Buổi thảo luận thứ hai: Vấn đề chung của hợp đồng
Vấn đề 1: Im lặng trong quá trinh giao kết hợp đồng
-
Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng trong giao kết
hợp đồng?
Bộ luật dân sự (BLDS) 2005 đã có quy định liên quan đến “Im lặng trong giao kết
hợp đồng” tại khoản 2 Điều 401, “Hợp đồng dân sự cũng được xem là giao kết khi hết
hạn trả lời mà bên nhận đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời
chấp nhận giao kết”. Thực tế, trong thời gian qua, nhiều tranh chấp phát sinh từ việc
im lặng trong khi nhận được đề nghị giao kết hợp đồng, BLDS 2015 quy định cụ thể
vấn đề này nhằm hạn chế những trường hợp phát sinh tranh chấp không đáng có từ
việc im lặng này:
Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các
bên. (Căn cứ Điều 393 Bộ luật dân sự 2015)
Như vậy từ hai bộ luật có thể thấy rõ sự khác biệt trong quy định khi ở BLDS 2005
Quy định tại khoản 2 Điều 401 là được xem là giao kết và tại BLDS 2015 ở Điều 393
thì Quy định rằng Im lặng không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Qua đó có thể thấy điểm mới của BLDS 2015 về vai trò của im lặng trong giao kết
hợp đồng đã có sự quy định mới về tính thực thi của sự im lặng trong việc trả lời chấp
nhận giao kết.
-
Đoạn nào của Quyết định cho thấy anh Đạt đã chuyển nhượng tài sản cho ông
Nâu?
Trong phần xét thấy của quyết định, đoạn: “Căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án,
thì ngày 30-3-2004 anh Nguyễn Phát Đạt lập hợp đồng chuyển nhượng cho ông
Nguyễn Văn Nâu... với giá 250.000.000 đồng” đã cho thấy anh Đạt đã chuyển nhượng
tài sản cho ông Nâu.
−
Đoạn nào của Quyết định cho thấy tài sản anh Đạt đã chuyển nhượng là tài sản
chung của anh Đạt và chị Linh (vợ anh Đạt)?
Trong phần xét thấy của quyết định, đoạn: “Tuy nhiên, khối tài sản của anh Đạt
thế chấp cho Ngân hàng là tài sản chung của vợ chồng anh Đạt và chị Linh (vợ của
anh Đạt)...cần phải căn cứ vào quy định để giải quyết” đã cho thấy tài sản anh Đạt
chuyển nhượng là tài sản chung của anh Đạt và chị Linh (vợ anh Đạt).
−
Việc chuyển nhượng trên có cần sự đồng ý của chị Linh không? Vì sao? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Việc chuyển nhượng trên cần có sự đồng ý của chị Linh. Vì: Khối tài sản anh Đạt
thế chấp cho Ngân hàng là tài sản chung của vợ chồng anh Đạt và chị Linh, cho nên
chị Linh và anh Đạt có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, định đoạt, sử dụng
đối với khối tài sản đó.
Cơ sở pháp lý: Khoản 2 Điều 213 BLDS 2015.
−
Theo thực tiễn xét xử Việt Nam khi nào im lặng được coi là chấp nhận (đồng ý)
hợp đồng?
Theo thực tiễn xét xử tại Việt Nam, sự im lặng không đủ để suy luận sự đồng ý hay
không đồng ý chấp nhận hợp đồng. Tòa án sơ thẩm hay phúc thẩm không thể kết luận
ngay hợp đồng không có giá trị pháp lý khi chưa xác định rõ ý chí của người giữ im
lặng. Tuy nhiên, sự im lặng có thể là một biểu hiện của sự chấp nhận nếu tồn tại yếu tố
khác. Sau đây là các yếu tố cho phép suy luận đã có sự chấp nhận hợp đồng:
-
Những chủ sở hữu chung này biết việc chuyển nhượng và không phản đối;
Những chủ sở hữu chung này có tham gia vào một giai đoạn nào đó của việc chuyển
nhượng như tham gia nhận tiền,...;
Tuy khi chuyển nhượng, những chủ sở hữu chung này không biết nhưng sau khi biết
có việc chuyển nhượng đã sử dụng chung tiền chuyển nhượng hoặc được người
chuyển nhượng chia tiền chuyển nhượng tài sản.
Bản án thực tế: Nguồn án lệ.
Quyết định giám đốc thẩm số 04/2010/QĐ-HĐTP ngày 03-3-2010 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất” tại thành phố Hà Nội giữa nguyên đơn là bà Kiều Thị Tý, ông Chu
Văn Tiến với bị đơn là ông Lê Văn Ngự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà
Lê Thị Quý, bà Trần Thị Phấn, anh Lê Văn Tám, chị Lê Thị Tường, anh Lê Đức Lợi,
chị Lê Thị Đường, anh Lê Mạnh Hải, chị Lê Thị Nhâm.
Khái quát nội dung của án lệ: Trường hợp nhà đất là tài sản chung của vợ chồng mà
chỉ có một người đứng tên ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất đó cho người khác,
người còn lại không ký tên trong hợp đồng; nếu có đủ căn cứ xác định bên chuyển
nhượng đã nhận đủ số tiền theo thỏa thuận, người không ký tên trong hợp đồng biết và
cùng sử dụng tiền chuyển nhượng nhà đất; bên nhận chuyển nhượng nhà đất đã nhận
và quản lý, sử dụng nhà đất đó công khai; người không ký tên trong hợp đồng biết mà
không có ý kiến phản đối gì thì phải xác định là người đó đồng ý với việc chuyển
nhượng nhà đất.
- Ngoài ba yếu tố trên thì còn có yếu tố thứ 4 có thể là dựa vào lời khai của bên
giữ im lặng trong quá trình giao kết hợp đồng khi lời khai này cho thấy rằng người giữ
im lặng đã đồng ý hợp đồng.
−
Chị Linh có biết, có phản đối việc chuyển nhượng trên không?
2
Quyết định trên không cho câu trả lời về việc chị Linh có biết, có phản đối việc
chuyển nhượng trên hay không. Vì bản án có đoạn: “Tuy nhiên, khối tài sản anh Đạt
thế chấp cho Ngân hàng là tài sản chung của anh Đạt và chị Linh (vợ anh Đạt), nhưng
các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên mới chỉ có chữ kí của anh
Đạt nên cũng cần phải xem xét chị Linh có biết việc chuyển nhượng hay không? Nếu
chị Linh biết mà không phản đối thì phải coi chị Linh cũng đồng ý việc chuyển
nhượng. Nếu chị Linh không biết và không đồng ý chuyển nhượng thì cần phải căn cứ
vào quy định của pháp luật để giải quyết.”
−
Theo Tòa án nhân dân tối cao trong vụ việc được bình luận, nếu chị Linh biết và
không phản đối việc chuyển nhượng thì có được coi chị Linh đồng ý không?
Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Trong Quyết định số 439/2011/DS – GĐT tại trang 05 có đoạn như sau: “Tuy
nhiên, khối tài sản anh Đạt thế chấp cho Ngân hàng là tài sản chung của anh Đạt và
chị Linh (vợ của anh Đạt), nhưng các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
nêu trên mới chỉ có chữ ký của anh Đạt nên cũng cần phải xem xét chị Linh có biết
việc chuyển nhượng hay không? Nếu chị Linh biết mà không phản đối thì phải coi chị
Linh cũng đồng ý việc chuyển nhượng”.
−
Hướng giải quyết trên của Tòa dân sự đã có tiền lệ chưa? Cho biết tiền lệ mà
anh/chị biết.
Hướng giải quyết của Tòa dân sự đã có án lệ.
Cụ thể như sau: vợ chồng cụ Đạo và cụ Mùi sinh được 5 người con là các ông bà
Lành, Khởi, Chiến, Quang và Sâm. Sinh thời, hai cụ tạo lập được một nhà cấp 4 trên
diện tích hơn 500m2 đất và một ngôi nhà mái bằng trên diện tích hơn 300m 2 đất. Ngày
13/05/1991, ông Sâm ký hợp đồng bán cho ông Phong ngôi nhà cấp bốn trên diện tích
237,4m2. Hợp đồng có chữ ký làm chứng của cụ Mùi, ông Quang và được UBND xác
nhận. Năm 2000 các bên xảy ra tranh chấp. Ông Phong đã trả đủ tiền, nay khởi kiện
yêu cầu giao trả nhà đất đã mua, còn ông Quang yêu cầu hủy bỏ hợp đồng. Tại Tòa án
cấp sơ thẩm và phúc thẩm lần hai: bà Lành, bà Khởi, ông Chiến cho rằng đây là di sản
thừa kế của anh, chị, em nên đề nghị hủy hợp đồng vì ông bà không biết gì về việc
mua bán.
Về vấn đề này, Hội đồng thẩm phán xét rằng: Do nhà, đất ông Sâm bán cho ông
Phong là một phần tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng cụ Đạo, cụ Mùi. Cụ Đạo
chết năm 1990 không để lại di chúc, nên tài sản này là một phần di sản thừa kế của cụ
Đạo chưa chia. Theo lời khai của bà Lành, bà Khởi, ông Chiến thì tại thời điểm cụ
Mùi cùng ông Quang, ông Sâm bán nhà, đất các ông, bà này có biết nhưng vì lý do
tình cảm gia đình nên các ông, bà này không có ý kiến gì. Việc không có ý kiến của
các ông, bà này chưa có cơ sở để xác định các ông, bà này đồng ý hay không đồng ý
3
với việc mua bán. Vì vậy, xét thấy cần phải hủy Bản án dân sự phúc thẩm để xét xử
phúc thẩm lại theo hướng: tại thời điểm cụ Mùi, ông Quang, ông Sâm bán nhà, đất cho
ông Phong thì bà Lành, bà Khởi và ông Chiến đồng ý hay không đồng ý với việc cụ
Mùi, ông Quang và ông Sâm bán nhà, đất cho ông Phong. Nếu có cơ sở xác định
những người này đồng ý với việc mua bán, nhưng do khó khăn khách quan nên không
thể hiện bằng văn bản thì công nhận hợp đồng.
−
Suy nghĩ của anh/chị về vai trò của im lặng trong giao kết hợp đồng ở Việt Nam.
Vai trò của im lặng trong giao kết hợp đồng ở Việt Nam không đủ để suy luận đồng
ý hay không đồng ý chấp nhận hợp đồng. Theo khoản 2 Điều 393 BLDS 2015 “sự im
lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng,
trừ trường hợp có thoả thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên” chỉ
thừa nhận một trường hợp im lặng là đồng ý giao kết hợp đồng khi đáp ứng được điều
kiện là có sự thỏa thuận giữa người đề nghị và người được đề nghị “im lặng là sự trả
lời chấp nhận giao kết” hợp đồng. Tuy nhiên đây là quy định duy nhất của bộ luật dân
sự về giá trị của sự im lặng trong việc giao kết hợp đồng. Trong thực tế, không phải
lúc nào các bên cũng thoả thuận im lặng có giá trị như chấp nhận hợp đồng.
Nên trong thực tiễn pháp lý Việt Nam, sự im lặng không đủ để khẳng định việc
chấp nhận hợp đồng. Tuy nhiên, sự im lặng có thể là một biểu hiện của sự chấp nhận
nếu tồn tại yếu tố khác. Như việc bên giữ im lặng trong quá trình giao kết hợp đồng
nhưng sau đó yêu cầu bên kia thực hiện hợp đồng; bên giữ im lặng trong quá trình
giao kết hợp đồng tiếp nhận việc thực hiện hợp đồng của bên kia và cũng tiến hành
thực hiện hợp đồng phía mình; bên giữ im lặng trong quá trình giao kết biết rõ việc
thực hiện hợp đồng nhưng không có phản đối gì; dựa vào lời khai của bên giữ im lặng
trong quá trình giao kết hợp đồng khi lời khai này cho thấy rằng người giữ im lặng đã
đồng ý hợp đồng.
Ví dụ: Điều 452 BLDS 2015.
Vấn đề 2: Đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được
−
Những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi giữa BLDS 2015 và
BLDS 2005 về chủ thể đang được nghiên cứu.
Những thay đổi giữa Điều 411 BLDS 2005 và Điều 408 BLDS 2015 là:
−
Khoản 1 Điều 411 BLDS 2005 khác với quy định tại khoản 1 Điều 408 BLDS 2015
hiện hành ở chỗ, cứ thuộc trường hợp “đối tượng không thể thực hiện được” thì hợp
4
đồng bị vô hiệu, chứ không cần kèm theo điều kiện “vì lý do khách quan”. Theo cá
nhân, quy định tại Điều này là hoàn toàn hợp lý và có tính chất đương nhiên. Việc
gánh chịu và bồi thường thiệt hại được đặt ra đối với một bên hoặc cả hai bên tuỳ
thuộc vào mức độ lỗi theo các quy định chung. Các bên có thể tự do thoả thuận về bất
kỳ nội dung nào của hợp đồng nói chung, đối tượng của hợp đồng nói riêng, nhưng sẽ
vô hiệu nếu đối tượng không thể thực hiện được từ thời điểm giao kết, bất kể lý do
chủ quan hay khách quan.
− Khoản 2: Không có sự thay đổi.
− Khoản 3 Điều 411 BLDS 2005 khác với quy định tại khoản 3 Điều 408 BLDS 2015
hiện hành ở chỗ chỉ quy định “tại khoản 2 Điều luật này cũng được áp dụng đối với
trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được,
nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có giá trị pháp lý” chứ không bao gồm cả khoản
1 và khoản 2 như Bộ luật hiện hành quy định. Bên cạnh đó, cuối khoản 3 của Điều
411 BLDS 2005 là “có giá trị pháp lý” còn ở khoản 3 Điều 408 BLDS 2015 là “có
hiệu lực”, tuy về hình thức có khác khau nhưng thật chất đây là hai từ đồng nghĩa.
Theo cá nhân, quy định tại Điều này là hoàn toàn hợp lý, bởi lẽ nó mang tính đầy đủ
hơn, những vấn đề này sẽ được xét trên cả hai trường hợp: hợp đồng dân sự bị vô hiệu
toàn phần và hợp đồng dân sự bị vô hiệu một phần.
− Một bên có thể yêu cầu tuyên bố hợp đồng trên vô hiệu trên cơ sở Điều 408
BLDS 2015 không? Vì sao?
Một bên vẫn có thể yêu cầu tuyên bố hợp đồng trên vô hiệu trên cơ sở Điều 408
BLDS 2015.
Giải thích: “Điều 408: Hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không thể thực
hiện được:
1. Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì
hợp đồng này bị vô hiệu.
2. Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có
đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên
kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên
kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được.
3. Quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp
đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được nhưng phần còn lại
của hợp đồng vẫn có hiệu lực.”
Mặc dù việc ông An ký hợp đồng bán cho ông Bình một máy đào hiệu Hitachi
nhưng không nêu rõ số hiệu máy cũng như tình trạng của máy dẫn đến việc khi thực
hiện hợp đồng, hai bên không thống nhất được với nhau về máy phải giao nhận - là lý
do chủ quan, nhưng xét trên cơ sở khoản 1 Điều 408 BLDS 2015 thì chỉ cần trong
5
trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thực hiện được thì hợp
đồng này bị vô hiệu, không cần phân biệt vì lí do khách quan hay chủ quan.
Vấn đề 3: Xác lập hợp đồng giả tạo nhằm tẩu tán tài sản
*Đối với vụ việc thứ nhất
−
Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch?
Giả tạo trong xác lập giao dịch là việc các bên xác lập giao dịch dân sự nhằm che
giấu một giao dịch dân sự khác hoặc nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba.
−
Đoạn nào của Bản án cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp đồng? Các
bên xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích gì?
Trong Bản án số 06/2017/DS-ST ngày 17/01/2017 của Tòa án nhân dân TP. Thủ
Dầu Một tỉnh Bình Dương, đoạn cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp đồng
là: “Nguyên đơn và bị đơn thống nhất ngày 23/11/2013 giữa nguyên đơn và bị đơn có
thiết lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Nội dung giấy thỏa thuận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất số AP 154638, số vào sổ H53166 do UBND thị xã
(nay là thành phố) Thủ Dầu Một cấp ngày 30/7/2009, tọa lạc tại phường Chánh Nghĩa,
thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, giá chuyển nhượng 200.000.000 đồng. Hai
bên đều thừa nhận đây là giao dịch giả tạo để che giấu cho việc nguyên đơn cho bị
đơn vay số tiền 100.000.000 đồng.”
Các bên xác lập giao dịch giả tạo nhằm mục đích che giấu một giao dịch dân sự
khác. Cụ thể trong Bản án trên, các bên thiết lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất nhằm che giấu việc nguyên đơn cho bị đơn vay số tiền 100.000.000 đồng.
−
Hướng giải quyết của Tòa án đối với hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che giấu.
Hướng giải quyết của Tòa án đối với hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che giấu
là: Tòa án đã áp dụng Điều 124 Bộ luật Dân sự 2015, tức là tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất xác lập giữa nguyên đơn Trần Thị Diệp Thúy và bà
Nguyễn Thị Thanh Trang theo hình thức “giấy thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất” là vô hiệu do giả tạo còn giao dịch vay tài sản số tiền 100.000.000 đồng có
hiệu lực.
−
Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo và hợp đồng
bị che giấu
Nhóm em đồng ý với hướng giải quyết của Tòa án. Vì cả hai bên đều thừa nhận
hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất là giao dịch giả tạo để che dấu cho việc nguyên
đơn cho bị đơn vay số tiền 100.000.000 đồng. Theo Điều 124 Bộ luật dân sự 2015 thì
“Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che dấu cho một giao
6
dịch dân sự khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch che dấu vẫn có hiệu lực,
trừ trường hợp giao dịch dân sự đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này”. Vì
vậy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu do giả tạo, còn giao dịch vay
tài sản số tiền là 100.000.000 đồng có hiệu lực.
*Đối với vụ việc thứ hai
− Vì sao Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng
là giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu?
Vì vợ chồng bà Anh thừa nhận còn nợ bà Thu 3,1 tỷ đồng, đồng thời vợ chồng bà
Anh cam kết chuyển nhượng nhà đất (đang có tranh chấp) để trả nợ cho bà Thu,
nhưng vợ chồng bà Anh không thực hiện cam kết với bà Thu mà làm thủ tục chuyển
nhượng nhà đất cho vợ chồng ông Vượng. Thỏa thuận chuyển nhượng giữa vợ chồng
bà Anh với vợ chồng ông Vượng không phù hợp với thực tế vì giá thực tế nhà đất là
gần 5,6 tỷ đồng, nhưng hai bên thỏa thuận chuyển nhượng chỉ với giá 680 triệu đồng
và thực tế các bên cũng chưa hoàn tất thủ tục chuyển nhượng. Vì vậy, Tòa án xác định
giao dịch chuyển nhượng nhà đất giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng là
giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ của vợ chồng bà Anh đối với bà
Thu.
−
Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định của Tòa án (giả tạo để trốn tránh nghĩa
vụ) ?
Theo nhóm em, Tòa án xác định như vậy là hợp lí. Vì theo bản án thì hợp đồng
chuyển nhượng nhà đất giữa vợ chồng ông Vượng và vợ chồng bà Anh thực chất là
giả tạo. Vợ chồng bà Anh đã chuyển nhượng nhà đất cho vợ chồng ông Vượng với giá
là 680 triệu đồng, trong khi giá thực tế là 5,6 tỉ đồng. Hợp đồng này của vợ chồng bà
Anh cho thấy tính không thực tế của việc chuyển nhượng và theo lẽ thông thường thì
sẽ không ai muốn chịu thiệt, đặc biệt là tiền bạc, chịu bất lợi cho mình như vậy. Mà vợ
chồng bà Anh lại còn đang nợ tiền bà Thu bà đã cam kết chuyển nhượng nhà đất trên
cho bà Thu và thủ tục chuyển nhượng cũng chưa được hoàn tất.
−
Cho biết hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch nhằm trốn
tránh nghĩa vụ.
Hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa
vụ là hợp đồng sẽ bị vô hiệu theo Điều 124 BLDS 2015. Tức là hợp đồng chuyển
nhượng nhà đất của vợ chồng bà Anh cho ông Vượng, bà Nga được xác định là giao
dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với bên thứ ba (nghĩa vụ trả nợ cho bà
Thu) sẽ bị vô hiệu nhằm đảm bảo quyền lợi của bên có quyền.
Vấn đề 4: Hình thức hợp đồng
7
−
Hợp đồng trong hai vụ việc trên có phải công chứng, chứng thực không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Hợp đồng trong hai vụ việc trên không phải công chứng, chứng thực.
Cơ sở pháp lý:
Đối với bản án số 03: “Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông Đặng Văn Thìn và vợ chồng bà Đoàn Thị Yến, ông Nguyễn Văn Đẩu là giao
dịch hợp pháp có hiệu lực pháp luật.”
Đối với bản án số 41: “Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông
Nguyễn Đức Thành; tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Nguyễn Đức Thành và ông Bùi Quang Ngọc đề ngày 27/10/2007 có giá trị pháp lý.”
−
Trong bản án số 03, Tòa án công nhận hợp đồng không được công chứng, chứng
thực có thuyết phục không? Vì sao?
Trong Bản án số 03, Toà án công nhận hợp đồng không được công chứng, chứng
thực là thuyết phục. Vì mặc dù hợp đồng này chưa được công chứng, chứng thực
nhưng thể hiện rõ ý chí của những người có quyền sử dụng đất, bên bán đã nhận tiền
và bên mua đã nhận đất, các bên đã thực hiện trên 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch nên
không nhất thiết phải công chứng, chứng thực nữa.
Cơ sở pháp lý: khoản 2 Điều 129 BLDS 2015.
−
Việc Tòa án xác định hợp đồng chuyển nhượng vi phạm về mặt hình thức và hết
thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong bản án số 41 có thuyết
phục không? Vì sao?
Việc Tòa án xác định hợp đồng chuyển nhượng vi phạm về mặt hình thức và hết
thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong bản án số 41 là hoàn toàn
thuyết phục vì:
-
-
Việc Tòa án xác định hợp đồng chuyển nhượng vi phạm về mặt hình thức vì không
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận.
Theo điểm đ, khoản 1, Điều 132 BLDS 2015 “Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao
dịch dân sự vô hiệu theo quy định trong các Điều 125, 126, 127, 128 và 129 của Bộ
luật này là 2 năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập trong trường hợp giao dịch
dân sự không tuân thủ quy định về mặt hình thức”.
Đơn kiện của ông Nguyễn Đức Thành ngày 29/10/2009, trong khi đó hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Đức Diêu và ông Bùi Quang
Ngọc được kí kết vào ngày 27/10/2007. Chính vì vậy mà theo điểm đ, khoản 1, Điều
132 BLDS 2015 thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Diệu và
ông Ngọc không bị vô hiệu về mặt hình thức.
8
−
Theo BLDS hệ quả pháp lý của việc hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô
hiệu về mặt hình thức.
Theo BLDS hệ quả pháp lý của việc hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu
về mặt hình thức:
-
−
Chủ thể có quyền khởi kiện mất quyền yêu cầu tòa án can thiệp;
Dẫn đến thiệt hại cho người có quyền khởi kiện.
Việc Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng sau khi xác định có vi phạm
quy định hình thức và hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu có
thuyết phục không? Vì sao?
Việc Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng sau khi xác định có vi phạm quy
định hình thức và hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu là thuyết
phục. Mặc dù hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã vi phạm về hình thức và
hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu nhưng căn cứ vào điểm đ
khoản 1 Điều 132 BLDS 2015 và khoản 2 Điều 132 BLDS 2015 quy định: “Hết thời
hiệu quy định tại khoản 1 Điều này mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô
hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực.
9