Công ty chứng khoán
I-KHÁI NIỆM:
Nguyên tắc trung gian là một trong những nguyên tắc hoạt động cơ bản nhất của
TTCK.Theo nguyên tắc này, mọi hoạt động diễn ra trên TTCK tập trung đều phải thông qua tổ
chức trung gian, đó là công ty chứng khoán..Công ty chứng khoán là một định chế tài chính
trung gian chuyên kinh doanh chứng khoán, là đơn vị có tư cách pháp nhân, có vốn riêng và
hạch toán độc lập.Tại Viêt Nam, theo qui chế về tổ chức hoạt động của công ty chứng khoán qui
định: “Công ty chứng khoán là công ty cổ phần hoặc công ty TNHH thành lập hợp pháp tại Việt
Nam, được UBCKNN cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng
khoán”
Điều kiện cấp giấy phép kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam:
*Có phương án hoạt động kinh doanh phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội và phát
triển ngành chứng khoán.
*Có đủ cơ sởvật chất kỹ thuật cho kinh doanh chứng khoán.
*Có mức vốn pháp định theo từng loại hình kinh doanh như sau:
_Môi giới chứng khoán: 3 tỷ đồng
_Tự doanh chứng khoán: 12 tỷ đồng
_Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán: 22 tỷ đồng
_Tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán: 3 tỷ đồng
*Giám đốc, Phó giám đốc (Tổng giám đốc, Phó giám đốc), các nhân viên kinh doanh của
công ty chứng khoán phải đáp ứng đầy đủ điều kiện để được cấp chứng chỉ hành nghề kinh
doanh chứng khoán do UBCKNN cấp.
*Giấy phép bảo lãnh phát hành chỉ được cấp cho công ty có giấy phép tư doanh.
II-MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG:
Hiện nay trên thế giới có hai loại hình hoạt động của công ty chứng khoán:
Công ty chuyên kinh doanh chứng khoán :
Theo mô hình này, động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập, chuyên
môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận, các ngân hàng không được trực tiếp tham gia
kinh doanh chứng khoán.
Ưu điểm của mô hình này:
+Hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng.
+Tạo điều kiện cho TTCK phát triển do tính chuyên môn hoá cao hơn.
Mô hình này được áp dụng ở nhiều nước như Mỹ, Nhật, Canada…
Công ty đa năng kinh doanh tiền tệ và chứng khoán:
Theo mô hình này, các ngân hàng thương mại hoạt động vời tư cách là chủ thể kinh
doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ
Mô hình này có ưu điểm là ngân hàng có thể đa dạng hoá, kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh,
nhờ đó giảm bớt rủi roc do hoạt động kinh doanh chung, khả năng chịu đựng các biến động của
thị TTCK là cao. Mặt khác, ngân hàng tận dụng được thế mạnh về vốn để kinh doanh chứng
khoán, khách hàng có thể sử dụng được nhiều dịch vụ đa dạng và lâu năm của ngân hàng.
Tuy nhiên mô, hình này bộc lộ một số hạn chế như không phát triển được thị trường cổ
phiếu do các ngân hàng có xu hướng bảo thủ, thích hoạt động tín dụng truyền thống hơn là bảo
lãnh phát hành cổ phiếu trái phiếu. Mặt khác, theo mô hình này, nếu có biến động trên TTCK
sẽ ảnh hưởng mạnh đến hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hang, dễ dẫn đến các cuộc
khủng hoảng tài chính.
Do những hạn chế trên mà trước đây Mỹ và nhiều nước khác đã áp dụng mô hình này,
nhưng sau cuộc khủng hoảng năm 1933, đa số các nước đã chuyển sang mô hình chuyên doanh
chứng khoán, chỉ có Đức vẫn duy trì đến ngày nay.
Tại Việt Nam, do qui mô các ngân hàng thương mại nói chung là rất nhỏ bé, và đặc biệt
vốn dài hạn rất thấp, hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam chủ yếu trong lĩnh vực
thương mại ngắn hạn,trong khi hoạt động của TTCK thuộc lĩnh vực vốn dài hạn.Khả năng khắc
phục những yếu điểm này của ngân hang Việt Nam còn rất lâu dài.Do đó, để bảo vệ an toàn
cho các ngân hang,Nghị định 144/CP về chứng khoán và TTCK qui định các ngân hang thương
mại muốn kinh doanh chứng khoán phải tách ra một phần vốn tự có của mình thành lập một
Công ty chứng khoán chuyên doanh trực thuộc, hạch toán độc lập với ngân hàng
III-CƠ CẤU TỔ CHỨC:
Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán phụ thuộc vào loại hình nghiệp vụ mà công ty đó
thực hiện và qui mô hoạt động kinh doanh của nó.Tuy nhiên, phải đảm bảo tách biệt giữa hoạt
động tư doanh với hoạt động mội giới và quản lý danh mục đầu tư. Nhìn chung, cơ cấu tổ chức
của công ty chứng khoán như sau:
Sơ đồ tổ chức của công ty chứng khoán
Giám đốc
Phó giám đốc phụ trách Phó giám đốc phụ trách
Phòng
tự
doanh
Phòng
phân
tích và
tư vấn
Phòng
bảo
lãnh và
phát
hành
Phòng
kế
toán_
Lưu ký
Phòng
tổ chức
hành
chính
Phòng
môi
giới
Cơ cấu tổ chức công ty chứng khoán là hệ thống các phòng ban chức năng được chia làm
hai khối lượng tương ứng với hai khối công việc.
• Khối I (Front Office)
Do ít nhất một phó giám đốc trực tiếp phụ trách,thực hiện các giao dịch mua bán chứng
khoán như: tự doanh, môi giới, bảo lãnh phát hành, tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán,
quản lý danh mục đầu tư. Đây là khối mang lại thu nhập chính cho công ty chứng
khoán.Nhìn chung, khối này có quan hệ trực tiếp với khách hàng bởi vì ngoài nghiệp vụ tư
doanh, khối này mang lại thu nhập cho công ty bằng cách đáp ứng nhu cầu của khách hang
và tạo ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu đó.
• Khối II (Back Office):
Thường cũng do 1 phó giám đốc phụ trách, thực hiện các công việc yểm trợ cho khối I như
hành chính tổ chức, kế toán…
IV-CÁC NGHIỆP VỤ CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN :
1-Môi giới chứng khoán: là một hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong đó công
ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở
giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC mà chính khách hang sẽ phải chịu trách nhịêm đối
với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó.
Khi thực hiện nghiập vụ môi giới, công ty chứng khoán phải mở tài khoản giao dịch chứng
khoán và tiền cho từng khách hàng trên cơ sở hợp đồng ký kết giữa khách hàng và công ty.
Trong trường hợp khách hàng của công ty chứng khoán mở tài khoản lưu ký chứng khoán
tại tổ chức lưu ký là ngân hàng thương mại hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty chứng
khoán có trách nhiệm hướng dẫn các thủ tục giao dịch, mua bán cho khách hàng và phải ký hợp
đồng bằng văn bản với tổ chức lưu ký.Tiền hoa hồng môi giới thường được tính phần trăm trên
tổng giá trị của một giao dịch.
Tuỳ theo qui định của mỗi nước, cách thức hoạt động của từng Sở giao dịch chứng khoán
mà người ta có thể phân chia thành nhiều loại nhà môi giới khác nhau như sau:
Môi giới dịch vụ (Full Service Broker):
Là loại môi giới có thể cung cấp đầy đủ dịch vụ như mua bán chứng khoán, giữ hộ cổ
phiếu, hu cổ tức, cho khách hàng vay tiền, cho vay cổ phiếu đề bán trước, mua sau và nhất
là có thể cung cấp tài liệu, cho ý kiến cố vấn trong việc đầu tư .
Môi giới chiếc khấu (Discount Broker) :
Là loại môi giới chỉ cung cấp một số dịch vụ như mua bán hộ chứng khoán. Đối với môi
giới loại này thì khoản phí và hoa hồng nhẹ hơn môi giới toàn dịch vụ vì không có tư vấn
,nghiên cứu thị trường .
Môi giới uỷ nhiệm hay môi giới thừa hành
Đây là những nhân viên của một công ty chứng khoán thành viên của một sở giao dịch, làm
việc hưởng lương của một công ty chứng khoán và được bố trí để thực hiện các lệnh mua
bán cho các công ty chứng khoán hay cho khách hàng của công ty trên sàn giao dịch.Vì thế
họ có tên chung là môi giới trên sàn (Floor Broker).Các lệnh mua bán được chuyển đến cho
các nhà môi giới thừa hành này có thể từ văn phòng công ty cũng có thể từ các môi giới đại
diện (Registered Representative)
Môi giới độc lập hay môi giới 2 đôla:
Môi giới độp lập (Independent Broker) chính là các môi giới làm việc cho chính họ và
hưởng hoa hồng hay thù lao theo dịch vụ. Họ là một thành viên tự bỏ tiền ra thuê chỗ tại sở
giao dịch (Sàn giao dịch) giống như các công ty chứng khoán thành viên.
Họ chuyên thực thi các lệnh cho các công ty thành viên khác của sở giao dịch.Sở dĩ có điều
này là tại các sở giao dịch nhộn nhịp, lượng lệnh phải giải quyết cho khách hàng của các
công ty chứng khoán đôi khi rất nhiều, các nhân viên môi giới của các công ty này không thể
làm xuể hoặc một lý do nào đó vắng mặt. Lúc đó các công ty chứng khoán sẽ hợp đống với
các nhà môi giới độc lập để thực hiện lệnh cho khách hàng của mình và trả cho người môi
giới này một khoản tiền nhất định
Ban đầu các nhà môi giới độc lập được trả 2 đôla cho một lô tròn chứng khoán (100 cổ phần)
nên người ta quen gọi là “môi giới 2 đôla”.
Môi giới độc lập cũng được gọi là môi giới trên sàn (floor broker), họ đóng vai trò không
khác gì một môi giới thừa hành, chỉ khác là họ có tư cách độc lập-tức họ không đại diện cho
bất kì một công ty chứng khoán nào cả.
• Nhà môi giới chuyên môn:
Các sở giao dịch chứng khoán thường qui định mỗi loại chứng khoán chỉ được phép giao
dịch tại một điểm nhất định gọi là quầy giao dịch (post) các quầy này được bố trí liên tiếp quanh
sàn giao dịch (floor).Trong quầy giao dịch có một số nhà môi giới được gọi là nhà môi giới
chuyên môn hay chuyên gia.Các chuyên gia này chỉ giao dịch một số loại chứng khoán nhất
định.Nhà môi giới chuyên môn thực hiện hai chức năng chủ yếu là thực hiện các lệnh giao dịch
và lệnh thị trường.
2 - Tự doanh chứng khoán: là nghiệp vụ mà trong đó công ty chứng khoán thực hiện mua và
bán chứng khoán cho chính mình .
Công ty chứng khoán thực hiện nghiệp vụ tự doanh nhằm mục đích thu lợi hoặc đôi khi
nhằm mục đích can thiệp điều tiết giá trên thị trường .Chứng khoán tự doanh có thể là chứng
khoán niêm yết hoặc chưa niêm yết trên TTCK . Ngoài ra công ty chứng khoán có thể tự doanh
chứng khoán lô lẻ của khách hàng sau đó tập hợp lại thành lô chẵn để giao dịch trên TTCK.
Theo Điều 20 quy chế hoạt động và tổ chức và tổ chức của công tychứng khoán số
55/2004/QĐ-BTC ngày 17/6/2004 qiu định về hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán như
sau :
+ Công ty chứng klhoán phải đảm bảo có đủ tiền và chứng khoán để thanh toán các lệnh
giao dịch của chính mình .
+ Khi tiến hành nghiệp vụ tự doanh , công ty chứng khoán không được :
- Đầu tư vào cổ phiếu của công ty có sở hữu trên 50% vốn điều lệ của công ty chứng
khoán .
- Đầu tư quá 20% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức niêm yết.
- Đầu tư quá 15% số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức không niêm yết .
Hoạt động tự doanh hiện nay đươc xem là một trong những hoạt động quan trọng nhất của
các công ty chứng khoán tại Việt Nam trong việc nâng cao lợi nhuận .Tuy nhiên ,do nghiệp vụ tự
doanh và môi giới dễ nảy sinh xung đột lợi ích nên các nước thường qui định các công ty chứng
khoán phải tổ chức thực hiên hai nghiệp vụ ở 2 bộ phân riêng biệt nếu công ty chứng khoán đó
được thự hịên cả 2 nghiệp vụ .
3- Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư: là hoạt động quản lý vốn của khách hàng thông qua
việc mua,bán,và nắm giữ các chứng khoán vì quyền lợi khách hàng theo hợp đồng được kí kết
giữa công ty chứng khoán va khách hàng.
Nghiệp vụ này được thực hiện khi một số nhà đầu tư tổ chức hoặc cá nhân muốn tham gia
TTCK nhưng họ không có đủ điều kiện về thời gian hoặc kiến thức chuyên môn để quyết định
đầu tư ,vì vậy họ uỷ thác cho công ty chứng khoán đầu tư kèm theo thoã thuận lãi lỗ. Người uỷ
thác đầu tư thường không can dự vào việc đầu tư của công ty chứng khoán và trả một khoản phí
cho công ty chứng khoán theo thoã thuận.
Các công ty chứng khoán khi thực hiện nghiệp vụ này ngoài việc được hưởng phí quản lý
họ còn có thể nhận dược những khoản tiền phí nhất định khi mang lại lợi nhuận cao cho nhà đầu
tư.
Khi thực hiện quản lý danh mục đầu tư, công ty chứng khoán phải quản lý tiến và chứng
khoán cho từng khách hàng uỷ thác và sử dụng tiền trong tài khoản theo đúng các điều kiện qui
định trong hợp đồng đã ký kết.Hợp đồng phải xác định rõ mức dộ uỷ quyền của khách hàng phải
chịu mọi rủi ro của hoạt động đầu tư. Để đảm bảo quyền lợi của khách hàng, định kỳ, công ty
chứng khoán phải gửi báo cáo giá trị các khoản đầu tư theo giá thị trường tại thời điểm báo cáo
cho khách hàng.
4 – Nghiệpvụ bảo lãnh phát hành:
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục
trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát
hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết.
Tổ chức phát hành được hưởng phí bảo lãnh hoặc một tỉ lệ hoa hồng nhất định trên số tiền
thu được từ đợt phát hành.
Hiện nay trên thế giới có một số hình thức bảo lãnh phát hành sau:
*Bảo lãnh cam kết chắc chắn: là hình thức bảo lãnh mà tổ chức bảo lãnh phát hành cam
kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán phát hành cho dù có phân phối hết hay không.
*Bảo lãnh cố gắng tối đa: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh thỏa
thuận làm đại lý phát hành cho tổ chức phát hành.Tổ chức bảo lãnh không cam kết bán toàn bộ
số chứng khoán mà cam kết sẽ cố gắng tối đa. Số chứng khoán còn lại nếu không phân phối hết
sẽ trả lại cho tổ chức phát hành. Như vậy, kết quả của việc bán chứng khoán của tổ chức phát
hành tuỳ thuộc vào khả năng, uy tín và sự lựa chọn nhà đầu tư của tổ chức bảo lãnh.
*Bảo lãnh tất cả hoặc không: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức phát hành yêu
cầu tổ chức bảo lãnh phải bán hết số chứng khoán dự định phát hành, nếu không phân phối hết
sẽ huỷ bỏ đợt phát hành.Theo phương thức này, không có một sự bảo đảm đợt phát hành có
thành công hay không, nên UBCKNN thường qui định số chứng khoán mà nhà đầu tư đã mua
trong thời gian cần bán sẽ được giữ bởi một người thứ ba để chờ kết quả cuối cùng của đợt phát
hành. Nếu đợt phát hành không thành công thì nhà đầu tư sẽ được trả lại toàn bộ số tiền đặt cọc.
+Bảo lãnh với hạn mức tối thiểu : là phương thức kết hợp giữa phương thức bảo lãnh
cố gắng tối đa và phương thức bảo lãnh tất cả họăc không.Theo phương thức này, tổ chức phát
hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán tối thiểu một tỉ lệ chứng khoán nhất định. Nếu số lượng
chứng khoán bán ra dưới hạn mức này thì đợt phát hành sẽ được huỷ bỏ và toàn bộ tiền đặt cọc
mau chứng khoán sẽ được trả laị cho nhà đầu tư. Đây là phương thức bảo lãnh tương đối hiệu
quả, vừa bảo vệ lợi ích cho tổ chức phát hành vừa hạn chế rủi ro cho tổ chức bảo lãnh.
Riêng tại Việt Nam hiện nay chỉ áp dụng hính thức bảo lãnh với cam kết chắc chắn nhằm
mục đích bảo vệ của nhà đầu tư và gắn kết trách nhiệm của các công ty chứng khoán trong việc
triển khai nghiệp vụ này .
5-Tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán : là dịch vụ mà công ty chứng khoán cung cấp cho
khách hàng trong lĩnh vực tư vấn đầu tư chứng khoán; tư vấn tái cơ cấu tài chính; chia tách , sáp
nhập; hợp nhất doanh nghiệp; tư vấn cho doanh nghiệp trong việc phát hành và niêm yết chứng
khoán .