ảnh hưởng của Phật giáo đến quan niệm, tư tưởng của người Hàn Quốc
1. Tư tưởng về bình đẳng
Phật giáo cho rằng nhân gian có 9 giới, từ Bồ Tát tới giới địa
ngục và cho rằng chúng sinh khác nhau sẽ có tính chất tồn tại
khác nhau nhưng căn bản trong các giới đó chúng sinh đều có
thể tổn tại và bình đẳng với nhau. Phật giáo cho rằng tất cả
chúng sinh không phân biệt hiền, ác một khi đã tìm ra chân lý
giác ngộ cảu Phật giáo thì có thể đạt tới cõi Niết Bàn. Khi đạt tới
cõi Niết Bàn có nghĩa là bình đẳng với nhau về nguồn gốc tạo
thành, về khả năng trên con đường thành Phật. Do đó ai cũng có
thể tu theo Phật đạo và trở thành Phật tử của Phật giáo. Quan
niệm bình đẳng của Phật giáo được thể hiện dựa trên thuyết
Duyên khởi, giữa chúng sinh và Phật đều có bình đẳng về
nguyên nhân thành Phật và hưởng thành quả của quá trình tu
luyện khổ ải là tiến tới cõi Niết Bàn lý tưởng cao nhất của đạo
Phật.
Vì vậy người Hàn Quốc hiện nay không bất kể già trẻ, trai gái
đều có thể tham gia tu dưỡng theo đạo Phật, đều có quyền bình
đẳng tìm cho mình một ngôi chùa thích hợp để thực hiện các
nghi thức lễ chùa hay để trở thành tăng ni của ngôi chùa nào đó.
Trong các bộ phim do Hàn Quốc sản xuất, thường có bối cảnh
người đàn ông làm chủ gia đình ngồi đầu bàn ăn trong những
bữa ăn cơm, còn người mẹ luôn đóng vai trò là người nội trợ
kiêm thêm việc tại các cửa hàng hoặc tại các công ty. Nhưng
cùng sự phát triển thì hiện nay xã hội Hàn Quốc đã có những
thay đổi tích cực trong nhận thức chính là do một phần ảnh
hưởng của Phật giáo hiện đại, khi các quan niệm của Phật giáo
được tiếp thu và hưởng ứng theo lối sống hiện đại. Người Hàn
Quốc chú trọng quan hệ bình đẳng không chỉ ở mặt tu dưỡng
đạo Phật mà ngay trong cuộc sống đời thường, đó là các mỗi
quan hệ bình đẳng giữ vợ và chồng, con cái với bố mẹ, quyền
bình đẳng giữa anh chị em, giữa các học sinh, sinh viên cùng
học trong một ngôi trường nói riêng và hệ thống giáo dục của
Bộ giáo dục Hàn Quốc nói chung. Hay trong công việc Chính
phủ Hàn Quốc cũng đã đưa ra luật Lao động cho Phụ nữ Hàn
Quốc, theo đó phụ nữ khi mang thai sẽ được nghỉ 1 năm thai
sản. Ngày nay con trai Hàn Quốc luôn được dạy bảo cần phải
đối xử tốt với phụ nữ, làm việc nhà chăm chỉ thì mới có cuộc
sống hạnh phúc. Tuy nhiên nếu nhìn vào thực tế của Hàn Quốc
tình trạng bất bình đẳng vẫn xảy ra.
2. Tôn trọng người vế trên
Người Hàn Quốc rất chú trọng đến yếu tố gia đình.
3. Tư tưởng từ bi
ảnh hưởng là hệ thống pháp chùa, tháp. Đây là một bộ phận cấu
thành giá trị vật chất và tinh thần của người Hàn. Các ngôi chùa,
tháp được xây dựng mang dáng vẻ thanh thoát, trầm mặc, mang
đậm nét phương Đông. Chùa là nơi thờ tự, là nơi cụ thể hóa các
tư tưởng, tình cảm có từ lâu đời đã chi phối cách ăn ở, đối nhân
xử thế của ngừi dân Hàn Quốc, cũng như chi phối các phong
tục, tập quán truyền thống ở nơi đây. Chùa cũng là nơi biểu hiện
quan niệm Từ- bi- hỷ- xả…Những quan niệm này gợi cho con
ngừi về sự hướng thiện, thanh cao trong cuộc sống. Với người
dân Hàn Quốc việc đi chùa để tìm sự bình yên trước những bộn
bề của cuộc sống đã không còn xa lạ. Dấu ấn của nhân sinh
quan Phật giáo để lại trong tư tưởng của người Hàn Quốc còn là
việc ăn chay, niệm Phật. Người Hàn Quốc mỗi khi người thân
trong gia đình gặp phải những khó khăn trong công việc hoặc
trong cuộc sống, hay gây ra lỗi lầm, hành động sai thì người nhà
thường là các phụ nữ lớn tuổi sẽ tìm đến các chùa để ăn chay
niệm Phật trong vòng một tháng, vì vật mỗi khi xem phim Hàn
Quốc chúng ta hay thấy hình ảnh của các bà, các mẹ lên chùa ăn
chay niệm Phật với tư tưỡng sẽ qua khỏi khó khăn hay tự ăn năn
cho lỗi lầm của bản thân.
4. Quan niệm về cõi âm.
Phật giáo có ảnh hưởng đến tư tưởng cõi âm của người Hàn
Quốc, đó là ảnh hưởng đến sự hình thành vũ trụ và cái chết. Xã
hội Hàn Quốc hiện đại là xã hội đa tôn giáo. Và có mối xung dột
với nhau giữa các tôn giáo bản địa và các tôn giáo nước ngoài
được truyền đến Hàn Quốc, mặc dù các tôn giáo xung đột với
nhau nhưng các tôn giáo vẫn cung tồn tại với nhau trong xã hội
Hàn Quốc hiện đại. Phật giáo đã hình thành các loại tín tin
ngưỡng được chấp nhận tại Hàn Quốc là tín ngưỡng San’shin,
tín ngưỡng Chilseong, tín ngưỡng Yongwang, đức tin Jowang và
tín ngưỡng Jangseung. Các tín ngưỡng này đã được xã hội Hàn
Quốc chấp nhận ngay từ khi Phật giáo mới đến Hàn Quốc. Với
tín ngưỡng Chilseong ban đầu được xuất hiện tại Trung Quốc
khi Phật giáo đến Hàn Quốc đã mang theo tín ngưỡng này đến
đây, tín ngưỡng này tạo cho người Hàn Quốc về niềm tin Bắc
Đẩu. Tín ngưỡng Musok-kyo hay còn gọi là lên đồng, đây la
một tín ngưỡng xuất hiện từ thời cổ xưa của người Hàn Quốc,
loại tín ngưỡng này xuất hiện từ những tín ngưỡng Saman giáo
Sibiri cổ xưa. Những người dân di cư từ các bộ lạc ở Sibiri đã
đem theo tín ngưỡng này đến bán đảo Hàn Quốc từ thời tiền sử,
tại đây những tín ngưỡng Saman giáo ấy đã trải qua quá trình
phát triển và biến đổi lâu đời gắn với hoàn cảnh đặc thù của
cuộc sống lao động và đấu tranh với thiên nhiên cảu những cư
dân trên bán đảo Hàn Quốc. Trong quá trình phát triển, Musok
của Hàn Quốc chịu ảnh hưởng, Đạo giáo, Nho giáo và các tôn
giáo ngoại lai khác. Nhưng đặc biệt là Musok chịu ảnh hưởng
nặng nề của Phật giáo, đó chính là thuyết Luân hồi của Phật
giáo, chính vì vậy người Hàn Quốc tin rằng con người sau khi
chết đi thì linh hồn vẫn tiếp tục tồn tại và có thể phù hộ, ban
điều tài lộc hoặc đem lại điều ác, thậm chí là trừng phạt những
người đang sống.
Nhiều người dân Hàn Quốc sử dụng nhiều thuật ngữ Phật giáo
trong ngôn ngữ hàng ngày, điều này do xuất phát từ suy nghĩ
của Phật giáo ảnh hưởng đến hành động, các mối quan hệ trong
xã hội Hàn Quốc. Hoặc bằng việc quan sát khi đến tang lễ của
người Hàn Quốc, có những vòng hoa có ruy băng, đó có nghĩa
là đi đến thế giới bên kia và sẽ nhận được phước lành. Hoặc sử
dụng từ ngữ “ Kiếp trước, kiếp này” đó là xuất phát từ tư tưởng
tái sinh của Phật giáo, hay sử dụng từ “ Nghiệp”, tất cả đó đều là
thuật ngữ dùng trong Phật giáo, xuất phát từ việc giải thích rằng
nếu tích được nhiều điều tốt đẹp trong thế giới này, chúng ta có
thể quay trở lại một nơi tốt đẹp ở trong thế giới này vào kiếp
sau.
Trong những năm gần đây, trải nghiệm tang lễ của chính mình
đang dần trở thành xu hướng tại Hàn Quốc, giúp người tham gia
sống lạc quan, yêu đời hơn. Ngày càng có nhiều người đến Hàn
Quốc tìm đến trải nghiệm” chết thử” để làm mới bản thân thay
đổi suy nghĩ và thêm trân trọng cuộc sống. Trung tâm trị liệu
Hyowon tại Seoul đem đến cho người trải nghiệm chết thử trong
quan tài, Sau khi khoác lên mình tấm áo tang, họ được dẫn vào
căn phòng tràn ngập nến và hoa cúc. Những người than gia ngồi
vào bàn và bắt đầu viết lời trăng trối dành cho người thân của
họ. và sau đó họ sẽ được trải nghiệm 10 phút nhốt mình trong
quan tài, để suy nghĩ, chiêm nghiệm về cuộc đời. Phương pháp
này xuất phát từ quan điểm của Phật giáo dành cho những người
cảm thấy bế tắc trong cuộc sống biết trân trọng những giây phút
quý báu bên cạnh người thân và có niềm tin vào cuộc sống.
Hiện nay tại Hàn Quốc tỉ lệ tự tử thuộc hạng cao trên thế giới,
Mặc dù do ảnh hưởng của Nho giáo tự tử là một việc làm bất
hiếu, tại các nước phát triển khi tầng lớp thượng lưu đã bắt đầu
coi trọng các giá trị về tinh thần ( theo Phật giáo là từ bỏ lối
sống thiên về vật chất) thì ở Hàn Quốc mặc dù chịu ảnh hưởng
của Phật giáo nhưng những tầng lớp trung lưu vẫn quẩn quanh
với nhà rộng, xe bao nhiêu tiền, hay sẽ làm công việc gì…
Sự kết hợp giữa Phật giáo với đức tin là Pháp sư
Quan niệm về luân hồi
Như theo quan niệm của Phật giáo, con người gồm hai thể vật
chất và tinh thần, từ khi bắ đầu có sự phối hợp giữa tinh trùng cha và
trứng mẹ hợp lại về vật chất. cộng với phần tinh thần gọi là thần thức
hay nghiệp thức. bào thai phải có đủ vật chất và tinh thần thì mới có
đủ điều kiện để hình thành và phát triển, khi ở trong bụng mẹ bào thai
sẽ hình thành các bộ phận của cơ thể. Khi đủ ngày được sinh ra có
những người sẽ được đầu thai vào gia đình sung sướng, có những
người sẽ phải đầu thai vào gia đình nghèo khổ.Sở dĩ có sự khác biệt
như vậy là do nghiệp của kiếp trước tạo thành. Nếu kiếp trước sống
thiện lành, có lối sống tốt thì kiếp sau sẽ được đầu thai vào gia đình
tốt, sung sướng. Ngược lại nếu kiếp trước tích nghiều nghiệp báo, làm
việc xấu thì kiếp này sẽ phải gánh chịu hậu quả là đầu thai vào gia
đình nghèo khổ.
Quan niệm về thuyết Nhân quả
Người Hàn Quốc vẫn tin rằng con người làm việc ác, nhất định sẽ gặp
phải quả báo. Ngược lại những người làm việc thiện sẽ được đền đáp
xứng đáng. Nhiều người dân Hàn Quốc đang ý thức về cái giá phải trả
cho những thứ văn hóa đề cao vật chất và tiêu thụ của Tây phương,
bằng nhiều con đường nhân danh tôn giáo khác nhau đã cấy vào tâm
thức họ. Họ nhận ra rằng, không thể cứ dùng mãi giá trị vật chất, tiền
bạc để trả giá cho hạnh phúc lâu dài của mình qua những lời rao
truyền đầy hứa hẹn hão huyền trên đất nước họ, nhất là qua những
danh xưng "tin lành".
Nhiều Phật tử đã ý thức về vai trò của Phật giáo, khơi dậy truyền
thống tâm linh sâu sắc để có thể cống hiến những điều tốt đẹp trong
bối cảnh tha hóa của xã hội Hàn Quốc về đạo đức. Trong không khí
sinh hoạt Phật giáo ở đất nước này được phổ biến mạnh mẽ trên các
phương tiện truyền thông đại chúng. Phật giáo Hàn Quốc có riêng một
kênh riêng trên sóng truyền hình để tạo điều kiện cho công đồng học
tập và tìm hiểu về tư tưởng của Phật giáo cũng như có nơi để tu
dưỡng tinh thần trong bộn bề của cuộc sống. Vào những ngày lễ lớn,
tại các ngã tư trên khắp đường phố của Hàn Quốc đều được treo cờ
hoa lung linh. Trong đó có thể kể đến điển hình là ngày Lễ Phật Đản,
ngày lễ này được tổ chức long trọng, chủ yếu về đêm bầu trời tràn
ngập pháo hoa đón mừng Khánh Đản. Mặc dù Phật giáo Hàn Quốc
hiện đại đã không còn có đủ sức để giữ vị trí đầu trong xã hội khi mà
những ảnh hưởng của Nho giáo và các tôn giáo ngoại lai ảnh hưởng
đến con người Hàn Quốc ngày càng thay dần ảnh hưởng to lớn của
Phật giáo đối với xã hội Hàn Quốc như trong lịch sử. Giới trẻ Hàn
Quốc hiện đại cũng dần thờ ơ, ít quan tâm đến Phật giáo, khoảng cách
của giới trẻ với sinh hoạt chùa viện chưa rút ngắn nhanh như mong
muốn, nhưng càng ngày càng có đông giới trẻ Hàn Quốc chú ý và
tham gia vào các sinh hoạt Phật pháp như: ghi danh theo học các khóa
giáo lý, khóa tu thiền ngắn hạn, công tác từ thiện xã hội...những hoạt
động này đều có thể lý giải rằng trong niềm tin của người Hàn Quốc
nói chung và thế hệ giới trẻ Hàn nới riêng đâu đó trong tâm thức vẫn
tồn tại những ảnh hưởng của niềm tin Phật giáo.
Cùng một sự vật, hiện tượng chúng ta thường hoặc quan tâm đến cấu
trúc, bản chất hoặc nghiên cứu những mối liên hệ, quan hệ với những
sự vật , hiện tượng khác. Đương nhiên phương Đông chú trọng mối
quan hệ nhiều hơn. Xuất phát từ “dịch”, “vô thường”, người phương
Đông cho rằng không có gì là trường tồn, đứng yên mà vạn vật luôn
vận động, biến đổi không ngừng. Vì vạn vật sinh sinh, hoá hoá, sắc
sắc, không không nên cái ta thấy được chỉ là những mối liên hệ thấp
thoáng giữa các trạng thái của sự vật trong quan hệ với những sự vật
khác.
Để chỉ những mối liên hệ, Phật giáo có luật nhân quả. Nhân quả là chỉ
mối quan hệ phổ biến mọi sự vật, hiện tượng. Không có cái tôi độc
lập, không có thế giới tác rời “cái tôi, không có “cuộc sống” tách rời -
tất cả những cái đó là những tương tác chặt chẽ và chỉ bị tách rời nhau
trong tưởng tượng. Do vậy mà người phương Đông, Việt Nam theo
đạo Phật thường để ý nhiều đến mối quan hệ, chủ yếu cảm tính, đạo
đức nên nhiều nhìn nhận sai lệch, có tính chủ quan duy ý trí. Do đó,
cuộc sống người Việt Nam thường chú ý nhiều đến quan hệ họ hàng,
làng xóm, xã hội sao cho khôn khéo, tế nhị.
Nhiều người dân Hàn Quốc đang ý thức về cái giá phải trả cho những
thứ văn hóa đề cao vật chất và tiêu thụ của Tây phương, bằng nhiều
con đường nhân danh tôn giáo khác nhau đã cấy vào tâm thức họ. Họ
nhận ra rằng, không thể cứ dùng mãi "thẻ tín dụng" để trả giá cho
hạnh phúc lâu dài của mình qua những lời rao truyền đầy hứa hẹn hão
huyền trên đất nước họ, nhất là qua những danh xưng "tin lành".
Trong tình thế đó, nhiều Phật tử đã ý thức về vai trò của Phật giáo,
khơi dậy truyền thống tâm linh sâu sắc để có thể cống hiến một viên
thuốc trị độc cho xã hội. Hòa thượng Hyon Gak Sunin nói: "Chúng ta
phải chứng tỏ rằng chúng ta chỉ tìm được tự do thật sự không phải
trong sự cầu chứng vô kiểm soát, mà trong sự chế ngự và điều phục
được dục vọng. Rằng hạnh phúc đích thực không nằm trong sự gia
tăng thủ đắc của cải, mà trong tâm an bình và lòng hoan hỷ".
Một du học sinh Việt Nam hiện đang học Đại học ở Hàn Quốc nhận
xét, không khí sinh hoạt Phật giáo ở đất nước này được phổ cập mạnh
mẽ trên các phương tiên truyền thông. Phật giáo có riêng một kênh
truyền hình phát sóng cho công đồng học tập và tìm hiểu. Những ngày
lễ lớn, các ngã tư trên khắp đường phố đều treo cờ hoa. Điển hình là
ngày Lễ Phật Đản, được tổ chức long trọng, về đêm bầu trời tràn ngập
pháo hoa đón mừng Khánh Đản. Tuy khoảng cách của giới trẻ với
sinh hoạt chùa viện chưa rút ngắn nhanh như mong muốn, nhưng càng
ngày càng có đông giới trẻ Hàn Quốc chú ý và tham gia vào các sinh
hoạt Phật pháp như: ghi danh theo học các khóa giáo lý, khóa tu thiền
ngắn hạn, công tác từ thiện xã hội...
Những sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh đang được bày bán rất
nhiều ở các nhà sách và rất được giới trẻ hâm mộ tìm hiểu sau cuộc
hoằng hoá thuyết pháp của Thiền sư tại Nam Hàn gần đây. Đối với họ
công đức trình bày làm mới đạo Phật của Thiền sư đã thích hợp với
lối sống hiện đại và trở nên thiết thực hơn, nhờ vậy đã thu hút giới trẻ
có cách nhìn thấu đáo hơn về một tôn giáo truyền thống của dân tộc
Hàn..
Lại nữa, công nghệ du lịch đang giúp phục hồi vai trò quan trọng của
Phật giáo tại quốc gia này, song song với việc bảo tồn các giá trị vật
thể và phi vật thể của Phất giáo. Chùa chiền được mở cửa cho công
chúng viếng thăm. Tổng cục Du lịch Hàn Quốc đã hợp tác và triển
khai thành công chương trình "ngụ tại chùa" để đẩy mạnh công nghệ
du lịch, đặc biệt từ World Cup 2002 đến nay. Dân chúng và du khách
nước ngoài đã có thể trú ngụ tại chùa, sống đời phạm hạnh như một
Tăng sĩ, ngắn thì một ngày, dài thì ba tháng. Thu nhập từ "dịch vụ"
này gọi là "công quả", được sử dụng để trùng tu lại chính ngôi chùa.
Lúc đầu, chương trình này mới chỉ có 14 chùa tham gia, nhưng bây
giờ đã tăng lên 50 chùa. Riêng năm 2005, đã có hơn 50.000 "thí chủ"
trả tiền công quả để được "ngụ tại chùa".Dựa vào những chứng cớ
hiện nay người ta tin tưởng rằng Phật giáo Hàn Quốc đang trên đà
phát triển mạnh và đầy lạc quan ở tương lai. Vì thế các nhà lãnh đạo
quốc gia và các Giáo hội Phật giáo ở Đông Nam Á nên nghiên cứu kỹ
bài học của Hàn Quốc để rút tỉa kinh nghiệm, kịp thời định hướng tâm
linh cho đất nước mình, đồng thời học hỏi cách phục hưng của Phật
Giáo Hàn Quốc trong thời đại mới.
Ở Bắc Hàn (Triều Tiên), tin tức gần đây cho biết là nhà nước cộng sản
đã nới lỏng các sinh hoạt tôn giáo, nhất là Phật giáo. Theo thống kê,
có khoảng 60% dân chúng theo Phật giáo. Hơn 300 ngôi chùa được tu
bổ và hoạt động. Bản dịch Đại tạng Kinh bằng tiếng Hàn gồm 25
cuốn đã được in ấn và phát hành rộng rãi. Trong khi ấy nhà nước Bắc
Hàn chỉ chính thức cho 2 thánh đường là Protestant Pongsu (Tin
Lành) và Changchung Cathedral (Thiên chúa giáo) được hành lễ.
Trong hiến pháp năm 1992 của Bắc Hàn, điều 68 ghi: "Nhà nước bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng và xây dựng nơi thờ phượng", nhưng
điều luật ấy cũng quy định rõ "không ai được phép dùng tôn giáo như
là phương tiện để đưa quyền lực ngoại bang vào đất nước, hay để hủy
diệt trật tự xã hội và nhà nước". Điều đó cho thấy chính quyền Bắc
Hàn ý thức rất rõ về sự khuynh đảo của các tổ chức truyền giáo có tổ
chức từ Phương Tây, cụ thể là "Tin lành" của Anh và Mỹ.
Chiều sâu ảnh hưởng của Phật giáo.
Tư duy người Việt có thêm 1 loạt khái niệm lấy từ Phật giáo. Những
khái niệm đó góp phần làm tăng những khái niệm mang tính triết lý
của người Việt, khiến tư duy người Việt mang tính khái quát hơn, trừu
tượng hơn. Ngoài ra, ảnh hưởng của Phật giáo lên cách tư duy còn thể
hiện ở quan niệm về sự phát triển của vạn vật qua 4 giai đoạn: sinh (ra
đời, xuất hiện) , trụ (tồn tại, hiện hữu), dị (phát triển, tiến hoá, biến
đổi) và diệt (tử, chết, biến mất), còn ở con người đó là sinh, lão, bệnh,
tử. Đó là sự phát triển tự nhiên, tất yếu của mọi sự vật, hiện tượng,
mọi sự sống.
Các khái niệm “vô thường”, “vô ngã” cũng ảnh hưởng nhiều tới hệ
tư tưởng phong kiến Việt Nam. Theo quan niệm nhà Phật thì mọi sự
vật, hiện tượng là sự kết hợp động của những yếu tố, động (Pháp),
bởi vậy chúng luôn vận động không ngừng. Phật giáo đóng góp 1
cách nhìn nhận thế giới động, phù hợp với sự phát triển sự vật.
Áp dụng triệt để luật vô thường vào việc phân tích con người, Phật
giáo cho rằng người là kết hợp động của 5 yếu tố - ngũ uẩn, bởi vậy
con người không có cái gọi là bản ngã mà là vô ngã. Cách nhìn này đã
khiến con người sống một cách không sợ và vị tha.
Khi quan sát thế giới bên ngoài, Phật giáo đã nhìn ra một mối quan hệ
phổ biến, cơ bản giữa các sự vật, hiện tượng – đó là mối quan hệ nhân
– duyên - quả. Thuyết này là sự phản ánh khái quát rút ra từ thế giới
hiện tượng, đặ biệt là khi xem xét sự phát triển của tự nhiên. Cách
nhận thức hợp lý này đã cung cấp cho người Việt một cách suy nghĩ
mang tính chất nhân quả để nhìn con người, cuộc sống, vạn vật: “nhân
nào, quả nấy”,”gieo gió, gặp bão”, “ở hiền gặp lành”....
Các học giả đều cho rằng chưa có một học thuyết, một tôn giáo nào
phân tích thế giới nội tâm, trong đó có tư duy sâu sắc như Phật giáo.
Theo Phật học thì tư duy, ý thức của con người tựa như một dòng
sông của ý niệm tuôn chảy không ngừng. Trong một sátna( thời gian
búng ngón tay), tâm ý ta đã trải qua 960 lần chuyển niệm, trong thời
gian một ngày đêm, nó trải qua 13 ức triệu niệm. Dưới dòng sông
tuôn trào này, ở nơi sâu thẳm vô hình đâu đó là A lại da thức (Tạng
thức) – nơi tàng trữ mọi mầm mống của vũ trụ. Tuy khó hình dung
nhưng Phật giáo đã cung cấp cho ta một cái nhìn động về tư duy, ý
thức. Phật giáo chỉ cho ta rằng muốn có tư duy, suy nghĩ đúng thì điều
kiện cần là phải tập trung tư tưởng.
Tư tưởng, tư duy, ý thức của con người giống như ngọn đèn. Nếu cứ
để bình thường thì toả sáng 4 phương, nhưng nếu biết tập trung toàn
bộ ánh sáng vào một điểm, hội tụ chúng lại, thì điểm này trở nên rất
sáng và mạnh. Vai trò của Thiền đối với tư duy cũng giống như việc
tập trung ánh sáng vậy. Nó là một phương pháp khoa học.
Phật giáo còn dạy muốn suy nghĩ thật khách quan cần phải có cái tâm
bình tĩnh, tỉnh táo. Tâm nhảy nhót như khỉ vượn, bị thiêu đốt bởi tham
lam, hận thù, si mê, tâm đứng ở nhị kiến, thích và không thích, yêu và
ghét, thì nhận thức không thể nào khách quan được. Tâm như vậy
giống như mặt nước hồ qua trận cuồng phong làm nổi sóng, vẩn đục
và không thể nào thấy được những viên cuội dưới đáy sông.
Muốn cho tâm được yên tĩnh, tỉnh táo thì việc đầu tiên là nên nghĩ và
làm những điều thiện. Đạo Phật hướng người Việt tới việc suy nghĩ về
làm những điều thiện, làm lành lánh giữ. Trong các loại nghiệp của
con người có 3 loại nghiệp quan trọng nhất là thân, khẩu, ý. Trong đó
Phật giáo coi nghiệp ý (về tư duy, suy nghĩ) là quan trọng nhất. “Tổng
vệ sinh”, “làm sạch” tư duy vừa là công việc khẩn thiết vừa là công
việc thường xuyên từng giờ, từng phút với mỗi Phật tử. Tư tưởng từ
bi bác ái, chủ trương khuyến thiện trừ ác, hỷ xả, cứu khổ, cứu nạn là
những tư tưởng lôi cuốn đông đảo người Việt và trở thành lòng
thương người, tính nhân đạo của họ. Chính vì quan tâm cứu vớt con
người trước bất công đau khổ nên người Việt đã tiếp thu và nhiệt tình
ủng hộ đạo Phật.
Đạo Phật cũng đóng góp một khía cạnh phương pháp nhận thức quan
trọng – đó là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, tinh thần và tự
nhiên hay tâm và vật. Một mặt thì tâm và vật không tách rời nhau.
Không có vật thì cũng chẳng có tâm. Ngược lại, không có tâm thì vật
như thế nào ta cũng không biết. Sở dĩ có vật là vật do ta đã quẳng cái
tâm vào đó rồi.
Mặt khác, không chỉ có vật chất, giới tự nhiên, vật luôn vận động mà
ý thức, tinh thần, tâm cũng luôn vận động. Hai cái luôn vận động như
vậy, cậy làm thế nào để nắm bắt, nhận thức được cái thứ hai. Đứng
trước vấn đề này Phật giáo đã đưa ra giải pháp như đã trình bày là tập
trung tư tưởng, giữa cho tâm yên tĩnh, tỉnh táo. Như vậy ở đây Phật
giáo dùng cái tĩnh trong sáng được tập trung cao độ để nắm bắt cái
động, “dĩ biến bất biến ứng vạn biến”. Đây là một vấn đề khá lý thú
so với nhận thức thông thường.