
1.4. Học viên từng tốt nghiệp Đại học chuyên ngành Lịch sử Việt Nam cổ
trung đại, hiện đang làm việc tại Bộ môn Lịch sử quân sự Việt Nam cổ - trung cận đại thuộc Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Bộ Quốc phòng, có điều kiện
triển khai thực hiện và hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Đồng thời, được sự
đồng ý giúp đỡ và khích lệ của thầy hướng dẫn khoa học, đề tài được tích cực
triển khai, hứa hẹn thực hiện thành công và hy vọng có thể mở ra một hướng

nghiên cứu lâu dài đối với học viên.
Từ những nhận thức trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu Tổ
chức và hoạt động của Bộ Binh dưới triều Minh Mệnh (1820-1840) với
mong muốn có thể thực hiện một sự tiếp cận vi mô đối với nghiên cứu về Bộ
Binh triều Minh Mệnh nói riêng, bộ máy nhà nước thời Nguyễn nói chung.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Dựa trên hệ thống tư liệu đồ sộ về triều Nguyễn và của triều Nguyễn đã
từng bước được phiên dịch, công bố trong hơn một thế kỷ qua, nhiều sách, tài liệu
nghiên cứu về triều Nguyễn đã được thực hiện và phổ biến rộng rãi. Các công
trình đã công bố chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu các vấn đề chính trị, kinh
tế, xã hội, văn hóa, cùng các hoạt động quân sự của triều Nguyễn (nhất là hoạt
động đàn áp khởi nghĩa nông dân và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược cuối thế kỷ XIX)...
Trước hết cần phải kể đến những nghiên cứu chung về tổng thể lịch sử
Việt Nam, hay những lĩnh vực xuyên suốt hoặc một khoảng dài lâu trong lịch
sử Việt Nam, mà Bộ Binh triều Minh Mệnh nói riêng, triều Nguyễn nói chung
được đề cập đến như một bộ phận. Tiêu biểu như Lịch sử chế độ phong kiến
124


Việt Nam, Tập III của nhóm tác giả Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng
Tuyên, Đinh Xuân Lâm (1965) [58]; Lịch sử Việt Nam, Tập II (Từ cuối thế kỷ
XIV đến giữa thế kỷ XIX) do Phan Huy Lê chủ biên (2012) [56]; Lịch sử Việt
Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX của Lê Thành Khôi [50]; Những đặc
trưng cơ bản của bộ máy quản lý đất nước và hệ thống chính trị nước ta trước
thời kỳ đổi mới do Vũ Minh Giang chủ biên (2008) [39]; Lịch sử tổ chức quân
sự Việt Nam, Tập 2 (1400-1930) do Dương Đình Lập chủ biên (2014) [52]; và
mới đây nhất là Luận án Tiến sĩ lịch sử Biến đổi của mô hình tổ chức nhà
nước ở Việt Nam (Thế kỷ X-XIX) của Phạm Đức Anh (2014) [2]... Ở nước
ngoài, công trình A history of the Vietnamese (Một lịch sử của người Việt

Nam) của Keith Weller Taylor (2013) [159] được chú ý rất nhiều. Tổ chức và
hoạt động của Bộ Binh triều Minh Mệnh được đề cập tới trong những công
trình này khá sơ sài, tương xứng với tư cách bộ phận nhỏ bé của nó trong đối
tượng rộng lớn mà các nghiên cứu này đề cập tới.
Đáng chú ý hơn là những công trình nghiên cứu trực tiếp về triều
Nguyễn. Trong đó, những công trình nghiên cứu tổng thể triều Nguyễn hoặc
những lĩnh vực, nội dung cụ thể của lịch sử Việt Nam thời kỳ triều Nguyễn khá
phong phú, tiêu biểu như Việt sử tân biên, Quyển IV (Từ Tây Sơn mạt điệp đến
Nguyễn Sơ) của Phạm Văn Sơn (1961) [125]; 82 năm Việt sử (1802-1884) của
Nguyễn Phương (1963) [93]; Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều
Nguyễn của Nguyễn Thế Anh (1971) [3]; Phong trào nông dân Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XIX của Nguyễn Phan Quang (1986) [97]; Triều Nguyễn - những vấn
đề lịch sử tư tưởng và văn học (Chương trình nghiên cứu về triều Nguyễn) gồm
3 tập của Trường Đại học Sư phạm Huế [142] [143] [144]; số chuyên khảo về
triều Nguyễn trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (1993) [128]; Việt Nam thế kỷ
XIX (1802-1884) của Nguyễn Phan Quang [98]; Những vấn đề lịch sử về triều
đại cuối cùng ở Việt Nam của Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế và Tạp chí
Xưa & Nay (2002) [68]; Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 8 (Hoạt động quân sự từ
năm 1802 đến năm 1896) do Đinh Xuân Lâm chủ biên (2007) [51]; Việt sử đại
cương, Tập 3 (1802-1884) của Trần Gia Phụng (2007) [89]; Vùng đất Nam Bộ
dưới triều Minh Mạng của Choi Byung Wook (2011) [12]; Lịch sử Việt Nam,
Tập 5 (Từ năm 1802 đến năm 1858) do Trương Thị Yến chủ biên (Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, 2013); Luận án Tiến sĩ lịch sử Tổ chức phòng thủ và hoạt
động bảo vệ vùng biển miền Trung dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802-1885 của
125


Lê Tiến Công (2015) [13]; Và đặc biệt phải kể đến Hội thảo khoa học Chúa
Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam (từ thế kỷ XVI đến thế kỷ
XIX) được tổ chức tại Thanh Hóa ngày 18-19/10/2008 [48]... Ở nước ngoài,

công trình nghiên cứu quan trọng bậc nhất có thể kể đến là Vietnam and the
Chinese model: A comparative study of Nguyen and Ch'ing civil government in
the first half of the nineteenth century (Việt Nam và mô hình Trung Hoa:
Nghiên cứu so sánh tổ chức chính quyền ở Việt Nam và Trung Hoa nửa đầu thế
kỷ XIX) của Alexander Barton Woodside (1971) [160]. Những công trình
nghiên cứu này cung cấp cái nhìn chung khá toàn diện về triều Nguyễn và lịch
sử Việt Nam trong thế kỷ XIX - nửa đầu thế kỷ XX, nhưng tổ chức và hoạt
động của Bộ Binh triều Minh Mệnh được đề cập đến khá mờ nhạt, thậm chí là
khuyết thiếu.
Bộ phận thứ ba là những nghiên cứu về thể chế chính trị và bộ máy nhà
nước triều Nguyễn, xuất hiện khá nhiều với những hình thức, quy mô khác nhau.
Tiêu biểu như Tổ chức chính quyền trung ương thời Nguyễn sơ (1802-1847) của
Nguyễn Sĩ Hải (1962) [45]; Chế độ quan chức thời Nguyễn đăng trên Tạp chí
Khoa học - Đại học Tổng hợp Hà Nội của Trần Bá Chí và Vũ Minh Giang
(1993) [40]; Cải cách hành chính dưới triều Minh Mệnh của Nguyễn Minh
Tường (1996) [146]; Tìm hiểu quan chức nhà Nguyễn của Trần Thanh Tâm
(1996) [130]; Tổ chức bộ máy nhà nước dưới triều Nguyễn giai đoạn 18021884 do Đỗ Bang chủ biên (1997) [5]; Một số vấn đề quan chế triều Nguyễn do
Phan Đại Doãn chủ biên (1998); Luận án Tiến sĩ lịch sử Quan xưởng ở Kinh đô
Huế từ 1802 đến 1884 của Nguyễn Văn Đăng (2001) [28]; bài nghiên cứu Thể
chế chính trị thời Nguyễn (Dưới triều Gia Long, Minh Mệnh) đăng trên Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử của Trần Thị Vinh (2002) [153]; Bài nghiên cứu Một vài
khía cạnh trong chính sách quan lại của nhà Nguyễn (qua khảo sát quê hương
đội ngũ quan lại) đăng trên Tạp chí Khoa học - Đại học Quốc gia Hà Nội của
Vũ Văn Quân (2003) [101]; Luận án Tiến sĩ lịch sử Vai trò của Bộ Công trong
việc xây dựng Kinh đô Huế dưới triều Nguyễn (Giai đoạn 1802-1884) của Phan
Tiến Dũng (2005) [25]; Văn bản quản lý nhà nước thời Nguyễn (giai đoạn
1802-1884) của Vũ Thị Phụng (2005) [91]; Quan và lại ở miền Bắc Việt Nam Một bộ máy hành chính trước thử thách (1820-1918) của Emmanuel Poisson
(2006) [96]; Định chế hành chính và quân sự triều Nguyễn (1802-1885) của
Huỳnh Công Bá và Huỳnh Văn Nhật Tiến (2014) [4]; Luận án Tiến sĩ lịch sử
Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của cơ quan giám sát triều Nguyễn giai

126


đoạn 1802-1885 của Ngô Đức Lập (2014) [53]... Những chuyên khảo này
cung cấp những hiểu biểu ngày càng cụ thể, chi tiết về thể chế chính trị và bộ
máy nhà nước triều Nguyễn nói chung, cũng như những lĩnh vực chuyên môn
hoặc bộ phận cụ thể, đặt ra và góp phần lý giải nhiều vấn đề trọng yếu.
Tuy nhiên, khảo sát lịch sử nghiên cứu vấn đề cho thấy, đến nay vẫn
chưa có công trình nghiên cứu nào khảo cứu và trình bày một cách hệ thống về
tổ chức và hoạt động của Bộ Binh dưới triều Minh Mệnh (1820-1840).
3. Mục đích nghiên cứu
3.1. Phục dựng quá trình biến chuyển về cơ cấu tổ chức và cơ cấu nhân
sự của Bộ Binh dưới triều Minh Mệnh (1820-1840).
3.2. Xác định, phục dựng và bước đầu phân tích các quy định bảo đảm
về vật chất và tinh thần, cùng với những quy chế vận hành mà triều Minh
Mệnh đã xây dựng, áp dụng đối với Bộ Binh.
3.3. Phân tích chức năng, nhiệm vụ và khảo sát hoạt động thực tiễn của
Bộ Binh trong 21 năm dưới triều Minh Mệnh (1820-1840) được ghi chép
trong bộ chính sử đồ sộ của triều Nguyễn là Đại Nam thực lục.
3.3. Phân tích, so sánh tổ chức của Bộ Binh dưới triều Minh Mệnh (18201840) trong mối tương quan đồng đại và lịch đại với một số tổ chức quản lý hành
chính quân sự cấp trung ương ở Việt Nam và Trung Quốc có quan hệ gần gũi và
tương đồng.
3.4. Từ những vấn đề cụ thể của tổ chức và hoạt động của Bộ Binh như
là điểm nhìn để nhận định, đánh giá chung về bộ máy nhà nước thời Minh
Mệnh.
3.5. Xây dựng thể nghiệm một mô hình, cấu trúc tiếp cận vi mô trong
nghiên cứu về Bộ Binh triều Minh Mệnh, làm cơ sở tham chiếu cho những
nghiên cứu tương tự đối với các cơ quan trong bộ máy nhà nước triều Minh
Mệnh nói riêng, triều Nguyễn nói chung.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Bộ Binh là một trong 6 bộ (Bộ Lại, Bộ Hộ, Bộ Lễ, Bộ Binh, Bộ Hình,
Bộ Công), là cơ quan quản lý hành chính quân sự cấp trung ương của bộ máy
nhà nước dưới triều Minh Mệnh (1820-1840).
4.2. Phạm vi nghiên cứu:

127


Về thời gian: từ năm 1820 đến 1840, tức là trong thời gian trị vì của
vua Minh Mệnh.
Về nội dung: Toàn bộ tổ chức và hoạt động của Bộ Binh dưới triều
vua Minh Mệnh.
5. Nguồn tài liệu
Triều Nguyễn để lại một hệ thống tư liệu rất đồ sộ. Một bộ phận quan
trọng trong số đó đã được chuyển dịch sang Việt ngữ và xuất bản, đồng thời,
các công trình nghiên cứu có liên quan ở trong nước và ngoài nước cũng phần
lớn đã được công bố rộng rãi, tạo nhiều thuận lợi cho công tác tìm hiểu, nghiên
cứu. Trong phạm vi nghiên cứu cụ thể của luận văn, ngoài các tài liệu được
tham khảo rộng rãi như là kiến thức nền tảng và tư liệu tham chiếu, học viên xác
định tập trung khai thác, sử dụng một số nguồn tài liệu chính có liên quan trực
tiếp đến vấn đề nghiên cứu, bao gồm:
- Tư liệu chính sử của triều Nguyễn, chủ yếu là Đại Nam thực lục, gồm
cả bản dịch Việt ngữ [112] [113] [114] [114] [116] [117] [118] [119] [120] và
nguyên bản chữ Hán [163] [164] [165].
- Tư liệu ghi chép điển lệ của triều Nguyễn, chủ yếu là Khâm định Đại
Nam hội điển sự lệ, bao gồm bản dịch Việt ngữ 15 tập (liên tục từ [72] đến
[86]) và nguyên bản chữ Hán [166], cùng với Đại Nam điển lệ toát yếu [36].
- Các tài liệu tiếng Trung Quốc có liên quan đến tổ chức bộ máy nhà
nước Trung Quốc thời phong kiến [161] [162].

- Các tài liệu dịch từ tiếng Pháp và tiếng Anh có liên quan đến Bộ Binh
dưới triều Minh Mệnh [96] [156] [157] [160].
- Các tài liệu tiếng Việt có liên quan.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện bằng các phương pháp nghiên cứu của khoa
học lịch sử (phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp tập hợp và
phân tích tư liệu, phương pháp so sánh...) và một số phương pháp chuyên biệt
có liên quan (phương pháp văn bản học Hán Nôm...).
Phương pháp lịch sử là phương pháp chính được sử dụng trong quá trình
triển khai làm luận văn. Dựa trên phương pháp này, Bộ Binh triều Minh Mệnh
được xem xét dưới cả góc nhìn đồng đại và lịch đại. Theo đó, Bộ Binh được coi
128


là một hệ thống hoàn chỉnh có cấu trúc bao gồm phức hợp của các bộ phận nội
thuộc, đồng thời là một bộ phận nội thuộc của các cấu trúc lớn hơn như bộ máy
nhà nước trung ương triều Nguyễn, cũng như chỉ là một đoạn ngắn trong dòng
chảy lịch sử dài lâu của đất nước với các mối quan hệ phức hợp trong quỹ đạo
của văn hóa văn minh Đông Á.
Phương pháp logic được sử dụng trong nhiều nội dung nghiên cứu của
luận văn. Dựa trên phương pháp này, cơ cấu tổ chức và cơ cấu nhân sự, cùng
với các quy chế vận hành được xem xét trong tính hợp lý giữa mối quan hệ
của nhiều bộ phận, thời kỳ, từ đó đề xuất hiệu chỉnh, khái quát mô hình tổ
chức và quy chế vận hành của Bộ Binh triều Minh Mệnh trong nhiều thời
điểm, đặc biệt là những thời điểm mà thông tin trong các nguồn tư liệu không
rõ ràng hoặc có mâu thuẫn.
Phương pháp tập hợp và phân tích tư liệu là một trong những phương
pháp quan trọng. Phương pháp này được sử dụng nhiều để khai thác và phân
tích các nguồn tư liệu khác nhau từ chính sử, điển lệ, tư liệu chữ Hán cho đến
các công trình sử học của nhiều thế hệ người nghiên cứu đã công bố trước.

Ngoài ra, phương pháp nghiên cứu so sánh được sử dụng nhằm làm
cho những nhận thức và kết quả nghiên cứu về Bộ Binh triều Minh Mệnh trở
nên khách quan và sâu sắc hơn. So sánh cơ cấu nhân sự và cơ cấu tổ chức Bộ
Binh triều Minh Mệnh với cơ cấu nhân sự và cơ cấu tổ chức Bộ Binh triều
Lê Thánh Tông ở Việt Nam, cùng với triều Minh và triều Thanh ở Trung
Quốc không chỉ làm rõ hơn nhận thức về tổ chức và hoạt động của Bộ Binh
triều Minh Mệnh mà phần nào cho thấy được quá trình diễn biến của mô
hình tổ chức bộ máy hành chính quản lý nhà nước trong lịch sử.

7. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở của các nguồn tài liệu, phương pháp nghiên cứu, cách tiếp
cận cũng như đối tượng và phạm vi nghiên cứu, đóng góp của luận văn tập
trung vào một số nội dung chính sau:
- Trình bày cụ thể, có hệ thống về quá trình biến chuyển cơ cấu nhân sự
và cơ cấu tổ chức của Bộ Binh dưới triều Minh Mệnh.
- Phục dựng chi tiết, cụ thể các quy định bảo đảm về vật chất và tinh
thần, cùng với những quy chế vận hành của Bộ Binh triều Minh Mệnh.

129


- Phê phán các nguồn tư liệu và phê bình các công trình nghiên cứu có liên
quan để xác định chính xác chức trách của Bộ Binh dưới triều Minh Mệnh.
- Khảo sát, phân loại và bước đầu đánh giá hoạt động thực tiễn của Bộ
Binh trong 21 năm dưới triều Minh Mệnh (1820-1840).
- Phân tích, so sánh tổ chức và hoạt động của Bộ Binh dưới triều Minh
Mệnh trong mối tương quan đồng đại và lịch đại với các tổ chức quản lý hành
chính quân sự cấp trung ương thời Lê Thánh Tông ở Việt Nam và hai triều
Minh, Thanh ở Trung Quốc.
- Từ điểm nhìn là tổ chức và hoạt động của Bộ Binh nói chung, đi sâu

nghiên cứu một số vấn đề cụ thể để từ đó bước đầu đưa ra nhận định, đánh giá
về bộ máy nhà nước thời Minh Mệnh.
- Đề xuất và thực hiện thể nghiệm một mô hình, cấu trúc tiếp cận vi mô
mới trong nghiên cứu về Bộ Binh triều Minh Mệnh.
- Xây dựng và cung cấp hệ thống sơ đồ, bảng biểu tra cứu có liên quan
đến Bộ Binh dưới triều Minh Mệnh.

8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận
văn sẽ được triển khai trong 3 chương:
Chương 1: Cơ cấu nhân sự và cơ cấu bộ máy tổ chức
Chương 2: Quy định bảo đảm và quy chế vận hành
Chương 3: Chức trách và hoạt động.

130


CHƢƠNG 1:
CƠ CẤU NHÂN SỰ VÀ CƠ CẤU BỘ MÁY TỔ CHỨC
1.1. Tổ chức quản lý hành chính quân sự cấp trung ƣơng thời các
chúa Nguyễn (1614-1802) và dƣới triều Gia Long (1802-1820)
1.1.1. Tổ chức quản lý hành chính quân sự cấp trung ương thời các chúa
Nguyễn
Tháng 10 năm Mậu Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng được vua Lê (thực
chất là Trịnh Kiểm) cử vào trấn thủ vùng hậu phương rộng lớn phía Nam trong
cuộc chiến tranh Nam - Bắc triều (hay chiến tranh Lê - Mạc), giữ đất Thuận
Hóa, sau đó kiêm quản đất Quảng Nam, bắt đầu gây dựng sự nghiệp của họ
Nguyễn ở phương Nam [112, tr.28]. Từ năm 1558 đến 1613, Nguyễn Hoàng
vẫn giữ tư cách là một phiên thần của triều đình Lê - Trịnh, đứng đầu bộ máy
quản lý địa phương của Đại Việt ở vùng đất phía Nam “phàm quan lại tam ty

do nhà Lê đặt đều theo lệnh” [112, tr.28].
Sau khi kế vị Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên tích cực đẩy mạnh
hơn nữa công cuộc cát cứ, nhanh chóng tách vùng đất phương Nam của Đại
Việt ra khỏi sự lệ thuộc vào chính quyền Lê - Trịnh ở Thăng Long. Trong
chiến lược chung đó, ông nhanh chóng xúc tiến mạnh mẽ công việc xây dựng
bộ máy chính quyền nhà nước ở Thuận - Quảng theo cách tổ chức riêng của
họ Nguyễn.
Ngay từ năm 1614, Nguyễn Phúc Nguyên đã cải cách bộ máy cai trị
của vùng đất mới theo xu hướng một chính quyền riêng, độc lập với Thăng
Long - Kẻ Chợ [112, tr.38-39]. Theo đó, Chúa Nguyễn là người đứng đầu với
chức danh “Tiết chế thủy bộ chư dinh kiêm Tổng nội ngoại bình chương quân
quốc trọng sự”, nắm giữ quyền tổng chỉ huy quân đội và quyền chỉ huy mọi
công việc đối nội, đối ngoại. Bên dưới, Nguyễn Phúc Nguyên bãi bỏ 3 ty Đô1,
Thừa, Hiến do nhà Lê đặt trước đây, lập 3 ty mới là Xá sai, Tướng thần lại và
Lệnh sử (tại thủ phủ của chính quyền chúa Nguyễn ở Chính dinh (tức Dinh
Cát) có thêm hai ty là Nội lệnh sử và Lệnh sử đồ gia), xếp đặt lại hệ thống
quan chức mới của bộ máy chính quyền2.
1

Trong tổ chức chính quyền địa phương cấp Đạo thừa tuyên thời Lê Sơ và cấp Trấn thời Lê Trịnh, Đô ty coi quản việc quân sự.
2
Ty Xá sai coi việc văn án từ tụng do viên Đô tri và Ký lục đảm nhiệm; Ty Tướng thần lại coi giữ việc
trưng thu tiền thóc, phát lương cho quân các đạo, do viên Cai bạ đảm nhiệm; Ty Lệnh sử coi việc tế tự, lễ

131


Trên thực tế, mô hình chính quyền trung ương của các chúa Nguyễn đã
được xây dựng, phát triển trải qua một quá trình biến chuyển, điều chỉnh không
ngừng kể từ cải cách thời Nguyễn Phúc Nguyên. Tuy nhiên, trải qua các thời

chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635), Nguyễn Phúc Lan (1635-1648),
Nguyễn Phúc Tần (1648-1687), Nguyễn Phúc Trăn (1687-1691), Nguyễn Phúc
Chu (1691-1725), Nguyễn Phúc Trú (1725-1738) và những năm đầu chúa
Nguyễn Phúc Khoát cầm quyền (1738-1765), cơ cấu chính quyền trung ương
của các chúa Nguyễn về cơ bản không có những thay đổi lớn, đều khá gọn nhẹ
và thể hiện tính tập trung quyền lực rất cao. Như vậy, trong khi chưa có những
nghiên cứu cụ thể và rõ ràng hơn, có thể tạm coi rằng từ năm 1614, Ty Lệnh sử
ở Chính dinh “coi việc tế tự, lễ tiết và chi cấp lương hướng cho quân đội Chính
dinh” do viên Nha úy đứng đầu, có thuộc viên giúp việc gồm 3 Câu kê, 3 Cai
hợp, 10 Thủ hợp, 40 Lại ty, tổng cộng là 60 người1 [112, tr.39], gần như một tổ
chức sơ khai làm nhiệm vụ quản lý hành chính quân sự cấp trung ương của
chính quyền chúa Nguyễn ở vùng đất phương Nam và Đàng Trong sau này.
Ty Lệnh sử đảm trách nhiệm vụ của một “Bộ Binh sơ khai” liên tục
trong khoảng 130 năm. Đến năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát chính thức
xưng vương và tiến hành cải tổ, sắp xếp lại bộ máy quản lý nhà nước ở Đàng
Trong thành một vương triều thực sự, tách biệt hẳn với chính quyền Lê - Trịnh
ở Đàng Ngoài2. Theo đó, bộ máy chính quyền nhà nước trung ương của họ
Nguyễn ở Đàng Trong được đổi từ 3 ty chính (Xá sai, Tướng thần lại và Lệnh
sử) cùng với 2 ty phụ (Nội lệnh sử và Lệnh sử đồ gia) thành 6 bộ theo mô hình
tiết và chi cấp lương cho quân đội ở Chính dinh do viên Nha úy đảm nhiệm; Ty Nội lệnh sử coi việc thu
tiền sai dư (thuế thân) của các xã thuộc hai xứ Thuận - Quảng; Ty Lệnh sử đồ gia coi việc thu phát các
loại nguyên vật liệu phục vụ việc chế tạo khí giới, thuyền ghe, thành lũy, nhà cửa...; trừ Ty Lệnh sử đồ
gia, 4 ty còn lại đều có những thuộc viên giúp việc gồm 3 Câu kê, 3 Cai hợp, 10 Thủ hợp, 40 Lại ty, tổng
cộng là 60 người [112, tr.38-39] [155, tr.158].
1
Ở đây có một vấn đề về sử liệu còn tồn nghi là tổng số nhân sự của Ty Lệnh sử có thể xác định gồm
1 Nha úy, 3 Câu kê, 3 Cai hợp, 10 Thủ hợp, 40 Lại ty thì mới chỉ có 57 người, không rõ tại sao Đại
Nam thực lục lại xác định số ty viên là 60 người?! Theo nghiên cứu của Trần Thị Vinh, ghi chép
tương tự trong sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn cũng xác định con số này ở cả 4 ty (Xá sai,
Tướng thần lại, Lệnh sử ty, Nội lệnh sử) đều là 60 người, riêng Ty Lệnh sử đồ gia thì liệt kê nhân viên

giúp việc cộng đủ 33 người [155, tr.158].
2
Khi đó, ở Đàng Ngoài, ngay từ nửa đầu thế kỷ XVIII (1718), bộ máy chính quyền trung ương triều Lê Trịnh có sáu bộ (Lại bộ, Hộ bộ, Lễ bộ, Binh bộ, Hình bộ, Công bộ) bên triều đình vua Lê tồn tại song song
với sáu phiên (Lại phiên, Lễ phiên, Hộ phiên, Binh phiên, Hình phiên và Công phiên) bên phủ Chúa [63]
[155, tr.160-162].

132


của triều đình Hậu Lê, trong đó Ty Xá sai đổi thành Bộ Lại và Bộ Hình, Ty
Tướng thần lại đổi thành Bộ Hộ, Ty Lệnh sử đổi thành Bộ Lễ, đặt thêm hai bộ
mới nữa là Bộ Binh và Bộ Công [112, tr.153].
Như vậy, từ năm 1744, cơ cấu bộ máy chính quyền nhà nước trung
ương của các chúa Nguyễn đã có đủ 6 bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công),
trong đó Bộ Binh1 làm nhiệm vụ của một tổ chức quản lý hành chính quân sự
cấp trung ương ở Đàng Trong. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu về quan chế
thời kỳ các chúa Nguyễn ở Đàng Trong (và cả chính quyền của Nguyễn Ánh
cho đến năm 1802) vẫn chưa phục dựng được cơ cấu nhân sự, cơ cấu bộ máy
tổ chức và quy cách vận hành của cơ quan quản lý hành chính quân sự cấp
trung ương này.
1.1.2. Tổ chức quản lý hành chính quân sự cấp trung ương dưới triều Gia
Long
Năm 1771, phong trào nông dân Tây Sơn bùng phát, mở đầu cho những
biến chuyển dồn dập, bất ngờ của nền chính trị Đại Việt suốt hơn 30 năm cuối
thế kỷ XVIII cho đến chớm đầu thế kỷ XIX trong lịch sử Việt Nam. Từ một
cuộc khởi nghĩa nông dân, phong trào Tây Sơn từng bước mở rộng và trưởng
thành, lần lượt đánh sụp hệ thống chính quyền của các chúa Nguyễn ở Đàng
Trong, vượt qua ranh giới sông Gianh, đánh đổ tập đoàn cầm quyền của chúa
Trịnh ở Đàng Ngoài và sau đó kết thúc vai trò lịch sử của triều Hậu Lê. Nhưng
bản thân vương triều mới Tây Sơn, nhất là sau khi vua Quang Trung qua đời

(1792), nhanh chóng lâm vào khủng hoảng, chia rẽ, suy yếu, dần đánh mất vai
trò tích cực trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Tháng 7 năm Đinh
1

“Binh Bộ: 1. Là cơ quan hành chính về quân sự của cả nước. Thời Tần Hán vốn là chức trách của
Thái úy. Tên gọi Binh bộ có nguồn gốc từ Ngũ binh thượng thư thời Tam Quốc. Ngũ binh gồm: Trung
binh, Ngoại binh, Kỵ binh, Biệt binh, Đô binh. Bắc Chu theo Chu Lễ đặt Hạ quan phủ Đại tư mã
khanh, thuộc quan có Binh bộ trung đại phu. Tùy theo tên gọi của Bắc Chu mà đặt 4 ty trong đó có
Binh bộ ty. Tùy Dượng đế định chế trưởng quan là Thượng thư, Thị lang làm chánh, phó. Thời
Đường, Binh bộ nắm giữ việc tuyển phong võ quan từ Lục phẩm trở xuống, khảo khóa và vũ cử, quân
lệnh, quân tịch, quân huấn v.v... nhưng không trực tiếp nắm binh. Về sau định chế thành bộ thứ tư
trong 6 bộ. Thời Ngũ đại lập Binh bộ nhưng thực quyền ở Khu mật viện. Thời Tống mọi quyền binh
trong tay Khu mật viện và Trung thư sảnh. Chức nhiệm Binh bộ rất nhẹ. Đầu thời Tống, Binh bộ
thượng thư và Thị lang chỉ là ký lộc quan. Thời Nam Tống không thường đặt Thượng thư. Vệ úy tự
sát nhập vào Binh bộ. Thời Nguyên, Binh bộ có Lang trung, Viên ngoại lang, Chủ sự, Lệnh sử. Thời
Minh có Ngũ quân đô đốc phủ nắm quân lệnh, Binh bộ chỉ nắm quân chính. Nhưng về sau thường là
Binh bộ đốc quân xuất chinh. Thời Minh trong Binh bộ lập 4 thanh lại ty. Thời Thanh, Hoàng đế nắm
toàn bộ binh quyền. Binh bộ chỉ là hư danh. Năm Quang Tự (1906), Binh bộ đổi là Lục quân bộ. 2.
Thời Lê lúc đầu chỉ có 2 bộ Lại và Lễ, Lê Nghi Dân mới đặt đủ 6 bộ. Tháng 6 năm Ất Mão (1675),
định rõ chế độ chức việc 6 bộ. Bộ Binh giữ việc binh nhung, quân cấm vệ, xe ngựa, đồ nghi trượng,
khí giới, giữ việc biên giới, lính thú, nhà trạm, phố sá, nơi hiểm yếu, việc khẩn cấp, tuyển dụng chức
võ” [71, Tr.98-99].

133


Mùi (1787), Nguyễn Ánh từ Xiêm (Thái Lan) trở về [112, tr.227-228], nhanh
chóng chiếm giữ vùng đất Gia Định (Nam Bộ ngày nay) làm đất đứng chân,
nỗ lực phục hồi và củng cố lại lực lượng, mở rộng quyền lực trên chiến trường
và chính trường, từng bước giành thắng lợi quyết định trong cuộc chiến tranh

giành quyền lực với nhà Tây Sơn (1778-1802).
Ngày mồng 1 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Ánh tổ chức lập
đàn ở đồng An Ninh (Huế) hợp tế trời đất, công bố việc đặt niên hiệu Gia
Long, lập ra triều Nguyễn [112, tr.491-492]. Đến ngày Kỷ Mùi, tháng 5 năm
Bính Dần, Gia Long 5 (1806), Nguyễn Ánh chính thức lên ngôi ở điện Thái
Hòa trong kinh thành Huế, trở thành vị hoàng đế đầu tiên của triều Nguyễn
[112, tr.664-665]. Vua Gia Long thiết lập trở lại chế độ quân chủ tập quyền
với tổ chức bộ máy chính quyền trung ương thể hiện sự kết hợp giữa hệ thống
tổ chức của triều Hậu Lê với bộ máy hành chính thời các chúa Nguyễn. Cơ cấu
bộ máy chính quyền nhà nước trung ương triều Gia Long có đủ 6 bộ theo thứ tự
là Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình và Công, trong đó Bộ Binh làm nhiệm vụ của một tổ
chức quản lý hành chính quân sự cấp trung ương.
Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ cho biết cơ cấu nhân sự của Bộ
Binh năm 1802 gồm “1 Binh bộ Thượng thư, 2 Binh bộ Tham tri, 3 Thiêm sự,
các chức Câu kê, Cai hợp, Thủ hợp ở ty Lệnh sử và số người trong bản ty cộng
60 viên” [73, tr.54].
Hai năm sau khi thành lập vương triều mới, vào tháng 4 năm Giáp Tý
(1804), triều đình Nguyễn bàn định và ban bố quan chế. Theo đó, quan lại
thuộc Bộ Binh làm nhiệm vụ quản lý hành chính quân sự cấp trung ương của
triều Nguyễn được liệt vào Văn giai, gồm Thượng thư Bộ Binh (trật Chánh nhị
phẩm), Tả tham tri Bộ Binh và Hữu tham tri Bộ Binh (trật Tòng nhị phẩm),
Thiêm sự Bộ Binh (trật Chánh tứ phẩm), Câu kê Ty Lệnh sử Bộ Binh (trật Tản
giai tòng ngũ phẩm), Cai hợp Ty Lệnh sử Bộ Binh (trật Tản giai tòng lục phẩm),
Thủ hợp Ty Lệnh sử Bộ Binh (trật Tản giai tòng thất phẩm), Bản ty Ty Lệnh sử
Bộ Binh (trật Tản giai tòng bát phẩm), Thư lại vị nhập lưu (trật Tản giai tòng
cửu phẩm). Các quan lại Bộ Binh từ Chánh ngũ phẩm trở xuống được phong
tước Bá, từ Chánh lục phẩm trở xuống được phong tước Tử, từ Chánh bát phẩm
trở xuống được phong tước Nam [112, tr.595-598].
134



Sau khi ban bố quan chế, triều vua Gia Long tiếp tục có một số điều
chỉnh đối với cơ cấu nhân sự của Bộ Binh vào các năm Ất Sửu (1805) 1, Canh
Ngọ (1810)2 và Quý Dậu (1813)3, tạo thành một cơ cấu được định hình và duy
trì ổn định cho đến hết thập kỷ thứ hai của thế kỷ XIX. Như vậy, ở thời điểm
định hình (từ cuối năm 1813), Bộ Binh triều Gia Long gồm 1 viên Thượng thư,
1 viên Tả tham tri, 1 viên Hữu tham tri, 4 viên Thiêm sự, 3 viên Câu kê, 3 viên
Cai hợp, 4 viên Thủ hợp và các viên Bản ty, Thư lại vị nhập lưu giúp việc,
tổng cộng là 77 người4.
Có thể thấy, Bộ Binh trong chính quyền của các chúa Nguyễn ở Đàng
Trong từ sau năm 1744 và Bộ Binh trong bộ máy nhà nước thời Gia Long
(1802-1820) đều là tổ chức quản lý hành chính quân sự cấp trung ương. Đây
chính là cơ cấu tổ chức tiền thân, tiền đề, cơ sở trực tiếp để vua Minh Mệnh và
các triều thần tiến hành xây dựng, kiện toàn Bộ Binh về cơ cấu tổ chức trong
21 năm cầm quyền tiếp theo.
1.2. Quá trình biến chuyển cơ cấu nhân sự của Bộ Binh dƣới triều
Minh Mệnh (1820-1840)
1.2.1. Cơ cấu nhân sự năm 1820
Ngày mồng 1 Tết Nguyên đán năm Canh Thìn, tức ngày 14 tháng 2 năm
1820, Hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm/Đởm (cũng có tên là Hiệu/Kiểu) - con trai
thứ tư của Thế tổ Cao hoàng đế Gia Long và Thuận Thiên Cao hoàng hậu họ
Trần, lên ngôi ở tuổi 29, làm vua trọn 21 năm với niên hiệu Minh Mệnh (18201840)5 [113, tr.30-31]. Triều vua Minh Mệnh là một thời đoạn có vai trò
quan trọng và mang ý nghĩa nhiều mặt trong lịch sử vương triều Nguyễn
nói riêng, lịch sử Việt Nam nói chung. Trên cơ sở một quốc gia đã bước
đầu được thống nhất từ thời Tây Sơn, sau đó tiếp tục được củng cố trong
những năm vua Gia Long tại vị, đến năm 1820, vua Minh Mệnh lên ngôi,
kế thừa một di sản lãnh thổ đồ sộ chưa từng có trước đó trong lịch sử Việt
Nam, cũng là tiếp nhận một bài toán khó giải bậc nhất trong quản lý và
điều hành đất nước.
1


Triều đình quy định số nhân viên thuộc ty các nha ở Kinh, trong đó Ty Lệnh sử của Bộ Binh có 70
người [112, tr.642] [73, tr.54].
2
Triều đình quy định số viên Thiêm sự ở 6 bộ, mỗi bộ 4 người [112, tr.783].
3
Triều đình quy định số nhân viên thuộc Ty Lệnh sử của 6 bộ, trong đó có 3 viên Câu kê, 3 viên Cai
hợp, 4 viên Thủ hợp [112, tr.868].
4
Cơ cấu nhân sự Bộ Binh triều Gia Long (1813-1820) này có sơ đồ tương tự như Sơ đồ 1.3: Sơ
đồ cơ cấu nhân sự Bộ Binh triều Minh Mệnh (1820) ở Phụ lục.
5
Xem Hình ảnh 1.1: Vua Minh Mệnh (1820-1840) trong phần Phụ lục.

135


Sau khi tiếp nhận ấn ngọc, cờ, gươm - biểu tượng truyền thừa của
vương quyền - đặt trên án vàng trước giường ngự của vua cha Gia Long
với lời trăng trối “Đấy là cơ nghiệp gian nan của trẫm, nay giao cho con,
con nên cẩn thận giữ gìn” [112, tr.1001], trong suốt 21 năm cầm quyền,
vua Minh Mệnh cần mẫn “chăm lo mọi công việc, thường như một ngày”
[116, tr.890] với mong muốn không ngừng kiện toàn bộ máy nhà nước,
xây dựng các định chế của vương triều Nguyễn ngày càng hoàn bị.
Chỉ vừa nửa năm sau khi lên nối ngôi, vào tháng 7 năm Canh Thìn
(1820), với quan niệm “Chính lệnh của nhà nước tất do sáu bộ” [113,
tr.79], vua Minh Mệnh bắt đầu tiến hành một loạt các công việc điều
chỉnh, bổ sung, thậm chí thay đổi, nhằm xây dựng về cơ cấu nhân sự, tổ
chức bộ máy, quy định bảo đảm và quy chế vận hành của Lục Bộ (Lại,
Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công) ngày càng đồ sộ và chi tiết. Dưới triều Minh

Mệnh (1820-1840), quá trình biến chuyển tổ chức Bộ Binh của nhà nước Việt
Nam - Đại Nam diễn ra trên nhiều phương diện, từ cơ cấu nhân sự, cơ cấu tổ
chức bộ máy, quy cách vận hành cho đến chế độ lương bổng, tử tuất, phẩm
phục... Trong đó, cơ cấu nhân sự và cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính của Bộ
Binh là hai vấn đề trung tâm, được vua Minh Mệnh và các vị triều thần giành
nhiều tâm sức kiện toàn.
Kế thừa cơ cấu nhân sự và cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính của Bộ
Binh triều Gia Long, Bộ Binh triều Minh Mệnh ban đầu gồm 1 viên Thượng
thư (trật Chánh nhị phẩm), 1 viên Tả tham tri (trật Tòng nhị phẩm), 1 viên
Hữu tham tri (trật Tòng nhị phẩm), 4 viên Thiêm sự (trật Chánh tứ phẩm), cai
quản và điều hành bộ phận nội thuộc là Ty Lệnh sử Bộ Binh với 3 viên Câu kê
(trật Tản giai tòng ngũ phẩm), 3 viên Cai hợp (trật Tản giai tòng lục phẩm), 4
viên Thủ hợp (trật Tản giai tòng thất phẩm), các viên Bản ty (trật Tản giai tòng
bát phẩm) và Thư lại vị nhập lưu (trật Tản giai tòng cửu phẩm) giúp việc, tổng
cộng là 77 người (Xem Sơ đồ 1.3: Sơ đồ cơ cấu nhân sự Bộ Binh triều Minh
Mệnh (1820) trong phần Phụ lục).
1.2.2. Cơ cấu nhân sự năm 1821
Chỉ một năm sau khi nối ngôi, vào tháng Giêng năm Tân Tỵ (1821),
vua Minh Mệnh bắt đầu điều chỉnh, bổ sung cơ cấu nhân sự của 6 bộ, trong đó
có Bộ Binh. Sách Đại Nam thực lục chép: “Định thêm số viên dịch ở sáu bộ.
Đầu đời Gia Long, mỗi bộ đặt một Thượng thư, 2 Tham tri, 4 Thiêm sự. Đến
nay mỗi bộ đều đặt thêm 4 Lang trung, trật Chánh ngũ phẩm, 4 Chủ sự, trật
Chánh lục phẩm, 4 Tư vụ, trật Chánh thất phẩm, và thư lại bát cửu phẩm đều 8
136


người, bộ Lại bộ Binh 70 thư lại vị nhập lưu, bộ Hộ 100 người, bộ Lễ bộ Công
đều 50 người, bộ Hình 60 người” [113, tr.111-112]1. Căn cứ theo ghi chép này
(đối chiếu cả nguyên bản Hán văn và bản dịch tiếng Việt) thì rõ ràng trong đợt
tăng bổ vào đầu năm 1821, nhân sự của Bộ Binh tăng thêm 90 người (gồm 4

Lang trung, 4 Chủ sự, 4 Tư vụ, 8 Thư lại bát cửu phẩm, 70 Thư lại vị nhập lưu,
tương đương tăng 118% so với toàn bộ nhân sự của Bộ Binh thời Gia Long và
năm 1820), đạt tới con số 166 người, gấp 2,2 lần trước đó.
Theo con số này, cộng với các đợt đặt thêm 4 viên Thư lại bát cửu
phẩm và 30 viên Thư lại vị nhập lưu vào tháng 5 năm Giáp Thân (1824) [113,
tr.354]; tăng 2 viên Lang trung, 2 viên Chủ sự, 2 viên Tư vụ vào tháng 9 năm
Ất Dậu (1825) [113, tr.456]; thêm 2 viên Thị lang vào tháng 8 năm Bính Tuất
(1826) [113, tr.529], thì đến cuối năm 1826, Bộ Binh đã lên tới 208 người, gấp
2,7 lần so với triều Gia Long (đến năm 1820), gấp 1,5 lần so với buổi đầu triều
Thiệu Trị (đến trước năm 1842)2.
Tuy nhiên, con số này lại mâu thuẫn với chính thông tin trong lời nói của
vua Minh Mệnh chưa đầy mười năm sau đó. Đối chiếu với lời Dụ đường quan ở
6 bộ của vua Minh Mệnh vào ngày 20 tháng Giêng năm Kỷ Sửu (1829) nói rằng:
“số ty viên và thư lại cắt đặt từ năm đầu niên hiệu Minh Mệnh, so với những
năm Gia Long là tăng chứ không giảm, mà những năm gần đây, nghĩ rằng công
việc của hai bộ Hộ và Binh tương đối nhiều nên lại tăng thêm gấp rưỡi trước”
[61, tr.279] [113, tr.814]3, tức là trải qua quá trình bổ sung liên tục về cơ cấu
nhân sự của Bộ Binh, đến cuối thập niên cầm quyền thứ nhất của vua Minh
1

Nguyên bản Hán văn: 增 定 六 部 員 役 嘉 隆 初 部 置 尙 書 一 參 知 二 僉 事 四 至 是 增 置 部

各郎中四秩正五品主事四秩正六品司務四秩正七品八九品書吏各八吏部兵部
未入流書吏七十户部一百禮部工部五十刑部六十
(Phiên âm: Tăng định lục bộ viên dịch, Gia Long sơ, bộ trí Thượng thư nhất, Tham tri nhị, Thiêm sự
tứ, chí thị tăng trí bộ các Lang trung tứ, trật chánh ngũ phẩm, Chủ sự tứ, trật chánh lục phẩm, Tư vụ
tứ, trật chánh thất phẩm, Bát cửu phẩm thư lại các bát, Lại bộ Binh bộ vị nhập lưu thư lại thất thập, Hộ
bộ nhất bách, Lễ bộ Công bộ ngũ thập, Hình bộ lục thập) [163, tr.1532 (114)].
2
Trong những năm đầu cầm quyền, vua Thiệu Trị đã kế thừa và tiếp tục duy trì cơ cấu nhân sự của Bộ

Binh từ thời Minh Mệnh, đến cuối năm 1842 mới bắt đầu có sự thay đổi [117, tr.428-429, 683-684]
[73, tr.54-55].
3
Nội dung lời dụ này có thể hiểu theo 2 cách: (1) Bộ Binh năm 1829 tăng “gấp rưỡi” so với Bộ Binh thời Gia
Long; hoặc (2) Bộ Binh năm 1829 tăng “gấp rưỡi” so với Bộ Binh ở một thời điểm trước đó trong thời Minh
Mệnh. Nếu lấy số người của Bộ Binh năm 1829 là 139 người (xem phân tích cụ thể ở tiểu mục 1.2.3. Cơ
cấu nhân sự từ năm 1824 đến 1826 và 1.2.4. Cơ cấu nhân sự từ năm 1827 đến 1840) so với
con số 77 người của Bộ Binh triều Gia Long thì tỉ lệ tăng là 1,8 lần; còn so với thời điểm trước khi tăng thêm 4
viên Thư lại bát cửu phẩm và 30 viên Thư lại vị nhập lưu vào tháng 5 năm Giáp Thân (1824) thì tỉ lệ tăng là
1,4 lần. Một điểm cần đặc biệt lưu ý là trong thời Minh Mệnh hoàn toàn không có đợt giảm cơ cấu nhân sự
nào đối với Bộ Binh.

137


Mệnh, số quan và lại của Bộ Binh mới tăng khoảng 1,5 lần so với thời Gia Long
(hoặc năm đầu thời Minh Mệnh). Rõ ràng tỉ lệ 1,5 lần và 2,7 lần cách nhau quá
xa để một ông vua sâu sát, thận trọng như Minh Mệnh có thể tự mâu thuẫn
trong lời nhắc nhở các viên quan đầu triều của mình! Trong xu thế “tăng chứ
không giảm” quy mô của bộ máy quản lý nhà nước trung ương nói chung và Bộ
Binh nói riêng trong thời Minh Mệnh, trường hợp số người của Bộ Binh năm
1821 đã gấp 1,5 lần so với cuối thời Minh Mệnh là không phù hợp. Như vậy, rõ
ràng con số 166 người của Bộ Binh vào năm 1821 theo như cách ghi của Đại
Nam thực lục trong lần bổ sung cơ cấu nhân sự này là không phù hợp với các
thông tin khác liên quan!
Cũng liên quan đến sự kiện này, sách Khâm định Đại Nam hội điển sự
lệ chỉ ghi là “chuẩn định số vị nhập lưu thư lại 70 người” [73, tr.54]. Trong
quan chế triều Gia Long ban hành năm 1804 và những quy định cụ thể vào các
năm 1802, 1805 đều không cho biết cụ thể số nhân viên từ Câu kê, Cai hợp,
Thủ hợp, Bản ty cho đến Thư lại vị nhập lưu làm việc tại Ty Lệnh sử của Bộ

Binh, chỉ biết tổng số nhân viên thuộc Ty Lệnh sử của Bộ Binh là 70 người
[112, tr.642] [73, tr.54]. Đến tháng 10 năm Quý Dậu (1813), nhân viên của Ty
Lệnh sử thuộc Bộ Binh mới được xác định cụ thể 10 chức danh, gồm 3 viên
Câu kê, 3 viên Cai hợp, 4 viên Thủ hợp [112, tr.868], nhưng vẫn không biết
được số lượng Bản ty và Thư lại vị nhập lưu còn lại trong tổng số 70 người
của Ty Lệnh sử thuộc Bộ Binh. Điều đó cũng có nghĩa là cho đến năm 1813
và được tiếp tục duy trì dưới triều vua Gia Long cũng như trong năm đầu niên
hiệu Minh Mệnh, số Thư lại vị nhập lưu ở Ty Lệnh sử Bộ Binh không vượt
quá con số 60 người, chưa kể số Bản ty. Theo ghi chép trong Khâm định Đại
Nam hội điển sự lệ, đến năm 1821, vua Minh Mệnh đã chuẩn định rõ số Thư
lại vị nhập lưu ở Ty Lệnh sử thuộc Bộ Binh là 70 người. Như vậy, dựa theo các
ghi chép về con số Thư lại vị nhập lưu trong Đại Nam thực lục và Khâm định
Đại Nam hội điển sự lệ, có thể hiểu rằng vào năm 1821, vua Minh Mệnh có đặt
thêm số Thư lại vị nhập lưu làm việc tại Ty Lệnh sử thuộc Bộ Binh, nhưng chỉ
tăng từ dưới 60 người lên đến 70 người. Cũng tức là từ năm 1821, số Thư lại vị
nhập lưu này mới được đặt tăng thêm đến con số 70 người, chứ không phải
được đặt tăng thêm 70 người!
Từ kết quả phân tích hiệu chỉnh số lượng Thư lại vị nhập lưu trong
cuộc bổ sung nhân sự tháng Giêng năm Tân Tỵ (1821) chỉ là 70 người, các
138


thành phần khác bị cho là được “đặt thêm” vào năm 1821 cũng cần được
xem xét lại, gồm Lang trung, Chủ sự, Tư vụ và Thư lại bát cửu phẩm. Theo
quy định năm 1821 trong Đại Nam thực lục, ngoài 7 viên quan cai quản
chung Bộ Binh (gồm 1 Thượng thư, 2 Tham tri, 4 Thiêm sự) thì ở các Ty
Lệnh sử thuộc quyền không thấy có các chức Câu kê, Cai hợp, Thủ hợp và
Bản ty như đã được xác định năm 1813 dưới thời vua Gia Long, lại có thêm
các chức Lang trung, Chủ sự, Tư vụ và Thư lại bát cửu phẩm [113, tr.111112]. Trong khi đó, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ không ghi chép gì về
các chức quan Câu kê, Cai hợp, Thủ hợp và Bản ty trong sự kiện đầu năm

Tân Tỵ (1821), nhưng lại xác định rõ các chức Lang trung, Chủ sự, Tư vụ và
Thư lại bát cửu phẩm đều thuộc các Thanh lại ty của Bộ Binh khi đổi Lệnh
sử ty thành Thanh lại ty vào tháng 5 cùng năm đó [80, tr.15-16]. Cũng liên
quan đến việc chuyển đổi Lệnh sử ty 6 bộ thành Thanh lại ty vào tháng 5
năm Tân Tỵ (1821), trong phần ghi chép về Bộ Lại, sách Khâm định Đại
Nam hội điển sự lệ có đoạn chép “đổi lệnh sử 6 bộ làm ty Thanh lại, cai hợp
làm chánh Bát phẩm thư lại, Thủ hợp làm chánh Cửu phẩm thư lại” [73,
tr.28].
Ngoài ra, quy định năm 1821 trong Đại Nam thực lục còn ghi rõ: “Sai
các bộ trưởng cử những người Tri huyện thâm niên cùng các Hành tẩu, Hương
cống, và các ty Lệnh sử thuộc bộ, có thể làm được việc thì sung bổ các chức
ấy” [113, tr.111-112]. Phần nội dung liên quan đến tuyển chọn nhân sự và bổ
dụng được ghi ngay tiếp sau danh mục quan lại này gợi nhắc đến một cuộc sắp
xếp lại và tuyển chọn nhân sự cho các vị trí được kiến thiết mới trong cơ cấu
nhân sự của 6 bộ nói chung, Bộ Binh nói riêng. Trong đó, với sự thay đổi về
“trật” của nhiều vị trí, chỉ những viên làm được việc trong “các ty Lệnh sử
thuộc bộ” mới được tiếp tục bổ nhiệm, đồng thời tuyển chọn thêm những viên
Tri huyện thâm niên, Hành tẩu, Hương cống làm được việc để xếp đặt vào các
chức danh mới của 6 bộ.
Như vậy, có thể hiểu rằng vào tháng Giêng năm Tân Tỵ (1821), khi tiến
hành điều chỉnh, bổ sung cơ cấu nhân sự của 6 bộ, vua Minh Mệnh đã đổi đặt
chức danh, đồng thời đặt thêm số người của các chức danh này tại Bộ Binh.

139


Theo cách hiểu này, 3 chức Câu kê (trật Tản giai tòng ngũ phẩm) bị xóa bỏ1,
thay thế vào đó là 4 chức Lang trung (trật Chánh ngũ phẩm), 4 chức Chủ sự
(trật Chánh lục phẩm), 4 chức Tư vụ (trật Chánh thất phẩm). Vị trí của 7 chức
Cai hợp và Thủ hợp cũ (theo quy định năm 1813 gồm 3 viên Cai hợp, 4 viên

Thủ hợp) được thay thế bằng 8 viên Thư lại bát cửu phẩm, trong đó chức Cai
hợp (trật Tản giai tòng lục phẩm) đổi thành Thư lại Chánh bát phẩm (trật
Chánh bát phẩm), và chức Thủ hợp trật Tản giai tòng thất phẩm đổi thành Thư
lại Chánh cửu phẩm (trật Chánh cửu phẩm), nhưng cũng không rõ trong số
này có bao nhiêu viên Thư lại Chánh bát phẩm và Thư lại Chánh cửu phẩm.
Về phần chức danh Bản ty hiện chưa khảo cứu được, nhưng cũng hoàn toàn
biến mất ở Bộ Binh vào đầu năm 1821.
Với sự thay đổi này, đến tháng Giêng năm Tân Tỵ (1821), Bộ Binh được
tăng cường thêm nhân sự cả hàng quan và lại. Và như vậy, phần ghi chép vào
tháng Giêng năm Tân Tỵ (1821) trong Đại Nam thực lục [113, tr.111-112] phải
coi là sự chuẩn định của vua Minh Mệnh đối với cơ cấu nhân sự của Bộ Binh. Từ
đây, cơ cấu nhân sự của Bộ Binh gồm 1 viên Thượng thư, 2 viên Tham tri, 4 viên
Thiêm sự, 4 viên Lang trung, 4 viên Chủ sự, 4 viên Tư vụ, cộng là 19 người [113,
tr.111-112], cùng với 8 viên Thư lại bát cửu phẩm và 70 viên Thư lại vị nhập lưu
[113, tr.354], tất cả là 97 người. Nhân sự Bộ Binh năm 1821 đã tăng 20 người
(26%) so với năm 1820 (Xem Sơ đồ 1.4: Sơ đồ cơ cấu nhân sự Bộ Binh triều
Minh Mệnh (1821) trong phần Phụ lục).
1.2.3. Cơ cấu nhân sự từ năm 1824 đến 1826
Chỉ 3 năm sau đợt thay đổi cơ cấu nhân sự vào năm 1821, đến tháng 5
năm Giáp Thân (1824), theo đề nghị của Bộ Binh, vua Minh Mệnh chuẩn định
cho đặt thêm 4 viên Thư lại bát cửu phẩm cùng với 30 viên Thư lại vị nhập
lưu [113, tr.354]. Như vậy, Bộ Binh được tăng cường thêm 34 người, khiến
cho số Thư lại bát cửu phẩm là 12 người và số Thư lại vị nhập lưu trở thành
100 viên, tổng số người của Bộ Binh là 131 người (tương đương 135% so với
năm 1821). Tiếp đó, đến tháng 9 năm Ất Dậu (1825), Bộ Binh lại được đặt
thêm 2 viên Lang trung, 2 viên Chủ sự, 2 viên Tư vụ [113, tr.456], khiến cho
1

Tác giả Đỗ Bang không rõ dựa vào tài liệu nào đã cho rằng: Năm 1827 “bỏ chức Câu kê và đặt chức
Viên ngoại lang” [5, tr.64]. Rõ ràng chức Câu kê đã chấm dứt vai trò lịch sử ở 6 bộ từ đầu năm 1821, và

theo quy định trong lần tổng duyệt định lại quan chế vào tháng 11 năm Đinh Hợi (1827) thì rõ ràng chức
Thiêm sự đổi thành Lang trung (mới), Lang trung (cũ) đổi thành Viên ngoại lang [113, tr.678].

140


×