Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Tình hình kinh tế và văn hóa huyện triệu phong (quảng trị) từ thế kỷ xvi đến thế kỷ xix

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 95 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LÊ THỊ HOÀI

TÌNH HÌNH KINH TẾ VÀ VĂN HÓA HUYỆN
TRIỆU PHONG (QUẢNG TRỊ)
TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN THẾ KỶ XIX

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Huế, năm 2017


ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LÊ THỊ HOÀI

TÌNH HÌNH KINH TẾ VÀ VĂN HÓA HUYỆN
TRIỆU PHONG (QUẢNG TRỊ)
TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN THẾ KỶ XIX
Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số: 60 22 03 13

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. THÁI QUANG TRUNG

Huế, năm 2017



i


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .............................................................................. 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 7
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 7
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ..................................................... 8
6. Đóng góp của đề tài ...................................................................................... 10
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ MẢNH ĐẤT, CON NGƯỜI HUYỆN TRIỆU
PHONG (QUẢNG TRỊ) TRƯỚC THẾ KỶ XVI ........................................... 11
1.1 Điều kiện tự nhiên ...................................................................................... 11
1.1.1 Vị trí địa lý .............................................................................................. 11
1.1.2 Đất đai .................................................................................................... 11
1.1.3 Sông ngòi và địa hình .............................................................................. 12
1.1.4 Khí hậu .................................................................................................... 13
1.2 Vùng đất Triệu Phong trước thế kỷ XIV ..................................................... 14
1.2.1 Dấu vết con người thời tiền và sơ sử trên đất Triệu Phong trước thế kỷ XIV ......... 14
1.2.2. Dấu tích văn hóa Chămpa ở Triệu Phong ................................................ 15
1.3. Qúa trình thay đổi địa giới hành chính huyện Triệu Phong qua các thời kỳ 23
1.4 Công cuộc khẩn hoang hình thành làng xã huyện Triệu Phong trước thế kỷ
XIX. ................................................................................................................. 25
CHƯƠNG 2. KINH TẾ Ở HUYỆN TRIỆU PHONG (QUẢNG TRỊ) TỪ
THẾ KỶ XVI ĐẾN THẾ KỶ XIX ................................................................. 36
2.1 Kinh tế nông nghiệp ................................................................................... 36
2.1.1 Tình hình ruộng đất ................................................................................. 36

2.1.2 Trồng trọt, chăn nuôi ............................................................................... 43
2.1.3 Hoạt động thủy lợi ................................................................................... 45
2.2 Kinh tế thủ công nghiệp .............................................................................. 50

1


2.3 Kinh tế thương nghiệp ................................................................................ 52
2.4 Một số nhận xét về quá trình hình thành và phát triển chợ làng Triệu Phong61
Chương 3. VĂN HÓA Ở TRIỆU PHONG (QUẢNG TRỊ) TỪ THẾ KỶ XVI
ĐẾN THẾ KỶ XIX ......................................................................................... 64
3.1 Văn hóa tinh thần........................................................................................ 64
3.1.1 Tôn giáo .................................................................................................. 64
3.1.1.1 Phật giáo ............................................................................................... 64
3.1.1.2 Thiên Chúa giáo .................................................................................... 66
3.1.2 Tín ngưỡng .............................................................................................. 67
3.1.2.1 Tín ngưỡng dân gian ............................................................................. 67
3.1.2.2 Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên .................................................................. 69
3.1.3 Phong tục tập quán .................................................................................. 71
3.1.4 Giáo dục .................................................................................................. 72
3.1.5.1 Tết ........................................................................................................ 74
3.1.5.2 Lễ hội ................................................................................................... 76
3.1.6. Văn nghệ dân gian .................................................................................. 80
3.1.7. Kiến trúc ................................................................................................. 81
3.2 Văn hóa vật chất ......................................................................................... 83
3.2.1 Ẩm thực ................................................................................................... 83
3.2.2 Trang phục............................................................................................... 85
3.2.3 Cư trú ...................................................................................................... 87
3.2.4 Phương tiện đi lại .................................................................................... 89
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 91


2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, quá trình “Nam tiến” có ý nghĩa vô cùng
quan trọng. Qua đó, lãnh thổ được mở rộng, đất nước có điều kiện phát triển kinh
tế, văn hóa.
Năm 1558 Nguyễn Hoàng chọn Ái Tử làm thủ phủ mở đầu thời kỳ thịnh đạt
của chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Việc chọn vùng đất Quảng Trị khởi đầu nghiệp
chúa có vị trí chiến lược và ý nghĩa hết sức đặc biệt vào giữa thế kỷ XVI. Chỉ đóng
sở lỵ tại đây Nguyễn Hoàng mới tránh xa sự khống chế của họ Trịnh và làm trạm
trung chyển trong việc mở rộng lãnh thổ về phía Nam.
Với những chính sách khôn khéo, quan tâm đến đời sống của nhân dân, chú
trọng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh, Nguyễn Hoàng đã xây
dựng Thuận Hóa từ một vùng đất nghèo đói, đất rộng người thưa thành xóm làng
đông đúc và là một trong những trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa của Đàng
Trong.
Từ năm 1558 đến năm 1885 các chúa Nguyễn và các vua Nguyễn đã để lại
dấu ấn đặc biệt trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Nguyễn Hoàng cùng các chúa
Nguyễn, vua Nguyễn đã có nhiều đóng góp cho việc xây dựng vùng đất phía Nam,
thống nhất lãnh thổ, phát triển kinh tế - chính trị - văn hóa. Trong đó, nổi bật lên
vấn đề kinh tế và văn hóa.
Kinh tế là nhân tố quan trọng quyết định và tác động trực tiếp đến đời sống
của nhân dân, đến sự phát triển chung của quốc gia dân tộc. Là nền tảng để xây
dựng phát triển xã hội, chính trị, củng cố an ninh quốc phòng. Do vậy, các chúa
Nguyễn và vua Nguyễn luôn quan tâm và phát triển kinh tế, văn hóa tạo thế vẵng
chắc cho việc xây dựng vương triều Nguyễn.
Kinh tế và văn hóa là hai “lăng kính” phản ánh sự phát triển xã hội đời sống

nhân dân một cách rõ nét. Vì thế, nghiên cứu kinh tế - văn hóa rất được nhiều nhà
khoa học quan tâm.
Triệu Phong là huyện nằm về phía Đông Nam của tỉnh Quảng Trị, từng là nơi
một thời có nền kinh tế phát triển nổi bật của Đàng Trong, trung tâm đầu não được

3


chúa Tiên Nguyễn Hoàng chọn làm nơi đóng dinh phủ, có nhiều di tích lịch sử văn
hóa lâu đời. Trong tiến trình phát triển của lịch sử, nhân dân huyện Triệu Phong
luôn đoàn kết chặt chẽ trong cuộc sống lao động sản xuất, mảnh đất giàu truyền
thống yêu nước, cách mạng, là nơi có đời sống văn hóa tinh thần cũng như văn hóa
vật chất vô cùng phong phú và đa dạng.
Vì vậy, việc nghiên cứu, khôi phục một cách tương đối có hệ thống những gì
xảy ra trong quá khứ là vấn đề cần thiết. Là một người con sinh ra và lớn lên trên
quê hương Quảng Trị, thực hiện đề tài này ngoài ý nghĩa là một công trình nghiên
cứu lịch sử địa phương, luận văn còn thể hiện sự tri ân, biết ơn đối với quê hương.
Qua đó, có thể phác họa bức tranh tổng thể một cách đầy đủ và chân thực về
vùng đất Triệu Phong (Quảng Trị) dưới thời các chúa Nguyễn, vua Nguyễn. Đề tài
góp phần nào vào việc nghiên cứu lịch sử, kinh tế, văn hóa của vùng đất Triệu
Phong (Quảng Trị). Đồng thời giáo dục cho thế hệ trẻ biết trân trọng và giữ gìn bản
sắc văn hóa của quê hương, niềm tự hào về quê hương, dân tộc. Từ đó, thế hệ trẻ ý
thức hơn nữa trách nhiệm của mình, góp phần xây dựng quê hương giàu mạnh.
Riêng đối với bản thân, việc nghiên cứu đề tài luận văn còn là dịp để tôi tìm
tòi, học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn, hiểu biết hơn về quê hương.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề “Tình hình kinh tế và văn hóa
huyện Triệu Phong (Quảng Trị) từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX” làm đề tài luận
văn Thạc sĩ Lịch sử chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việc nghiên cứu tình hình kinh tế, văn hóa của một địa phương rất là quan

trọng. Trong thời gian qua, vấn đề này đã được các tác giả sử học đề cập đến trong
các công trình nghiên cứu của mình.
* Về vấn đề kinh tế:
Nghiên cứu vấn đề về kinh tế, trước hết là kinh tế nông nghiệp có nhiều công
trình xuất bản. Trong đó nghiên cứu về ruộng đất Việt Nam ở các thế kỷ X - XIX có
các công trình sau: “Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX” của
tác giả Vũ Huy Phúc (1979), “Chế độ ruộng đất Việt Nam” (2 tập) của tác giả
Trương Hữu Quýnh (1982), “Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nhân

4


dân dưới thời Nguyễn” do Trương Hữu Quýnh và Đỗ Bang chủ biên (1999)… các
tác phẩm đã trình bày một cách hệ thống các loại hình sở hữu ruộng đất, bao gồm
phần pháp chế, các chính sách của triều đình, những tác động của chính sách ruộng
đất đối với yêu cầu phát triển của lịch sử. Đây là công trình nghiên cứu ruộng đất
trên cả nước nên chưa đi sâu từng địa phương cụ thể.
Ngoài ra, còn có rất nhiều chuyên khảo liên quan đến kinh tế - xã hội được
công bố như: “Kinh tế - xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn” của Nguyễn
Thế Anh gồm 6 chương đề cập đến hoạt động nông nghiệp, thủ công, thương mại
và các vấn đề về xã hội. Li Tana với “Xứ Đàng Trong Lịch sử kinh tế - xã hội Việt
Nam thế kỷ 17 và 18” gồm 7 chương, đề cập đến vấn đề có tính khai phá về sử liệu
như kinh tế, chính, trị, xã hội, quân sự, tiền tệ, dân số.
Sách “Làng nghề truyền thống Quảng Trị” do Y Thi chủ biên, (2011) đề cập
đến các nghề thủ công ở Triệu Phong: Làng nón Bố Liêu (xã Triệu Hòa), làng quạt
Phương Ngạn (xã Triệu Long), làng lược Xuân Dương (xã Triệu Trung), làng mộc
Gia Độ (xã Triệu Độ)…
Các luận văn, khóa luận tốt nghiệp liên quan đến đề tài
Trong các luận văn, khóa luận tốt nghiệp những vấn đề như: tổ chức chính
quyền, kinh tế (thủ công nghiệp, thương nghiệp Quảng Trị) hay lịch sử một số làng

ở Triệu Phong đã được nghiên cứu như:
Đề tài khoa học cấp trường về làng xã ở Triệu Phong: Góp phần tìm hiểu làng
Đạo Đầu xã Triệu Trung - huyện Triệu Phong - tỉnh Quảng Trị của tác giả Lê
Hoàng Nguyên (1998) trường ĐHKH Huế đã trình bày quá trình hình thành làng
Đạo Đầu.
Luận văn “Mạng lưới chợ ở tỉnh Quảng Trị thế kỷ XVI - XIX” của Nguyễn Thị
Mỹ Linh (2012) trường ĐHSP Huế viết về hệ thống chợ làng cùng hoạt động của nó
trên địa bàn Quảng Trị. Trong đó, có đề cập đến chợ huyện Vũ Xương. Luận
văn“Thương nghiệp Quảng Trị thế kỷ XVI - XIX” của tác giả Phạm Nhân Đức
trường ĐHSP Huế không chỉ nghiên cứu hoạt động nội thương mà còn nghiên cứu
hoạt động ngoại thương đã cung cấp nhiều tư liệu cho đề tài.

5


Luận văn “Quảng Trị dưới thời các Chúa Nguyễn” của tác giả Trần Thị Thu
Hương (2011) trường ĐHKH Huế, luận văn “Quảng Trị dưới triều Nguyễn” của tác
giả Trần Thị Tuyết Nga (2012) trường ĐHKH Huế trình bày một số hoạt động kinh
tế: nông nghiệp, thủ công nghiệp…ở Quảng Trị dưới thời kỳ Chúa Nguyễn và triều
Nguyễn. Trên cơ sở đó có thể kế thừa và làm tài liệu tham khảo cho luận văn.
* Về vấn đề văn hóa:
Địa chí Quảng Trị (Sở Khoa học và môi trường), (1996) gồm 20 chương, ở
chương XVI “Sinh hoạt vật chất và tinh thần”, có đề cập đến sinh hoạt vật chất và
tinh thần ở huyện Triệu Phong về nhà ở, phương tiện đi lại, ăn uống, trang phục,
trang sức…Chương XVIII “Tín ngưỡng và tôn giáo” nêu lên một số vấn đề sự phát
triển, tổ chức sinh hoạt của Phật giáo và Thiên chúa giáo ở Triệu Phong nhưng chưa
nhiều.
Khóa luận tốt nghiệp: “Một số lễ hội tâm linh ở tỉnh Quảng Trị”của tác giả Lê
Thị Hoàng Dương (2013) trường ĐHSP Huế đã đề cập tới các lễ hội trên địa bàn
Quảng Trị trong đó có các lễ hội ở huyện Triệu Phong là: Lễ hội chợ đình Bích La,

lễ hội cầu ngư làng Phú Hội.
Bản “Báo cáo kết quả kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn huyện
Triệu phong” của Sở văn hóa thể thao và du lịch, Bảo tàng Quảng Trị (2013) trong
bài viết báo cáo này đã thống kê một sốt lễ hội đó có các lễ hội truyền thống như:
Lễ Đông chí làng Dương Lệ, lễ hội đua thuyền làng Trung Yên, nghề nhạc lễ cổ
truyền làng Bích Khê, tuồng Chợ Cạn đang được nghiên cứu bảo tồn và khôi
phục…
Các bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt như: Bài chòi - thú chơi đậm chất dân
gian ở Quảng Trị của tác giả Lê Thị Thanh Huyền, Di tích lịch sử - Văn hóa thời
Nguyễn Hoàng trên đất Triệu Phong và vấn đề bảo tồn phát huy giá trị của tác giả
Hồ Viết Hy; Ngày xuân đi tìm tung tích tuồng Chợ Cạn của tác giả Trương Hữu
Qúy; Vật liệu truyền thống trong công trình kiến trúc dân gian của người Việt
Quảng Trị của tác giả Nguyễn Thị Nương; Tài liệu về Chợ Thuận và thành Thuận
Châu tại phòng văn hóa thông tin huyện Triệu Phong. Những bài viết trên không chỉ

6


thể hiện về đời sống tinh thần phong phú mặt khác kiến trúc nghệ thuật về đình
làng, chùa…cũng đa dạng.
Một số bài viết: Vài nét về Công giáo trên vùng đất Quảng Trị của tác giả
Đoàn Triệu Long (2014) trong tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, tác phẩm “Hành trình
về truyền giáo” của tác giả A.D. Rhodes; Tài liệu về Chùa Sắc Tứ, chùa Long An
tại phòng văn hóa thông tin huyện Triệu Phong; Chùa Làng trong tâm thức của
người Việt tác giả Nguyễn Thị Nương trên Tạp chí Cửa Việt, luận văn thạc sĩ “Phật
giáo Quảng Trị từ giữa thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX” của tác giả Lê Thị Huyền Trang
trường DHKH Huế, đã đề cập đến sự du nhập và phát triển tôn giáo ở Triệu Phong,
một phần nào đó phản ánh về đời sống tâm linh tôn giáo của người dân nơi đây.
Như vậy, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu về tình hình kinh
tế và văn hóa huyện Triệu Phong từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX một cách toàn diện, cụ

thể. Trên cơ sở thừa kế những thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước, đồng thời trong
điều kiện cho phép hy vọng luận văn nghiên cứu một cách hệ thống về tình hình kinh tế,
văn hóa huyện Triệu Phong (Quảng Trị) từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Kinh tế và văn hóa huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị từ thế kỷ XVI đến thế
kỷ XIX bao gồm: nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, văn hóa tinh thần
và văn hóa vật chất.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Đề tài tìm hiểu về vùng đất Triệu Phong (Quảng Trị) từ thế kỷ
XVI đến thế kỷ XIX, tính từ 1558 khi Nguyễn Hoàng đặt chân đến vùng đất Ái Tử
đến năm 1885 nước ta hoàn toàn rơi vào tay thực dân Pháp.
Về không gian: Tương ứng với địa bàn huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị
ngày nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Kế thừa những kết quả nghiên cứu trước đây, trên cơ sở hệ thống hóa các
nguồn tư liệu hiện có. Luận văn muốn đi sâu tìm hiểu hơn về hoạt động kinh tế và

7


văn hóa ở huyện Triệu Phong (Quảng trị) từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX. Qua đó, tái
hiện lại một cách có hệ thống bức tranh về kinh tế, văn hóa, đem lại cái nhìn chính
xác hơn về kinh tế, về vai trò, đặc điểm và tác động của nền kinh tế trong thời kỳ
này, góp phần hiểu biết về bộ mặt kinh tế ở huyện Triệu Phong nói riêng và kinh tế
của tỉnh Quảng Trị nói chung từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX. Đồng thời, ta có thể
phục dựng lại những nét văn hóa ở những lễ hội chợ tết, lễ hội dân gian, ăn uống,
nhà ở…thông qua đó ít nhiều sẽ giúp chúng ta gìn giữ lại những nét hồn quê của
ông cha đi trước và bản sắc văn của dân tộc.

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay việc nghiên cứu, tìm hiểu về kinh tế, văn
hóa đã giúp cho chúng ta giữ gìn, bảo tồn được những nét văn hóa truyền thống của
dân tộc, góp phần tạo nên lòng tự hào về quê hương, dân tộc trong tâm hồn các
cộng đồng trẻ Việt Nam.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trình bày khái quát về điều kiện tự nhiên, xã hội của huyện Triệu Phong và
phân tích tác động của nó tới hoạt động kinh tế, văn hóa ở huyện Triệu Phong từ thế
kỷ XVI đến thế kỷ XIX.
Trình bày và phân tích sự phát triển kinh tế, văn hóa ở huyện Triệu Phong
(Quảng Trị) từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX.
Tiến hành nghiên cứu thực địa, ghi chép, thu thập các tài liệu trong nhân dân.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
- Nguồn tài liệu thư tịch
Đây là nguồn tư liệu rất quan trọng đối với đề tài, bao gồm các bộ sử như: Đại
Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội
điển sự lệ của Quốc sử quán triều Nguyễn. Các bộ địa chí như: Ô châu cận lục của
Dương Văn An, Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, Hoàng Việt địa dư chí của Phan
Huy Chú, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của Lê Quang Định, Đại Nam nhất
thống chí, Đồng Khánh địa dư chí của Quốc sử quán triều Nguyễn… đây là những
tác phẩm mang tính lịch sử - địa chí khảo tả một cách khá chính xác về vùng đất

8


Triệu Phong nói riêng và cả nước nói chung, cung cấp cho luận văn nhiều thông tin
về thời gian, sự kiện, các chính sách liên quan đến Triệu Phong.
- Một số sách, kỷ yếu, tạp chí có bài viết liên quan và Luận văn, Khóa luận tốt
nghiệp đã đề cập ở phần lịch sử vấn đề:
Nguyễn Thế Anh (2008), Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều

Nguyễn, NXB Văn học, Hà Nội; Lê Thị Hoàng Dương (2013), Một số lễ hội
tâm linh ở tỉnh Quảng Trị, Khóa luận tốt nghiệp, Trường ĐHSP Huế, Huế;
Phạm Nhân Đức (2014), Thương nghiệp Quảng Trị thế kỷ XVI - XIX, Luận
văn Thạc sĩ Sử học, Trường ĐHSP Huế, Huế; Lê Đình Hào (2001), Các nghề
thủ công truyền thống của người Việt ở Quảng Trị, Luận văn Thạc sĩ Khoa
học Lịch sử, Trường ĐHKH Huế, Huế; Trần Thị Thu Hương (2011), Quảng
Trị dưới thời các chúa Nguyễn, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử, Trường
ĐHKH Huế, Huế; Li Tana (Nguyễn Nghị dịch) (1999), Xứ Đàng Trong Lịch
sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh;
Đoàn Triệu Long (2014), Vài nét về Công giáo trên vùng đất Quảng Trị, Tạp
chí Nghiên cứu tôn giáo, số 05, (131), tr. 88-96; Nguyễn Thị Nương, “Chùa
làng trong tâm thức của người Việt Quảng Trị”, Tạp chí Cửa Việt, (231), tr.
91; Nguyễn Thị Nương, “Vật liệu truyền thống trong công trình kiến trúc dân
gian của người Việt Quảng Trị”, Tạp chí Cửa Việt, (134), tr. 93; Trần Thị
Tuyết Nga (2012), Quảng Trị dưới triều Nguyễn (1802 - 1885), Luận văn
Thạc sĩ Sử học, Trường ĐHSP Huế, Huế; Lê Hoàng Nguyên (1998), Góp phần
tìm hiểu làng Đạo Đầu xã Triệu Trung - huyện Triệu Phong - tỉnh Quảng Trị,
Đề tài khoa học cấp trường của sinh viên năm 1997 - 1998, Trường ĐHKH
Huế, Huế; Vũ Huy Phúc (1979), Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu
thế kỷ XIX, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội...
Ngoài ra còn một số tài liệu, khóa luận, luận văn, tạp chí khác giúp chúng tôi
có thể kế thừa và hoàn thành luận văn.
- Nguồn tài liệu điền dã
+ Các văn bản Hán Nôm, được lưu giữ tại các cơ quan trung ương và địa phương,
làng xã ở Triệu Phong như địa bạ, gia phả, khoán ước, hương ước, văn tế…

9


+ Đây là loại tư liệu có độ chính xác không cao, bắt buộc người nghiên cứu phải

sàng lọc, đối chiếu, so sánh bao gồm: lời kể của các cụ cao niên ở các làng, thơ ca,
hò, vè được truyền tụng trong nhân dân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic, kết hợp với một
số phương pháp khác như: điền dã, thống kê, so sánh, phân tích, mô tả, tổng hợp…
để giải quyết các vấn đề liên quan đến nội dung đề tài.
6. Đóng góp của đề tài
- Góp phần hệ thống lại bức tranh về kinh tế, văn hóa huyện Triệu Phong
(Quảng Trị) từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX. Đánh giá công lao của người Việt trong
quá trình mở đất, mở rộng diện tích canh tác, trồng trọt và phát triển văn hóa ở
huyện Triệu Phong (Quảng Trị).
- Góp phần đánh giá công lao của chính quyền chúa Nguyễn, Lê - Trịnh, Tây
Sơn, triều Nguyễn trong lịch sử dân tộc.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn là một tài liệu tham khảo cho công tác dạy
và học lịch sử địa phương.
7. Bố cục luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận văn được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát mảnh đất, con người Triệu Phong (Quảng Trị) trước thế
kỷ XVI.
Chương 2: Kinh tế ở huyện Triệu Phong (Quảng Trị) từ thế kỷ XVI đến thế kỷ
XIX.
Chương 3: Văn hóa ở huyện Triệu Phong (Quảng Trị) từ thế kỷ XVI đến thế
kỷ XIX.

10


Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ MẢNH ĐẤT, CON NGƯỜI
HUYỆN TRIỆU PHONG (QUẢNG TRỊ) TRƯỚC THẾ KỶ XVI

1.1 Điều kiện tự nhiên
1.1.1 Vị trí địa lý
Triệu Phong nằm về phía Đông Nam của tỉnh Quảng Trị, chiều dài từ Tây
sang Đông ở đất liền hơn 40km, chiều rộng ở đồng bằng từ 15 đến 17km, từ 160
45’30” đến 160 53’54’’vĩ tuyến Bắc. Về địa giới, phía Bắc giáp huyện Gio Linh, thị
xã Đông Hà và huyện Cam Lộ, phía Nam giáp huyện Hải Lăng và thị xã Quảng Trị;
phía Đông giáp Biển Đông và phía Tây giáp huyện Hướng Hóa. Theo miêu tả của
sách Đại Nam nhất thống chí:
Huyện Đăng Xương cách đạo 30 dặm về phía Tây Bắc, Đông Tây cách
nhau 43 dặm, Nam Bắc cách nhau 20 dặm, phía Đông đến địa giới Hải
Lăng 39 dặm, phía Tây đến địa giới 2 huyện Địa Linh và Thành Hóa 14
dặm, phía Nam đến địa giới Thành Hóa 9 dặm, phía Bắc đến biển 11 dặm
[15, tr. 99].
1.1.2 Đất đai
Đất đai Triệu Phong chia ra 4 vùng:
- Phía Đông huyện là một dãy cát chạy theo bờ biển suốt từ Bắc chí Nam, dài
trên 15km, rộng từ 4 – 4,5km. Đây là một phần của dãi Tiểu Trường Sa, chỉ toàn cát
trắng mịn, có nơi dồn lên thành từng động dài. Có bờ biển dài 30km, tập trung
nhiều loại hải sản có giá trị cao như mực, tôm, các loại cá…
- Phía trong dãi cát là vùng đồng bằng rộng từ 7 – 8km chất đất tiện lợi cho
việc canh tác, xóm làng xanh tươi đông đúc. Đây chính là bộ mặt và cuộc sống của
toàn huyện, là một trong hai vựa lúa của tỉnh.
- Qua khỏi vùng đất cát là xứ sở của những ngọn đồi thoai thoải có thể trồng
được những loại cây công nghiệp, cây dài ngày, cây lấy gỗ… Rãi rác có những bãi
rà thấp, nhỏ hẹp trồng được hoa màu, lương thực.

11


- Đi lên phía Tây, là một vùng núi rừng mênh mông với nhiều chóp núi khá

cao, có nhiều loại lâm sản có giá trị kinh tế như gỗ, mun, kiền kiền và một số cầm
thú hiếm. Dọc thượng lưu sông Thạch Hãn, có thung lũng Ba Lòng không rộng như
dài 6 đến 7km, đất phù sa màu mỡ, thích hợp với các loại hoa màu như bắp, đậu
xanh, đậu phụng.
Với sự phân bố đất đai như vậy, Triệu Phong trở thành một trong hai khu
vực của tỉnh có nhiều thuận lợi để phát triển nền kinh tế nông nghiệp toàn diện.
1.1.3 Sông ngòi và địa hình
Triệu Phong có mạng lưới sông ngòi dày đặc, phân bố đều khắp trong huyện.
Do phụ thuộc địa hình tự nhiên nên hầu hết các sông suối có đặc điểm là ngắn, hẹp
và dốc. Mùa khô nước xuống thấp, mùa khô nước dâng nhanh.
Sông Thạch Hãn là một hệ thống sông lớn của huyện, trước đây Thạch Hãn
hàng năm bồi đắp một lớp phù sa mới, và ngày nay qua hệ thống thủy nông lại đưa
nước về, biến hầu hết các cánh đồng Triệu Phong thành ruộng hai vụ. Khi đổ ra
biển, nó còn mở ta một cửa sông khá sâu, đó là Cửa Việt. Cửa Việt dù chưa đủ độ
sâu, rộng cần thiết cho tàu thuyền lớn ra vào song vẫn là cái cổng của tỉnh mở ra đại
dương. Đối với huyện, nó tạo thuận tiện cho giao lưu với bên ngoài. Đồng thời
mang lại một số ruộng muối, một số cơ sở chế biến hải sản.
Dòng sông Vĩnh Định chỉ chảy qua Triệu Phong độ 10km.Trước khi bị kênh
thủy nông bịt dòng ở An Tiêm nó cùng với sông Thạch Hãn là con đường thủy đi lại
và buôn bán sản vật địa phương giữa Huế với các chợ Ngô Xá, chợ Sãi, chợ Sòng ra
tận chợ Cầu (Gio Linh) và chợ huyện Vĩnh Linh, đặc biệt nửa cuối thế kỷ XV nó là
một đoạn sông vận chuyển quân lương cho Hồ Hán Thương và Lê Thánh Tông đi
mở mang bờ cõi phương Nam. Ngày nay nó là dòng kênh N1 của thiên nhiên phân
phối nước và phù sa nguồn Hãn, nguồn Nhùng qua các kênh hói vào nuôi sống các
cánh đồng Triệu Hải.
Cùng với Thạch Hãn, Vĩnh Định,Triệu Phong còn có sông Áí Tử và sông
Vĩnh Phước. Hai sông này không có sức tưới tiêu và khả năng giao lưu lớn, song lại

12



làm rạng ngời tên tuổi của huyện, của tỉnh trong sử sách qua trận đánh nổi tiếng
chống quân Minh xâm lược đầu thế kỷ XV tại ngã ba cuối dòng.
Địa hình Triệu Phong còn hình thành một mạng lưới đường bộ khá dày
đặc.Ngoài tuyến đường sắt xuyên Việt và quốc lộ 1 song song đi qua suốt chiều
rộng của huyện còn có 3 con đường từ thị xã Quảng Trị đi Cửa Việt (64), đi Xuân
Viên (68), đi Thượng Phước, có thể lên tận Cùa (6 bis).Từ các tỉnh lộ lại xuất phát
chi chít những con đường liên hướng ngang dọc, trong đó có một số trải suốt huyện
như đường Linh Chiểu - An Cư, đường Linh Yên - Dã Bộ, tạo sự đi lại giữa các
thôn, xã khá thuận tiện.
1.1.4 Khí hậu
Bốn mùa thường ấm, tháng giêng, tháng 2 trời khí hòa ấm; tháng 3 khí trời
nóng dần, tháng 4 tiết tiểu mãn, thỉnh thoảng củng có lụt; tháng 5, tháng 6
và tháng 7 gió Nam thổi mạnh; tháng 8, tháng 9 khí trời mát dần, thường có
mưa lũ; tháng 10 trong những ngày mồng 3, 13 và 23 thường bị lụt… Trong
một năm nửa mùa thu sang mùa đông mưa nhiều, nửa mùa xuân về sau
thường nắng nhiều, từ tháng trọng đông (tháng 11) trở về sau, khí rét nhưng
không giá buốt, cây cối không rụng lá, khí trời đã ấm; tháng 12 sấm bắt đầu
dậy [48, tr.110].
Đây là vùng đất có khí hậu quá khắc nghiệt mọi thứ thiên tai đều luôn xảy ra
ở đây. Mọi thứ thiên tai đều luôn xảy ra ở đây, chồng lên nhau nối tiếp nhau, bất
thường nhiều hơn bình thường. Mùa xuân nếu không hạn thì có gió Đông Bắc mang
theo những đợt rét bất chợt làm hạn chế sự phát triển của lúa chiêm. Mùa hè, gió
Tây Nam khô khốc thổi về như những cơn bão kéo dài hàng tháng, cỏ cháy đồng
không, nước sông cạn hẳn, nước mặn dâng lên, lúa hè thu khó phương cứu chữa.
Mùa thu đang hạn bổng mưa bão đùng đùng, nhà cửa tốc mái, nước lụt cuốn hết
mùa màng, tài sản. Mùa đông trời lại mưa dầm, có khi kéo dài cả tháng, rét đến mức
cây lúa cấy xuống không lớn lên nổi. Đó là chưa nói đến nạn cát xâm lấn đồng
ruộng, lấp kênh hói; nạn đất bị sói mòn, thậm chí cả nạn đất lở, có khi làm mất chổ
như Trung Kiên, Hữu Kiên.


13


Khí hậu đã thế, đất đai lại nghèo về khoáng sản, không thuận lợi cho việc
xây dựng các cơ sở công nghiệp, trong lúc các nghề thủ công nhỏ không đủ sức vớt
vát cho nền nông nghiệp vốn đã độc canh lại luôn bấp bênh. Đòi hỏi người dân
Triệu Phong phải cần cù chịu khó, phải đoàn kết để vượt qua mọi trở ngại xây dựng
đòi sống ấm no.
1.2 Vùng đất Triệu Phong trước thế kỷ XIV
1.2.1 Dấu vết con người thời tiền và sơ sử trên đất Triệu Phong trước thế kỷ XIV
Từ buổi nguyên sơ, dấu vết con người thời tiền và sơ sử đã xuất hiện ở
Quảng Trị trong đó có Triệu Phong
Trong hai mùa điền dã năm 1993 – 1994 của trung tâm văn hóa Việt Nam và
bảo tàng Quảng Trị, các nhà Khảo cổ học đã tìm thấy những công cụ đồ đá cũ thuộc
nền văn hóa Sơn Vi ở Cùa, Carol, Cồn Cỏ và đồ đá giữa thuộc nền văn hóa Hòa
Bình, Bắc Sơn ở Lao Bảo, Khe Sanh, Tân Lâm. Việc tìm thấy các di tích hậu kỳ đồ
đá cũ ở Quảng Trị phân bố ở vùng miền núi lẫn hải đảo gần bờ là một thành tựu lớn
của khảo cổ học Việt Nam. Là minh chứng khá thuyết phục về sự tồn tại người
nguyên thủy trên đất Quảng Trị.
Những viên đá cuội gia công có dấu vết tham gia của con người vốn là công
cụ chặt vô định hình, hình múi bưởi, những tropper được ghè đẽo ở một đầu hay
một hoặc hai rìa cạnh; những mũi nhọn, bàn ghiền, chày ghiền, những võ ốc núi, ốc
suối đã chặt đít… đã viết nên trang sử vùng đất Quảng Trị thời kỳ cách ngày nay 1
vạn năm rưỡi đến 3 vạn năm [68, tr.16].
Ở Triệu Phong là nơi có nhiều dấu tích về thời đại hậu kỳ đá mới - sơ kỳ kim
khí. Từ trước đến nay đã có nhiều phát hiện ở vùng di tích Ba Lòng và dọc sông
Thạch Hãn.
Bên cạnh đó còn có địa điểm Phương Sơn xã Triệu Sơn - huyện Triệu Phong,
là nơi có dấu hiệu về con người nguyên thủy. Địa điểm này được được người Đoàn

cán bộ nghiên cứu phát hiện vào mùa điền dã 1992 -1993.

14


Theo PGS.TS Lâm Thị Mỹ Dung trong “Thống kê những địa điểm thuộc
Hậu kỳ đồ đá mới - sơ kỳ kim khí ở Quảng Trị” cho biết: “Địa điểm Phương Sơn
cũng như các địa điểm ở Bàu Đông - Mai Xá; Cồn Chùa - Lâm Xuân, nó nằm ở
vùng ven bàu và chân cồn cát”. Tại đây đã tìm thấy nhiều mãnh gốm thô, bỡ [19,
tr.77].
Các nhà nghiên cứu cho rằng, nếu có điều kiện điều tra khảo sát thật quy mô
ở vùng này thì chắc chắn sẽ bắt gặp nhiều hiện vật và công cụ của người nguyên
thủy.
1.2.2. Dấu tích văn hóa Chămpa ở Triệu Phong
Năm 111 trước Công nguyên, nhà Hán thay thế họ Triệu xâm lược và cai trị
nước Âu Lạc. Ngoài hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân, nhà Hán lập thêm quận Nhật
Nam. Quận Nhật Nam là mảnh đất từ Hoành Sơn vào đến Quảng Nam. Chia thành
5 huyện: Tây quyền, Chu Ngô, Tỷ Cảnh, Lô Dung và Tượng Lâm. Đến thời Đông
Hán, năm 192 một lãnh tụ nhân dân bộ lạc Dừa (Khu Liên) ở phía Bắc đã lãnh đạo
nhân dân lật đổ ách đô hộ nhà Hán, thành lập tiểu quốc Lâm Ấp. Đến thế kỷ IV, hai
tiểu quốc Lâm Ấp và Panduranga đã hợp nhất, hình thành vương quốc Chămpa. Lợi
dụng sự suy yếu của chính quyền phong kiến Trung Quốc đô hộ, các thế lực của
Chămpa mở rộng địa bàn ra tại Hoành Sơn. Toàn bộ đất Triệu Phong lúc bấy giờ
thuộc vương quốc Chămpa cho đến đầu thế kỷ XIV. Chính vì lẽ đó, Triệu Phong
mang trong mình nhiều dấu tích văn hóa Chămpa.
Qua nhiều cuộc tìm hiểu khai quật, nghiên cứu đã phát hiện ra nhiều dấu tích
liên quan đến kiến trúc đền tháp Chăm (Bích La, Trà Liên, Dương Lệ, Ngô Xá), các
tác phẩm điêu khắc Chăm, thủy lợi cổ (giếng Xóm làng Bích Khê, giếng Chùa làng
Đại Hào…), di tích thành lũy (thành Thuận Châu), chiếc vò đất nung ở dạng sứ,
dạng bán sứ. Những chiếc mộ vò (Dương Lệ) được chôn theo cụm gồm 7 chiếc, bên

trong có dấu tích than tro và các đồ tùy táng như công cụ bằng kim loại, đồ gốm
thô… thể hiện sự tiến bộ trong đời sống văn hóa của cư dân Chăm cổ tại vùng đất
Triệu Phong.

15


Thỉnh thoảng người dân còn tìm thấy ở gần các khu tháp Chăm xưa có nhiều
đồ bán xứ Trung Hoa (Quảng Đông) dưới các thế kỷ VII - IX - XI như gốm sứ Hán,
Lục Triều, Đường… đây là những bằng chứng về sự định cư lâu dài, liên tục của
các trường lớp cư dân dọc dãi cồn cát trong (Tiểu Trường Sa) nói chung Triệu
Phong nói riêng.
Điều này cũng góp phần chứng minh rằng: Ngay từ giai đoạn sớm ở khu vực
này, cư dân Chămpa cổ đã chủ động hướng mình ra biển và chủ động giao lưu tiếp
xúc bên ngoài, cụ thể là người Hoa qua cảng biển Mỹ Thủy, đặc biệt là cảng Cửa
Việt.
Trãi qua thời gian cùng với sự biến động mạnh mẽ của điều kiện tự nhiên, xã
hội nền các đền tháp hiện nay chỉ còn tồn lưu dưới dạng phế tích nhưng những di
vật còn lại như: Tượng Uma Dương Lệ thuộc phong cách Trà Kiệu (cuối thế kỷ IX
đầu thế kỷ X), phù điêu lá nhĩ Trà Liên 1, 2 (tympan) thuộc phong cách nghệ thuật
Đồng Dương (nửa cuối thế kỷ IX), đầu tượng tu sĩ Trà Liên thuộc giai đoạn nghệ
thuật Đồng Dương. Yoni Dương Lệ…cũng phản ánh nhiều khía cạnh lịch sử, văn
hóa, nghệ thuật.
Qua những tư liệu được mô tả trong Ô châu cận lục, Phủ biên tạp lục; các
nhà khảo cổ học người Pháp như Henri Parmentier, Madeleine Colani, linh mục
Léopold Michel Cadière đầu thế kỷ XX và gần đây nhất là một số cán bộ trường
Đại học Khoa học Huế đã phần nào khôi phục lại bức tranh về 4 tháp Chăm từng
tồn tại trên đất Triệu Phong đó là:
Khu đền tháp Dương Lệ: Di tích nằm cạnh con đường liên xã về phía Đông
trên một gò đất khá cao có tên gọi là Cồn Giàng thuộc làng Dương Lệ Đông, xã

Triệu Thuận, huyện Triệu Phong.
Theo Dương Văn An trong tập “Ô châu cận lục” viết năm 1555, thì lúc đó di
tích chỉ “còn cái nền cũ”. Những năm đầu thế kỷ XX, linh mục L.P. Cadière khi
đến khảo sát khu đền Dương Lệ cũng không thể biết được điều gì hơn ngoài việc
nhận thấy rằng: “Trong vùng có tên là Huyền Vũ xứ có một lùm cây mà ở đó người

16


ta thấy những phế tích của một tháp Chăm đã đổ nát. Đống gạch ở trung tâm cao
gần 3m và hình như có nhiều đống như vậy có nguồn gốc từ những công trình kiến
trúc… Cách 200 - 300m về phía bắc, gần làng hơn là một cái cồn khác mà ở đó có
nhiều viên gạch chôn sâu trong lòng đất. Tên của nơi này là Cồn Kéc mà người ta
nói với tôi là nó thuộc thổ âm của hai chữ Cồn Gạch” [19, tr.187]. Ông cũng cho
biết thêm cạnh đống gạch trung tâm có một ngôi miếu của người Việt, bên trong
một pho tượng nữ thần là Uma - vợ của thần Siva. Đây chính là ngôi miếu Bà
Giàng.
Ở phía Nam Cồn Giàng, giữa những mô đất thấp nhô, trên bề mặt của những
lớp gạch mũn nát có hai mô đất có đường kính từ 10 - 15m với mật độ gạch dày
đặc còn ở địa hình dương. Rất có thể đây là hai ngôi tháp phụ khác với quy mô và
chiều cao không lớn nằm trong tổng thể của khu đền tháp Dương Lệ. Tại khu vực
Cồn Giàng, bên cạnh những lớp gạch vỡ không định hình thì kích thước các viên
gạch nguyên dày mỏng nhiều loại, có viên chỉ mỏng 4cm; nhiều viên ngói Chăm
dày 0,8cm. Các nhà khoa học cũng đã tìm thấy nhiêu chi tiết kiến trúc như: một
lintau đá có lỗ mộng vuông (10x10cm), dài 1,03m, rộng 0,33m, dày 0,23m; một
thanh khác rộng 0,4m, dài 1,13m; một chân cột sứt vỡ có cạnh là 0,65m, giữa có lỗ
mộng vuông…cùng với những cấu kiện nữa đang bị vùi phần lớn dưới đất [4,
tr.113].
Cạnh Cồn Giàng có một cồn đất nữa mà nhà nghiên cứu L.P. Cadière đã
nhắc tới là Cồn Kéc (Cồn Gạch). Cồn đất này nằm cách Cồn Giàng khoảng 200 300m về phía Tây Bắc. Từ năm 1979, một con mương cắt qua đã làm cho cồn đất

này bị đào bới mất hết dấu vết. Tuy nhiên, trên mặt hồ có nhiều gạch vỡ, sõi, cuội;
hai bên bờ mương có nhiều gạch, ngói vỡ màu đỏ nhạt, vàng nhạt, xám trắng xếp
chồng, độ nung vừa phải [9, tr.113]
Đáng chú ý nhất trong số những di vật còn lại tại Cồn Giàng là một Yoni
bằng đá còn nguyên. Đó là biểu tượng âm vật song cùng với Linga - biểu tượng
dương vật - trong hệ sáng tạo được người Chăm thờ cúng phổ biến với ý nguyện

17


sinh sôi nảy nở. Yoni Dương Lệ có kích thước: dài 1,88m, rộng 1,38m, dài vòi
0,50m, rộng vòi 0,34m [6, tr.114]
Linga được tạc liền, nguyên khối với Yoni (Linga bị đập vỡ nên không còn
nằm nguyên vẹn trên bề mặt Yoni nữa), nhưng thông qua dấu vết còn lại thì thấy
Linga có đường kính 0,46m. Bộ Linga - Yoni được đặt trên một đài thờ kép gồm
hai bệ đá có kích thước xếp chồng lên nhau, không có họa tiết trang trí mà chỉ được
tạo ra các đường gờ giật cấp. Bệ đá trên, nơi đặt Yoni có hình vuông, cạnh là
1,76m, được tạo thành do hai tảng đá ghép lại với nhau; bệ đá bên dưới là một tảng
đá nguyên, có kích thước nhỏ hơn tảng đá bên trên. Bộ ngẫu tượng sinh thực khí
Linga - Yoni cùng với đài thờ, theo các nhà nghiên cứu là thuộc đối tượng thờ của
tháp trung tâm [12, tr.114]
Như vậy, trên toàn bộ tổng quan của khu đền tháp Dương Lệ xưa có ít nhất
là từ 4 - 5 công trình kiến trúc đền tháp đồ sộ. Bố cục của chúng được sắp xếp theo
trật tự là: có một ngôi tháp chính lớn hơn cả nằm ở giữa, thờ bộ sinh thực khí Linga
- Yoni; một ngôi tháp nằm cách tháp chính một chút về hướng Tây thờ nữ thần Uma
- thần mẹ xứ sở của người Chăm và có từ 2 - 3 kalan khác nằm ở phía Nam và Đông
Nam vốn là tháp hoặc đền thờ của những vị thần phụ khác.
Về niên đại khởi tạo nhóm đền tháp Dương Lệ, cho tới nay vẫn còn quá ít để
khẳng định một cách chắc chắn. Chỉ biết rằng qua pho tượng Uma - vị thần được
thờ cúng trong một ngôi tháp ở thánh địa Dương Lệ, các nhà khoa học cho là chúng

thuộc phong cách nghệ thuật Trà Kiệu (thế kỷ IX); và như vậy, hẳn là nhóm đền
tháp Dương Lệ đã được xây dựng từ thế kỷ IX trở về trước.
Khu đền tháp Trà Liên: Di tích nằm trên một vùng cát thuộc xóm Nam Bồi,
làng Trà Liên, xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong. Địa điểm này nằm cạnh khu vực
nguyên là lỵ sở dinh chúa Nguyễn - dinh Trà Bát.
Đầu thế kỷ XX, L.P. Cadière phát hiện ra địa điểm đổ nát của ngôi tháp
Chăm và ghi lại như sau: “Ở trên địa phận xóm Bồi, đã tìm thấy di tích Chàm trong
một lùm cây rậm rạp gọi là Lùm Giàng. Nó nằm ở vùng cao có nhiều cát về phía

18


Bắc được gọi là Cồn Dinh. Đây là địa điểm mà chúa Nguyễn đã chọn làm nơi đóng
lỵ sở của ông ta vào năm 1750 và thuộc trên bờ một nhánh sông cũ, ngày này đã bị
lấp phần giữa nhưng hai đầu không được nên gọi là Hói Cụt” [14, tr188]
Vào thời điểm đó, L.P. Cadière đã nhìn thấy phía trước tháp đổ là một tượng
thờ rất đẹp, trên đó có một Yoni được “giữ gìn tốt và dường như nguyên vị”, vòi
quay về hướng Bắc.Yoni có cạnh khoảng 1,2m. Cả bệ thờ và Yoni cao 0,8m. Ở giữa
Yoni có một Linga hình chỏm cầu cao 0,4m [12, tr128].
Năm 1983, một nhóm nghiên cứu của viện Khảo cổ học Việt Nam và khoa
Lịch Sử Đại học Tổng hợp Huế (nay là Đại học Khoa học Huế) tiến hành nghiên
cứu về tháp Trà Liên thì các cồn đất do các ngôi tháp đổ xuống đã bị dân địa
phương đào bới để lấy gạch và đất đắp mồ mả. Bàn thờ “nguyên vị” (in situ) với sự
hiện diện đầy đủ cả bệ, Yoni và Linga mà L.P Cadière cho biết trước đó đã không
còn nữa. Tuy nhiên, do việc đào bới của dân đã phát lộ ra một tấm phù điêu lá nhĩ
và ba khối đá ở trên bề mặt giúp các nhà nghiên cứu đi đến nhận định:
- Khối đá thứ nhất (dài 1,06m, rộng 0,68m) và thứ hai (dài 0,83m, rộng
0,43m), trang trí hoa văn ở cả hai mặt nguyên là của một đài thờ. Khối đá thứ ba
(dài 0,80m, rộng 0,44m) có phù điêu một mặt chưa xác định được vị trí [18, tr129].
- Tấm phù điêu lá nhĩ (đường kính đáy 1,54m, cao 1,22m) trang trí hình

tượng một cỗ xe bảy ngựa với thần Surya - cỗ xe mặt trời là tấm phù điêu gác trên
đầu cửa [22, tr.129].
Từ bệ thờ của tấm phù điêu lá nhĩ cho thấy tháp Trà Liên có cấu trúc ba tầng;
trong đó tầng dưới cao khoảng 3m, toàn bộ tháp cao khoảng 12m [3, tr.130].
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn cho biết thêm ở phía Đông nền tháp còn lại
hai mảng tường chừng 1m, có 10 lớp gạch còn nguyên, xung quanh nền của tháp,
gạch đổ ngổn ngang - loại gạch có kích cỡ 30x 15x15cm, độ nung không cao, có
màu nâu non như vẫn thường thấy ở các kiến trúc tháp Chăm khác [11, tr.130]

19


Trước năm 1990, dấu tích về nền tháp trung tâm với sự tồn tại hai mảng
tường cao chừng 1m có 10 lớp gạch thì sau đó không lâu đã bị xóa dấu vết. Trên
khu vực này chỉ còn lại ba khối đá, các khối đá được trang trí mô típ hình những
vòm cửa giả, bên trong vòm cửa là hình một người đứng chắp tay trước ngực giống
như những tu sĩ Bà la môn; trên các đường gờ nỗi là hoa văn dây leo cuộn hình sâu.
Ở một địa điểm vốn là nơi tọa lạc của một ngôi tháp đã bị đào đến phần móng có
một tấm tympan khác cao 1,20m, rộng đáy 2,10m, dày 0,17m được phát lộ nằm trên
mặt đất. Tấm tympan có hình tượng thần Siva và Uma đang ngồi tọa thiền dưới tán
cây vũ trụ [2, tr.131].
Về niên đại qua phân tích họa tiết điêu khắc ở các khối đá và hai tấm phù
điêu lá nhĩ, các nhà nghiên cứu đi đến kết luận tháp Trà Liên thuộc phong cách
nghệ thuật Đồng Dương (nửa cuối thế kỷ IX).
Khu đền tháp Bích La: Di tích nằm ở xóm chùa, phía Tây làng Bích La
Trung, xã Triệu Đông.
Khu vực này nguyên có tên gọi là Cồn Giàng, tại khu vực này nằm rãi rác ở
nhiều nơi trong vườn của các hộ gia đình, có một số chi tiết mà các nhà nghiên cứu
đã nhìn thấy được qua những lần khảo sát:
- Một bệ thờ vuông bằng đá sa thạch, có cạnh 0,95m, dày 0,28m, bị sứt ba

góc nằm trong sân nhà người dân [26, tr.133]
- Một bệ đá vuông có cạnh 0,94m, dày 0,21m được dựng làm bình phong
trước sân nhà anh Dương Lục [2, tr.134].
- Một Yoni có cạnh vuông 0,80m, dày 0,3m, dài vòi khoảng 0,15m (đã vỡ).
Giữa lòng Yoni đục thủng một lỗ vuông có cạnh 0,26m nhỏ dần xuống dưới. Đây là
điểm để gắn Linga. Bề mặt tiếp xúc giữa Yoni và Linga có cạnh vuông 0,34m, đó
cũng chính là cạnh vuông phía dưới của Linga [8, tr.134]

20


- Hai trụ cửa bằng đá dài 1,1m, cạnh vuông 0,42, hai đầu có chốt mộng tròn
nhô ra được nhặt làm bệ đỡ cho một chiếc cầu nhỏ bắc qua một mương nước. Ngoài
ra còn có nhiều bệ đá, chân cột khác nằm ngập trong đất [12, tr.134].
Đầu thế kỷ XX, khi đưa địa điểm Bích La Trung vào danh mục các di tích
Chàm ở Quảng Trị và Thừa Thiên được đăng tải trên tạp chí B.E.F.E.O (1905), linh
mục L.P. Cadière gọi những di vật mà ông thấy theo cách gọi của dân địa phương
là những “Phật lồi”, “những Bụt Chàm”. Những di vật này gồm một tấm lá nhĩ
(tympan) được chạm trổ hình Siva múa điệu vũ trụ, một số tấm khác đã được đẽo
gọt và một Yoni. Ngoài “đống gạch được hình thành từ một ngôi tháp bị đổ” là một
“khoảng đất được nâng cao hơn, chạy theo suốt chiều dài của tường; người ta thấy
một số địa điểm của những mảnh gạch vỡ. Những cuộc khai quật cho phép xác định
được nguyên bản của tường này, nó dường như kéo dài ra trên một diện tích lớn”
[30, tr.198].
Tiếp sau L.P. Cadière, H. Parmentier đã nhắc lại địa điểm này thông qua sự
nhấn mạnh đến việc mô tả chi tiết về tấm phù điêu lá nhĩ, 2 lintau cửa và Yoni. Ông
còn cho biết thêm về cuộc khai quật tháp Bích La đã được thực hiện bởi Bảo Tàng
Guimet Paris mà theo ông là đã “đào tìm một cách vô nguyên tắc”. Trong cuộc
khai quật này, người ta mang đi một pho tượng trong đó có một pho tượng Uma vốn
đã được người Việt thờ trước đó trong một ngôi miếu “trước sự thất vọng của

người dân địa phương”. H. Parmentier dẫn một đoạn báo cáo của Bảo tàng Guimet
Parmentier dẫn một đoạn báo cáo của Bảo tàng Guimet Paris mô tả về pho tượng
Uma Bích La khi pho tượng đã bị đưa về Pháp như sau:
“Một bức tượng khác, nhỏ hơn, tượng trưng cho nữ thần Uma… khỏa thân
từ cổ xuống hông, bộ ngực căng tròn, hơi thỏng xuống tượng trưng cho tình mẫu tử.
Đầu thần đội một mũ miện (mũ ba vòng) và ở trán có một hình thoi có đánh dấu ở
giữa. Toàn thân mang một chiếc jupe sát người với một nếp gấp ở nịt. Uma đứng
thẳng, đôi chân chéo lại trên một con bò mộng bị đè bẹp phải chống đỡ trên tứ chi
của nó” [21, tr.531].

21


Từ những chỉ dẫn của hai nhà nghiên cứu người Pháp đầu thế kỷ và bằng kết
quả của nhóm nghiên cứu Viện khảo cổ học Việt Nam và Khoa Lịch sử Đại học
Khoa học Huế trong những năm cuối thế kỷ XX, các nhà khoa học cho rằng tháp
Bích La là một công trình kiến trúc đền tháp Chămpa được xây dựng theo mô hình
một khu đền tháp có từ hai ngôi tháp trở lên [8, tr.136].
Ở đây, ngoài nguyên liệu chính là gạch nung còn được sử dụng khá nhiều
các chi tiết kiến trúc bằng đá (như: lintau, trụ cửa, lá nhĩ đặt trên vòm cửa chính…).
Tấm tympan tạc hình tượng Siva vũ điệu tandava phải thuộc về ngôi tháp chính tháp trung tâm và chúng cho thấy rằng đây là một công trình khá đồ sộ, chiếm lĩnh
chiều cao khoảng từ 15 - 20m. Bên trong ngôi tháp chính có thờ một bệ thờ vuông,
nhiều lớp, trên đó đặt một bộ ngẫu tượng sinh thực khí Linga - Yoni có kích cỡ vào
loại trung bình [19, tr.136]
Về niên đại, dựa trên sự thẩm định của các nhà nghiên cứu về tấm phù điêu
lá nhĩ tạc hình Siva múa điệu vũ trụ (tandava) hiện trưng bày tại Bảo tàng Nghệ
thuật Chăm Đà Nẵng thì tháp Bích La có phong cách nghệ thuật Hòa Lai (nửa cuối
thế kỷ VIII).
Khu đền tháp Ngô Xá: Di tích nằm bên bờ bắc sông Vĩnh Định, thuộc xóm
Đồng Bái, làng Ngô Xá Tây, xã Triệu Trung.

Trên một khu đất có diện tích gần 250m2, cao hơn mặt bằng xung quanh gần
1m thấy chi chít loại gạch Chăm; đa số đã vỡ nát, song vẫn còn nhiều nguyên vẹn.
Gạch chủ yếu tập trung theo hai loại: một loại có kích thước 18,5cmx13cmx15cm
và một loại khác kích thước 23cmx18cmx6,5cm [15, tr.151].
Trong khu vực hiện có hai miếu thờ của nhân dân địa phương: một ngôi
miếu thờ bà Hỏa bên trong đề ba chữ Hán: “Cầu tất ứng” và một miếu thờ Thổ thần.
Nằm rãi rác xung quanh miếu có hai phiến đá sa thạch. Một phiến đá hình vuông có
cạnh 84cm, dày 15cm, bề mặt có giật cấp thành hai bậc gờ trên có chiều ngàng 4cm;
phiến thứ hai dày 70cm, rộng 61cm, dày 18,5cm cũng giật cấp thành hai bậc, có

22


điều chỉ tạo bậc ở hai phía, còn hia phía khác có thiết diện mặt cắt phẳng [26,
tr.151].
Cả hai phiến đa này chắc chắn là bệ thờ của một Yoni nào đó, xếp đặt của bệ
sẽ là hia tầng: Bệ dưới là bốn phiến đá ghép lại, còn bệ trên là phiến đá thứ nhất.
Đáng tiếc Yoni (và cả Linga) nay không còn tìm thấy nữa.
Đây là phế tích của một đền tháp Chăm đã bị đổ nát từ lâu. Về sau người
Việt biến khu vực này thành nơi thờ cúng của mình, và họ cũng đã tiến hành đào
bới xung quanh khu vực này, mang đi những di vật vốn có của ngôi tháp để đến nay
tất cả chỉ là một hiện trạng khó có thể xác định được về quy mô, kích thước và niên
đại của ngôi tháp này.
Như vậy, cùng với sự tồn tại nhiều dấu ấn văn hóa Chămpa vùng đất dọc
theo hai bên dãi cồn cát trong, trong đó có ngôi đền tháp Dương Lệ - Trà Liên Bích La - Ngô Xá cho chúng ta thấy đây là một khu vực quần cư đông đúc và có
một bề dày lịch sử của một bộ cư dân Chăm thuộc châu Ô xưa.
1.3. Qúa trình thay đổi địa giới hành chính huyện Triệu Phong qua các thời kỳ
Theo các nguồn thư tịch cổ vùng đất Triệu Phong dưới thời Văn Lang - Âu
Lạc nằm trong bộ Việt Thường, 1 trong 15 bộ của nước Văn Lang. Sách Dư địa chí
của Nguyễn Trãi chép: “Thuận Hóa xưa là bộ Việt Thường Thị, đây là phên dậu thứ

tư về phương Nam” [71, tr.44].
Năm 179 TCN, Triệu Đà xâm lược Âu Lạc. Năm 111TCN, nhà Hán thay thế
họ Triệu xâm lược và cai trị Âu Lạc. Triệu Phong thuộc quận Nhật Nam.
Sau cuộc khởi nghĩa của Khu Liên (192) giành thắng lợi, một tiểu quốc độc
lập mà thư tịch Trung Hoa gọi là Lâm Ấp thành lập, người Chăm gọi nước mình là
Chămpa. Đến thế kỷ IV Vương quốc Chăm pa thống nhất, mở rộng địa bàn ra đến
Hoành Sơn.Vùng đất Triệu Phong lúc ấy thuộc vương quốc Chăm pa cho đến đầu
thế kỷ XIV.

23


×