Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Tính đối thoại trong tiểu thuyết amelie nothomb

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 113 trang )

A. MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tài
1.1. Văn chương góp thêm tiếng nói cho hiện thực cuộc sống muôn màu. Trong bản

chất, “sống tức là tham gia vào đối thoại”[12, tr12] nên văn học cũng không nằm ngoài quy
luật. Đối thoại trong văn học tồn tại không chỉ trên bề mặt con chữ với những lời trao đáp
trực tiếp, đằng sau nó là tiếng vang của vô vàn diễn ngôn. Mỗi diễn ngôn sẽ đứng trên một
lập trường tư tưởng riêng và tham gia vào cuộc đối thoại. Khi nghiên cứu bản chất đa thanh,
phức điệu của tiểu thuyết, Mikhail Bakhtin đã xem tính đối thoại trở thành lí thuyết trọng
tâm. Đối thoại trở thành thuộc tính tất yếu, quan trọng nhất và dẫn đến tiến trình phá vỡ tính
chất đông cứng, đại tự sự vốn có của thể loại này. Với văn chương hậu hiện đại, vấn đề trên
càng được thể hiện rõ. Trong tác phẩm, thế giới nhân vật mang những luồng tư tưởng khác
nhau, trạng huống khác nhau cùng những âm hưởng ngang hàng với lời tác giả và có sức
tương tác đến độc giả. Các tiếng nói bình đẳng mang vẹn toàn giá trị. Điều này dẫn đến hệ
quả, đối thoại trở thành tính chất đặc thù, độc đáo trong rất nhiều tiểu thuyết hiện đại, hậu
hiện đại. Tiểu thuyết Amélie Nothomb là một hiện tượng như thế.
1.2. Tác giả Amélie Nothomb là một trong những đại diện tiêu biểu cho những cây
bút trẻ viết bằng tiếng Pháp. Amélie Nothomb sinh ngày 13 tháng 8 năm 1967, là con gái
của một nhà ngoại giao Bỉ nhưng sinh tại Kobe Nhật Bản. Thuở nhỏ, cô từng sống qua nhiều
quốc gia như Trung Quốc, Mỹ, Bangladesh, Burma và Lào. Chính những sự kiện này đã
mang lại cho nhà văn những trải nghiệm độc đáo, thú vị về văn hóa mà không phải ai cũng
có được. Nó trở thành chất liệu cuộc sống cho những thiên tiểu thuyết. Khi trở về nước,
Amélie Nothomb đã phải “sững sờ và run rẩy” vì phải đối diện với tình trạng lạc lõng, sự
thất vọng khi bị chối bỏ và những thứ tình cảm hoàn toàn mới lạ. Bước đường với nhiều trải
nghiệm ban đầu mang lại cho nhà văn một vốn sống đủ đầy và chất men đời trên từng trang
viết.
Năm 17 tuổi khi đọc : Letter to a young Poet- thư viết cho những nhà thơ trẻ - Amélie
Nothomb đã nhận ra rằng trở ngại trên con đường đến với văn chương của cô không phải là
“Tôi có đủ khả năng viết văn không” mà là “Tôi có thể sống mà không viết không? Đó là


vấn đề duy nhất”. Bắt đầu viết lách từ giai đoạn này, cho đến ngoài ba mươi vẫn thấy mình
còn “mang bệnh viết”, Amélie Nothomb đã viết cả thảy hàng chục cuốn tiểu thuyết nhưng
1


không chịu xuất bản. Cuối cùng vào năm 1992, khi vừa 25 tuổi, cô gây sững sốt văn đàn với
tác phẩm Hồi ức kẻ sát nhân. Và liên tục cho đến nay, mỗi năm cô cho ra mắt một tác phẩm.
Trong đó, phải kể đến Phá ngầm tình tứ (1993) với giải thưởng Vocation và Chardonne;
Sững sờ và run rẩy (1999) với giải thưởng lớn của viện Hàn lâm Văn học Pháp; Không
Adam cũng chẳng Eva (2007) với giải thưởng Flore dành cho tác giả trẻ triển vọng.
Sau Hồi ức kẻ sát nhân (Hygine del’ Assasin) – tác phẩm đầu tay đem đến cho tác giả
những danh tiếng đầu tiên - hàng loạt cuốn tiểu thuyết thành công khác đã biến nhà văn trở
thành “Thần tượng của giới trẻ”. Tiểu thuyết Amélie Nothomb mang lại những cảm nhận lạ
lẫm từ chất giọng hài hước, tưng tửng, tinh tế, sâu sắc. Tác giả tái tạo những trải nghiệm thú
vị từ những tình huống khác nhau trong cuộc sống. Đôi lúc, đó là sự tưởng tượng kì lạ của
một bộ óc kì dị, siêu phàm, là kinh nghiệm của riêng nhà văn nhưng qua đó đông đảo bạn
đọc có thể đến cùng thấu hiểu, chia sẻ. Với một lối viết độc đáo, sảng khoái, đáng yêu,
Amélie Nothomb đã thực sự tạo nên một phong cách, một hiện tượng văn học đáng nghiên
cứu.
Sự thành công của Amélie Nothomb đánh dấu bằng chính những biểu hiện trên thị
trường sách. Hàng nghìn đầu sách được xuất bản mỗi năm đã khẳng định tên tuổi của tác
giả. Cô nhận được hàng tá thư của độc giả và thường xuyên bị “đeo bám” khi xuất hiện trên
đường phố. Tiểu thuyết của cô được dịch ra hơn 40 thứ tiếng, sánh ngang với những tiểu
thuyết ăn khách của Marc Lervy hay Anna Gavalda. Những điều trên chứng tỏ sức ảnh
hưởng ghê gớm của Amélie đối với công chúng. Đơn giản bởi đó là những trang viết gần
gũi, dung dị, đời thường như cuộc sống vốn tự thân như thế. Bằng một chất giọng hài hước,
giễu nhại đặc trưng, Amélie Nothomb đã đặt ra hàng loạt các vấn đề có tính chất xã hội mà
đặt biệt mà sự giao thoa và khác biệt của hai nền văn hóa Đông -Tây. Tìm hiểu đề tài “Tính
đối thoại trong tiểu thuyết của Amélie Nothomb”, người viết muốn vận dụng lí thuyết
tính đối thoại theo quan niệm của Mikhail Bakhtin để làm rõ bản chất đa thanh, phức điệu

của tiểu thuyết Amélie Nothomb. Điều này sẽ góp phần minh chứng bản chất của tiểu thuyết
và khẳng định cá tính sáng tạo của nhà văn đối với kĩ thuật viết trong thế giới văn chương
hậu hiện đại.
2.

Lịch sử vấn đề

2


Những tư liệu liên quan đến đề tài trong giới hạn bao quát được, người viết tạm
phân thành 2 loại sau đây:
2.1. Tình hình nghiên cứu lí thuyết tính đối thoại và vận dụng tính đối thoại
trong nghiên cứu văn học
2.1.1. Các công trình nghiên cứu lí thuyết tính đối thoại
Giáo trình ngôn ngữ học đại cương (2005) của F.de.Sausure là một trong số các công
trình khơi gợi và gián tiếp nghiên cứu về tính đối thoại. M.Bakhtin và “nhóm Bakhtin” đã
tìm ra sức mạnh của ngôn từ trong quá trình giao tiếp khi tiếp nhận lí thuyết ngôn ngữ của
Saussure. Một luận điểm quan trọng của Saussure là coi ngôn ngữ về cơ bản như một công
cụ giao tiếp xã hội, chứ không phải là biểu hiện của một cấu trúc tư duy tồn tại độc lập với
mọi hình thức của nó. Đối tượng chủ yếu của ngôn ngữ học là ngôn ngữ. Nó chỉ là dấu hiệu
đối với một chủ thể riêng biệt – cộng đồng của những con người hiểu và dùng nó; là một thể
thống nhất, tách riêng với hoàn cảnh xã hội cụ thể và mỗi phát ngôn được đưa ra với một ý
nghĩa xác định, người nghe chỉ có thể tiếp nhận thụ động mà thôi.
Phê phán chủ nghĩa cấu trúc trong ngôn ngữ học, trong những công trình nghiên cứu
trực tiếp về tính đối thoại như: M.Bakhtin - Lí luận và thi pháp tiểu thuyết do Phạm Vĩnh Cư
dịch, công trình Những vấn đề thư pháp của Dostoievsky do Trần Đình Sử dịch, Bakhtin đã
chỉ ra sức mạnh của ngôn ngữ là ở khả năng tạo ra lời nói gắn với cá nhân và bản chất của
ngôn ngữ là đối thoại gắn với chính hoàn cảnh xã hội cụ thể của nó. Ở hai công trình này,
Bakhtin khẳng định tính đối thoại nội tại của lời nói. Luận điểm của Bakhtin về bản chất đối

thoại của diễn ngôn (lời nói) là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các công trình nghiên cứu của
ông, đối thoại là bản chất của diễn ngôn. Bakhtin đặt ngôn ngữ trong những trạng huống xã
hội cụ thể khi nghiên cứu tính tương tác của chúng và khẳng định tính đối thoại của diễn
ngôn. Tiền đề lý luận của Bakhtin: lời nói của con người mang tính đối thoại, đối thoại là
bản chất của ngôn từ và tư duy con người. Bakhtin mở đầu bằng việc phê phán hai xu hướng
chính trong nghiên cứu ngôn ngữ: Xu hướng Chủ quan cá nhân, coi ngôn ngữ như là sản
phẩm của tâm sinh lý người nói, và xu hướng Khách quan trừu tượng (bao gồm lý thuyết
của Ferdinand de Saussure) coi hệ thống ngôn ngữ như là hệ thống các hình thức ngữ âm,
ngữ pháp, từ vựng, tất chỉ vin vào mặt hình thức. Ông khảo cứu trong tuyết thuyết của
Dostoievsky và nhận ra tính đa thanh, phức điệu của nó. Bakhtin cho rằng: “Tính nhiều tiếng
3


nói và nhiều ý thức độc lập không hòa đồng với nhau, tính phức điệu thực thụ của những
tiếng nói có đầy đủ giá trị quả là đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết Dostoievsky”. [13, tr261].
Trong Chủ nghĩa Freud: một phác phảo phê phán (Freudianism: A Critical Sketch,
1927), Voloshinov và Bakhtin, khẳng định lần nữa tính tương tác xã hội của ngôn ngữ: “Mỗi
phát ngôn là một sản phẩm của sự tương tác giữa những người đối thoại và sản phẩm của
một bối cảnh rộng lớn hơn của toàn bộ tình huống xã hội phức hợp trong đó phát ngôn xuất
hiện” [77]. Đến Phương pháp Hình thức trong Nghiên cứu Văn học (1928), các tác giả đã
soi chiếu cách nhìn này trong quá trình nghiên cứu văn học. Trong công trình này,
Medvedev và Bakhtin đã chỉ ra sự “ngây thơ” trong quan niệm coi ngôn ngữ thơ và ngôn
ngữ đời thường là đối lập của các nhà Hình thức chủ nghĩa. Theo đó, quan niệm của các nhà
Hình thức chủ nghĩa về “ngôn ngữ giao tiếp” chung cho mọi người là căn cứ hình thành khái
niệm ngôn ngữ văn học, và ngôn ngữ thơ nói riêng, không hề tồn tại. Bakhtin và nhóm
Bakhtin đã gắn ngôn ngữ trong mối liên hệ tới một bối cảnh cụ thể để nhận ra sự hành chất
và bản chất đối thoại của chính nó. Mọi ngôn từ vốn có bản chất xã hội, thông qua quá trình
tương tác, va đập ở quá trình sinh tồn nó sẽ phát huy khả năng đối thoại. Đến năm 1929,
Nikolaevich Voloshinov cho xuất bản cuốn “Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ”. Tác
phẩm nhấn mạnh đến tầm quan trọng của triết học học ngôn ngữ đối với chủ nghĩa Marx,

biện giải những con đường của triết học ngôn ngữ Marxist, trong đó chú trọng đặc biệt đến
tính “tương tác lời nói” và đưa ra qua điểm về tiến trình lịch sử hình thức phát ngôn trong
các cấu trúc ngôn ngữ. Theo đó, “Trong đối thoại, những lời đối đáp không liên hệ về mặt
ngữ pháp và không được tích hợp vào một bối cảnh duy nhất. Bởi lẽ không có các hình thức
cú pháp để tạo nên tính thống nhất của cuộc đối thoại” [3, tr175]. Mỗi chương của cuốn sách
đều chứa đựng những phát kiến, lý giải, nhận định sâu sắc, mới mẻ và thậm chí mang tính
cách mạng. Đến nay, công trình được xem là một trong những thành tựu quan trọng của triết
học ngôn ngữ nói riêng, của tư tưởng nhân loại nói chung.
M.Bakhtin trong Vấn đề thể loại lời nói (1952-1953) đã cho rằng không nên coi
thường sự khác biệt sâu sắc giữa các thể loại lời nói và cùng với nó là những khó khăn trong
việc xác định bản chất chung của phát ngôn. Dựa vào chất liệu của đối thoại và những lời
đối đáp, cần đề cập sơ bộ tới vấn đề câu như một đơn vị ngôn ngữ trong sự khác biệt với
phát ngôn như một đơn vị giao tiếp lời nói [77]. Với một từ trong phát ngôn mà chúng ta
4


đang trong quá trình hiểu, chúng ta kiệt kê ra một tập hợp các từ đối ứng với mình. Ý nghĩa
không nằm trong từ, không nằm trong ý thức người nói hay người nghe mà được sinh ra từ
sự tương tác giữa người nói và người nghe trên chất liệu của một phức hợp âm thanh nhất
định.
Năm 1981, Tzvetan Todorov đã tổng hợp những quan niệm của nhóm Bakhtin trong
công trình Mikhail Bakhtin – nguyên lí đối thoại (được giới thiệu qua bản dịch của Đào
Ngọc Chương, Nxb Đại học Quốc gia, TP Hồ Chí Minh, 2004). Tác giả đã chỉ ra “điểm đặc
biệt nhất của phát ngôn, hoặc ít nhất là đặc điểm thường bị xao lãng nhất, là tính đối thoại
của nó, nghĩa là chiều kích liên văn bản của nó” [75, tr14]. Dù cố ý hay vô tình thì mọi phát
ngôn đều được sinh thành và tồn tại trong mối quan hệ với những lời đã có trước cũng như
những diễn ngôn sẽ đến sau. Các chất giọng đơn lẻ có khả năng hòa phối vào bản đàn muôn
điệu của rất nhiều chất giọng khác. Tất cả như vang lên, đối thoại cùng nhau. Điều này khi
nhìn vào văn chương ta càng thấy rõ, nhất là ở thể loại tiểu thuyết. Nó tạo nên tính chất đa
thanh của thể loại này.

Như vậy, chúng ta có thể hiểu đối thoại ở các cấp độ khác nhau. Ở cấp độ thứ nhất,
đối thoại là các lời nói của nhân vật mang những đặc điểm và tư tưởng, tính cách tham gia
vào câu chuyện. Thứ hai, đối thoại là các dòng tư tưởng, các diễn ngôn mang ý thức hệ của
cả một cộng đồng, một “vô thức chung” cùng nhau tranh biện, bàn cãi, không có hồi kết. Ở
đó, con người bị ý thức hệ tập thể xâm chiếm, con người thuộc ý thức hệ hướng đến sự
thống nhất biện chứng. Và đối thoại còn là sự xâm lấn của các kiểu dạng có tính liên văn bản
khiến văn bản trở nên trơn trượt, không có hồi kết.
2.1.2. Vận dụng tính đối thoại trong nghiên cứu văn học
Lí thuyết về tính đối thoại của Bakhtin từ khi ra đời đã trở thành một hiệu ứng nghiên
cứu văn học. Không ít tác giả đã vận dụng quan điểm này để soi chiếu vào việc khảo sát
những hiện tượng văn chương cụ thể. Điều này có tác dụng tích cực trên hành trình đào sâu
và cắt nghĩa những tầng biểu đạt của văn chương.
Trong Luận án tiến sĩ Liên văn bản trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, tác giả
Nguyễn Văn Thuấn đã chỉ ra lí thuyết Liên văn bản từ Bakhtin đến Chủ nghĩa giải cấu trúc,
trong đó tính đối thoại nằm trong cấu trúc nội tại của mọi lời nói. Đến Tính đối thoại/ tính
liên văn bản trong tư tưởng của Mikhail Bakhtin, in trên Tạp chí nghiên cứu văn học số 3,
5


2013, tác giả nhấn mạnh bản chất đối thoại của diễn ngôn trong mối quan hệ với lí thuyết
liên văn bản và chỉ ra sự khác biệt giữa chúng trong tư tưởng của M. Bakhtin và các nhà giải
cấu trúc như J. Kristeva, R.Barthes.
Tác giả Lê Thị Thúy Hằng, trong bài viết Tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1986 - nhìn
từ lí thuyết đối thoại, in trên Tạp chí Khoa học và Công Nghệ, trường Đại học Khoa học Huế
(tập 1, số 2) đã phân tích những biểu hiện của tính đối thoại trong tiểu thuyết của Nguyễn
Việt Hà trên những nội dung: Đối thoại hiện tại và nhận thức lại giá trị truyền thống, đối
thoại về đức tin và tôn giáo và đối thoại trong diễn ngôn nghệ thuật. Đó là cuộc đối thoại bắt
nguồn từ ý thức hệ, từ cấp độ tư tưởng trong sự va đập văn chương với đời sống.
Luận văn Thạc sĩ Tính đối thoại trong phóng sự Việt Nam từ 1986 đến 2006 (2008)
của tác giả Ngô Thị Diễm Châu đã làm rõ vấn đề đối thoại trong thể loại phóng sự. Đi từ

việc làm rõ vấn đề đối thoại trong ngôn ngữ giao tiếp hằng ngày đến tính đối thoại trong văn
chương, luận văn đã phân tích và làm rõ những đặc trưng về tính đối thoại của thể loại
phóng sự Việt Nam từ 1986 đến 2006. Công trình đặc biệt chú ý đến những vấn đề đối thoại
trong tư tưởng của thể loại phóng sự biểu hiện ngay ở đề tài, cảm hứng, chủ đề và các hình
thức biểu hiện như: kết cấu, điểm nhìn, giọng điệu, ngôn ngữ; từ đó, đi đến khẳng định
“Tính đối thoại như cách tiếp cận hiện thực cuộc sống” [19].
Thiên về phân tích các hình thức đối thoại, tác giả Trần Đình Nhân trong bài viết Vấn
đề đối thoại trong tiểu thuyết “Những kẻ thiện tâm” của Jonathan Littell (Tạp chí Khoa học,
số 1, 2013) đã chứng minh bản chất của đối thoại mang tính liên văn bản. Trong một văn
bản, tính đối thoại có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau: đối thoại của các nhân vật,
đối thoại trong độc thoại, đối thoại với người nghe chuyện. Và tất cả chúng đều nằm trong
tính hệ thống với lí thuyết liên văn bản để làm sáng tỏ những vấn đề văn hóa, lịch sử đặt ra
trong tác phẩm.
Qua các tác phẩm của Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Xuân Khánh, Hồ Anh
Thái, Cao Duy Sơn, Thuận, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn
Huy Thiệp…, bài viết Liên văn bản và vấn đề đối thoại tư tưởng trong văn xuôi đương đại
Việt Nam của Ths. Phùng Phương Nga đã nâng cao vai trò của người đọc trong quá trình
kiến tạo nghĩa trên bản chất của tính đối thoại. Theo tác giả: “Mọi văn bản sẽ là liên văn bản,
ở đó có vô số những mảnh vụn của các mã ngôn ngữ khác và trước đó. Tuy nhiên mỗi văn
6


bản mới ngoài sự hấp thụ còn là sự chuyển thể; mỗi quy ước, mỗi khuôn mẫu, mỗi hình thức
diễn ngôn vốn từng phổ biến cần đặt lại trong tính đối thoại, tương tác”[55].
TS. Phạm Thị Ngân Hoa trong bài viết Các nhân tố biểu đạt tính đối thoại nội tại của
diễn ngôn truyện kể đã phân tích những biểu hiện về tính đối thoại theo quan điểm của M.
Bakhtin trong “tính đối thoại nội tại” (dialogism) của lời nói nghệ thuật. Theo tác giả, tính
đối thoại nội tại của diễn ngôn truyện kể có thể chi phối và biểu đạt hình thức tổ chức của
mọi phạm trù của lời nói trong tác phẩm: lời người kể chuyện và lời nhân vật; mọi dạng cấu
trúc lời nói: đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm; mọi hình thức lời nói: trực tiếp, gián tiếp,

nửa trực tiếp. Tính đối thoại nội tại của diễn ngôn truyện kể cần được tìm hiểu trên những
phương diện sau: đề tài, chủ đề, nhân vật giao tiếp, môi trường văn hóa, văn học, sự lựa
chọn ngôn từ trong tổ chức lời nói. Nhà văn thực sự là chủ thể của mọi diễn ngôn, thực hiện
cuộc đối thoại đa chiều với thời đại. Vấn đề này được thể hiện rõ qua cách chọn đề tài, chủ
đề được nói đến, quan hệ liên văn bản (intertextuality) hay là tương tác giữa các diễn ngôn
trong môi trường ngôn ngữ văn hoá, văn học và cả hình tượng người kể chuyện, vai kể, điểm
nhìn, giọng điệu. Tác giả đã vận dụng quan điểm trên để tìm hiểu một số tác phẩm của
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng để làm rõ tính đối
thoại.
Ngoài ra còn nhiều luận văn, khóa luận, tiểu luận, bài viết vận dụng lí thuyết tính đối
thoại trong nghiên cứu văn chương như: Đối thoại hóa trong tiểu thuyết Anh em nhà
Karamazov của Đôxtôiépxki (2002) của Thái Thị Thìn, Liên văn bản thể loại và tính đối
thoại trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986 (2012) của Nguyễn Văn Hùng, Tính đối
thoại trong tiểu thuyết “Bay trên tổ chim cúc cu” (2015) của Lê Thị Trà My hay Tính đối
thọa trong tiểu thuyết “Cám dỗ cuối cùng của chúa” và “Tự do hay là chết” của Nikos
Kazantzakis (2016) của Trương Thị Vân Anh…
Từ thực tiễn nghiên cứu có thể nhận ra tầm quan trong của M. Bakhtin trong việc xây
dựng và hình thành một cơ sở lí thuyết có tính chất nền tảng và đổi mới trong việc tiếp cận
thế giới nghệ thuật ngôn từ. Với góc nhìn đối thoại, hàng loạt các vấn đề được quan tâm
được bày ra và đưa vào lập trường trao đổi, bàn luân. Xã hội con người chỉ có thể tiến đến tự
do, bình đẳng khi mỗi phát ngôn được trao quyền lên tiếng, được đưa vào lập trường đối
thoại rộng lớn và văn chương là một ví dụ cụ thể.
7


2.2. Tình hình nghiên cứu sáng tác Amélie Nothomb
Nhà văn Amélie Nothomb được xem là một hiện tượng mới nổi trong những năm
cuối thập kỉ XX và đầu thế kỉ XXI. Amélie Nothomb viết chậm nhưng chắc tay. Tiểu thuyết
của cô được đông đảo độc giả trên toàn thế giới đón đọc bởi những câu chuyện nhẹ nhàng,
giản dị mà tinh tế, sâu sắc. Tuy vậy, ở Việt Nam, đọc giả còn ít biết đến tài năng này. Những

công trình nghiên cứu về Amélie Nothomb trong nước chưa nhiều. Phần lớn chỉ là những
ghi nhận, đánh giá trên những trang tạp chí, phê bình, giới thiệu sách. Hy vọng, bằng sự
kiểm nghiệm của thời gian và tài năng của một ngòi bút duyên dáng, những tác phẩm của cô
sẽ sống mãi cùng thế giới bạn đọc.
Bài phỏng vấn Amélie Nothomb - khó nhất là viết về tình yêu ( nguồn Evan.net do Hà
Linh cung cấp) đã đưa đến những thông tin thú vị về quan niệm văn chương, sở thích, thói
quen sinh hoạt cũng như những suy nghĩ về cuộc sống của nữ văn sĩ. Theo như tác giả tâm
sự thì tình cảm nam nữ là “một dạng cảm xúc mãnh liệt của con người” và “khi viết các tác
giả thường trở nên lố bịch”. Với Amélie Nothomb, “khó nhất là khi viết về tình yêu”.
Bài

viết

Amélie

Nothomb

-

nhà

văn

ăn

khách



lập


dị

(nguồn

do Thanh Huyền lược dịch từ tác giả Christina Patterson) đã tóm
tắt những nét chính về cuộc đời cũng như những quan niệm về văn chương nghệ thuật trên
con đường viết văn của Amélie. Trên trang báo tiếng Anh www.telegraph.co.uk/ culture
trong bài viết “A life of Amélie Nothomb writer” tác giả Jasper Rees đã cũng đã tóm lược về
tiểu sử và đưa ra nhận định: Amélie thực sự là “một bí ẩn với chính mình”, là nhà văn với
“những suy nghĩ kì quặc và những trải nghiệm có một không hai”.
Công trình Trần thuật trong Sững sờ và run rẩy của Amélie Nothomb (2012) của tác
giả Ngô Thị Thủy (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn- Đại học Quốc gia Hà Nội) đã soi
chiếu lí thuyết trần thuật học khi phân tích tác phẩm của Amélie Nothomb trên các bình
diện: người kể chuyện, giọng điệu, không gian văn hóa. Luận văn cung cấp cái nhìn về mới
về cuộc xung đột văn hóa Đông –Tây đặt ra trong Sững sờ và run rẩy.
Trang đưa nhận xét về Sững sờ và run rẩy: “Lôi kéo niềm say
mê của độc giả bằng văn phong lãng mạn, độc đáo đi kèm chất hài hước tinh tế, Sững sờ và
run rẩy cũng là nơi Amélie Nothomb bóc tách những khác biệt giữa hai nền văn hoá Đông –
Tây trong một bút pháp sở trường”. Sự cách tân, sáng tạo và lối thể hiện một vấn đề không
8


mới (sự khác biệt về văn hóa của hai bán cầu) bẳng một chất giọng đặc trưng đã thực sự đem
lại thành công to lớn cho tác phẩm này.
Đặng Thiều Quang với bài viết Hồi ức kẻ sát nhân- một tuyên ngôn kinh ngạc (nguồn
Vietnam.net ) đã đưa ra nhận định: Hồi ức kẻ sát nhân với “Vô số ẩn dụ thú vị trong một
cuốn sách mỏng, dễ đọc, hấp dẫn, đây rõ ràng là một tuyên ngôn văn chương quan trọng của
Amélie Nothomb. Có lẽ, nó sẽ thỏa mãn nhiều độc giả khó tính cũng như người tìm kiếm
một cuốn sách để giải trí”. Và tác phẩm thực sự là “một ẩn dụ lớn”, ẩn chức đằng sâu đó là

những suy nghiệm sâu sắc.
Nhìn chung các bài viết mới nhìn nhận sơ lược trên bề mặt tác phẩm mà chưa thật sự
đào sâu, khám phá tác phẩm ở bình diện tính đối thoại của tiểu thuyết. Với việc nghiên cứu
đề tài này, người viết muốn tìm hiểu về những biểu hiện tính đối thoại như là một đặc trưng
của thể loại tiểu thuyết, nhất là trong sáng tác của Amélie Nothomb-một hiện tượng văn học
đặc biệt, xuất hiện sự va chạm hai luồng tư tưởng văn hóa Đông - Tây; từ đó, góp phần
khẳng định đóng góp và vai trò của nữ văn sĩ trên bình diện phương thức viết tiểu thuyết hậu
hiện đại.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số tác phẩm của Amélie Nothomb được xuất
bản và giới thiệu ở Việt Nam như: Hồi ức kẻ sát nhân, Sững sờ và run rẩy, Vòng tay
Samurai, Nhật kí chim én, Axít Sunfuric, Hủy hoại vì yêu, Kẻ hai mặt.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Tính đối thoại trong tiểu thuyết của Amélie
Nothomb, tập trung làm rõ các phương diện đối thoại bằng hình thức trần thuật, đối thoại
qua các lớp diễn ngôn kể chuyện và đối thoại đa thanh từ những biểu hiện liên văn bản để
làm nổi rõ những vấn đề được đặt ra trong tác phẩm và sự đóng góp của tác giả Amélie
Nothomb trên bình diện tiểu thuyết.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình triển khai luận văn, người viết sử dụng một số phương pháp chủ yếu
sau:

9


4.1. Cấu trúc, hệ thống: Xem các yếu tố trong tác phẩm có quan hệ, ảnh hưởng lẫn
nhau như một cấu trúc mang tính chỉnh thể của vấn đề nghiên cứu.
4.2. So sánh đối chiếu: So sánh các tác phẩm của cùng tác giả Amélie Nothomb và
những tác phẩm có nội dung liên quan, so sánh các thể loại tiểu thuyết với một số thể loại

khác trên cở những biểu hiện liên văn bản.
4.3. Phương pháp liên ngành: Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi kết hợp sử
dụng, vận dụng lí thuyết của khoa học liên ngành như lí thuyết về ngôn ngữ học, xã hội học,
văn hóa học, sử học, thể loại bào chí, truyền hình… để nghiên cứu các biểu hiện tính đối
thoại trong tác phẩm.
4.4. Ngoài ra luận văn cũng vận dụng lí thuyết tự sự và thi pháp học để làm rõ đối
tượng cần nghiên cứu.
5. Đóng góp của luận văn
Thứ nhất, luận văn là sự nỗ lực hệ thống lại những tri thức lí thuyết đối thoại ở các
cấp độ khác nhau trong lí thuyết về tính đối thoại theo quan niệm chủ yếu của M. Bakhtin.
Đối thoại trong tư tưởng văn hóa, quan niệm, trong mối liên nhân với những biểu hiện liên
văn bản đóng vai trò bổ trợ quan trọng và hữu ích cho việc phân tích đặc trưng nguyên lí đối
thoại trong tiểu thuyết Amélie Nothomb. Từ đó, chứng minh tính đối thoại chính là bản chất,
nguyên lí phổ quát trong thể loại không hoàn kết - tiểu thuyết.
Thứ hai, luận văn tìm hiểu những đặc trưng lí thuyết đối thoại trong một số tiểu
thuyết được xuất bản và giới thiệu của Amélie Nothomb. Trên cơ sở đó, chúng tôi đã chỉ ra
những góp sức của tác giả đối với nền tiểu thuyết phương Tây đương đại và lí giải một hiện
tượng văn học đang được độc giả thế giới quan tâm và đón đợi.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần Nội dung chính
được triển khai thành 3 chương:
Chương 1. Tiểu thuyết Amélie Nothomb và vấn đề đối thoại qua các lớp diễn ngôn.
Chương 2. Tính đối thoại trong diễn ngôn trần thuật của tiểu thuyết Amélie
Nothomb.
Chương 3. Đối thoại đa thanh trong tiểu thuyết Amélie Nothomb từ những biểu hiện
liên văn bản.
10


B. NỘI DUNG

Chương 1. TIỂU THUYẾT AMÉLIE NOTHOMB VÀ VẤN ĐỀ ĐỐI THOẠI
QUA CÁC LỚP DIỄN NGÔN
1.1. Một số vấn đề lí thuyết về tính đối thoại
1.1.1. Mikhail Bakhtin và tính đối thoại trong tiểu thuyết
Mikhail Bakhtin (1895-1975) là một trong những tên tuổi nổi bật của thế kỉ XX trên
lĩnh vực triết học, lí luận, nghiên cứu văn hóa, mỹ học, văn học. Tư tưởng của ông thu hút sự
quan tâm, mến mộ của giới nghiên cứu khoa học, công chúng tri thức ở Liên Xô và trên toàn
thế giới. Những công trình của M.Bakhtin đã công bố như: Vấn đề nội dung, chất liệu và
hình thức trong sáng tạo nghệ thuật ngôn từ ( 1924), Những vấn đề thi pháp của
Dostoievsky (1929, 1963, 1967, 1979), Sáng tác của Phrăngxoa Rabơle và văn hóa dân gian
thời Trung đại và Phục hưng (1965), Những vấn đề văn học và mĩ học 1975), Mĩ học sáng
tác ngôn từ (1979), Những bài báo phê bình văn học (1986)…là những minh chứng cho quá
trình miệt mài tìm tòi và sáng tạo của tác giả. Nét độc đáo của Bakhtin là sự kết hợp nhuần
nhụy giữa tư duy khoa học biện chứng với phong cách truyền thống văn hóa nhân văn cổ
điển được thể hiện với những lập trường tư tưởng vững vàng và thuyết phục.
Một trong những công lao lớn của Bakhtin là đã nâng lí thuyết thể loại lên một vị trí
quan trọng chưa từng thấy. Lịch sử văn văn học, theo Bakhtin là lịch sử hình thành và tương
tác lẫn nhau giữa các thể loại. Trong các thể loại văn học, Bakhtin chú ý nhiều đến thể loại
tiểu thuyết và xem đó như là thể loại “chúa tể”, là “Sản phẩm tinh thần tiêu biểu nhất cho
thời đại mới của lịch sử loài người, là thành quả rực rỡ, có giá trị như một bước nhảy vọt
thực sự vĩ đại của hàng ngàn năm văn chương thế giới” [12, tr8]. Tiểu thuyết là thể loại có
khả năng tiếp xúc tối đa với thì hiện tại “không hoàn kết” của nó, luôn luôn vận động và
biến chuyển không ngừng. Sự vận động của thể loại này không chỉ được thể hiện qua hình
thức thể hiện mà còn ở sự va chạm của các luồng tư tưởng không bao giờ đông cứng. Nhà
tiểu thuyết thiên về tất cả những gì chưa xong xuôi, anh ta có thể xuất hiện trong văn bản tác
phẩm với bất cứ một tư cách nào, có thể tái hiện những mảng hiện thực có trong chính cuộc
đời mình hoặc bằng trí tưởng tượng, sáng tạo ra những bức chân dung sống động về cuộc
sống. Tác giả có thể can thiệp vào cuộc trò chuyện của các nhân vật, đưa ra những lời bàn

11



luận, đánh giá về thế giới truyện kể hoặc chọn cách im lặng, dửng dưng trước những gì được
kể và để lại những khoảng trống, khoảng trắng dành cho độc giả chiêm nghiệm.
Bằng tư duy và sự sáng tạo của một nhà khoa học, ông đã đem đến cho nhân loại một
cách nhìn mới về thể loại tiểu thuyết trong đó có tính phức điệu. Bakhtin là người có công
phát hiện ra tính chất đa thanh hay tính nhiều giọng nói trong tiểu thuyết. Đối thoại hiển
nhiên là đề tài trung tâm trong suy ngẫm của Bakhtin. Thông qua vấn đề này, người ta nhận
ra mối liên hệ tư tưởng giữa Bakhtin với các bậc thầy triết học của ông, bao gồm những tín
đồ của chủ nghĩa Kant mới thuộc trường phái Marburg, trước hết là Hecman Cohen, và ở
một bình diện khác là Martin Buber. Đối với Bakhtin, nguyên tắc đối thoại là nguyên tắc cấu
thành mọi ngôn ngữ và là bản chất của đời sống xã hội. Đối thoại là bản chất của tiểu thuyết.
Tác giả khằng định: Tiểu thuyết đa thanh là tiểu thuyết mang tính đối thoại, trong đó, mọi
phát ngôn đều được xem như là bộ phận của một cuộc đối thoại.
Từ năm 1924, với công trình Vấn đề nội dung, chất liệu và hình thức trong sáng tạo
nghệ thuật ngôn từ, Bakhtin đã phê phán một cách có hệ thống và phát triển về tư tưởng của
Saussure. Tác giả khẳng định: Một phát ngôn cụ thể bao giờ cũng hiện diện trong một ngữ
cảnh văn hóa xác định, không phát ngôn nào có thể bị coi là độc quyền của người phát ngôn,
nó là sản phẩm tương tác giữa những người tham dự cùng tham gia vào cuộc đối thoại với
những lập trường tư tưởng khác nhau. Như vậy, mọi phát ngôn luôn gắn với lập trường tư
tưởng nhất định mà ở đó nó sản sinh ra những ý nghĩa khác nhau. Đó là một hệ hình diễn
ngôn không khách quan, trung tính và mọi lời văn “dường như sống giữa văn cảnh của mình
với văn cảnh của người”. Những phát ngôn đời sống đi vào tiểu thuyết hình thành nên những
hệ hình diễn ngôn sinh động, tạo ra những khu vực tiếp xúc đối thoại đặc biệt. Tác giả không
chỉ đứng bên ngoài mà còn ở ngay bên trong nó, nhân vật nằm trong khu vực đàm thoại với
tác giả, độc giả tồn tại trong hệ hình văn bản luôn vận động và biến chuyển.
Trong công trình Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Bakhtin chỉ rõ: “Tiểu thuyết- đó là
những tiếng nói xã hội khác nhau, đôi khi là những ngôn ngữ xã hội khác nhau và những
tiếng nói cá nhân khác nhau được tổ chức lại một cách nghệ thuật”[12, tr129]. Theo ông,
mọi phát ngôn đều là sự hồi đáp lại đối với phát ngôn đã có trước đó, nó không bao giờ xuất

hiện độc lập một mình mà là kết quả sáng tạo của những phát ngôn có sẵn và kêu gọi sự đối
thoại của những phát ngôn sau nó: “Lời nói trên đường đến với đối tượng của mình tất yếu
12


rơi vào môi trường đối thoại luôn luôn cuộn sóng và căng thẳng của những tiếng nói, những
sự đánh giá, những giọng điệu của người khác” [12, tr104]. Đây là cơ sở lí thuyết cho một
khái miệm liên quan mật thiết đến tính đối thoại là “diễn ngôn hai giọng”. Trong tiểu thuyết
phức điệu, các tiếng nói tham gia vào nó và luôn ở lập trường đối thoại với nhau, nhân vật
luôn nằm trong khu vực có thể đàm thoại với tác giả, tác giả ở trong quan hệ đối thoại với
ngôn ngữ. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết là cả một hệ thống ngôn ngữ soi lẫn nhau, đối thoại
với nhau, không thể xếp đặt chúng trên một tuyến duy nhất tạo thành những chất giọng đặc
trưng và đại diện cho những luồng tư tưởng nhất định. Như vậy, lời nói của nhân vật có tính
độc lập cao trong cấu trúc tác phẩm, vang lên như sự đáp trả tiếng nói của chính tác giả và
“kết hợp một cách đặc thù với tiếng nói của những nhân vật khác cũng đầy đủ giá trị như
nó”. Việc tổ chức các tiếng nói khác nhau trong tiểu thuyết làm bật lên tính đối thoại. Theo
Bakhtin tính đối thoại không phải đơn thuần là sự đối đáp giữa các nhân vật bên trong một
cuốn tiểu thuyết mà mỗi nhân vật trong đó đều mang tính cá nhân cụ thể, mang trong mình
những ý thức độc đáo và nó được biểu hiện đặt biệt thông qua ngôn ngữ nhân vật. Bởi “Lời
nói của các nhân vật trong tiểu thuyết- những nhân vật ít nhiều có tính độc lập về tư tưởngngôn từ, có nhãn quan của mình- vốn là tiếng nói của người khác bằng ngôn ngữ khác, đồng
thời có thể khúc xạ cả những ý chỉ của tác giả và do đó, đến một mức độ nhất định, có thể
coi là ngôn ngữ thứ hai của tác giả”[12, tr137]. “Đối thoại quy mô rộng” đề cập đến kết cấu
quan hệ nhân vật. Còn đối thoại quy mô hẹp lại đề cập đến hiện tượng đối thoại đối đáp
(antiphonal dialogue) hay hồi đáp (retorting answer). Những đối thoại này rất ăn nhịp với
đối thoại quy mô rộng làm nổi bật phần hay nhất trong mỗi đối thoại. Theo quan điểm của
Bakhtin, “Quan hệ đối thoại có thể phát lộ ở mọi nơi và trong mọi biểu hiện của cuộc sống
con người quen thuộc và nắm bắt được” và “nhận thức bắt đầu ở đâu, đối thoại bắt đầu ở
đó”.
Đi từ nguyên lí đối thoại, Bakhtin đưa ra những kiến giải thú vị đối với trường hợp
của Rabelais bắt nguồn từ văn hóa trào tiếu dân gian- nơi các trật tự, tôn ti bị hạ bệ, đảo lộn

và xóa nhòa. Trong hội cải trang, bản thân cuộc sống diễn trò còn trò diễn thì nhất thời trở
thành bản thân cuộc sống. Nó là “cuộc sống thứ hai”, là ước mơ chân thật bị đeo mặt nạ của
quần chúng nhân dân được tổ chức trên cơ sở tiếng cười. Ở đó, con người được tái sinh bằng
những quan hệ mới, trở về với bản thân mình. Tính chất này đi vào trong tiểu thuyết khiến
13


nó đối thoại lại với những chân lí giáo điều bằng một ý thức hệ bình đẳng, dân chủ. Tiểu
thuyết trở thành thể loại giao tiếp tự do, phóng khoáng, không thừa nhận khoảng cách nào
giữa người với người. Đó là cơ sở và biểu hiện của tính đối thoại đặc thù và cao nhất.
Trong công trình Những vấn đề thi pháp Dostoievsky, Bakhtin cũng đã lí giải về tính
đa thanh trong tiểu thuyết của Dostoievsky. Theo ông: Tiểu thuyết của Dostoievsky mang
tính đối thoại rõ nét bởi “Nó được xây dựng không phải như là chỉnh thể của một ý thức, tiếp
nhận một cách khách quan các ý thức khác mà như là một chỉnh thể tác động qua lại của một
số ý thức, trong đó không một ý thức nào trở thành đối tượng từ đầu chí cuối cho một ý thức
khác”[13, tr22]. Sự tự ý thức của nhân vật ở Dostoievsky hoàn toàn là đối thoại: trong mỗi
thời điểm của nó, ý thức ấy luôn cựa quậy hướng về mọi hướng, căng thẳng đối diện với
mình, với người khác. Nó là một “chủ thể đối diện”, người ta không thể nói về nó, mà chỉ có
thể nói với nó. Rõ ràng, tính nhiều giọng nói và nhiều ý thức độc lập không hòa đồng với
nhau, tính phức điệu thực thụ của những tiếng nói có đầy đủ giá trị là đặc điểm cơ bản nhất
của tiểu thuyết Dostoievsky. Các quan hệ đối thoại là một hiện tượng rộng lớn hơn rất nhiều
so với quan hệ của các lời đối đáp của một cuộc thoại được biểu hiện bằng kết cấu. Với cách
hiểu này, quan hệ đối thoại là một hiện tượng phổ quát thấm sâu vào toàn bộ lời nói của con
người và toàn bộ các quan hệ biểu hiện của đời sống đa chiều của chúng ta. Không nên hiểu
khái niệm này chỉ như hình thức đối thoại đặc biệt của ngôn từ, mà chủ yếu phải xem nó như
một đặc điểm bản chất nổi bật của con người. Theo nghĩa đó, đối thoại chỉ có thể thực hiện
nhờ sự tác động qua lại với những người khác. Bakhtin đưa ra nhận định: “Dostoievsky đã
biết nghe các quan hệ đối thoại ở khắp nơi, trong tất cả các biểu hiện của cuộc sống được ý
thức và có suy nghĩ. Ý thức bắt đầu ở đâu thì ở đó với ông bắt đầu có đối thoại”[13, tr34].
Như vậy, theo Bakhtin tiểu thuyết đa thanh luôn tồn tại bên trong nó những tiếng nói mang

giá trị bình đẳng, ngang hàng nhau. Những tiếng nói và ý thức đó không bao giờ hòa nhập
làm một mà luôn ở trong lập trường đối thoại với nhau.
Có thể khẳng định, sự tương tác ngôn từ là hiện thực của ngôn ngữ. Trong những đối
tượng ngôn ngữ học, Bakhtin chú ý đến sự hiện tồn của phát ngôn và phân biệt nó với câu.
Mọi phát ngôn đều hướng đến một đối tượng nào đó và nhất thiết phải tồn tại trong một ngữ
cảnh. Nó là sản phẩm của xã hội, được cấu thành giữa hai con người trở lên với những quan
điểm, lập trường nhất định. Diễn ngôn hướng về người được gửi, hướng về những chủ đề
14


đan được quan tâm và chia sẻ. Từ đó, có thể khẳng định, giao tiếp ngôn ngữ hiện hữu dưới
hình thức tương tác, trao đổi giữa các phát ngôn tức dưới hình thức đối thoại.
Bản chất đối thoại của ngôn ngữ theo lập luận của Bakhtin đã “khiêu chiến” với
những sự đông cứng, độc đoán, yên vị một diễn ngôn, là sự xuyên thấm một văn bản trước
vô vàn những văn bản khác. Đối với Bakhtin, tồn tại như là đối thoại, ngôn ngừ mang bản
chất đối thoại, văn học cũng như một hình thức khác của giao tiếp đối thoại và tính tiểu
thuyết cũng chính là tính đối thoại. Với ông “Đối thoại là bản chất của ý thức, bản chất của
cuộc sống con người”, và “Sống tức là tham gia vào đối thoại”. [12, tr12]
1.1.2. Tiểu thuyết mang tính đối thoại là tiểu thuyết mang tính liên văn bản
Julia Kristeva là một nhà nhà lý luận phê bình văn học, nhà phân tâm học, nhà văn,
nhà nữ quyền luận nổi tiếng ở thế kỉ XX. Bà là người đầu tiên “phát hiện” và giới thiệu M.
Bakhtin đến với phương Tây (Tây Âu). Bằng việc chỉ ra những cách hiểu về tính đối thoại
của tiểu thuyết ở M. Bakhtin, J.Kristeva đã đưa ra một thuật ngữ mới: tính liên văn bản.
Khái niệm này thay thế cho quan niệm về tính đối thoại, tính liên chủ thể của Bakhtin, nhằm
nhắc nhở về sự tồn tại của văn bản này trong mối quan hệ với các văn bản khác.
Trong bài tiểu luận Từ, Đối thoại, Tiểu thuyết, Kristeva đã cung cấp những ý tưởng rõ
ràng về những quan niệm quan trọng nhất của Bakhtin như tính đối thoại, đa thanh, lưỡng lự
và tính carnaval. Đặt trong quan hệ ngữ cảnh của Chủ nghĩa hình thức Nga và phong trào
cấu trúc luận, Kristeva cho rằng Bakhtin là người đầu tiên thay thế việc phân tích cấu trúc
tĩnh tại của văn bản bằng một mô thức năng động, phát hiện cấu trúc văn bản không tồn tại

tự thân mà phát triển trong mối quan hệ với cấu trúc khác. Theo bà, Bakhtin là người đã chú
ý đặt văn bản trong các mối quan hệ xã hội lịch sử nhằm xác lập vị trí của nhà văn trong
chính văn bản của mình. Văn bản văn học trở thành một “bức khảm các trích dẫn”, là “sự
hấp thu và chuyển hóa các văn bản khác”. Thuật ngữ tính liên văn bản ra đời nhấn mạnh đến
cụm từ văn bản, loại bỏ “sự thiên vị hiển nhiên vào việc Bakhtin hướng tới lời nói trong giao
tiếp”.
Đi từ Tính đối thoại theo quan điểm của Bakhtin và Tính liên văn bản theo quan niệm
của Kristeva, ta thấy có những mối quan hệ mật thiết có tính kế thừa và phát triển. Theo
quan điểm của Bakhtin, phát ngôn là đơn vị của một cuộc đối thoại và tính đối thoại là thuật
ngữ dùng để chỉ rõ mối quan hệ của mọi phát ngôn với phát ngôn khác. Đặc điểm quan trọng
15


nhất của phát ngôn chính là sự tham gia đối thoại với những hệ hình phát ngôn khác tức nó
đã mang chiều kích liên văn bản. Dù cố ý hay không thì mọi diễn ngôn đều tồn tại trong
những diễn ngôn có trước về cùng một chủ đề cũng như những diễn ngôn đến sau thì nó
nhìn thấy và dự đoán trước. Về bản chất hoạt động giao tiếp ngôn từ của con người luôn
diễn ra dưới hình thức tương tác, va chạm lẫn nhau của các kinh nghiệm và tư tưởng. Đến
Kristeva, thuật ngữ liên văn bản tồn tại như bất kì hình thức tương tác nào giữa các văn bản
hay nói cách khác “không có một văn bản nào mà bên trong nó lại không có những vết tích
của các văn bản khác”. Liên văn bản là sự nhận thức của người đọc về các mối quan hệ giữa
một tác phẩm với một tác phẩm khác xuất hiện trước hay sau nó. Đó là sự tiếp cận một văn
bản trong diễn ngôn của muôn vàn các văn bản khác. Các ý thức, các quan niệm từ các văn
bản luôn có sự tượng tác đa chiều với nhau tại nên tính đa nghĩa.
Mọi phát ngôn đều liên quan đến những phát nôn trước đó, vì thế tạo nên những mối
quan hệ liên văn bản hay đối thoại và “Ở cấp độ sơ đẳng nhất, bất cứ và tất cả các mối quan
hệ giữa hai phát ngôn đều là liên văn bản” [75, tr116]. Trong một tác phẩm tiểu thuyết, mỗi
một phát ngôn không thể trung tính vì nó bị vây bọc bởi những ý thức, quan điểm, lập
trường tư tưởng giộng điệu khác và buộc phải gia nhập vào các mối quan hệ phức tạp bằng
cách tương tác. Tác giả không sáng tạo ra văn bản từ những ý nghĩ nguyên thủy của mình

mà văn bản được làm nên từ sự biên tập những văn bản đã tồn tại trước nó. Điều này tạo nên
căn nguyên, cội rễ của tính đối thoại. Mỗi phát ngôn luôn đặt ra quanh nó trong quan hệ với
những tình huống giao tiếp cụ thể. Văn học được tạo nên bởi thế giới hình tượng ngôn từ của
những phát ngôn nên văn chương luôn mang tính đối thoại.
Trong thuật ngữ tính Liên văn bản do J. Kristeva đặt ra có những điểm khu biệt so với
thuật ngữ tính đối thoại của Bakhtin. J. Kristeva quan tâm nhiều hơn đến sự tương tác của vô
số giọng nói tự do, phi cá nhân trong những ngữ cảnh có tính chất xóa mờ lịch sử trong khi
đó, Bakhtin chú ý đến sự hiện hữu của các phát ngôn trong cuộc đụng độ của ý thức hệ có
tính chất xã hội và xem đó là nhân tố hình thành ý thức đa ngữ mang bản chất đối thoại.
Từ thuật ngữ tính liên văn bản, J. Kristeva đề xuất một thuật ngữ mới: Sự chuyển vị.
Ở đây, tính liên văn bản được hiểu như “sự chuyển vị của nhiều văn bản, một liên văn bản
trong không gian của một văn bản”. Liên văn bản trở thành sự chuyển vị của một hay nhiều
các hệ thống kí hiệu tồn tại bên trong một văn bản khác. Văn bản trở thành nơi thẩm thấu và
16


biến đổi của vô vàn những văn bản khác nhau trong đời sống. Nó có khả năng kiến tạo
không ngừng, luôn biến động và đa bội. Điều này tạo nên tính năng sản trong hệ thống ý
nghĩa từ thực tiễn diễn ngôn sinh tồn đến sự hấp thụ và chuyển giao của các văn bản văn hóa
tiến tới tiến trình liên văn hóa.
Như vậy, bản chất của tính đối thoại chính ở biểu hiện liên văn bản của nó. Từ tính
đối thoại đến tính liên văn bản là phát hiện và đóng góp to lớn của J. Kristeva trong công
cuộc phám phá thế giới lí luận khoa học và ứng dụng vào hoạt động nghiên cứu văn học. Lí
thuyết về Tính đối thoại/Tính Liên văn bản trở thành cánh cửa thần kì giúp người đọc mở ra
những chân trời mới để đến với những địa hạt mênh mông của thế giới văn chương nghệ
thuật. Xét đến cùng, hoạt động sáng tạo và thưởng thức văn học là một hành trình đối thoại
đặc biệt của con người xuất phát từ nhu cầu được giải bày, chia sẻ và thấu hiểu. Tác giả, văn
bản, người đọc luôn trong vị thế là những nhân tố tham gia vào cuộc đối thoại rộng lớn
không hồi kết. Đó là hành trình đối thoại liên tục có ý nghĩa kiếm tìm chân lí và bản thể mà
ở đó, những cái mới sẽ được sản sinh trên nền tảng của cái cũ, những khám phá sáng tạo

được hiện hữu trên những chân lí bất biến vĩnh hằng. Nó tạo nên tính quy luật của cuộc
sống. Văn học trở thành “đấu trường” của những cuộc đối thoại lớn mang tầm văn hóa, xã
hội, chính trị, khoa học, tâm lí, đạo đức…Mỗi một tác phẩm là liên văn bản nhưng vẫn là
chính nó. Các nhân tố, tiếng nói vang lên luôn đồng đẳng và đối thoại cùng nhau.
1.2. Tính đối thoại qua các lớp diễn ngôn thực tiễn sinh tồn trong tiểu thuyết Amélie
Nothomb
Diễn ngôn là khái niệm được sử dụng trong ngôn ngữ học, nghiên cứu văn học, nghiên
cứu văn hóa, xã hội học... “Diễn ngôn”(Discourse) là một đơn vị phát ngôn độc lập về
phương thức và nội dung. Với tư cách là một đối tượng nghiên cứu của ngữ dụng học, nhà
nghiên cứu ngôn ngữ Crystal nêu ra định nghĩa “Diễn ngôn là một chuỗi nối tiếp của ngôn
ngữ lớn hơn một phát ngôn thường cấu thành một chỉnh thể có tính mạch lạc kiểu như một
bài thuyết giáo, một cuộc hội thoại, một chuyện kể...”[54, 17]. Với cách hiểu này, khái niệm
diễn ngôn gần như khái niệm lời nói (parole) trong quan niệm của F.de.Saussure, tức nó liên
quan đến những đặc tính riêng, tính cụ thể của người phát ngôn. Diễn ngôn cũng bởi vậy, là
khái niệm trung tâm trong quan điểm của Bakhtin về ngôn ngữ. Ông cho rằng, diễn ngôn là
ngôn ngữ trong chỉnh thể sống động, cụ thể, là ngôn ngữ trong sử dụng, trong bối cảnh xã
17


hội, của những giọng xã hội mâu thuẫn và đa tầng. Nó là trường tiếp xúc, là lãnh thổ chung
của những người tham gia vào cuộc thoại, là khu vực tiếp xúc giữa ta và người. Diễn ngôn là
mảnh đất giao cắt, hội tụ, tranh biện của những tư tưởng, quan niệm khác nhau về thế giới.
Và đối thoại trong quan điểm của Bakhtin trở thành bản chất của diễn ngôn. Trong hầu hết
các công trình nghiên cứu của mình, Bakhtin đều xem sự kiện văn học như một hành vi giao
tiếp, trong đó cái được nói ra và hành động nói ra, văn bản và bối cảnh không thể tách rời
nhau. Vậy nên, có thể khẳng định mọi diễn ngôn văn học là đơn vị đặc biệt được xem xét
dưới quan hệ vận hành với văn cảnh. Mỗi người nói không phải là người nói đầu tiên, mà
đều là người trả lời, là người đối thoại với hàng ngàn những người nói trước đó. Người nghe
không phải là người lắng nghe một cách thụ động mà là người chủ động hồi đáp. Mỗi đối
tượng của phát ngôn đều đã từng được bàn bạc, soi sáng, đánh giá nhiều lần, theo những

cách khác nhau, hay nói cách khác, “các quan điểm, thế giới quan, các xu hướng khác nhau
giao cắt, tán đồng, đối địch với nhau ngay trên đối tượng ấy”. Mỗi phát ngôn chỉ là một mắt
xích, một khâu của một mạch các phát ngôn khác. Lời nói của chúng ta được nảy sinh trong
chính thực tiễn cuộc sống và mang đậm đặc những dấu vết của cuộc sinh tồn, vì thế, “được
hình thành và phát triển trong sự tác động qua lại, thường xuyên, liên tục với những phát
ngôn của các cá nhân khác”[ 77].
Thai nghén và ra đời trong xã hội hậu hiện đại, tiểu tuyết Amélie Nothomb mang
những đặc trưng tiêu tiểu của tiểu thuyết đa thanh. Tính đối thoại được thể hiện đậm đặc qua
hàng loạt những lớp diễn ngôn thực tiễn sinh tồn của nhân vật, tác giả, người kể chuyện và
khiêu gợi sự đối thoại từ phía bạn đọc. Mỗi nhân tố là một cá nhân cụ thể, mang theo những
ý thức độc đáo, đa dạng tạo nên tính tư tưởng của những sáng tạo không lặp lại. Trong tác
phẩm văn học, ngôn từ được tinh luyện trở thành lời đối đáp sống động. Nó được hình thành
có sức mạnh tương tác với không chỉ đối tượng đang tham gia giao tiếp mà còn có giá trị
mời gọi sự đồng đối thoại với ý thức văn hóa từ phía người tiếp nhận. Giá trị và tầm tư
tưởng của tiểu thuyết được thể hiện. Hoàng loạt những cuộc đối thoại văn hóa được thể hiện
trong các tác phẩm. Điều đáng chú ý là tất cả những cuộc đối thoại về văn học, tình yêu, giới
tính, đạo đức, văn hóa này đều được thực hiện bằng một chất giọng đặc trưng, hài hước, giễu
nhại mang màu sắc rất riêng của Amélie Nothomb.
1.2.1. Những cuộc đối thoại về văn học, tình yêu, giới tính, đạo đức
18


1.2.1.1.

Những cuộc đối thoại mang thế giới quan văn học

Amélie Nothomb là một nhà văn có thức rõ ràng về sự nghiệp và sứ mệnh của mình.
Năm 17 tuổi, khi đọc Letter to a Young Poet (Thư viết cho những nhà thơ trẻ) của Rainer
Maria Rilke, cô đã nghĩ: “Tôi nhận ra rằng, băn khoăn của mình không phải là 'Tôi có đủ
khả năng viết văn không? mà câu hỏi chính là “Tôi có thể sống mà không viết không?”. Đó

là vấn đề duy nhất”. Trong rất nhiều tác phẩm của mình, dưới diễn ngôn của người kể
chuyện, của tác giả và đặc biệt là diễn ngôn nhân vật, Amélie đã thể hiện quan điểm trong
một cuộc đối thoại mang thế giới quan văn học. Đó là những cách nhìn mới mẻ và táo tạo về
nghề văn, nhà văn, chức năng văn học, vai trò của độc giả trong quá trình tiếp nhận tác
phẩm. Xen kẽ những câu chuyện khác nhau về cuộc đời và số phận nhân vật là những luận
bàn chặt chẽ và lôgic về văn học. Có khi chủ đề đối thoại này lại được đặt vào từng phát
ngôn trong trường nhìn đối thoại của các nhân vật tiểu thuyết tạo nên ý thức đa ngữ. Đúng
như M.Bakhtin nhận định về tiểu thuyết của Dostoievsky: “Lời nói của nhân vật về chính nó
và thế giới của nó cũng đầy sức nặng giống như lời của tác giả thông thường” [13, tr15].
Chủ đề đối thoại này được thể hiện rõ trong tác phẩm Hồi ức kẻ sát nhân, Nhật kí Chim Én,
Hủy hoại vì yêu, Axít Sunfuric.
Trong bốn thành tố tạo nên chu kì một quá trình sáng tác và thưởng thức văn học
(thời đại, nhà văn, tác phẩm, bạn đọc) thì nhà văn với tư cách là chủ thể sáng tạo được xem
là mắc xích quan trọng. Thế nhưng dưới cái nhìn của một nhà văn “ăn khách lập dị”, Amélie
Nothomb đã đưa ra những luận bàn hết sức thú vị về sứ mệnh nhà văn mà trước hết ý thức
đó được gửi vào lập trường nhân vật.
Trong Hồi ức kẻ sát nhân, cái nhìn của Prétextat Tach- kẻ sát nhân ẩn mình dưới cái
danh nhà văn đạt giải Nobel văn chương- một quan điểm về nhà văn, nghề văn hiện ra dưới
cái nhìn tầm thường hóa: “Không, anh bạn ạ, mọi nhà văn đều là dạng phàm phu tục tử;
bằng không họ sẽ là nhân viên kế toán, lái tàu, nhân viên trực điện thoại, họ sẽ trở nên đáng
kính”[1, tr20]. Vì là chuyện về một nhà văn được kể dưới hình thức là những cuộc phỏng
vấn nên như một nhân tố có tính tất yếu, những quan điểm văn chương được đem ra luận
bàn như một cách để đối thoại giữa các tiếng nói ý thức khác nhau trong tác phẩm. Trong thế
giới đó, những quan điểm, những cách nhìn về văn học nghệ thuật được tác giả trao cho
nhân vật khi nhân vật đóng vai trò kể chuyện. Trong tác phẩm, quan điểm đó luôn ở trong
19


lập trường đối thoại với các nhân vật phóng viên- là người trực tiếp tham gia vào cuộc đối
thoại với nhà văn. Trừ nữ phóng viên Nina là người am hiểu lão nhà văn lập dị này, bốn

phóng viên còn lại vì chưa đọc tác phẩm của lão nên không một ai hiểu được những gì mà
Tach nói. Về quan điểm sứ mạng và những yêu cầu mà một nhà văn cần phải có, trong cái
nhìn của phóng viên thứ tư, nhà văn nhất thiết phải có trái tim hiểu theo nghĩa là thế giới
tinh thần, trạng thái cảm xúc, khúc nhạc lòng cần vun đắp. Trái tim là nơi “nuôi dưỡng cảm
giác tình yêu”, là “năng lực cảm giác, tính dễ xúc động, tính cảm xúc”. Qua những dòng hội
thoại liên tiếp, đầy kịch tính và diễn ra dồn dập, bạn đọc ắt hẳn nhận ra cho mình một chân
lí, một lẽ phải riêng. Điều kì lạ là chúng ta vẫn không ngừng bị cuốn hút bởi những xung
năng phát ra từ những trường đối thoại gây cứng mà chính tác giả đặt ra. Lực hấp dẫn của
ngôn từ và những cách định nghĩa, lí giải đã làm nên sự cuốn hút cho những trang viết. Với
những quan điểm, những lập trường đối thoại riêng, mỗi nhân vật là đại diện cho mỗi tiếng
nói khác nhau, cùng vang lên trong một cuộc đối thoại lớn mang tầm văn hóa.
Trong Axít Sunfuric, tác giả đã bày tỏ quan niệm về vai trò của nhà văn sau khi tác
phẩm ra đời “Pannonique nghĩ đến những tiểu thuyết gia diễn thuyết thao thao bất tận về
cuốn sách của họ: điều đó phỏng có ích gì? Chẳng phải họ sẽ giúp ích cho tác phẩm của
mình tốt hơn nếu trong quá trình tạo ra nó, họ biết đưa vào đó tất cả tình yêu cần thiết?”[5,
tr74]. Quan niệm này rất gần với tư tưởng Cái chết của tác giả của Barthes. Một phẩm chất
đầu tiên, dễ thấy ở tất cả các nhà văn là có được một tâm hồn giàu xúc cảm. Anh phải đến
với đứa con tinh thần bằng chính tình yêu thương vô hạn. Tình cảm trở thành động lực để
thúc đẩy cảm hứng sáng tạo và tư tưởng sẽ không thể chuyển hóa được vào hình tượng nếu
thiếu đi nguồn cảm hứng. Nhưng khi tác phẩm đã ra đời, tác giả dường như đánh mất vai trò
“thượng đế”, “anh ta được sinh ra cùng một lúc với văn bản, anh ta không còn tồn tại nào
trước và ngoài cái viết, anh ta tuyệt đối không phải là cái chủ thể mà theo đó tác phẩm của
anh ta là vị ngữ” [62, tr132]. Nói cách khác, sau khi khai sinh cho tác phẩm, nhà văn không
cần thiết trở thành “cái loa phát ngôn” và lí giải và cho tư tưởng của mình, bất kì tham vọng
“giải mã” văn bản nào đều trở nên vô ích. Đem tác giả để gán cho văn bản trở thành một
việc làm thừa thải, rằng “sự ra đời của Người đọc phải trả giá bằng chính cái chết của Tác
giả”. Cũng chính vì vậy, trước cái chết của mình, rất logic và kinh ngạc khi chính nhân vật
Urbain đã nhận ra điều này bởi hắn được cảm hóa bằng cuốn nhật kí của cô bé mười tám
20



tuổi để lại: “Tôi qua đời tay trong tay em bởi vì tôi đang viết: viết lách là nơi tôi đem lòng
yêu em. Những con chữ sẽ dừng lại đúng vào lúc tôi chết”[4, tr136]. Nhà văn lúc này chỉ
còn một tình yêu đối với tác phẩm, mặc những lời khen chê, bình phẩm “Tình yêu ấy là sự
hổ trợ cụ thể duy nhất mà người ta có thể mang tới cho tác phẩm”[5, tr74]. Mọi quyết định
về số phận của tác phẩm sẽ giao về phía độc giả: “Sáng tạo, quá trình này không phải khó
khăn gì bởi nó khiến người ta vô cùng ngây ngất: chính sau đó công việc của Chúa mới phức
tạp hơn nhiều” [5, tr74]. Tư tưởng này mang đến cho độc giả (đặc biệt là những ai chưa từng
tiếp xúc với lí luận văn học hiện đại) một cái nhìn thú vị và mới mẻ nhưng không kém phần
sinh động. Soi vào cuộc đời thực, chính Amélie Nothomb từng tâm sự, đến nay cô đã hoàn
thành đến 64 cuốn tiểu thuyết song chỉ mới xuất bản 16 cuốn trong số đó: “Khi viết, không
bao giờ tôi nghĩ đến người đọc. Nhu cầu viết trong tôi bao giờ cũng mạnh mẽ hơn nhu cầu
xuất bản. Đối với tôi, việc in sách cũng giống như chuyện hôn phối, mà những cuốn sách
chính là lũ con cái của mình. Có những đứa con được tạo nên để chào đời, nhưng cũng có
những đứa con phải được giữ trong bí mật”[20]. Cô không muốn trình làng tất cả đứa con
tinh thần của mình bởi viết văn đơn giản là một nhu cầu được trải nghiệm, thưởng thức, và
giải tỏa chính mình. Trong lập trường này, ý thức nhà văn và ý thức nhân vật vừa có gặp gỡ
lại vừa có sự lệch pha. Điều này tạo nên nhiều tiếng nói khác nhau trong tiểu thuyết. Nói
cách khác, tính đối thoại được thể hiện ngay trong quá trình giao lưu và tiếp xúc quan điểm
giữa con người với con người.
Nguyên tắc về tính đối thoại trong tiểu thuyết chỉ rõ: ý thức của nhà văn và ý thức của
nhân vật không bao giờ trùng khít nhau. Điều đó tạo nên nhiều tiếng nói khác nhau trong
tiểu thuyết bởi “Tiểu thuyết đa thanh là tiểu thuyết mang tính đối thoại”. Ta biết, Amélie
Nothomb là nhà văn luôn biết quý trọng chính nghề nghiệp của mình, người có thể ngủ bốn
tiếng đồng hồ mỗi ngày nhưng lại luôn giành thời gian để trả lời thư độc giả. Ở đây, ắt hẳn
tiếng nói của nhân vật không bao giờ trùng khít trong quan điểm của tác giả. Bạn đọc cũng
thấy xa lạ, thậm chí buồn cười với những lí thuyết kì dị, “có một không hai” đó. Nói cách
khác, tính đối thoại được thể hiện ngay trong quá trình giao lưu và tiếp xúc quan điểm giữa
con người với con người.
Đọc tác phẩm của Amélie, ta rất dễ dàng để tìm thấy những nhà văn mà cô đã chịu

ảnh hưởng thông qua những tác giả văn học mà chị nhắc đến trong tác phẩm của mình, như:
21


Hugo, Oshima, Jean-Paul Sartre, Louis-Ferdinand Céline, Beaudelaire...Tất nhiên, để “lạ
hóa” tiếng nói của nhân vật, các tác giả văn học vẫn luôn luôn được đặt trong cái nhìn độc
đáo, đầy hài hước. Các tác giả tham gia vào quá trình đối thoại như là đối tượng được nhắc,
được đề cập đến với mục đích là bày tỏ ý thức, quan niệm trong thế giới tư tưởng của nhân
vật, mà đằng sau nó là chính tác giả.
Bên cạnh cuộc đối thoại về nghề văn và vai trò, sứ mạng của nhà văn là cuộc đối
thoại về chức năng văn học. Theo quan điểm của triết học Karl Marx một hình thái ý thức
nào khác văn chương nghệ thuật có tác dụng tích cực trở lại đối với toàn bộ đời sống xã hội.
Nó trở thành nhu cầu tinh thần không thể thiếu với những chức năng to lớn trong nhận thức,
dự báo, thẩm mĩ, giải trí, giáo dục và giao tiếp… cho người đọc. Thế nhưng bằng lối hài
hước tinh tế nhưng không kém phần sâu cay và cách nói ngược nghĩa, tiểu thuyết Amélie
Nothomb đã lộn ngược nhào những quan điểm truyền thống bằng những cuộc đối thoại thú
vị về chức năng văn học.
Cũng theo cái nhìn của nhà văn Tach (Hồi ức kẻ sát nhân), văn học không có chức
năng làm thay đổi con người, người đọc đến với tác phẩm văn học và đọc nó như một thói
quen. Và chính Tach cũng cho rằng không một ai hiểu hết những tác phẩm của ông và tác
phẩm của ông chứa đầy những yếu tố độc hại cho ai đọc nó. Nó khơi dậy “cái chết” hơn là
sự sống, nhất là trong thời điểm chiến tranh. Đó đích thực là một tuyên ngôn đầy nghịch lí.
Cuộc đối thoại của nhà văn Tach và các phóng viên là những cuộc đối thoại đầy mâu thuẩn
trong ý thức, quan niệm thẩm mĩ, văn học trái chiều nhau. Trong Kẻ hai mặt, khi Christa bỏ
đi sau sự khi bị bóc trần sự thực người “hai mặt”, Blanche quay trở lại với cuộc sống đời
thường, giành lại được căn phòng và ngấu nghiến đọc sách. Nhân vật đã nhận ra: “Những ai
tin rằng đọc là cách chạy trốn là hoàn toàn sai sự thật. Đọc chính là đối mặt với thực tại
trong trạng thái cô đọng nhất của nó- điều này lạ là nó không đáng sợ bằng việc phải đương
đầu với sự nhạt nhẽo triền miên” [7, tr90]. Như một sự đối thoại lại với ý thức chung của
cộng đồng, của xã hội, Amélie Nothomb đã để cho nhân vật lên tiếng và lột trần sự giả tạo

của không ít độc giả khi tìm đến những trang sách để trả lại bản chất chân chính của “sự
đọc”. Đó là cách mà nhà văn đối thoại lại với độc giả chúng ta do cách đọc hời hợt của đa số
bạn đọc hiện thời.

22


Một phần trong cuộc đối thoại to lớn về văn học là hành trình đối thoại về vai trò độc
giả trong quá trình tiếp nhận tác phẩm. Đọc giả chính là nhân tố quyết định sự sống cho tác
phẩm. Lí luận văn học hiện đại nâng tầm độc giả trở thành trung tâm của đời sống văn học.
Trong tác phẩm cả mình, Amélie Nothomb luôn có ý thức nhấn mạnh tầm quan trọng của
độc giả: “Sẽ là không đủ đối với tác phẩm nếu tác phẩm đó không được ai đọc” (Nhật kí
Chim Én) hay “ Sáng tạo, quá trình này không phải khó khăn gì bởi nó khiến người ta vô
cùng ngây ngất: chính sau đó công việc của Chúa mới phức tạp hơn nhiều” (Axít Sunfuric).
Đó cũng là cuộc đối thoại kiên quyết, khẳng định lập trường của một nhà văn về vai trò của
bạn đọc trong quá trình làm nên giá trị của tác phẩm.
Qua nhân vật và tiếng nói của nhân vật, Amélie Nothomb còn đề cập đến hiện tượng
độc giả nhái - đọc mà không hiểu, không thẩm thấu hết tác phẩm- một cách đọc sạch sẽ
trong thời đại ngày nay: “Biết bao người đã đẩy sự giả tạo đến mức đọc mà như không
đọc”[1, tr80] . Có lúc nhân vật còn đề ra tư tưởng có tính nghịch lí khi cho rằng thế giới bạn
đọc và thế giới tác giả là hai thế giới riêng biệt nhau như chưa hề có một mối liên hệ nào. Và
việc sáng tạo ra tác phẩm- đứa con tinh thần của nhà văn chỉ là cách để nhà văn “tự hưởng
thụ” (Hồi ức kẻ sát nhân).
Chính những quan điểm này đã tạo nên một không gian đối thoại liên văn bản thú vị
với những tư tưởng chân lí thường thấy nhằm gây ra những diễn ngôn mới, đối nghịch và
mở đường khai phóng sức sáng tạo nghệ thuật, tạo ấn tượng về tính cách nhân vật. Tính đối
thoại liên văn bản về thế giới quan văn học được thể hiện trong tác phẩm như được lan tỏa từ
những cuôc đối thoại nội văn bản giữa nhân vật với nhân vật, nhân vật với tác giả, người kể
chuyện và mở ra những cuộc đối thoại xã hội ngoài văn chương, vượt thoát khỏi “cái bao” tư
tưởng đơn nhất. Mỗi tiếng nói mang quan điểm lập trường riêng có tính tự lập rất cao trong

cấu trúc tác phẩm và bình đẳng, kiêu hãnh với đầy đủ những giá trị của nó.
1.2.1.2. Cuộc đối thoại về tình yêu, giới tính và nhân cách con người hiện đại
Tiểu thuyết là thể loại luôn biến chuyển, có khả năng hấp thụ và tương tác mạnh mẽ
với các thể loại khác. Amélie Nothomb đã từng bộc bạch: Các nhân vật trong tiểu thuyết của
tôi “là hình ảnh phản chiếu điều tôi cảm nhận… Tôi nghĩ chính trong tác phẩm hư cấu, ta
mới có thể tự do nói về mình, nhưng không vì thế mà câu chuyện không mang yếu tố tưởng
tượng.” Bằng một lối trần thuật độc đáo, chất giọng đặc trưng và trí tưởng tượng vô cùng
23


phong phú, tác giả đã đưa vào thế giới truyện kể muôn vàn những câu chuyện khác nhau.
Mỗi câu chuyện là sản phẩm của quá trình miệt mài sáng tạo và đem đến cho người đọc
những trải nghiệm thú vị về nhiều đề tài đặt ra. Qua những cuộc đối thoại, bức tranh cuộc
sống đa chiều hiện ra phong phú với nhiều tầng, nhiều lớp khác nhau: tình yêu và những
quan niệm về sự khác biệt giới tính, sự khủng hoảng niềm tin và những biểu hiện tha hóa,
biến chất trong nhân cách, lối sống của con người…
Trong những cuộc phỏng vấn, nhà văn Amélie Nothomb đã từng tâm sự: “Với tôi khó
nhất là viết về tình yêu”. Với cô, tình yêu là thứ tình cảm đẹp nhất của mỗi con người nhưng
thật sự đó không phải là một đề tài dễ dàng. Quan điểm tình yêu trong hầu hết những tác
phẩm của cô đối thoại lại với những thiên diễm tình mơ mộng, ướt át thường xuất hiện trong
những bộ tiểu thuyết lãng mạn. Ở đây, tác giả đã xem xét lại những biểu hiện đa chiều trong
những “kiểu dạng” tình yêu khác nhau và lên tiếng khẳng định một cách nhìn mới về tình
yêu: trong sự đa dạng của nó, tình yêu có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau đến “lạ
thường”. Đó không chỉ là tình cảm cần có nhau, không thể thiếu giữa những người khác
giới; nó còn là cảm giác lo sợ, bệnh hoạn của một gã sát nhân muốn níu giữ vẻ trẻ thơ của
người mình yêu (Hồi ức kẻ sát nhân), là sự hủy hoại chính mình của một đứa trẻ khi ngây
ngất trước một vẻ đẹp kiêu kì cùng giới (Hủy hoại vì yêu), là cảm giác tôn thờ, ngưỡng mộ
của Pietro đối với Pannonique (Axít sunfuric), là sự trở về trong vòng tay bằng hữu samurai
của “người tình” sống cách biệt bởi hai nền văn hóa (Vòng tay Samurai), là sự thắng thế của
tình yêu trước hận thù trong mối rung cảm kì lạ của một gã giết người (Nhật kí Chim Én).

Trong tác phẩm Vòng tay Samurai, Amélie Nothomb đã xây dựng một câu chuyện
tình yêu rất đẹp giữa anh chàng người Nhật Rinri và cô gái người Bỉ- nhân vật “Tôi” kể
chuyện mang hình bóng của tác giả. Đó là một tình yêu xuất phát từ tình bạn trong sáng giữa
hai nền văn hóa; một tình yêu vô hình, thầm lặng. Để cuối cùng như một cách để giữ mãi
tình yêu của mình, cô gái đã quyết định chạy trốn và về với Rinri trong vòng tay Samuraivòng tay của những người bạn. Nếu như ở Vòng tay Samurai Amélie đã dựng xây một thế
giới tình yêu đằm thắm, nhẹ nhàng, là tình yêu của những người bạn, của hai nền văn hóa
Đông-Tây thì trong Hồi ức kẻ sát nhân tình yêu là một thế giới với những quan niệm nghịch
dị, trái với lẽ thường. Tình yêu “ngộ nhận” sẽ đem đến những tấn bi kịch đau đớn cho những
người trong cuộc. Trong Hồi ức kẻ sát nhân, nhà văn Prétextat Tach đã tự tay bóp chết
24


người em họ của mình- tình yêu tuổi ấu thơ - như một cách để giữ gìn tình yêu. Cuộc đối
thoại về tình yêu thể hiện rõ nhất trong lần phỏng vấn thứ năm với nữ phóng viên Nina. Ta
nhận ra bóng dáng của chính tác giả Amélie Nothomb qua hình tượng cô phóng viên đầy cá
tính này. Tach ngộ nhận tình yêu của mình với cô em họ. Sự thật, đó chỉ là một thứ tình cảm
ích kỉ, bệnh hoạn, một tình yêu loạn luân. Nina đã cho rằng, Hồi ức kẻ sát nhân là câu
chuyện tình duy nhất mà Tach đã viết ra. Hồi ức kẻ sát nhân - tên cuốn sách còn dang dở của
Tach- trở thành câu chuyện của chính đời ông. Nằm ở lập trường đối lập với quan niệm tình
yêu thông thường, tình yêu trong quan niệm của Tach đã bị méo mó. Một khi xây dựng trên
lòng ích kỉ với những cách nghĩ trái khoáy tình yêu rất dễ bị biến dạng
Hơn ai hết, trong sáng tạo của mình, Amélie Nothomb là tác giả rất ý thức về giá trị
của tình yêu. Nhân vật sống hết mình vì tình yêu và tình yêu có sức mạnh thay đổi con
người. Nhưng hầu hết đó là những tình yêu trái khoáy, bất thường, một phía, được nhìn nhận
bằng những trải nghiệm đời thường, chân thực. Hủy hoại vì yêu là câu chuyện của nhân vật
tôi, người kể chuyện, cô bé năm tuổi người Bỉ có cha làm ở Bộ ngoại giao. Câu chuyện được
kể mang những dấu ấn trong chính cuộc đời của tác giả. Nhân vật chính trong tác phẩm là
Amélie theo gia đình đến ở trại Tam Lí Đồn (Trung Quốc) - khu biệt cư dành cho người
nước ngoài. Tại đây, cô đã nảy sinh một tình yêu kì lạ với cô bé Elena. Đó là thứ tình cảm kì
lạ và đặc biệt đến mức có thể làm con người “hủy hoại” bản thân. Amélie sẵn sàng chạy hai

mươi vòng liên tục quanh sân trường khi Elena yêu cầu vì biết cô mắc bệnh suyễn. Hai nhân
vật là đại diện cho hai thái cực, hai quan điểm tình yêu đối nghịch nhau. Nếu như “Elena
thuộc nhóm người càng yêu mãnh liệt hơn khi người khác lạnh lùng với họ” thì Amélie
ngược lại “càng thấy mình được yêu, tôi càng yêu nhiều hơn”[6, tr160]. Hay như trong tác
phẩm Nhật kí Chim Én, nhân vật Urbain mang quan điểm tình yêu lạ lùng như chính con
người hắn. Một thứ tình yêu không có những cảnh nồng nàn như trong tiểu thuyết lãng mạn,
một thứ tình yêu bị cắt xén đến mức tối giản, nhưng có lẽ cũng mê đắm không kém bất cứ
thứ tình yêu đích thực nào, bởi đó là thứ tình yêu có sức mạnh biến một kẻ giết người trở
nên lương thiện, biến một kẻ chai lì trở nên có cảm xúc.
Tình yêu thường gắn liền với tuổi trẻ. Đối với tuổi trẻ, tình yêu càng có sức hút mãnh
liệt. Trái tim thanh xuân tràn đầy khát vọng khám phá, chiếm lĩnh tình yêu. Chính vì vậy,
những thiên tiểu thuyết hay vì tình yêu thường dành cho giới trẻ. Là nhà văn gập ghềnh trên
25


×