Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VÀ ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.98 KB, 36 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VÀ ĐỊNH GIÁ DOANH
NGHIỆP
1.1 Doanh nghiệp và các đặc điểm của doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một thuật ngữ trong kinh doanh dùng để chỉ các tổ chức
kinh tế, cá nhân nhằm phân biệt nó với các hình thức kinh doanh có quy mô quá
nhỏ.
Một tổ chức kinh tế chỉ được coi là doanh nghiệp nếu nó được sự thừa nhận
về mặt pháp lý trên một số tiêu chuẩn nào đó.
Các tiêu chuẩn ở đây có thể là mức vốn tối thiểu (vốn pháp định), mục tiêu
hoạt động, ngành nghề, địa điểm, quyền lợi, chủ sở hữu, nhiệm vụ... Vậy:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch
ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích
thực hiện các hoạt động kinh doanh (theo luật doanh nghiệp 2005).
1.1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một thực thể kinh tế và cần được coi là một loại hàng hóa.
Việc xác định giá trị doanh nghiệp là một nhu cầu tất yếu và đã thu hút được sự
quan tâm của rất nhiều đối tượng khác nhau. Giá trị doanh nghiệp cần được xác
định một cách hợp lý để đảm bảo được quyền lợi của các bên tham gia trong các
hoạt động có liên quan đến doanh nghiệp. Trước khi xem xét đến giá trị doanh
nghiệp, chúng ta cũng cần làm rõ những đặc điểm của doanh nghiệp như sau:
a) Doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế
Sự tồn tại của doanh nghiệp luôn được đặt trong mối quan hệ chung với các
phần tử khác của nền kinh tế. Sự tồn tại đó không chỉ được quyết định bởi các mối
quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp mà còn bởi các mối quan hệ với các yếu tố bên
ngoài như: khách hàng, nhà cung cấp, tổ chức tài chính, pháp luật…Sự hoạt động
của doanh nghiệp thực chất là sự thích ứng của nó với môi trường hoạt động. Do
vậy khi nhìn nhận doanh nghiệp cần thấy được vị trí của nó trong nền kinh tế và
quan trọng hơn là phải đánh giá được nó về mặt tổ chức cũng như sự thích ứng của
nó với môi trường.
b) Doanh nghiệp là một tổ chức, một thực thể hoặt động chứ không phải là các tài


sản rời rạc được tập hợp vào với nhau
Doanh nghiệp không phải là một kho hàng, doanh nghiệp không đơn giản là
tập hợp của những tài sản vô tri vô giác, giá trị sử dụng của chúng bị giảm dần theo
thời gian. Khi hoạt động, các tài sản trong doanh nghiệp gắn kết lại với nhau để tạo
ra giá trị và giá trị thặng dư cho doanh nghiệp. Chỉ khi doanh nghiệp bị giải thể hay
phá sản, những tài sản ấy mới được coi là những tài sản đơn lẻ, rời rạc, người ta có
thể đem bán nó như một loại hàng hóa thông thường với mức giá thấp hơn rất
nhiều giá trị thực của nó. Do vậy, giá trị doanh nghiệp là một khái niệm chỉ được
dùng cho những doanh nghiệp đang hoạt động và sẵn sàng hoạt động.
c) Doanh nghiệp là một loại hàng hóa đặc biệt
Doanh nghiệp là một tổ chức được thành lập ra để thực hiện hoạt động sản
xuất kinh doanh chứ không phải là đối tượng để bán, tuy vậy giống như các hàng
hoá thông thường khác, doanh nghiệp cũng là đối tượng của các giao dịch: mua
bán, hợp nhất, chia nhỏ,… Quá trình hình thành giá cả và giá trị đối với loại hàng
hoá này cũng không nằm ngoài sự chi phối của các quy luật giá trị, quy luật cung
cầu, quy luật cạnh tranh… Nhưng doanh nghiệp là một loại hàng hóa đặc biệt, bởi
nó là một hệ thống phức tạp của nhiều yếu tố cầu thành, ngoài việc được tạo nên
bởi các tài sản hữu hình còn có các tài sản vô hình như: lợi thế thương mại, thương
hiệu…Hơn nữa, bản thân các yếu tố tạo nên giá trị của doanh nghiệp luôn có sự
thay đổi, luôn só sự tăng lên hay giảm đi, có sự ra đời hay biến mất, chính vì vậy
giá trị của một doanh nghiệp cũng thay đổi theo thời gian và giá trị doanh nghiệp là
một khái niệm động.
d) Việc thành lập hay mua bán lại doanh nghiệp thực chất là nhằm tìm kiếm thu
nhập từ quyền sở hữu đối với doanh nghiệp đó
Con người muốn sở hữu doanh nghiệp là vì lợi nhuận. Việc sở hữu các tài
sản cố định tài sản lưu động hay sở hữu một bộ máy kinh doanh, chỉ là cách thức,
là phương tiện để đạt mục tiêu lợi nhuận mà thôi. Tiêu chuẩn để nhà đầu tư đánh
giá hiệu quả hoạt động, quyết định bỏ vốn và đánh giá giá trị doanh nghiệp là các
khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà đầu tư trong tương lai.
1.2 Định giá doanh nghiệp

1.2.1 Khái niệm về định giá doanh nghiệp
Giá trị (value) là một khái niệm kinh tế có liên quan đến giá cả, chủ yếu do
người mua và người bán xác định. Giá trị là mức giá dự tính sẽ phải trả đối với
hàng hoá hoặc dịch vụ tại một thời điểm nhất định.
Giá trị của doanh nghiệp là sự biểu hiện bằng tiền của các khỏan thu nhập
mà doanh nghiệp mang lại cho các nhà đẩu tư trong suốt quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Để xác định được giá trị doanh nghiệp, có thể tiếp cận theo hai cách:
- Tiếp cận trực tiếp: Trực tiếp đánh giá các tài sản của doanh nghiệp, bao gồm
cả tài sản hữu hình, tài sản vô hình và định lượng giá trị các yếu tố về tổ
chức, danh tiếng, thị phần của doanh nghiệp.
- Tiếp cận gián tiếp: Đánh giá doanh nghiệp thông qua việc lượng hóa các
khoản thu nhập kỳ vọng mà doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà đầu tư
trong suốt thời gian hoạt động còn lại của doanh nghiệp.
Với hai cách tiếp cận như vậy, trên thế giới hiện nay có nhiều phương pháp
xác định giá trị doanh nghiệp khác nhau (sẽ được đề cập cụ thể ở phần sau). Tuy
nhiên kết quả xác định giá trị doanh nghiệp thường có sự chênh lệch lớn thậm chí
ngay cả khi sử dụng cùng một phương pháp vì kết quả đó phụ thuộc rất lớn vào độ
chính xác của các tham số tính toán. Do vậy mỗi phương pháp đưa ra đều có những
thích ứng đối với từng hoàn cảnh cụ thể của mỗi doanh nghiệp và tẩm nhìn của nhà
đầu tư. Không thể có một phương pháp chung phù hợp cho mọi doanh nghiệp nên
việc lựa chọn phương pháp nào đó để áp dụng thống nhất cho mọi doanh nghiệp là
điều khó thực hiện và sẽ nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Định giá là một môn khoa học
có tính nghệ thuật ước lượng cao chứ không hẳn là một khoa học chính xác. Kết
quả xác định giá trị doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ quan của nhà
thẩm định, điều quan trọng là quá trình định giá phải thực hiện một cách thống
nhất và kết quả định giá sẽ được sử dụng một cách hữu ích nhất.
1.2.2 Các căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp
Xác định giá trị doanh nghiệp là sự ước tính với độ tin cậy cao nhất các
khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh,

làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch thông thường của thị trường.
a) Giá trị thị trường.
Giá trị thị trường của một tài sản là mức giá ước tính sẽ được mua bán trên
thị trường vào thời điểm thẩm định giá, giữa một bên là người mua sẵn sàng mua
và một bên là người bán sẵn sàng bán, trong một giao dịch mua bán khách quan và
độc lập, trong điều kiện thương mại bình thường:
+ “Giá trị thị trường của một tài sản là mức giá ước tính sẽ được mua bán
trên thị trường... ” là số tiền ước tính để tài sản có thể được mua, bán trên thị
trường trong điều kiện thương mại bình thường mà sự mua bán đó thoả mãn những
điều kiện của thị trường tại thời điểm thẩm định giá.
+ “vào thời điểm thẩm định giá...” là ngày, tháng, năm cụ thể khi tiến hành
thẩm định giá, được gắn với những yếu tố về cung, cầu, thị hiếu và sức mua trên
thị trường khi thực hiện thẩm định giá trị tài sản.
+ “giữa một bên là người mua sẵn sàng mua...” là người đang có khả năng
thanh toán và có nhu cầu mua tài sản được xác định giá trị thị trường.
+ “và một bên là người bán sẵn sàng bán...” là người bán đang có quyền sở
hữu tài sản (trừ đất), có quyền sử dụng đất có nhu cầu muốn bán tài sản với mức
giá tốt nhất có thể được trên thị trường.
+ “Điều kiện thương mại bình thường” là việc mua bán được tiến hành khi
các yếu tố cung, cầu, giá cả, sức mua không xảy ra những đột biến do chịu tác
động của thiên tai, địch họa; nền kinh tế không bị suy thoái hoặc phát triển quá
nóng…; thông tin về cung, cầu, giá cả tài sản được thể hiện công khai trên thị
trường.
Giá trị thị trường thể hiện mức giá hình thành trên thị trường công khai và
cạnh tranh. Thị trường này có thể là thị trường trong nước hoặc thị trường quốc tế,
có thể bao gồm nhiều người mua, người bán hoặc bao gồm một số lượng hạn chế
người mua, người bán.
Giá trị thị trường thể hiện mức giá ước tính mà trên cơ sở đó, bên bán và bên
mua thoả thuận tại một thời điểm sau khi cả hai bên đã khảo sát, cân nhắc đầy đủ
các cơ hội và lựa chọn tốt nhất cho mình từ các thông tin trên thị trường trước khi

đưa ra quyết định mua hoặc quyết định bán một cách hoàn toàn tự nguyện, không
nhiệt tình mua hoặc nhiệt tình bán quá mức.
b) Giá trị phi thị trường
Giá trị phi thị trường là số tiền ước tính của một tài sản dựa trên việc đánh
giá yếu tố chủ quan của giá trị nhiều hơn là dựa vào khả năng có thể mua bán tài
sản trên thị trường.
Cơ sở của việc đưa ra khái niệm giá trị phi thị trường cũng xuất phát trực
tiếp từ khái niệm giá trị tài sản: là biểu hiện bằng tiền về những lợi ích mà tài sản
mang lại cho chủ thể nào đó tại một thời điểm nhất định.
Sau đây một số khái niệm giá trị phi thị trường thường dùng:
- Giá trị còn lại (salvage value): là giá trị của tài sản (bao gồm cả đất đai)
không còn được tiếp tục sửa chữa hay sử dụng nữa. Giá trị này có thể coi như
giá trị ròng của chi phí dỡ bỏ. Trong mọi trường hợp, khi định giá tài sản cần xác
định rõ những bộ phận dỡ bỏ và những bộ phận còn lại của tài sản.
- Giá trị tài sản bắt buộc phải bán (forcedsale value): là tổng số tiền hợp lý
có thể thu về từ bán tài sản trong phạm vị thời gian quá ngắn so với thời gian
trung bình cần có để giao dịch mua bán theo giá trị thị trường. Tại một số nước,
giá trị tài sản bắt buộc phải bán có thể liên quan đến tình huống người bán tài
sản chưa sẵn sàng bán và người mua tài sản biết rõ việc chưa sẵn sàng bán đó.
- Giá trị đặc biệt (special value): là khái niệm có liên quan đến những yếu
tố đặc biệt có thể làm tăng giá trị tài sản lên vượt quá giá trị thị trường. Giá trị
đặc biệt có thể nảy sinh khi một tài sản này có thể gắn liền với một tài sản khác
về mặt kỹ thuật hoặc kinh tế mà sự liên kết đó chỉ thu hút mối quan tâm đặc biệt
của một số ít khách hàng mà không thu hút sự quan tâm của nhiều người. Các
yếu tố của giá trị đặc biệt có thể nảy sinh khi xem xét yếu tố của giá trị tài sản
đang quan tâm hoặc giá trị đầu tư. Thẩm định viên phải phân biệt rõ ràng những
thông số và nguyên nhân để vận dụng các khái niệm giá trị thị trường nói trên
thay vì sử dụng khái niệm giá trị thị trường.
- Giá trị có thể bảo hiểm (insurable value): là giá trị của tài sản quy định
trong hợp đồng bảo hiểm.

- Giá trị có thể tính thuế (taxable value): là giá trị trong phạm vi luật pháp
liên quan đến việc thuê mướn hoặc thu thuế tài sản. Mặc dù một số văn bản pháp
quy trích
- Giá trị đầu tư (investment value): là giá trị của một tài sản đối với một số
nhà đầu tư áp dụng cho một dự án đầu tư nhất định. Khái niệm này liên quan đến
những tài sản riêng biệt với những nhà đầu tư riêng biệt. Không nên nhầm lẫn giữa
giá trị đầu tư và giá trị thị trường. Giá trị đầu tư của một tài sản có thể cao hơn hoặc
thấp hơn giá trị thị trường của tài sản đó. Tuy nhiên giá trị thị trường có thể phản ánh
một số đánh giá cá nhân về giá trị đầu tư. Giá trị đầu tư có liên quan đến giá trị đặc
biệt
- Giá trị đang sử dụng (Value in use): là giá trị các tài sản khi nói đang
được một người cụ thể sử dụng cho một mục đích nhất định. Vì vậy, tài sản đó
không liên quan đến thị trường. Loại giá trị này đóng góp vào một doanh nghiệp
với tư cách là một bộ phận của tài sản doanh nghiệp, không tính đến giá trị sử
dụng tối ưu và tốt nhất của tài sản cũng như số tiền mà tài sản đó mang lại khi
nó được mang ra bán. Xét trên giác độ kế toán, giá trị đang sử dụng là giá trị
hiện tại của luồng tiền mặt ước tính có thể mang lại trong tương lai kể từ khi bắt
đầu sử dụng tài sản đến khi thanh lý tài sản.
Giá trị doanh nghiệp đang hoạt động (going concern): là giá trị toàn bộ
của một doanh nghiệp. Khái niệm này liên quan đến định giá tài sản một doanh
nghiệp đang hoạt động mà mỗi bộ phận tài sản cấu thành nên doanh nghiệp đó
không thể tách rời và cũng không thể thẩm định trên cơ sở giá trị thị trường.
1.2.3 Các nhân tố tác động tới giá trị doanh nghiệp
Các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh
a) Môi trường kinh doanh tổng quát:
- Môi trường kinh tế: Bối cảnh kinh tế được nhìn nhận thông qua hàng loạt
các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá cả, tỷ giá
ngoại tệ, tỷ suất đầu tư,…Mặc dù môi trường kinh tế mang tính chất như yếu tố
khách quan nhưng ảnh hưởng của chúng tới giá trị doanh nghiệp lại là sự tác
động trực tiếp, mỗi sự thay đổi nhỏ của yếu tố này bao giờ cũng ảnh hưởng tới

sự đánh giá về doanh nghiệp. Ví dụ: Chỉ số giá chứng khoán phản ánh đúng
quan hệ cung cầu, đồng tiền ổn định, tỷ giá và lãi xuất có tính kích thích đầu tư
sẽ trở thành cơ hội tốt cho doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất. Ngược lại,
sự suy thoái kinh tế, lạm phát phi mã là biểu hiện môi trường tồn tại của doanh
nghiệp đang bị lung lay tận gốc.
- Môi trường chính trị: Sản xuất kinh doanh chỉ có thể tồn tại và phát triển
trong môi trường có sự ổn định về chính trị nhất định. Chiến tranh sắc tộc, tôn
giáo, sự lộng hành của Mafia và những yếu tố trật tự an toàn xã hội khác bao giờ
cũng tác động xấu đến mọi mặt đời sống xã hội chứ không riêng gì với sản xuất
kinh doanh.
Các yếu tố của môi trường chính trị có sự gắn bó chặt chẽ như:
+ Tính đầy đủ, đồng bộ, rõ ràng và chi tiết của hệ thống pháp luật.
+ Quan điểm của nhà nước đối với sản xuất kinh doanh được thể hiện
thông qua các văn bản pháp quy như: luật cạnh tranh, sở hữu trí tuệ,…
- Môi trường văn hoá xã hội: Môi trường văn hoá được đặc trưng bởi
những quan niệm, những hệ tư tưởng của cộng đồng về lối sống, đạo đức. Thể
hiện trong quan niệm về “chân, thiện, mỹ” quan niệm về nhân cách, văn minh xã
hội, thể hiện trong tập quán sinh hoạt và tiêu dùng.
Môi trường xã hội thể hiện ở số lượng và cơ cấu dân cư, giới tính, độ tuổi, mật độ,
…..
- Môi trường khoa học công nghệ: Sự tác động của kỹ thuật - công nghệ
đang làm thay đổi một cách căn bản các điều kiện về quy trình công nghệ và
phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp. Sản phẩm sản
xuất ra ngày càng đa dạng, phong phú, hàm lượng tri thức có khuynh hướng
chiếm ưu thế tuyệt đối trong giá bán sản phẩm.
Sự nhảy vọt của nền văn minh nhân loại không chỉ là cơ hội mà còn là thách
thức đối với sự tồn tại của mỗi doanh nghiệp. Vì vậy, khi đánh giá về doanh nghiệp
phải chỉ ra được mức độ tác động của môi trường này đến sản xuất kinh doanh và
khả năng thích ứng của doanh nghiệp trước những bước phát triển mới của khoa
học- công nghệ.

b) Môi trường đặc thù
- Quan hệ doanh nghiệp với khách hàng: Thị trường đối với doanh nghiệp
thể hiện bằng yếu tố khách hàng, thông thường khách hàng sẽ chi phối hoạt
động của doanh nghiệp. Nhưng cũng có trường hợp khách hàng lại bị lệ thuộc
vào khả năng cung cấp của doanh nghiệp. Do vậy muốn đánh giá đúng khả năng
phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần phải xác định tính
chất, mức độ bền vững và uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ với khách hàng
và đặc biệt là thị phần hiện tại, thị phần tương lai, doanh số bán ra và tốc độ tiến
triển của các chỉ tiêu đó qua các chu kỳ kinh doanh.
- Quan hệ doanh nghiệp với nhà cung cấp: Doanh nghiệp thường phải
trông đợi sự cung cấp từ phía bên ngoài các loại hàng hoá, nguyên vật liệu, các
dịch vụ điện, nước,… Tính ổn định đảm bảo cho sản xuất và tiêu thụ được thực
hiện theo đúng chỉ tiêu đã đề ra.
Để đánh giá khả năng đáp ứng các yếu tố đầu vào đảm bảo cho sản xuất kinh
doanh có thể ổn định phải xem xét đến: Sự phong phú của các nguồn cung cấp, số
lượng, chủng loại các nguyên liệu có thể thay thế được cho nhau, khả năng đáp
ứng lâu dài, tính kịp thời, chất lượng và giá cả.
- Các hãng cạnh tranh: Sự quyết liệt trong môi trường cạnh tranh được coi là
mối nguy cơ trực tiếp đến sự tồn tại của doanh nghiệp. Do đó, đánh giá năng lực
cạnh tranh, ngoài việc xem xét 3 tiêu chuẩn: Giá cả, chất lượng sản phẩm và
dịch vụ hậu thương mại còn phải xác định được số lượng doanh nghiệp tham gia
cạnh tranh, năng lực thự sự và thế mạnh của họ là gì.
- Các cơ quan Nhà nước: Sự hoạt động của doanh nghiệp luôn phải được đặt
dưới sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước như: cơ quan thuế, cơ
quan thanh tra, các tổ chức công đoàn…Các tổ chức này có bổn phận kiểm tra,
giám sát, đảm bảo cho sự hoạt động của doanh nghiệp không vượt ra khỏi những
quy ước xã hội thể hiện trong luật thuế, luật môi trường,…
Doanh nghiệp có quan hệ tốt đẹp với các tổ chức đó thường là những doanh
nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với xã hội, như nộp thuế đầy đủ, đúng
hạn, chấp hành tốt luật lao động,… Đó cũng là biểu hiện của những doanh nghiệp

có tiềm lực tài chính vững mạnh. Vì vậy, xác định sự tác động của yếu tố môi
trường đặc thù đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn cần phải xem xét
chất lượng và thực trạng của doanh nghiệp với các tổ chức đó.
Các yếu tố thuộc về nội tại doanh nghiệp
- Hiện trạng về tài sản trong doanh nghiệp: Khi xác định giá trị doanh
nghiệp, bao giờ người ta cũng quan tâm ngay đến hiện trạng tài sản của doanh
nghiệp, vì 2 lý do chủ yếu:
Thứ nhất: Tài sản của một doanh nghiệp là biểu hiện của yếu tố vật chất cần
thiết, tối thiểu đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Số lượng, chất lượng, trình
độ kỹ thuật và tính đồng bộ của các loạ tài sản là yếu tố quyết định đến số lượng
và chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra.
Thứ hai: Giá trị các tài sản của doanh nghiệp được coi là một căn cứ và là
một sự đảm bảo rõ ràng nhất về giá trị doanh nghiệp. Vì thay cho việc dự báo
các khoản thu nhập tiềm năng thì người sở hữu có thể bán chúng bất cứ lúc nào
để nhận về một khoản thu nhập từ những tài sản đó.
Chính vì vậy, người ta thường đánh giá cao các phương pháp có liên quan
trực tiếp đến việc xác định giá trị tài sản doanh nghiệp.
- Vị trí kinh doanh: Được đặc trưng bởi các yếu tố như: địa điểm, diện tích
của doanh nghiệp và các chi nhánh thuộc doanh nghiệp, yếu tố địa hình, thời
tiết….
Vị trí kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất kinh doanh. Ví
dụ: Những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, được đặt
gần đô thị, các nơi đông dân cư, các trung tâm buôn bán lớn và các đầu mối giao
thông quan trọng có thể đem lại rất nhiều lợi thế cho doanh nghiệp như: Chi phí
vận chuyển, bảo quản, chi phí lưu kho, … Đồng thời doanh nghiệp có những
thuận lợi lớn để tiếp cận và nắm bắt nhanh chóng nhu cầu, thị hiếu của thị
trường, thực hiện tốt các dịch vụ hậu thương mại… Tuy nhiên, với vị trí đó cũng
có thể kéo theo sự gia tăng một số khoản chi phí như thuê văn phòng giao dịch
thuê lao động…
Vì vậy vị trí kinh doanh cần được coi là một trong các yếu tố quan trọng

hàng đầu khi đưa ra phân tích, đánh giá giá trị doanh nghiệp.
- Uy tín kinh doanh: Uy tín kinh doanh là sự đánh giá của khách hàng về sản
phẩm của doanh nghiệp, nhưng nó lại được hình thành bởi nhiều yếu tố khác
nhau từ bên trong doanh nghiệp, như: Do chất lượng sản phẩm cao, do trình độ
quản lý kinh doanh giỏi, …
Khi sản phẩm của doanh nghiệp đã được đánh giá cao trong con mắt của
khách hàng, thì uy tín trở thành một tài sản thực, chúng có giá và người ta gọi đó
là giá trị của nhãn mác. Trong nền kinh tế thị trường, người ta có thể mua bán
quyền dán nhãn mác sản phẩm, quyền dán nhãn mác nhiều khi được đánh giá rất
cao. Vì vậy, uy tín của doanh nghiệp được đông đảo các nhà kinh tế thừa nhận là
một yếu tố quan trọng góp phần làm nên giá trị doanh nghiệp.
- Trình độ kỹ thuật và tay nghề người lao động: Đây là một yếu tố có ý nghĩa
quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn có thể làm giảm
chi phí sản xuất kinh doanh do việc sử dụng hợp lý nguyên liệu… trong quá
trình sản xuất, giảm được chi phí đào tạo, bồi dưỡng, góp phần nâng cao thu
nhập cho doanh nghiệp.
Đánh giá về trình độ kỹ thuật và tay nghề người lao động không chỉ xem
ở bằng cấp, bậc thợ mà điều quan trọng là hàm lượng tri thức có trong mỗi sản
phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra. Vì vậy đây cũng được coi là một yếu tố nội
tại quyết định đến giá trị của doanh nghiệp.
- Năng lực quản trị kinh doanh: Trong điều kiện hiện nay, một doanh nghiệp
muốn tồn tại và phát triển lâu dài phải có một bộ máy quản lý sản xuất kinh
doanh đủ mạnh giúp để có thể sự dụng tốt nhất các nguồn lực cho quá trình sản
xuất, biết tận dụng mọi tiềm năng và cơ hội nảy sinh, ứng phó một cách linh
hoạt với những biến động của môi trường. Vì lý do đó, năng lực quản trị kinh
doanh luôn được nhắc tới như một yếu tố đặc biệt quan trọng tác động tới giá trị
doanh nghiệp.
Năng lực quản trị kinh doanh là một yếu tố định tính nhiều hơn là định
lượng. Vì vậy, khi đánh giá cần phải xem xét chúng dưới tác động của môi trường.
Ngoài ra năng lực quản trị kinh doanh tổng hợp còn được thể hiện thông qua hệ

thống các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp. Do đó, thực hiện phân tích một cách
toàn diện tình hình tài chính trong những năm gần với thời điểm định giá cũng có
thể cho phép rút ra những kết luận quan trọng về năng lực quản trị và sự tác động
của nó đến giá trị doanh nghiệp.
1.2.4. Sự cần thiết phải xác định giá trị doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu đánh giá và xác định giá trị doanh
nghiệp là một đòi hỏi hoàn toàn tự nhiên. Trong điều hành kinh tế vĩ mô cũng như
hoạt động quản trị kinh doanh luôn cần thiết thông tin về giá trị doanh nghiệp. Giá
trị doanh nghiệp là mối quan tâm của các pháp nhân và thể nhân có lợi ích liên
quan, gắn bó trực tiếp đến các doanh nghiệp được đánh giá. Sự cần thiết của định
giá trị doanh nghiệp được xuất phát từ các yêu cầu quản lý và các giao dịch:
a) Đối với bản thân doanh nghiệp được định giá
- Quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam bắt đầu từ
những năm 90 và đã cho những kết quả tương đối tốt, không ít các doanh nghiệp
sau khi cổ phần hóa đã đi vào làm ăn hiệu quả, kinh doanh có lãi, vai trò của người
lao động được nâng lên, quy mô sản xuất được mở rộng. Tính hiệu quả của hoạt
động này đã phát huy rất rõ và tiến trình đẩy nhanh cổ phần hóa ở nước ta vẫn
đang tiếp tục diễn ra. Tuy nhiên, vấn đề xác định giá trị phần vốn góp nhà nước tại
doanh nghiệp hiện vẫn đang còn nhiều tranh cãi và là bước cản lớn nhất trong cả
tiến trình, do đó, việc nâng cao chất lượng công tác định giá sẽ tạo điều kiện thuận
lợi nhất cho hoạt động cổ phần hóa diễn ra được nhanh chóng hơn.
- Định giá doanh nghiệp xuất phát từ yêu cầu của hoạt động mua bán, sáp
nhập, hợp nhất hoặc chia nhỏ các doanh nghiệp. Đây là loại giao dịch diễn ra có
tính chất thường xuyên và phổ biến trong cơ chế thị trường, phản ánh nhu cầu về
đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh, nhu cầu tài trợ cho sự tăng trưởng và phát
triển bằng các yếu tố bên ngoài, nhằm tăng cường khả năng tồn tại trong môi
trường tự do cạnh tranh. Để thực hiện các giao dịch đó, đòi hỏi phải có sự đánh giá
trên một phạm vi rộng lớn các yếu tố tác động tới doanh nghiệp, trong đó giá trị
doanh nghiệp là một yếu tố có tính chất quyết định, là căn cứ trực tiếp để người ta
thương thuyết với nhau trong tiến trình giao dịch mua bán, sáp nhập, hợp nhất, chia

nhỏ doanh nghiệp.
- Định giá doanh nghiệp để vay ngân hàng: Nhu cầu mở rộng đầu tư,mua
sắm mới các trang thiết bị và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp trong điều kiện kinh tế hiện nay là rất lớn. Để có được nguồn vốn tài trợ
cho các nhu cầu đó, doanh nghiệp thường tìm đến các ngân hàng, các tổ chức tín
dụng để vay. Tuy nhiên một đòi hỏi tất yếu là khoản tiền cho vay cần được đảm
bảo bởi chính tài sản của doanh nghiệp. Từ đó nảy sinh nhu cầu định giá tài sản,
định giá giá trị doanh nghiệp để làm cơ sỏ cho việc vay vốn của ngân hàng.
b) Đối với các nhà quản trị
Giá trị doanh nghiệp là loại thông tin quan trọng để các nhà quản trị phân
tích, đánh giá trước khi ra các quyết định về kinh doanh và tài chính có liên quan
đến doanh nghiệp được đánh giá. Nội dung cơ bản của quản trị tài chính doanh
nghiệp, xét cho cùng là phải tăng giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp là sự
phản ánh năng lực tổng hợp, phản ánh khả năng tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Vì vậy, căn cứ vào đây các nhà quản trị kinh doanh có thể thấy được khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
khác. Theo đó, giá trị doanh nghiệp là một căn cứ thích hợp, là cơ sở để đưa ra các
quyết định về kinh doanh, về tài chính… một cách đúng đắn.
c) Đối với các nhà đầu tư
Trong cách nhìn của các nhà đầu tư, của người cung cấp, thông tin về giá trị
doanh nghiệp cho người ta một sự đánh giá tổng quát về uy tín kinh doanh, về khả
năng tài chính và vị thế tín dụng để từ đó có cơ sở đưa ra các quyết định về đầu tư,
tài trợ hoặc có tiếp tục cấp tín dụng cho doanh nghiệp nữa hay không.
d) Đối với nền kinh tế nói chung
Giá trị doanh nghiệp là loại thông tin quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô:
Giá cả của các loại chứng khoán được quyết định bởi giá trị thực của doanh nghiệp
có chứng khoán được trao đổi, mua bán trên thị trường. Vì vậy, trên phương diện
quản lý nền kinh tế vĩ mô, thông tin về giá trị doanh nghiệp là một căn cứ quan
trọng để các nhà hoạch định chính sách, các tổ chức, các hiệp hội kinh doanh
chứng khoán đánh giá tính ổn định của thị trường, nhận dạng hiện tượng đầu cơ,

thao túng thị trường, thâu tóm quyền kiểm soát doanh nghiệp … để từ đó có thể
đưa ra các chính sách điều tiết thị trường một các phù hợp.

×