CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BÁO CÁO KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng Sáng kiến huyện Phú Ninh.
Tên đề tài sáng kiến: " Rèn kĩ năng phân biệt từ ghép và từ láy cho học
sinh lớp 4 & lớp 5" .
1- Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
2- Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục (Chuyên môn)
3- Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 05/10/2019
4- Mô tả bản chất của sáng kiến:
4- Mô tả bản chất của sáng kiến:
4.1. Tình trạng của giải pháp đã biết:
Tiếng Việt là một trong những môn học quan trọng ở bậc Tiểu học. Mục
tiêu của môn Tiếng Việt là dạy cho học sinh biết sử dụng tiếng mẹ đẻ để giao
tiếp, mở rộng hiểu biết thông qua các phân môn như Tập đọc, Tập làm văn, Kể
chuyện, Luyện từ và câu, vv…Đọc đúng, đọc thành thạo tiếng Việt, viết đúng
chữ Việt và hiểu, sử dụng đúng từ ngữ trong giao tiếp là ba yêu cầu cơ bản và
tồn tại song song trong quá trình dạy học môn Tiếng Việt. Như vậy, việc giúp
học sinh sử dụng đúng từ ngữ trong giao tiếp là một trong những yêu cầu cơ bản
của môn Tiếng Việt. Muốn làm được điều này đòi hỏi các em phải học tốt phân
môn Luyện từ và câu. Bởi nói đến Luyện từ và câu người ta thường nói đến ba
nhiệm vụ cơ bản, đó là Phong phú hóa vốn từ, Chính xác hóa vốn từ và tích
cực hóa vốn từ. Phong phú hóa vốn từ còn gọi là mở rộng vốn từ, nghĩa là xây
dựng một vốn từ ngữ phong phú, thường trực và có hệ thống trong trí nhớ học
sinh. Chính xác hóa vốn từ là giúp các em hiểu đúng nghĩa của từ, xác định đúng
từ loại, phân loại từ đúng theo cấu tạo,…từ đó giúp các em chuyển hóa những từ
ngữ tiêu cực (nói nhưng chưa hiểu) thành những từ ngữ tích cực vận dụng trong
giao tiếp (tích cực hóa vốn từ).
Trong thực tế, do đặc thù của phân môn Luyện từ và câu là trừu tượng,
phức tạp nên nhiều học sinh còn gặp những khó khăn nhất định trong quá trình
học. Chẳng hạn như không xác định được một từ nào đó là danh từ hay động từ,
tính từ; là từ đơn hay từ ghép; hoặc không xác định được một câu là câu đơn hay
câu ghép vv…Về phía giáo viên cũng không ít trường hợp lúng túng trước
những câu hỏi của học sinh như “tắc kè”, “bồ kết”, vv…là từ đơn hay từ ghép?
“chuyên chính”, “thúng mủng”, “rụng rời” vv…là từ ghép hay từ láy ? “ồn ào”,
“ ủn ỉn” vv…có phải là từ láy không ? vv…Song trong phạm vi bài viết này, tôi
chỉ đưa ra một vài kinh nghiệm nhỏ góp phần tháo gỡ những khó khăn khi dạy
các khái niệm từ ghép và từ láy ở tiểu học, đặng nâng cao hiệu quả của các giờ
dạy luyện từ và câu nói riêng và của môn Tiếng Việt nói chung. Đó cũng chính
là lý do tôi chọn đề tài: “Rèn kĩ năng phân biệt từ ghép và từ láy cho học
sinh lớp 4 & lớp 5”.
Đề tài này được nghiên cứu ở lớp chủ nhiệm trường Tiểu học từ tháng
10/2019 đến tháng 2 /2020.
Đầu năm học 2019-2020, lớp tôi có 31 em trong đó 18 em nam và 13 em
nữ. Trong quá trình làm công tác chủ nhiệm lớp, tôi đã gặp những thuận lợi và
khó khăn sau:
* Thuận lợi:
Được sự chỉ đạo sâu sát của phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Phú Ninh và
sự quan tâm của Ban giám hiệu Nhà trường luôn tạo mọi điều kiện để bồi dưỡng
chuyên môn cho bản thân, cơ sở vật chất và các phương tiện dạy học. cũng như
các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Bản thân tôi yêu nghề, mến trẻ, luôn tìm tòi, nghiên cứu học tập và trau dồi
kiến thức cũng như kinh nghiệm cho bản thân.
Học sinh lớp tôi nhanh nhẹn, mạnh dạn, xử lý các tình huống trôi chảy, ham
học hỏi và thích khám phá
Phụ huynh nhiệt tình, thân thiện và tích cực phối hợp với giáo viên chủ
nhiệm trong mọi hoạt động.
Trước khi thực hiện đề tài tôi nhận thấy rằng ở lớp tôi đa phần các em còn
lúng túng khi tìm ra từ láy, từ ghép một cách chính xác.
* Khó khăn:
Là một xã thuộc vùng miền núi của huyện Phú Ninh vẫn còn có một số phụ
huynh nghèo, hoàn cảnh khó khăn ( trong đó 01 em thuộc hộ nghèo, 01 em
khuyết tật học hòa nhập).
Một số phụ huynh vì cuộc sống bận rộn nỗi lo về kinh tế của gia đình nên
không có thời gian để quan tâm việc học cho các em
Một số em đường sá đi lại gặp nhiều khó khăn nhất là mùa mưa, bão
Gần đây sự bùng phát của dịch bệnh Covid-19 làm cho việc học của các em
bị gián đoạn nên việc dạy học từ xa của các em còn hạn chế.
4.2. Nội dung đã cải tiến, sáng tạo:
Với hai chức năng quan trọng nhất là làm phương tiện giao tiếp và làm
phương tiện để biểu hiện tư duy, tiếng mẹ đẻ trở thành môn học trung tâm trong
nhà trường tiểu học. Trong quá trình dạy học tiếng mẹ đẻ, những phẩm chất
quan trọng nhất của con người được hình thành. Nếu không nắm ngôn ngữ,
không có những hiểu biết về tiếng mẹ đẻ thì rất khó hình thành tính tích cực xã
hội của con người. Theo Lê- nin : “ Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy”.
Bởi lẽ đó, tư duy và ngôn ngữ có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau. Tư duy của con người sẽ kém phát triển nếu thiếu ngôn ngữ. Ngược lại, tư
duy phát triển sẽ tạo những tiền đề để tăng vốn ngôn ngữ của con người. Vì vậy
trong quá trình dạy học môn Tiếng Việt cần phải làm cho học sinh thông hiểu ý
nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ, cụ thể làm cho học sinh hiểu được ba bình diện
của ngôn ngữ: nghĩa, cấu trúc, cách sử dụng. Chẳng hạn như dạy từ, không
chỉ dạy cho học sinh hiểu nghĩa của từ mà còn giúp các em biết đó là từ đơn, từ
ghép hay từ láy, nó được sử dụng trong những bài văn viết về chủ đề gì ? vv…
Trong thực tế có rất nhiều học sinh không phân biệt được một từ nào đó là
từ láy hay từ ghép. Sở dĩ có trường hợp như vậy là do sách giáo khoa định nghĩa
về từ láy và từ ghép như sau : Từ láy là những từ phối hợp những tiếng có âm
đầu hay vần (hoặc cả âm và vần) giống nhau. Từ ghép là những từ ghép những
tiếng có nghĩa lại với nhau. Định nghĩa này chưa đủ để phân biệt từ láy hay từ
ghép ở một số trường hợp giữa các tiếng vừa có quan hệ về âm vừa có quan hệ
về nghĩa như dẻo dai, tốt tươi, rụng rời,…đành rằng ở mức độ tiểu học các em
chỉ mới dừng lại ở mức độ nhận dạng đơn giản ( những từ láy phổ biến trong
tiếng Việt). Song quá trình dạy học không thể không xuất hiện những từ như đã
nêu trên.
Xuất phát từ định nghĩa trong sách giáo khoa chưa đủ để phân biệt từ ghép
và từ láy, một phần nữa là do giáo viên chưa chú trọng cho học sinh phân biệt
hai kiểu từ này nên trong nhiều năm qua việc phân biệt từ ghép và từ láy ở khối
4-5 của học sinh trường tôi còn rất nhiều hạn chế. Sau khi được học khái niệm
về từ ghép và từ láy, tôi tiến hành khảo sát. Kết quả như sau:
Em hãy xếp các từ trong ngoặc đơn sau theo hai nhóm
a.Từ láy:
b.Từ ghép:
(học sinh, học hành, lôi thôi, êm ả, chí khí, vằng vặc)
- Có 18 học sinh có kết quả:
a.Từ láy: học hành, lôi thôi, chí khí, vằng vặc
b.Từ ghép: học sinh, êm ả
- Có 12 học sinh có kết quả:
a.Từ láy: lôi thôi, chí khí, vằng vặc
b.Từ ghép: học sinh, êm ả, học hành
- Có 1 học sinh có kết quả đúng :
a.Từ láy: lôi thôi, vằng vặc, êm ả
b.Từ ghép: học sinh,học hành, chí khí
Từ những khó khăn và thực trạng trên, tôi đưa ra một số giải pháp với
mong muốn giúp học sinh khắc phục phần nào trong việc phân biệt từ ghép và
từ láy.
4.2.1. Biện pháp 1: Phương pháp phân biệt từ ghép và từ láy:
Qua bài khảo sát, tôi nhận thấy thực tế học sinh lớp tôi hầu như các em
chưa có kĩ năng phân biệt từ ghép và từ láy, mà chương trình luyện từ và câu ở
lớp 4&5 chỉ có 2 tiết học về nội dung này. Một tiết học khái niệm, một tiết luyện
tập. Với thời lượng này, các em không thể hình thành được kĩ năng với một đơn
vị kiến thức mang tính trừu tượng như thế. Sau khi chọn đề tài, tôi dành riêng
một số buổi chiều và một số tiết Ôn luyện chương trình Tiếng Việt để dạy cho
các em cách phân biệt hai kiểu từ này, cụ thể như sau:
a. Làm rõ thêm định nghĩa sách giáo khoa :
Để học sinh phân biệt được hai kiểu từ này, tôi làm rõ thêm định nghĩa về
từ láy trong sách giáo khoa như sau: Từ láy là từ gồm nhiều tiếng, có âm hoặc
vần hoặc cả âm và vần giống nhau, trong đó một tiếng có nghĩa, một tiếng
không có nghĩa hoặc cả hai tiếng đều không có nghĩa ghép lại tạo thành. Ví dụ :
“may mắn” là từ láy âm, tiếng “may” là tiếng gốc, “lăng nhăng” là từ láy vần,
trường hợp này cả hai tiếng đều không có nghĩa hợp lại thành từ có nghĩa.
b. Phân tích cấu trúc giữa các tiếng tạo nên từ :
Khi dạy, tôi cố gắng tối đa làm rõ mối quan hệ giữa các tiếng cấu tạo nên từ
và nghĩa của chúng. Vì khi xét mối quan hệ giữa các tiếng trong từ nhiều tiếng
về cả mặt nghĩa và âm, có các khả năng sau có thể xảy ra :
Quan hệ về nghĩa Các tiếng có quan hệ
Các tiếng không có
Quan hệ về âm
về nghĩa
quan hệ về nghĩa
Các tiếng có quan hệ về âm
A
C
Các tiếng không có quan hệ
B
D
về âm
Các từ ở nhóm B là các từ ghép, Các từ ở nhóm C là các từ láy. Vấn đề
đặt ra là những từ ở nhóm A và nhóm D
- Những từ nhóm A là những từ mà giữa các tiếng vừa có quan hệ về nghĩa,
vừa có quan hệ về âm, như “đi đứng”, “thúng mủng”, “tươi tốt”, “sáng
sớm”,vv… Khi xếp loại cần theo nguyên tắc ưu tiên về nghĩa. (Giáo trình
phương pháp dạy học Tiếng Việt của tác giả Lê Phương Nga - Nguyễn Trí. Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội 1999)
Khi giữa các tiếng không có quan hệ về nghĩa thì mới xét tiếp quan hệ về
âm, còn khi chúng có quan hệ về nghĩa thì mối quan hệ về âm sẽ bị mờ đi, chỉ
còn được xem là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, không cần tính đến. Vì vậy
những từ nhóm A được nhất loạt xem là từ ghép
- Những từ nhóm D là những từ gồm các tiếng không có quan hệ về nghĩa,
cũng không có quan hệ về âm, nghĩa là bản thân từng tiếng trong từ cũng không
có nghĩa và chúng cũng không giống nhau về hình thức ngữ âm, như “ mồ
hóng”, “tắc kè”,vv…Căn cứ vào tiếng để phân loại thì các từ này không phải là
từ đơn (vì có 2 tiếng). Theo giáo sư Đỗ Hữu Châu thì đây là loại từ ghép ngẫu
kết (kết hợp một cách tự nhiên). Tuy nhiên với mức độ học sinh tiểu học, giáo
viên không nên đưa các loại từ ghép ngẫu kết hay các từ vay mượn (từ Hán Việt)
như xà phòng, mít tin, căng tin,…ra xem xét phân loại.
c. Trường hợp láy khuyết âm :
Cần cho học sinh hiểu một số từ không có phụ âm đầu (nhưng giữa các
tiếng không có quan hệ về nghĩa ) như : ép uổng, ế ẩm, óc ách, ể oải, ầm ĩ, vv…
đều được xem là từ láy.
d. Trường hợp láy âm nhưng viết bằng những con chữ khác nhau :
Những trường hợp láy âm nhưng trên chữ viết lại được thể hiện bằng
những con chữ khác nhau như : cong queo, cuống quýt, cập kênh, cồng kềnh, cũ
kĩ, kém cỏi, kính coong, vv…được nhất loạt xếp vào từ láy.
e. Cần chú ý từ Hán Việt:
Không xếp nhầm các từ ghép Hán Việt có hình thức ngữ âm giống từ láy
vào các từ láy : bảo bối, hòa hợp, hoan hỷ, chuyên chính, minh mẫn, căn cơ,
vĩnh viễn, hội họa, vv…và khi ra bài tập giáo viên cần chú ý tránh những trường
hợp này, nếu học sinh chủ động đưa ra thì giáo viên giải thích cho các em đó là
những từ Hán Việt các em sẽ được học ở các lớp trên.
f. Quy luật hài thanh trong từ láy:
Ngoài những trường hợp nêu trên, khi xét về từ láy ta cũng cần chú ý
nguyên tắc phối hợp thanh điệu. Các thanh điệu trong từ láy bao giờ cũng thuộc
cùng âm vực. Trong đó âm vực cao gồm thanh ngang (không), thanh sắc và
thanh hỏi. Âm vực thấp gồm thanh huyền, thanh ngã và thanh nặng. Nếu âm tiết
(tiếng) thứ nhất đã mang thanh không dấu thì âm tiết thứ hai chỉ có thể là thanh
không dấu hoặc thanh hỏi hoặc thanh sắc và ngược lại. Nếu một trong hai âm
tiết tạo thành từ láy đôi đã có thanh huyền hay thanh ngã hoặc thanh nặng thì âm
tiết còn lại chỉ có thể mang thanh huyền hoặc thanh ngã hoặc thanh nặng. Quy
luật “cùng âm vực” được thể hiện ở từ láy rất chặt chẽ, đến mức nếu sự phân bố
thanh điệu không tuân theo quy luật này thì các từ như thế đều bị coi không phải
là từ láy chuyên chính (theo giáo sư Đỗ Hữu Châu)
Để học sinh dễ nhớ, tôi minh họa hai nhóm âm vực trên bằng hai câu thơ :
“ Chị huyền mang nặng ngã đau
Hỏi không sắc thuốc lấy ai bạn cùng”
4.2.2. Biện pháp 2: Rèn kĩ năng phân biệt từ ghép và từ láy qua một số
trò chơi học tập :
Sau khi các em nắm được các cách phân biệt từ ghép và từ láy, tôi tổ chức
rèn luyện cho các em hình thành kĩ năng này thông qua một số hoạt động trò
chơi học tập (áp dụng trong những tiết được giảm tải theo công văn số 5842/
BGDĐT). Việc tổ chức các trò chơi học tập không những tăng hứng thú cho học
sinh mà còn giúp các em tích lũy một số vốn từ đáng kể.
Các trò chơi học tâp tôi đã áp dụng :
* Trò chơi “ Thi tìm từ láy”
Cách tổ chức :
GV chia lớp thành 5 đội (5 nhóm), nêu yêu cầu : thi tìm các từ láy, sao cho
âm cuối của tiếng trong từ láy này là âm đầu của tiếng trong từ láy sau (ví dụ :
xinh xắn
nóng nảy
yếu ớt
tung tăng, vv…
Hết thời gian quy định, các đội trình bày bài của mình lên bảng. Cử đại
diện của 3 đội lên chấm chéo, tổng kết ghi số từ. Giáo viên chốt lại kết quả đúng
của mỗi đội, tuyên dương đội thắng cuộc. ( Hình 1)
Qua trò chơi này giúp các em phát huy năng lực tư duy, tính nhanh nhẹn,
đồng thời khắc sâu được cho các em cách phân biệt từ ghép và từ láy (qua việc
phân tích các từ các em tìm sai.)
* Trò chơi “ Chiếc hộp thành công”
Cách tổ chức:
Chia lớp thành 5 đội (số lượng bằng nhau), mỗi đội nhận một bộ thẻ trống
và một chiếc hộp thành công, mỗi cá nhân trong đội tìm và viết nhanh các từ láy
vào thẻ trống, bỏ vào chiếc hộp thành công (kết quả của mỗi cá nhân sẽ góp nên
sự thành công của đội mình). Hết thời gian quy định, các đội gắn chiếc hộp của
đội mình lên bảng, cử 5 đại diện của 5 đội lên kiểm tra chéo (từ nào đúng thì gắn
lên bảng ), tổng kết ghi số từ. Giáo viên chốt kết quả đúng của mỗi đội. Đội nào
thắng cuộc giáo viên cho cả lớp hô to : “ Đội …thành công” ( Hình 2)
Trò chơi này đòi hỏi mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm về sự đóng góp của
mình trong toàn bộ kết quả của cả đội. Làm việc cùng nhau sẽ giúp nỗ lực của
từng cá nhân hoàn thiện hơn. Trò chơi không những giúp các em rèn kĩ năng
phân biệt từ ghép và từ láy mà còn giúp các em tăng thêm vốn từ.
*Trò chơi “Mời bạn về nhà mình”
Cách tổ chức:
Giáo viên phát cho học sinh mỗi em một từ (từ láy hoặc từ ghép), yêu cầu
các em suy nghĩ xác định từ của mình là từ láy hay từ ghép ( khoảng 1phút ), cử
2 em mỗi em mang một ngôi nhà (từ láy hoặc từ ghép) gắn lên bảng và hô “Mời
bạn về nhà mình”, sau đó em nào mang từ nào thì về ngôi nhà đó. Giáo viên
cùng cả lớp nhận xét xem bạn nào về đúng, bạn nào về sai.
Trò chơi này cũng phát huy khả năng suy nghĩ độc lập của mỗi cá nhân
(các em vận dụng hết những hiểu biết để xác định từ của mình là từ láy hay từ
ghép). Qua đó rèn kĩ năng phân biệt từ ghép và từ láy, giúo các em tăng thêm
vốn từ, đồng thời tạo hứng thú trong học tập. (Hình 3)
*Trò chơi “Có chúng em”
Cách tổ chức:
Giáo viên phát cho học sinh mỗi em một thẻ từ ( từ láy hoặc từ ghép), yêu
cầu học sinh suy nghĩ từ mình đang cầm là từ láy hay từ ghép. Sau đó giáo viên
hô “Từ láy” thì những học sinh có thẻ mang từ láy đứng lên và hô to: “ Có
chúng em” – Giáo viên kiểm tra xem em nào sai, mời em đó gắn lên trên bảng.
Giáo viên tiếp tục hô “ Từ ghép”, những học sinh mang từ ghép đứng lên và hô
to “ Có chúng em” – Giáo viên kiểm tra xem em nào sai, mời em đó đem từ đó
gắn lên bảng. Cuối cùng giáo viên phân tích cho các em thấy những từ trên bảng
để các em khắc sâu cách phân biệt này. (Hình 4)
Cũng như trò chơi “Mời bạn về nhà mình”, trò chơi “Có chúng em” cũng
phát huy khả năng suy nghĩ độc lập của mỗi cá nhân. Qua đó rèn cho các em kĩ
năng phân biệt và tăng thêm vốn từ.
* Trò chơi “ Ai đúng, ai giỏi”
Cách tổ chức:
Giáo viên gắn một số thẻ từ ghi từ láy hoặc từ ghép (mặt chữ quay vào
trong), lần lượt mỗi học sinh lên chỉ vào thẻ và nói “ Tôi đoán đây là từ láy”
hoặc “ Tôi đoán đây là từ ghép”, nói xong lật thẻ ra, nếu đúng cả lớp hô to “ Bạn
đoán giỏi quá”, nếu sai thì hô: “ bạn đoán sai rồi”.
Khác với những trò chơi trên, trò chơi này không đòi hỏi các em suy nghĩ
song nó tạo sự bất ngờ, hấp dẫn, giúp các em hứng thú trong học tập, đồng thời
làm tăng thêm vốn từ cho các em.
4.3. Các điều kiện, phương tiện cần thiết để thực hiện và áp dụng giải
pháp:
Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học, tác giả Lê Phương Nga Nguyễn Trí của Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
Từ Tiếng Việt, tác giả Hoàng Văn Hành - Hà Quang Năng - Nguyễn Văn Khang
của Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học -Tập 2, tác giả Nguyễn Thị
Xuân Yến của Nhà xuất bản Đại học Huế - Trung tâm đào tạo từ xa.
Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ
và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ quản lí và giáo viên Tiểu học.
Tìm hiểu trên mạng internet và các phương tiện thông tin đại chúng.
Sự phối hợp nhiệt tình của tất cả phụ huynh tập thể lớp 5/1
4.4. Nêu các bước thực hiện giải pháp, cách thức thực hiện giải pháp:
Để áp dụng thành công rèn kĩ năng phân biệt từ ghép và từ láy cho học sinh lớp
4 & lớp 5”. Đặt biệt ở lớp tôi đã tiến hành những giải pháp sau:
Phân biệt từ láy và từ ghép khái niệm ở sách giáo khoa.
Hình thành kĩ năng phân biệt hai kiểu từ ghép và từ láy.
Sổ tay giúp học sinh tìm hiểu ý nghĩa của từ, biết phân loại từ cấu tạo khi
cần thiết.
Xác định đúng từ loại (từ đơn, từ ghép, từ láy) trong văn cảnh cụ thể.
Biết sử dụng từ ngữ phù hợp để viết được câu văn, đoạn văn, bài văn hay
trong đó có sử dụng các từ ghép và từ láy.
Dạy về “ từ ghép, từ láy” mục đích mở rộng vốn từ cho học sinh theo quan
hệ cấu tạo từ qua các phương thức tạo từ láy và ghép. Môn học này học sinhphải
hiểu rõ nghĩa của từ, cấu tạo từ theo yêu cầu, theo chủ đề.
Từ ghép gồm 2 , 3…tiếng; từ láy gồm 2,3…tiếng láy tạo thành.
Các buổi sinh hoạt ngoại khóa, trò chơi dân gian.
4.5. Chứng minh khả năng áp dụng của sáng kiến:
Sáng kiến “Rèn kĩ năng phân biệt từ ghép và từ láy cho học sinh lớp 4& lớp
5” mà bản thân tôi đã đúc kết được và đã được áp dụng ở lớp 5 đạt hiệu quả cao.
Theo tôi, kinh nghiệm này có áp dụng cho tất cả các lớp, trường trong và ngoài
huyện. Bởi vì những biện pháp tôi đưa ra rất thiết thực, gần gũi không quá khó
khăn và cầu kỳ.
5. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không có.
6. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Từ những biện pháp trên, bản thân tôi đã tổ chức triển khai thực hiện thành
công trong tiết Luyện từ và câu, trong tất cả các tiết học và giới thiệu cho các
lớp khác.
6.1. Về nhận thức:
Các em học sinh đã phân biệt được từ ghép và từ láy; áp dụng để học các
môn học khác.
6.2. Kết quả đạt được:
Sau khi áp dụng những biện pháp trên, tôi tiến hành khảo sát kĩ năng phân
biệt hai kiểu từ này của các em. Kết quả như sau :
Lần 1: Có 25 em có kết quả đúng
Lần 2: Có 29 em chọn ý b, 2 em chọn ý a
Lần 3: Có 30 em có kết quả đúng, 1 em có kết quả sai ( khuyết tật)
7. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến
lần đầu, kể cả áp dụng thử: không có