PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Tầm quan trọng của đề tài.
Tiếng có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ. Tiếng là
đơn vị trung tâm của ngôn ngữ. Câu là đơn vị có thể thực hiện chức năng
giao tiếp. Vai trò của tiếng trong hệ thống ngôn ngữ quyết định tầm quan
trọng của dạy học luyện từ và câu ở bậc Tiểu học.
Dạy Luyện từ và câu nhằm mở rộng, hệ thống hoá làm phong phú vốn
từ của học sinh, cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản về cấu tạo của
tiếng, rèn cho học sinh kĩ năng dùng âm, vần để ghép thành tiếng đặt câu và
sử dụng các kiểu câu để thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình, đồng thời có
khả năng hiểu và sử dụng các kiểu câu của người khác nói ra trong hoàn cảnh
giao tiếp nhất định. Luyện từ và câu có vai trò hướng dẫn học sinh trong việc
nghe, nói, đọc, viết, phát triển ngôn ngữ trí tuệ.
Tuy nhiên trong thực tế ở nhưng nơi vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc
thiểu số có hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn, việc dạy học Luyện từ và
câu gặp rất nhiều khó khăn vì các em học sinh trước khi bước vào ngưỡng
cửa của nhà trường phổ thông thì hầu hết các em chưa biết hoặc chưa có thể
nói được tiếng phổ thong một cách thành thạo như các vùng khác. Chính vì
vậy khi tiến hành dạy học đòi hỏi người giáo viên trước khi dạy chữ cho các
em là phải tiến hành dạy cho học sinh biết nghe, nói trước rồi mới dạy đọc và
viết. Việc dạy Luyện từ và câu là dạy cho các em hiểu những gì người khác
nói ra, viết ra và trước khi mình nói, viết ra một điều gì đó thì câu văn đó
phải có đầy đủ ý nghĩa, có chủ, có vị, tuy vậy ở nhưỡng nơi này các em học
sinh thường nói năng mang tính chất tự do nghĩ sao nói vậy, cho nên thường
khi nói câu nói thường hay sai lỗi chính tả.
Luyện từ và câu là một khái niệm mới đối với các em nên khi dạy người
1
thầy giáo phải thiết kế bải giảng hết sức công phu từ hệ thống câu hỏi, nội
dung bài tập đêu phải thiết kế làm sao đơn giản hơn, gọn nhẹ và dễ hiểu nhất
phù hợp với đối tượng học sinh, cần tạo hứng thú cho học sinh trong khí dạy,
cần có những biện pháp động viên khích lệ để học sinh nắm nội dung bài và
vận dụng vào thực tế một cách tốt nhất.
I. MỤC ĐÍCH NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Dạy học Luyện từ và câu là nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục và vốn
hiểu biết cho học sinh. Để đạt được mục đích đó đề tài đi giải quyết các
nhiệm vụ sau:
Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn để dạy bài “Cấu tạo của tiếng” (TV4 tập 1)
1. Những đề xuất điều chỉnh nội dung dạy học bài “Cấu tạo của tiếng”
2. Thực nghiệm dạy học.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để đề tài thành công trong quá trình nghiên cứu về dạy học Luyện từ và
câu cho học sinh lớp 4 của trường tôi sử dụng Phương pháp tổng kết kinh
nghiệm là chủ yếu, ngoài ra còn đan xen các phương pháp khác như: Nghiên
cứu lí thuyết, Phương pháp quan sát, Phương pháp thực nghiệm và nghiên
cứu các tài liệu khác liên quan đến môn học như: Phương pháp giảng dạy, tài
liệu bồi dưỡng giáo viên thường xuyên chu kì III …
PHẦN THỨ HAI
NỘI DUNG ĐỀ TÀI
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA DẠY HỌC LUYỆN
TỪ VÀ CÂU Ở TIỂU HỌC.
- Việc thay tên gọi hai phân môn Từ ngữ - Ngữ pháp của chương trình
Tiếng Việt cũ bằng Luyện từ và câu của chương trình Tiếng Việt mới không
chỉ đơn thuần là việc đổi tên mà là sự phản ánh quan điểm giao tiếp trong dạy
học Luyện từ và câu. Nó đòi hỏi việc dạy học từ, câu nhằm đáp ứng cho việc
dạy tiếng như một công cụ giao tiếp, nhằm thực hiện mục tiêu của chương
trình Tiếng việt tiểu học mới “hình thành và phát triển ở học sinh kĩ năng sử
2
dụng tiếng việt (Nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi
trường hoạt động của lứa tuổi”. Quan điểm này chi phối nội dung chương
trình môn Tiếng Việt nói chung cũng như phân môn Luyện từ và câu nói
riêng. Trật tự các khái niệm được đưa ra “Liều lượng” kiến thức và phương
pháp của giờ học Luyện từ và câu đều bị chi phối bởi quan điểm này;
- Nguyên tắc giao tiếp (hay cũng chính là sự vận dụng của nguyên tắc
thực hành của lý luận dạy học vào dạy học tiếng mẹ đẻ nên còn gọi là nguyên
tắc thực hành) trong dạy học Luyện từ và câu không chỉ được thể hiện trên
phương diện nội dung mà cả phương pháp dạy học. Về phương pháp dạy
học, trước hết, các kĩ năng Tiếng Việt phải được hình thành và phát triển
thông qua hệ thống bài tập mang tính tình huống phù hợp với những tình
huống giao tiếp tự nhiên. Chính vì vậy, trong Sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu
học, phần thực hành nhiều, lượng lý thuyết ít và khái niệm được hình thành ở
phần lý thuyết cũng như ở dạng đơn giản nhất. Như vậy, nguyên tắc giao tiếp
trong dạy học Luyện từ và câu đòi hỏi học sinh phải tiến hành hoạt động
ngôn ngữ thường xuyên, đó là việc yêu cầu thực hiện những Bài tập miệng,
bài viết trình bày ý nghĩ, tình cảm, đọc, ứng dụng tri thức lý thuyết vào bài
tập, vào việc giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của ngữ pháp, tập đọc, chính tả,
tập làm văn,…;
- Quán triệt nguyên tắc giao tiếp trong dạy học Luyện từ và câu chính là
hướng đến xây dựng nội dung dạy học dưới hình thức dạy học các bài tập
Luyện từ và câu, để hướng dẫn học Luyện từ và câu, thầy giáo phải tạo ra hệ
thống nhiệm vụ và hệ thống câu hỏi nhằm hướng dẫn học sinh thực hiện.
Thứ hai, ngôn ngữ văn bản của dạy từ cần được xem là kinh nghiệm
sống của cá nhân học sinh và những quan sát thiên nhiên, con người, xã hội
của các em. Việc làm giàu vốn từ, dạy từ phải gắn với đời sống, gắn với việc
làm giàu những biểu tượng tư duy, bằng con đường quan sát trực tiếp và
thông qua những mẫu lời nói. Phải thiết lập được quan hệ đúng đắn giữa hình
ảnh bằng lời (từ ngữ) với những biểu tượng của trẻ em về đối tượng. Mọi quy
3
luật cấu trúc và hoạt động của từ và câu chỉ được rút ra trên cơ sở nghiên cứu
lời nói sinh động, những kinh nghiệm lời nói và kinh nghiệm sống của các
em đã được bổ sung các bài tập Luyện từ và câu phải được xây dựng trên
kinh nghiệm ngôn ngữ của học sinh.
Thứ ba, dạy học Luyện từ và câu phải bảo đảm sự thống nhất giữa lý
thuyết ngữ pháp và thực hành ngữ pháp với mục đích phát triển các kĩ năng
giao tiếp ngôn ngữ: việc phân tích từ, câu không có mục đích tự thân mà là
phương tiện để nhận diện các phương tiện ngữ pháp, nắm chức năng của
chúng, từ đó sử dụng chúng trong lời nói. Chương trình hướng đến gắn lý
thuyết với thực hành. Trên quan điểm thực hành, các tác giả Sách giáo khoa
đã chọn những giải pháp ngôn ngữ có nhiều lợi thế nhất trong sử dụng tiếng
mẹ đẻ. Đối chiếu nội dung từng khái niệm ngữ pháp được dạy ở tiểu học với
các khái niệm được trình bày trong các giáo trình Việt ngữ học, ta thấy rằng
nội dung các khái niệm ở tiểu học như từ, câu,… đều được đưa ra ở dạng đơn
giản nhất.
Quy tắc ngữ pháp:
- Chương trình nặng về thực hành nên bên cạnh hệ thống khái niệm để
trình bày một cách đơn giản lại rất chú trọng dạy hệ thống quy tắc ngữ pháp.
Quy tắc ngữ pháp là những điều phải tuân theo để tạo nên những đơn vị ngữ
pháp cụ thể nhằm thực hiện nhiệm vụ giao tiếp (nói, viết) nào đó. Hệ thống
quy tắc ngữ pháp giúp học sinh chuyển từ nhận thức sang hành động, ví dụ,
liên quan đến các khái niệm câu có các quy tắc chính tả, dấu chấm câu, viết
hoa chữ cái đầu câu, quy tắc nói, đọc: nói, đọc hết câu phải nghỉ hơi, đọc
đúng giọng điệu phù hợp với các kiểu câu chia theo mục đích nói. Liên quan
đến danh từ riêng có quy tắc viết hoa tên riêng,… Như vậy tính quy luật của
ngữ pháp đã được phản ánh trong ngữ pháp thực hành bằng hệ thống quy
tắc. Tương ứng với khái niệm ngữ pháp có một loạt các quy tắc. Trong
chương trình Tiểu học, quy tắc ngữ pháp có vai trò rất quan trọng;
- Dựa vào sự phân tích ngôn ngữ, Sách giáo khoa nêu các quy tắc trong
4
mục “Ghi nhớ” do ưu tiên thực hành nên đã có những trường hợp bỏ qua lô
gíc và tính cân đối của lý thuyết. Ví dụ, danh từ riêng dạy trong nhiều bài để
trang bị quy tắc viết hoa cho học sinh.
Nguyên tắc tích hợp.
- Không có vốn từ phong phú, không hiểu nghĩa và đặc điểm ngữ pháp
của từ thì không thể đặt câu đúng, đồng thời nếu không nắm vững quy tắc đặt
câu thì dù có vốn từ phong phú, dù nắm chắc nghĩa của từ vẫn không trình
bày được ý kiến của mình một cách đúng đắn, mạch lạc, rõ rang. Vì vậy
luyện từ và luyện câu không thể tách rời. Bên cạnh đó các bộ phận của
chương trình Luyện từ và câu như từ, cấu tạo từ, từ loại, câu, các thành phần
câu, các kiểu câu và liên kết câu cũng phải được nghiên cứu trong sự gắn bó
thống nhất;
- Mặt khác ta đã biết lượng từ, mẫu câu và các câu nói cụ thể học sinh
thu nhận được trong các giờ học khác, các hoạt động ngoài giờ lên lớp, cũng
như rất nhỏ so với vốn từ, vốn câu cần có của các em. Do đó không thể dạy
từ và câu bó hẹp trong tiết Luyện từ và câu mà cần đề ra nguyên tắc tích hợp
trong dạy từ, câu. Nguyên tắc này đò hỏi việc dạy Luyện từ và câu phải được
tiến hành ở mọi nơi, mọi lúc, trong tất cả các môn học, trong tất cả các giờ
học khác của phân môn Tiếng việt;
- Không phải chỉ trong giờ học Tiếng việt mà trong tất cả các hoạt động
khác và trong các giờ học khác, giáo viên cần chú ý điều chỉnh kịp thời
những cách hiểu từ sai lạc, những cách nói, viết câu không đúng ngữ pháp
của học sinh, kịp thời loại ra khỏi vốn từ tích cực của học sinh những từ ngữ
không văn hoá.
- Tất cả các môn học và các phân môn Tiếng việt đều có vai trò to lớn
trong việc Luyện từ và câu. Chúng mở rộng sự hiểu biết về thế giới, con
người, góp phần làm giàu vốn từ và khả năng diễn đạt tình cảm, ý tưởng của
học sinh. Để nắm bất kỳ môn học nào: Toán, TNXH, Đạo đức,… Học sinh
phải nắm vốn từ và mẫu câu tối thiểu của môn học đó. Đó là những từ ngữ và
5
cách trình bày có tính chất chuyên ngành. Chúng sẽ bổ sung cho vốn tiếng
mẹ đẻ của học sinh. Người giáo viên khi dạy tất cả các môn học đều phải có
ý thức gắn dạy về cấu tạo của tiếng. Trên lớp cũng như khi hướng dẫn một
hoạt động khác cho học sinh: Tham quan, hoạt động tập thể, ngoại khoá …,
giáo viên cần dạy học sinh phát hiện ra các từ mới, tìm hiểu nghĩa và cách sử
dụng chúng trong câu, đoạn. Việc hoàn thiện những từ này sẽ được tiếp tục
trong giờ Luyện từ và câu.
Nguyên tắc trực quan.
- Những hình ảnh cảm tính, những biểu tượng của trẻ em về thế giới
xung quanh là một tổ hợp cần thiết cho bất kỳ việc dạy học nào. Quan điểm
này là cơ sở của nguyên tắc trực quan. Nguyên tắc trực quan được xây dựng
còn dựa vào sự thống nhất giữa trừu tượng và cụ thể trong ngữ pháp. Đặc
điểm của việc vận dụng nguyên tắc trực quan trong dạy từ là ở chỗ: từ là một
tổ hợp kích thích nghe, nhìn, vận động, cấu âm. Một quy luật tâm lý là càng
có nhiều cơ quan cảm giác tham gia vào việc tiếp nhận đối tượng (hiện
tượng) thì càng ghi nhớ một cách chắc chắn đối tượng ấy, có nghĩa là ghi nhớ
cả từ mà nó biểu thị, do đó, khi giải nghĩa từ trong phạm vi có thể, cần sử
dụng các phương tiện tác động lên các giác quan. Thực hiện nguyên tắc trực
quan trong việc dạy nghĩa từ là cần làm sao trong giải nghĩa, việc tiếp nhận
của học sinh không phiến diện mà hình thành trên cơ sở của sự tác động qua
lại của những cảm giác khác nhau: nghe, nhìn, phát âm, viết. Giai đoạn đầu
khi giới thiệu cho học sinh một từ mới, một mặt cần phải đồng thời tác động
bằng cả kích thích vật thật và bằng lời. Mặt khác học sinh cần nghe, thấy,
phát âm và viết từ mới, đồng thời phải để học sinh nói thành tiếng hoặc nói
thầm điều các em quan sát được. Giáo viên cần giúp các em biểu thị thành
lời, thành từ ngữ tất cả những gì đã quan sát. Vì vậy, quán triệt nguyên tắc
trực quan ở một khía cạnh nào đó cũng đồng thời đã tuân thủ nguyên tắc thực
hành;
- Đối tượng nghiên cứu của Luyện từ và câu là từ ngữ, câu, thành phần
6
câu,… do đó, bên cạnh biểu bảng, sơ đồ, vật thật, tranh vẽ…. như người ta
vẫn thường quan niệm về đồ dùng trực quan trong giờ học, trực quan trong
giờ dạy Luyện từ và câu còn được hiểu là sử dụng những ngữ liệu (lời nói)
trực quan - những bài văn, những câu, những từ;
- Trong các giai đoạn khác nhau của dạy Luyện từ và câu, cần phải sử
dụng trực quan với mục đích khác nhau: giai đoạn đầu, khi cho học sinh tiếp
xúc với các dấu hiệu của khái niệm, trực quan phải được sử dụng với mục
đích truyền đạt rõ rang những dấu hiệu của hiện tượng nghiên cưu trong sự
biểu hiện cụ thể của nó trong lời nói. Phải chọn tài liệu trực quan sao cho
chúng thể hiện rõ đặc điểm ngữ pháp của hiện tượng được nghiên cứu. Có
như vậy trực quan mới giúp học sinh có khả năng trừu tượng hoá dấu hiệu
của khái niệm, nhận diện ra hiện tượng nghiên cứu giữa những hiện tượng
khác tương tự chúng. Khi ngữ liệu không tiêu biểu, nghĩa là không truyền đạt
rõ ràng dấu hiệu của hiện tượng nghiên cứu thì bị xem là không đảm bảo
nguyên tắc trực quan. Ví dụ, khi dạy hai thành phần câu có trạng ngữ , khi
dạy trạng ngữ lại đưa cả ví dụ câu có thành phần biệt lập hoặc phân tích trên
một trường hợp ngoại lệ không tiêu biểu như dạy động từ đưa ngay động từ
tồn tại “có”, dạy khái niệm câu đưa ngay câu đặc biệt;
- Sau khi học sinh đã nắm khái niệm, trực quan có mục đích giúp học
sinh củng cố, hệ thống hoá lại các kiến thức ngữ pháp. Đó là những bảng số
liệu, sơ đồ thường dùng trong các giờ ôn tập. Bảng biểu, sơ đồ có tác dụng
tiết kiệm thời gian giảng giải, gây ấn tượng giúp đưa kiến thức đã biết vào
một trật tự nhất định, dễ nhớ, giúp cho học sinh có một cái nhìn bao quát, hệ
thống, dễ nhận ra lo gic của vấn đề. Ngoài ra, bảng biểu, sơ đồ trong giờ ôn
tập Luyện từ và câu còn tăng cường rèn luyện tư duy lo gic cho học sinh, có
thể sử dụng bảng biểu, sơ đồ có sẵn, cũng có thể để học sinh tự xây dựng
bảng biểu, như vậy học sinh sẽ tích cực làm việc với tài liệu, dễ dàng nghi
nhớ các dấu hiệu của khái niệm, vừa nắm được quá trình tạo ra cấu trúc của
bảng biểu;
7
- Ngoài các nguyên tắc chung trong dạy học Luyện từ và câu còn có
những nguyên tắc đặc thù . Đó là nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống của từ,
câu và nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất giữa nội dung và hình thức ngữ
pháp trong dạy học Luyện từ và câu.
Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống của từ, câu trong dạy học Luyện từ và câu
- Những thành tựu nghiên cứu trong ngôn ngữ học về bản chất nghĩa
của từ, cấu tạo từ, các lớp từ, bản chất cấu tạo của câu, các kiểu câu, liên kết
câu là cơ sở để dạy các bài lý thuyết về từ, câu. Chúng ta cần nắm được và
cho học sinh từng bước làm quen với các khái niệm nghĩa của từ, tính đa
nghĩa, đồng nghĩa, trái nghĩa, cấu tạo câu, các kiểu câu. Mặt khác dựa vào
kiến thức từ vựng học, người ta đã xác lập những nguyên tắc để dạy từ theo
quan điểm thực hành, hay nói cách khác, làm giàu vốn từ cho học sinh. Dạy từ
nhất thiết phải tính đến đặc điểm của từ như một đơn vị ngôn ngữ: quan hệ
trực của từ với thế giới bên ngoài. Việc dạy từ cần phải trình bày như là việc
thiết lập quan hệ giữa từ và các yếu tố của hiện thực, quan hệ giữa từ với một
lớp sự vật cùng loại được biểu thị bởi từ. Đó là hai mặt hình thức và nội dung
của tín hiệu từ. Hai mặt này gắn chặt với nhau, tác động lẫn nhau. Phải làm
cho học sinh nắm vững hai mặt này và mối tương quan giữa chúng. Học sinh
vừa phải thiết lập được mối quan hệ của các từ với sự vật, một lớp sự vật, mặt
khác lại phải tách được ý nghĩa từ vựng của từ khỏi vật được từ gọi tên. Đồng
thời dạy từ nhất thiết phải tính đến những quan hệ ý nghĩa của từ với những từ
khác bao quanh trong các phong cách chức năng khác nhau (tính đến khả năng
kết hợp của từ). Chính vì vậy , đặc điểm của từ trong hệ thống ngôn ngữ là cơ
sở để xây dựng các bài tập từ ngữ. Sự hiểu biết về nghĩa từ, đặc điểm của từ
trong hệ thống sẽ giúp cho nhà sư phạm xác lập được mục đích, nội dung
cũng như kĩ thuật xây dựng từng bài tập từ ngữ cụ thể. Giá trị của từ trong hệ
thống sẽ là chỗ dựa để xem xét, đánh giá tính khoa học cũng như hiệu quả của
một bài tập từ ngữ;
- Từ đặc điểm tính hệ thống của ngôn ngữ, trong dạy học Luyện từ và
8