ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
PHẠM THỊ HIẾU
THƠ CỔ PHONG NGUYỄN TRÃI,
NGUYỄN DU TỪ GÓC NHÌN THI PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Thừa Thiên Huế, Năm 2018
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
PHẠM THỊ HIẾU
THƠ CỔ PHONG NGUYỄN TRÃI,
NGUYỄN DU TỪ GÓC NHÌN THI PHÁP
Chuyên ngành : VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số
:
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
THEO ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. NGÔ THỜI ĐÔN
Thừa Thiên Huế, Năm 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong luận
văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kì một
công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Phạm Thị Hiếu
ii
Lời Cảm Ơn
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân còn nhờ có sự
hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của các quý thầy cô giáo, của gia đình và bạn bè.
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đến
Thầy giáo TS. Ngô Thời Đôn người đã tận tâm hướng dẫn tôi trong suốt
quá trình thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin chân thành gửi lời cảm ơn đến tất cả quý thầy cô giáo khoa
Ngữ văn, phòng Đào tạo Sau Đại học, Đại học Huế đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu cùng các đồng nghiệp nơi công
tác Trường THPT Vinh Xuân đã giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 9 năm 2018
Tác giả luận văn
Phạm Thị Hiếu
iii
MỤC LỤC
PHỤ BÌA .................................................................................................................... i
LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................... ii
LỜI CẢM ƠN .......................................................................................................... iii
MỤC LỤC ..................................................................................................................1
DANH MỤC BẢNG ..................................................................................................3
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................4
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................................5
2.1. Về thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi ........................................................................5
2.2. Về thơ chữ Hán của Nguyễn Du ..........................................................................7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .........................................................................10
3.1. Đối tượng nghiên cứu: .......................................................................................10
3.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................10
4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................10
5. Đóng góp của đề tài...............................................................................................11
6. Bố cục của luận văn ..............................................................................................11
PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................................12
Chƣơng 1. THƠ CỔ PHONG NGUYỄN TRÃI, NGUYỄN DU TRONG
MẠCH THƠ CỔ PHONG TRUNG ĐẠI VIỆT NAM ........................................12
1.1. Một số vấn đề về thơ cổ phong ..........................................................................12
1.1.1. Nguồn gốc của thơ cổ phong ..........................................................................12
1.1.2. Khái niệm thơ cổ phong ..................................................................................13
1.1.3. Thơ cổ phong và sự xuất hiện thơ cổ phong chữ Hán trong văn học trung đại .....17
1.2. Thi pháp và thi pháp học ....................................................................................20
1.3. Nguyễn Trãi và thơ chữ Hán ..............................................................................23
1.3.1. Cuộc đời ..........................................................................................................23
1.3.2. Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi ........................................................................25
1.4. Nguyễn Du và thơ chữ Hán................................................................................28
1.4.1. Cuộc đời ..........................................................................................................28
1.4.2. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du .........................................................................30
1
Chƣơng 2. THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ CỔ PHONG NGUYỄN TRÃI,
NGUYỄN DU .......................................................................................................... 33
2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn
Du ............................................................................................................................. 33
2.1.1. Quan niệm về con người đời tư trong thơ cổ phong Nguyễn Du................... 33
2.1.2. Quan niệm về con người - nhân vật lịch sử Trung Hoa trong thơ cổ phong
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du ......................................................................................... 57
2.2. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong thơ cổ phong Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du ............................................................................................................... 65
2.2.1. Không gian nghệ thuật .................................................................................. 65
2.2.2. Thời gian nghệ thuật....................................................................................... 77
Chƣơng 3. THỂ THƠ, NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU THƠ CỔ PHONG
NGUYỄN TRÃI, NGUYỄN DU ........................................................................... 82
3.1. Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du ở phương diện thể thơ ...................... 82
3.2. Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du ở phương diện ngôn ngữ .................. 86
3.2.1. Từ vựng .......................................................................................................... 87
3.2.2. Biện pháp tu từ cú pháp .................................................................................. 96
3.3. Giọng điệu nghệ thuât ..................................................................................... 103
3.3.1. Giọng điệu khái quát, triết lí......................................................................... 103
3.3.2. Giọng điệu đối thoại - tranh biện ................................................................. 109
3.3.3. Giọng điệu u buồn ........................................................................................ 115
PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................... 121
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 123
2
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Các nhân vật lịch sử được nhắc đến trong thơ cổ phong Nguyễn Du ......57
Bảng 3.1. Những bài thơ và câu thơ có sử dụng từ láy trong thơ cổ phong của
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du ..........................................................................................87
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Khi nhắc đến những tác giả của nền văn học trung đại Việt Nam, ta sẽ
không thể nào quên hình ảnh của một con người chịu nhiều oan khiên trong cuộc
sống, với nỗi đau mà sau 20 năm mới được hóa giải. Người mà tôi muốn nói đến
chính là đại thi hào Nguyễn Trãi, một con người với tâm hồn trong sáng, một trái tim
luôn tràn đầy lòng nhiệt huyết và tình yêu thương, suốt cả cuộc đời luôn cống hiến
hết mình cho dân tộc. Nói đến Nguyễn Trãi là nói đến một con người tài năng hiếm
có: nhà tư tưởng, nhà chính trị - nhà quân sự, nhà ngoại giao. Nguyễn Trãi còn được
người đời biết đến với tư cách nhà một nhà văn nhà thơ kiệt xuất. Ông để lại một sự
nghiệp thơ văn khá lớn được sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm, những áng thơ văn
có ảnh hưởng rất lớn trong lịch sử văn học nước nhà. Chính vì vậy, Nguyễn Trãi
được ca ngợi: “là ngôi sao sáng trên văn đàn Việt Nam thế kỉ XV, cũng là ngôi sao
sáng trên văn đàn thế giới”. Nổi bật trong dòng chảy ấy là sự xuất hiện của nhiều tác
giả văn học có tên tuổi như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đặng Trần Côn, Hồ Xuân Hương,
Huyện Thanh Quan… nhưng tôi còn rất ấn tượng với tác giả Nguyễn Du với kiệt tác
Truyện Kiều bất hủ luôn trường tồn mãi với thời gian. Chỉ với Truyện Kiều cũng đủ
để Nguyễn Du trở thành một danh nhân văn hóa thế giới, đại thi hào của dân tộc.
Nguyễn Du còn để lại ba tập thơ chữ Hán càng khẳng định thêm tài năng cũng như sự
nghiệp thơ văn trong nền văn học nước nhà.
1.2. Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du được sáng tác với nhiều thể
loại khác nhau và được các nhà nghiên cứu đánh giá cao. Khi đánh giá về thơ chữ
Hán của Nguyễn Trãi, Phạm Thị Ngọc Hoa đã nhận xét: “Thơ chữ Hán của Nguyễn
Trãi có khả năng sống mãi với thời gian, bởi chất xúc cảm chân thành trong thơ ông
là vô hạn. Thơ ông là một sáng tạo, không phải của từ ngữ, mà của nội dung tâm
hồn” [19]. Còn Mai Quốc Liên đã khẳng định: “Thơ chữ Hán Nguyễn Du là những
áng văn chương nghệ thuật tuyệt tác, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó
mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà
cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung quốc nữa” [31, tr. 7]. Từ những ý nghĩa
và giá trị to lớn của thơ văn chữ Hán của hai tác giả. Chúng tôi vận dụng thi pháp
vào nghiên cứu thơ cổ phong trong thơ chữ Hán Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Thơ cổ
phong tuy chiếm số lượng ít nhưng lại có ưu thế trong việc phản ánh hiện thực cuộc
4
sống một cách đầy đủ, chi tiết, có khả năng giãi bày tâm trạng, bộc lộ thế giới nội
tâm ở nhiều cung bậc cảm xúc vô cùng phong phú. Việc thực hiện đề tài “Thơ cổ
phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp” nhằm mục đích đi sâu tìm
hiểu một số phạm trù của thi pháp như thể loại (vận, luật, ngôn ngữ), một số
phương diện như: hình tượng về con người; không gian, thời gian nghệ thuật; ngôn
ngữ nghệ thuật. Đề tài tập trung vào các phương diện trên vì đây là những phạm trù
cơ bản, quan trọng nhất của thi pháp đồng thời còn làm nổi bật đặc điểm về mặt
hình thức cũng như nội dung của tác phẩm văn học.
1.3. Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu về thơ văn
chữ Hán Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Mỗi công trình nghiên cứu đều được tiếp cận ở
những góc độ khác nhau góp phần phân tích, đánh giá một cách toàn diện thơ chữ
Hán Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và khẳng định vị trí của hai thi hào trong nền văn học
dân tộc. Nhưng chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu vào
nghiên cứu thể thơ cổ phong trong thơ chữ Hán. Ở góc độ tiếp nhận mới, chúng tôi
chọn đề tài “Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp” để
nghiên cứu văn phong của hai tác giả. Tiến hành tìm hiểu nhóm thơ cổ phong trong
tập thơ chữ Hán: “Ức Trai thi tập” của Nguyễn Trãi và ba tập thơ Thanh Hiên thi
tập; Nam trung tạp ngâm; Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du. Qua việc tìm hiểu
nhóm bài thơ cổ phong, chúng tôi bày tỏ lòng kính trọng dành cho hai tác giả, đồng
thời thấy được những đóng góp của hai nhà thơ về thể loại này. Nghiên cứu thơ cổ
phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du góp phần giúp bản thân hiểu rõ hơn về sự hình
thành và phát triển của thơ cổ phong trong nền văn học trung đại Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Về thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi
Trong sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Trãi đã để lại một số lượng tác phẩm văn
học có giá trị. Thơ văn ông cũng rất đa dạng nên được giới nghiên cứu quan tâm.
Chính vì vậy, số lượng công trình nghiên cứu về thơ văn và cuộc đời Nguyễn Trãi
khá nhiều. Sau đây chúng tôi xin điểm qua một số công trình, bài báo nghiên cứu
tiêu biểu về cuộc đời cũng như thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi.
Theo Võ Nguyên Giáp, khi viết về Nguyễn Trãi trong chuyên luận: Nguyễn
Trãi người anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt xuất đã nhận định rằng:
Nguyễn Trãi người anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà tư tưởng lớn,
nhà chiến lược thiên tài. Phần nói về nhà tư tưởng lớn, Võ Nguyên Giáp nhấn
5
mạnh: “Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là kết tinh những tư tưởng tiến bộ,
những giá trị tinh thần và văn hóa của dân tộc ta từ buổi đầu dựng nước cho đến thế
kỉ XV. Tư tưởng nhân nghĩa được Nguyễn Trãi vận dụng thành công và phát triển
rực rỡ trong sự nghiệp giải phóng đất nước tạo nên một bước tiến mới trong lịch sử
tư tưởng của dân tộc” [11, tr. 28].
Phạm Thị Ngọc Hoa trong bài viết “Nghệ thuật sử dụng điển trong Ức Trai thi
tập của Nguyễn Trãi” đăng trên (Tạp chí Hán Nôm, Số 2 (81) 2007 trong bài viết tác
giả khẳng định: “Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi chủ yếu thuộc thể Đường luật.
Ngoài hai bài Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên làm theo thể trường thiên cổ thể
và Côn Sơn ca theo thể trường thiên đoản cú, còn lại là thơ ngũ ngôn, thất ngôn tứ
tuyệt và thất ngôn bát cú… thơ Nguyễn Trãi vẫn đầy sự sáng tạo và có sức lay động
mạnh mẽ lòng người bằng sự chân thật tự thân của nó! “Nguyễn Trãi đã gieo vần theo
một lối thi luật riêng, tự nhiên hơn, phù hợp hơn với cộng đồng người Việt” [20].
Viện sử học, Nguyễn Trãi toàn tập (1976). NXB Khoa học xã hội nhận định
“Duy có Nguyễn Trãi là vị anh hùng cứu quốc không những để lại sự nghiệp còn
ghi trong chính sử, mà còn để lại khá nhiều tác phẩm nói lên tư tưởng của ông về
các mặt triết học, quân sự, chính trị và thơ văn hết sức quý báu” [69, tr.7].
Tác giả Nguyễn Huệ Chi với bài viết “Niềm thao thức lớn trong thơ Nguyễn
Trãi” đã đem đến cách nhìn nhận mới trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi “Đọc
Tập thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi ta lại bị cuốn hút vào cái màu sắc của một thiên
nhiên vô vàn hùng tráng; ta say mê trước khí tượng của sông núi được nhắc đến
trong thơ và trên từng câu thơ trữ tình thắm thiết, ta bỗng lặng người đi trước bề sâu
của một tâm hồn vĩ đại ” [47, tr. 453,454].
Đây cũng là quan điểm của tác giả Đinh Thị Khang với bài viết “Thơ
Nguyễn Trãi viết về giai nhân” in trên tạp chí VHNT số 333 tháng 3-2012 có
nhận định “Tập thơ đã bao quát một không gian thiên nhiên rộng lớn, từ di tích
lịch sử đến danh lam thắng cảnh, từ vẻ kỳ vĩ hùng tráng đến vẻ mỹ lệ nên thơ.
Thơ Ức Trai đem đến sức cuốn hút của một thiên nhiên hùng tráng: nơi cửa
biển Thần Phù, núi rừng Lam Sơn, cửa biển Bạch Đằng - những địa điểm liên
quan đến cuộc kháng chiến chống xâm lược thời Trần, thời Lê. Khí tượng sông
núi, vẻ hùng vĩ của thiên nhiên kỳ tích được mô tả với bút pháp và phép liên
tưởng truyền thống của thơ ca trung đại” [26].
6
Tác giả Trần Thị Băng Thanh trong bài viết “Ức Trai thi tập và thơ chữ Hán
đời Trần” đã đưa ra nhận xét “Ở phần thơ chữ Hán này Nguyễn Trãi “giữ lại” nét
hào hùng, kiên nghị, khí phách của nhà thơ thời chống quân Nguyên thế kỷ XIII,
Nguyễn Trãi cũng “giữ lại” tính triết lí sâu sắc mà phóng khoáng, táo bạo của tinh
thần thiền đời thịnh Trần, đồng thời với sự tiếp thu nét ưu tư, thương dân, băn
khoăn về trách nhiệm kẻ sĩ của các nhà thơ cuối Trần mà nổi bật hơn cả là Trần
Nguyên Đán và Nguyễn Phi Khanh…” [47, tr. 521].
Tác giả Bùi Duy Tân lại đem đến đề tài“Anh hùng và cảm quan anh hùng qua
thơ văn Nguyễn Trãi” trong bài viết tác giả đưa ra nhận định “Cảm quan anh hùng
của Nguyễn Trãi vừa có tính hàm súc vừa có tính nhạy bén, tinh tế. Với tâm hồn
của một người nghệ sĩ, với trí tuệ của một nhà tư tưởng lớn của thời đại, Nguyễn
Trãi đều cảm nhận được, tổng kết được. Những tư tưởng nhân nghĩa, khử bạo, an
dân, thương dân… Từ quan niệm anh hùng đến cảm quan anh hùng, có thể thấy
Nguyễn Trãi đã có những đóng góp không nhỏ vào truyền thống viết về người anh
hùng của văn học dân tộc” [47, tr. 542].
Những công trình bài viết trên chính là cơ sở là tiền đề cho chúng tôi tiếp tục
đi sâu nghiên cứu, khám phá thêm những cái hay, cái đẹp trong thơ văn chữ Hán
của Nguyễn Trãi. Nhưng do tính chất, phạm vi, mục đích của các công trình, các bài
viết, chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nghiên cứu nào đi vào nghiên cứu thơ
cổ phong trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi. Mặc dù, nhóm thơ cổ phong của
Nguyễn Trãi chỉ chiếm một con số rất nhỏ, nhưng không phải vì thế mà nó không
có giá trị, tìm hiểu thơ cổ phong Nguyễn Trãi để hiểu rõ hơn về con người cũng như
giá trị thơ văn Nguyễn Trãi để lại cho nền văn học dân tộc.
2.2. Về thơ chữ Hán của Nguyễn Du
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du trong những năm gần đây rất được các nhà
nghiên cứu quan tâm, vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu tìm hiểu về sáng tác
thơ chữ Hán của ông. Tuy nhiên, theo sự tìm hiểu của chúng tôi thì do mục đích của
các công trình chi phối nên vẫn chưa có một nghiên cứu nào đi sâu vào tìm hiểu về
thể thơ cổ phong trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du.
Đào Duy Anh trong bài viết Thi tập của Nguyễn Du trong công trình Khảo
luận về Kim Vân Kiều, (Nhà xuất bản Quan Hải tùng thư, 1943) lần đầu tiên vị trí
của thơ chữ Hán Nguyễn Du được khẳng định “về hình thức cũng như về nội dung,
7
thơ chữ Hán Nguyễn Du có thể để vào hàng với thơ Cao Bá Quát và có thể đem so
sánh với thơ Đường” [1, tr. 207].
Tác giả Xuân Diệu trong bài viết “Con người Nguyễn Du trong thơ chữ Hán”
đã có nhận xét: “Thơ chữ Hán chứa đựng bóng hình, đời sống, nét mặt, mái tóc, dấu
chân, tâm tình, suy nghĩ của Nguyễn Du” không những thế Xuân Diệu còn khẳng
định “Những bài thơ chữ Hán mở cho ta thấy “cái khía cạnh Tố Như”. Có thể nói là
lần đầu tiên, nhiều người trong chúng ta mới được nhìn một số nét về con người của
tác giả Truyện Kiều và Văn chiêu hồn”. [10, tr. 56]
Trong cuốn Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (nhóm Lê Quý Đôn, Nxb.
Xây dựng, H. 1957), Trương Chính khẳng định thơ chữ Hán chẳng những “là
nguồn tư liệu rất quý để tìm hiểu tác giả Truyện Kiều”, mà còn “phải được kể là
những tác phẩm bậc nhất trong văn thơ chữ Hán của cha ông ta ngày trước”.
Theo ông, những sáng tác đó không phải làm để tiêu khiển thù ứng “mà là thứ
thơ chân thành, xuất phát tự tâm can”…Ông còn nhấn mạnh rằng giá trị độc đáo
nhất trong thơ chữ Hán Nguyễn Du là “đã có một ngòi bút hiện thực, điều hiếm
gặp trong các thi tập thời xưa”. [43]
Nhà phê bình Hoài Thanh trong bài viết Tâm tình Nguyễn Du qua một số bài
thơ chữ Hán (Tạp chí Văn nghệ tháng 3/1960) đã nêu lên những mâu thuẫn phức
tạp, trong đó “có một điểm khá rắc rối là thái độ của Nguyễn Du đối với các triều
đại lần lượt thay thế nhau từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX”. Song Hoài
Thanh cũng khẳng định rằng: “ Nhưng giữa một bên là những thế lực bạo tàn nó
ngự trị trên cuộc đời cũ; một bên là hàng vạn vạn con người cơ khổ, thái độ Nguyễn
Du rõ ràng, tình cảm Nguyễn Du chân thành, sâu sắc. Thơ Nguyễn Du do đó có giá
trị hiện thực rất cao, có sức rung cảm mãnh liệt” [58].
Tác giả Lê Trí Viễn trong Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam (Tập II. Nxb.
Giáo dục, H. 1962). Ông đi sâu vào thế giới nhân vật mà Nguyễn Du mô tả
trong Bắc hành tạp lục. Đó là những con người trung can nghĩa khí bị hãm hại;
những kiếp tài hoa lỗi lạc phải lầm than; những kẻ hèn yếu đáng thương. Đặc biệt,
những lời thương cảm trìu mến nhất Nguyễn Du đã dành cho người phụ nữ (người
ca nữ đất Long Thành, Tiểu Thanh, Dương Phi, nàng Vọng Phu). Từ đó, ông khẳng
định rằng “cảm xúc của Nguyễn Du không còn giới hạn trong phạm vi “trông người
mà ngẫm đến ta”, để đau xót cho bản thân mình; Nguyễn Du đau xót và căm giận
8
cho cả cuộc đời; căm giận bọn thống trị tàn nhẫn, đau xót cho tất cả những người
nhân nghĩa gặp phải tai ương [67, tr.153]
Tháng 11 năm 1965, Tạp chí Văn học đăng bài viết Tìm hiểu thơ chữ Hán
Nguyễn Du của Nguyễn Huệ Chi đã mở ra một hướng đi trên hành trình nghiên cứu
thơ chữ Hán Nguyễn Du: kiếm tìm chân dung của chính tác giả - như một hình
tượng được biểu hiện trực tiếp qua những bài thơ viết về mình và biểu hiện gián tiếp
qua các đối tượng trữ tình.
Từ những vấn đề trên chúng ta có thể thấy được rằng các tập thơ chữ Hán của
Nguyễn Du đã thu hút được sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học có
tên tuổi.
Năm 1965, cuốn “Thơ chữ Hán Nguyễn Du”, một công trình nghiên cứu ra
mắt đúng vào dịp kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du. Trong phần giới thiệu
của cuốn sách tái bản (1978), Trương Chính nhận xét: thơ chữ Hán Nguyễn Du “bài
nào cũng chứa đựng một lời tâm sự” và “bộc lộ thái độ sống của ông một cách rõ
nét”. Trương Chính cũng cho biết trong sáng tác của Nguyễn Du, từ Truyện Kiều,
Văn tế chiêu hồn cho đến thơ chữ Hán, “điều nổi bật là nhà thơ rất gần gũi với
những người nghèo khổ, bị ô nhục trong xã hội cũ, và có một cái nhìn hiện thực đối
với xã hội, đối với giai cấp thống trị thời đại ông” [6, tr.17-18].
Đây cũng là quan điểm đánh giá của Lê Thu Yến trong cuốn Đặc điểm nghệ
thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du (Nxb. Thanh Niên. Tp. Hồ Chí Minh 1999) tác giả đi
vào khảo sát cụ thể, đồng thời phân tích các phạm trù: hình tượng con người nghệ
thuật, không gian và thời gian nghệ thuật. Từ đó tác giả Lê Thu Yến nêu lên nhận
định: “có rất nhiều Nguyễn Du trong một Nguyễn Du”. Thấp thoáng trong lời thơ
là: “Nguyễn Du với nỗi đau nhân thế”, “những lo âu vụn vặt đời thường và mập mờ
giữa các làn ranh của tâm trạng là những dự định nhập cuộc không thành, những
bước đi tự tìm mình khắc khoải” [73, tr. 57].
Tiếp thu ý kiến của những người đi trước, kế thừa những thành tựu nghiên
cứu, phê bình về Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Thông qua đề tài này, chúng tôi sẽ cố
gắng đi sâu tìm hiểu toàn diện hơn về “Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ
góc nhìn thi pháp” đây là mảnh đất chứa đựng nhiều hứa hẹn, thú vị mà chúng tôi
cần nghiên cứu.
9
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu:
- Thơ cổ phong chữ Hán của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du.
+ Nguyễn Trãi có “Ức trai thi tập” gồm 105 bài thơ chữ Hán, trong đó có hai
bài làm theo thể thơ cổ phong : Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên và Côn Sơn ca:
+ Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán:
Thanh Hiên thi tập: gồm78 bài chủ yếu viết trong những năm tháng trước
khi ra làm quan nhà Nguyễn, trong đó có bốn bài làm theo thể thơ ngũ ngôn cổ
phong: Hành lạc từ 1; Hành lạc từ 2; Lam Giang; Ký mộng:
Nam trung tạp ngâm: có 40 bài viết thời gian làm quan ở Huế và Quảng
Bình, những địa phương phía nam Hà Tĩnh, quê hương ông. Trong đó có hai bài
được làm theo thể thơ cổ phong: Điệu khuyển; Ngẫu thư công quán bích.
Bắc hành tạp lục: gồm 131 bài thơ sáng tác trong chuyến đi sứ Trung Quốc,
trong đó có 20 bài được làm theo thể thơ cổ phong: Long Thành cầm giả ca; Ninh
Minh giang chu hành; Thái Bình thành hạ văn xuy địch; Thái Bình mại ca giả; Bất
tiến hành; Phản chiêu hồn; Biện Giả; Cựu Hứa Đô; Trở binh hành; Đồng Tước đài;
Liêm Pha bi; Tô Tần đình 2; Dự Nhượng kiều chủy thủ hành; Kinh Kha cố lý; Kỳ lân
mộ; Mạnh Tử từ cổ liễu; Đào Hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích; Lương Chiêu Minh
Thái tử phân kinh thạch đài; Sở kiến hành; Hoàng Mai sơn thượng thôn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Dựa vào Nguyễn Trãi toàn tập, [69] Nguyễn Du toàn tập, [33], vận dụng lý
thuyết thi pháp, các phương pháp khoa học, chúng tôi tiến hành nghiên cứu toàn bộ
thơ cổ phong của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du trên các phương diện nội dung và hình
thức sau: quan niệm nghệ thuật về con người; không gian và thời gian nghệ thuật;
thể thơ, ngôn ngữ, giọng điệu nghệ thuật.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Thi pháp học: Ở đây, chúng tôi vận dụng các lý thuyết thi pháp học để
nghiên cứu các phạm vi đề tài. Đây là phương pháp quan trọng bậc nhất của đề tài.
4.2. Phƣơng pháp thống kê, phân loại: trên cơ sở các tài liệu, tác phẩm,
chúng tôi tiến hành khảo sát, thông kê, phân loại đối tượng. Việc khảo sát, thông kê,
phân loại các đối tượng nghiên cứu giúp sự phân tích, đánh giá có căn cứ xác thực.
10
4.3. Phƣơng pháp lịch sử - cụ thể: Là phương pháp đặt đối tượng nghiên cứu
vào thời đại, bối cảnh cụ thể khi nó ra đời để tìm hiểu sâu hơn về tác giả, tác phẩm,
và đối tượng nghiên cứu.
4.4. Phƣơng pháp so sánh: Đây là con đường để chúng tôi tìm hiểu về đặc
điểm sự vận động và phát triển của thể thơ cổ phong chữ Hán ở mỗi giai đoạn. So
sánh với các thể thơ khác, giữa các tác giả làm theo thể thơ cổ phong để làm nổi bật
đặc trưng thể loại vừa thấy được sự vận động của thể thơ ở mỗi giai đoạn khác nhau.
4.5. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: Là phương pháp được chúng tôi sử
dụng nhằm phân tích một cách kĩ lưỡng các tác phẩm thơ cổ phong chữ Hán của
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Sau đó tổng hợp khái quát chỉ ra những đặc điểm riêng
biệt về nội dung cũng như hình thức, quan niệm nghệ thuật, không gian, thời gian
nghệ thuật, ngôn ngữ, âm vận của hai nhà thơ.
5. Đóng góp của đề tài
Luận văn góp phần vào thành tựu nghiên cứu tác phẩm thơ cổ phong Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du, tiếp tục khẳng định vị trí, tài năng của hai nhà thơ trong tiến trình
văn học trung đại Việt Nam và những đóng góp của hai ông đối với sự phát triển
ngôn ngữ văn học dân tộc.
Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu và giảng
dạy về thể loại thơ cổ phong chữ Hán nói chung và các tác phẩm thơ cổ phong của
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du nói riêng.
Cuối cùng, kết quả nghiên cứu của luận văn mang đến một cái nhìn khái
quát về giá trị nội dung, nghệ thuật và tư tưởng về thơ cổ phong chữ Hán của
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được triển
khai trong 3 chương như sau:
Chƣơng 1. Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du trong mạch thơ cổ phong
trung đại Việt Nam
Chƣơng 2. Thế giới nghệ thuật thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du
Chƣơng 3. Thể thơ, ngôn ngữ, giọng điệu thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du
11
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
THƠ CỔ PHONG NGUYỄN TRÃI, NGUYỄN DU
TRONG MẠCH THƠ CỔ PHONG TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
1.1. Một số vấn đề về thơ cổ phong
1.1.1. Nguồn gốc của thơ cổ phong
Như tên gọi của nó, thể cổ phong xuất hiện và định hình từ “xưa”. Việc xác
định thời điểm ra đời của thể loại cổ phong cũng tồn tại nhiều ý kiến khác nhau.
Bùi Văn Nguyên – Hà Minh Đức trong Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại
cho rằng: “Thể cổ phong tức thể thơ phổ biến ngũ ngôn (5 từ) hay thất ngôn (7 từ)
có trước thơ Đường luật” [39, tr. 270].
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, trong Từ điển thuật ngữ văn
học lại cho rằng: “Thơ cổ phong một thuật ngữ chỉ tất cả những bài thơ cổ được
sáng tác từ đời Đường trở về sau mà không theo luật thơ Đường (không kể từ và
khúc)” [16, tr. 263].
Tác giả Nguyễn Thị Bích Hải trong Thi pháp thơ Đường ở mục Các thể thơ
đời Đường có khẳng định rằng: “Các nhà thơ đời Đường sử dụng hai thể thơ chính
là Cổ thể (gồm cổ phong và nhạc phủ) và Kim thể. Cách gọi này một phần thông
báo cho ta biết sự ra đời của chúng so với đời Đường. Thơ cổ thể ra đời sớm hơn từ
đời Hán” [13, tr.192].
Tác giả Nguyễn Thái Hòa trong cuốn Từ điển tu từ - phong cách thi pháp học
ở mục thơ cổ phong có chỉ ra rằng: “Cổ phong trường thiên (hành) … thể hành rất
phổ biến ở Trung Quốc, xuất hiện trước đời Đường, và các bậc thi bá đời Đường đã
dùng thể này để tạo nên những kiệt tác” [21, tr. 44, 45].
Tác giả Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá trong
Từ điển văn học (bộ mới). “Cổ phong còn gọi là cổ thi hoặc cổ thể thi là thuật ngữ
dùng để chỉ các thể thơ cổ điển ở Trung Quốc trong sự khu biệt với thơ cận thể thời
Đường. Cổ phong bao gồm toàn bộ thơ ca ra đời trước đời Đường” [19, tr. 320].
Trong cuốn Lí luận văn học do Phương Lựu (chủ biên) đã có nhận xét như
sau: “Cổ phong vốn là tên gọi của người đời sau đối với các thể thơ có trước đời
12
Đường. Nhưng tên ấy cũng được dùng để chỉ những bài thơ trong và sau đời Đường
mà không dùng niêm luật chặt chẽ như luật thơ Đường quy định” [36, tr. 453].
Từ các công trình nghiên cứu của các tác giả, chúng tôi nhận thấy hầu hết các
nhà nghiên cứu đều chỉ ra rằng thơ cổ phong xuất hiện từ trước đời nhà Đường
không theo niêm luật nhất định.
Như vậy, có thể khẳng định rằng thơ cổ phong đã có nguồn gốc lâu đời từ đời
Hán đã được khai sinh và trên cơ sở đó nó đã có điều kiện và một môi trường tiếp xúc
thuận lợi để phát triển ở đời Đường. Chính vì vậy, nhiều thi sĩ nhà Đường đã viết những
bài thơ cổ phong rất nổi tiếng như: Nguyệt hạ độc chước của Lí Bạch, Vọng nhạc, Binh
xa hành của Đỗ Phủ. Thơ cổ phong Việt Nam không chỉ xuất hiện trong văn học chữ
Hán mà nó còn xuất hiện trong văn học chữ Nôm. Từ việc tìm hiểu về nguồn gốc của thơ
cổ phong giúp chúng tôi có thể hiểu hơn về sự ra đời cũng như quá trình hình thành và
phát triển của thơ cổ phong trong nền văn học trung đại Việt Nam.
1.1.2. Khái niệm thơ cổ phong
Trong quá trình nghiên cứu về thơ cổ phong chúng tôi nhận thấy rằng thơ cổ
phong còn có nhiều khái niệm khác nhau, cũng như tên gọi của nó vẫn chưa có sự
thống nhất cao giữa các nhà nghiên cứu. Để phần nào hiểu hơn về thể thơ cổ phong,
chúng tôi đưa ra một số quan niệm của các nhà nghiên cứu, giúp có cái nhìn bao
quát, toàn diện hơn về thể loại này.
Bùi Văn Nguyên – Hà Minh Đức trong Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại
miêu tả cổ phong: Người ta gọi thể thơ cổ phong hay gọi tắt là thể cổ phong tức thể
thơ phổ biến ngũ ngôn (5 từ) hay thất ngôn (7 từ ) có trước thơ Đường luật, thể thơ
này chỉ cần có vần hoặc bằng hoặc trắc mà không cần đối nhau, không cần theo một
niêm luật bằng trắc nhất định; lối câu phổ biến là bốn câu (tuyệt cú), tám câu (bát
cú) và trường thiên (hành); thơ cổ phong còn có thể lục ngôn nhưng ít dùng...[ 39,
tr.213, 214].
Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu định nghĩa cổ phong: “lối
này chỉ có số chữ trong câu là nhất định (hoặc ngũ ngôn hoặc thất ngôn); ngoài ra,
không phải theo thể lệ chặt chẽ như lối Đường luật…không hạn số câu, cứ tự bốn
câu trở lên, muốn làm dài ngắn bao nhiêu cũng được”, những bài dài quá 8 câu thất
ngôn hoặc quá 16 câu ngũ ngôn gọi là tràng thiên [15, tr.117].
Bùi Kỷ trong Quốc văn cụ thể phân biệt hai thể thơ Hán văn gồm cổ phong và
Đường luật bên cạnh các lối thơ: tứ tuyệt, tràng thiên, thủ vĩ ngâm, liên hoàn, yết
13
hậu, lục ngôn thể; các biến thể của thơ gồm minh, trâm. Trong đó, cổ phong “là lối
văn có vần mà không đối nhau. Nếu có đối nhau là tùy ý của nhà làm văn, không
phải là một luật nhất định. Cổ phong không có niêm luật, không hạn câu, tự bốn câu
cho đến bao nhiêu câu cũng được”; có lối ngũ ngôn/thất ngôn độc vận hoặc ngũ
ngôn/thất ngôn liên vận [30, tr.36, 37].
Tác giả Đỗ Đức Hiểu trong cuốn Từ điển văn học trong mục Thơ Đường: “Các
nhà thơ Đường sáng tác theo ba thể chính: luật thi, cổ phong, nhạc phủ (có người
cho nhạc phủ cũng là một dạng của cổ phong)” [19, tr.1690].
Nguyễn Thái Hòa trong cuốn Từ điển tu từ - phong cách thi pháp học đã phân biệt
về thơ cổ phong như sau: “Cổ phong còn có tên gọi là cổ thể do các nhà thơ đời Đường
gọi để phân biệt với các thể Đường luật, lúc bấy giờ được gọi là cận thể” [21, tr. 43].
Trần Đình Sử trong Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam kể tên
các thể thơ trữ tình đời Lý - Trần và nhà Lê mạt - Nguyễn thế kỷ XVIII – XIX như
sau: “Theo Thơ văn Lý - Trần (ba tập đã công bố), thì có hơn 200 bài tuyệt cú, hơn
300 bài thất luật, phần còn lại chia cho các thể thơ ngũ tuyệt, ngũ luật, trường đoản
cú, nhạc phủ, cổ phong, lục ngôn, tứ ngôn...”. “...Các thể thơ chữ Hán được sử dụng
rất đa dạng: ngoài thất luật, tuyệt cú ra, các thể ngũ ngôn, cổ phong, ca hành đều
được sử dụng...” [54, tr.168, 169].
Trong cuốn Từ điển văn học (Bộ mới) trong mục Thơ cổ phong đã đưa ra
nhận định như sau: “Thơ cổ phong không có quy định về cách luật như các thể thơ
đời Đường nghĩa là không có niêm, luật, đối…thơ cổ phong không giới hạn về độ
dài, bài thơ từ bốn câu trở lên, muốn dài ngắn bao nhiêu tùy tác giả, cũng có bài làm
sáu câu, hoặc 12 câu; những bài thất ngôn dài quá 8 câu, bài ngũ ngôn dài quá 16
câu gọi là trường thiên, những bài làm theo thể hành có độ dài khá lớn…số chữ
trong câu cũng được sử dụng khá linh hoạt có thể toàn bài theo thể tứ ngôn, ngũ
ngôn, lục ngôn, hoặc thất ngôn, cũng có thể sử dụng những câu dài, ngắn khác nhau
trong cùng một bài” và cuối cùng tác giả đi đến kết luận “ Thơ cổ phong là chỉ các
thể thơ không bị cấu thúc vào vần, niêm, thanh điệu và đối ngẫu”. [19, tr. 320]
Tác giả Nguyễn Thị Bích Hải trong Thi pháp thơ đường cũng khẳng định thơ cổ
thể có hai dạng: cổ phong và nhạc phủ. Trong bài viết nhà nghiên cứu chỉ rõ: Thơ cổ
phong không có luật lệ nhất định không hạn định về số câu trong bài và số chữ trong
câu cũng tương đối tự do - Tuy rằng năm chữ và bảy chữ nhưng cũng có co giản, dao
động quanh cái định số năm hoặc bảy đó. Cách gieo vần cũng rất linh hoạt. Có thể
14
dùng độc vận cả bài (cả bài chỉ có một vần), liên vận (nhiều vần nối nhau), có thể
không hiệp vần ở từng bộ phận; có thể dùng vận chính, vận thông hay vận chuyển.
Thể này không quy định niêm luật và cũng không cần đối ngẫu. [13, tr.192, 193].
Tác giả Đào Duy Anh trong cuốn Từ điển Hán Việt xét về mặt chữ nghĩa:
Trong cổ phong; chữ cổ có nghĩa là đời xưa – xưa cũ [2, tr.112], chữ phong có
nghĩa là phong cách, thể cách. Vậy cổ phong là phong cách cổ, một thể cách trong
phép làm thơ, không hạn định ngũ ngôn hay thất ngôn, và cũng không hạn định âm,
luật, bằng, trắc [2, tr.114]. Còn trong cổ thể chữ thể có nghĩa là thể loại. Như vậy,
cổ thể là thể xưa.
Trong các công trình nghiên cứu về thơ cổ phong hầu hết các nhà nghiên cứu
đều quan niệm “cổ phong” và “cổ thể” tuy khác nhau về tên gọi nhưng thực chất chỉ
là một: Trong cuốn Lí luận văn học do Phương lựu (chủ biên) đã nêu Thơ cổ phong
còn gọi là thơ cổ thể (thể xưa) để so sánh với thơ cận thể [36, tr. 453].
Tác giả Bùi Văn Nguyên trong cuốn Tư liệu tham khảo văn học Việt Nam đã đi
đến kết luận: “Thơ cổ phong cũng như dân ca không hạn định số câu, có thể ít nhất là
hai hoặc bốn câu, hoặc sáu câu, tám, mười câu hoặc nữa là rất nhiều câu …Tuy
nhiên, thể cổ phong phổ biến nhất là thể bốn câu, tám câu và thể hành” [38, tr.299]
Theo quan niệm đó, tác giả Trần Thị Hoa Lê trong bài viết Thơ cổ phong chữ
Hán của Nguyễn Du và cuộc đối thoại trường thiên về nhân thế: đã cho rằng “có thể
hình dung cổ phong tương tự “thơ tự do” hoặc giả như “thơ văn xuôi”/“trường ca”
thời hiện đại, có vị trí độc lập bên cạnh lục bát, luật thi hay tuyệt cú... Tuy nhiên,
ranh giới giữa cổ phong và một số thể (thơ) liên quan như nhạc phủ, tuyệt cú,
trường thiên, ca, hành, ngâm... không phải luôn được phân định thật rõ ràng tự giác
và thống nhất trong quá trình sáng tác của người xưa cũng như trong sự thưởng
thức/phê bình của người nay. Thực tế là, quan niệm về cổ phong ngày càng được
mở rộng hơn, bao chứa nhiều hơn các tiểu loại thơ “tự do” khác (đặc biệt là thơ có
nguồn gốc dân gian) thay vì chỉ gồm hai thể ngũ ngôn và thất ngôn” [76]
Thông qua quá trình tìm hiểu về những quan niệm cũng như các định nghĩa
mà các nhà nghiên cứu đưa ra. Chúng tôi thấy rằng các định nghĩa về thơ cổ phong
chưa có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu, nhưng bên cạnh đó những đặc điểm
của thơ cổ phong lại được nêu lên khá rõ.
- Về vần: Thơ cổ phong có thể có một vần (độc vận) hay nhiều vần theo kiểu
vần liền, vần cách không nhất định, nhưng phải có vần mới thành thơ.
15
- Về luật bằng trắc: thơ cổ phong tuy không có niêm luật nhất định và chặt
chẽ như thơ Đường luật, nhưng tất nhiên phải thích ứng với quy luật âm thanh của
tiếng nói do đó phải có tiếng bằng, tiếng trắc xen nhau để đọc cho dễ nghe, hoặc dễ
ngâm. Cách gieo vần trong thơ cổ phong có thể độc vận hay liên vận. Có thể cứ 4
câu lại đổi vần hay cứ 8 câu đổi vần, hoặc mỗi 2 câu đổi vần một lần cũng được.
- Cách đối thì tùy, muốn đối thì đối, muốn không thì không. Nếu đã đối thì
phải đối cho chỉnh. Ý đối ý và chữ đối chữ cho đúng cách.
- Về câu: Thơ cổ phong không bị giới hạn về độ dài, bài thơ từ bốn câu trở lên,
muốn dài ngắn tùy thuộc tác giả; thường phổ biến là những bài 4 câu và 8 câu, cũng
có bài làm 6 câu hoặc 12 câu; những bài thất ngôn dài quá 8 câu, bài ngũ ngôn dài
quá 16 câu gọi là trường thiên, những bài làm theo thể hành thường có độ dài khá lớn.
- Số chữ trong câu, số câu trong một bài cổ phong cũng được sử dụng linh
hoạt, có thể toàn bài theo thể tứ ngôn, ngũ ngôn, lục ngôn, hoặc thất ngôn; cũng có
thể sử dụng những câu dài, ngắn khác nhau trong một bài.
Như vậy, từ việc tìm hiểu những thuật ngữ, khái niệm về thơ cổ phong của các
nhà nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy thơ “cổ phong còn được gọi là “cổ thi” hay “cổ
thể” “đây là một trong những thuật ngữ dùng để chỉ các thể thơ cổ điển ở Trung
Quốc trong sự khu biệt với thơ cận thể thời Đường” [19, tr. 320].
Như đã nêu ở trên, thời gian qua, nhiều vấn đề về thuật ngữ, cũng như nội
dung khái niệm của thơ cổ phong vẫn chưa có sự thống nhất một cách triệt để.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình nghiên cứu, chúng tôi xin đưa ra cách
hiểu về nội dung khái niệm thơ cổ phong như sau.
Thơ cổ phong (hay còn gọi là cổ thi hoặc cổ thể) là lối thơ tự do không chịu sự
quy định nghiêm ngặt về niêm luật, số câu, số chữ/từ, có thể dùng câu tứ ngôn, ngũ
ngôn, lục ngôn, thất ngôn hoặc đan xen câu dài ngắn khác nhau (tạp ngôn), hay
những bài thơ trường thiên. Vần trong thơ cổ phong cũng tự do hơn, có thể dùng
một vần (độc vận) hay nhiều vần (liên vận) nhưng vần vẫn phải thích ứng với quy
luật âm thanh, có nhịp bằng trắc xen nhau cho dễ đọc, dễ nhớ.
Cũng trên cơ sở cách hiểu này, để thuận tiện cho việc nghiên cứu “Thơ cổ
phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du”, chúng tôi quan niệm thơ cổ phong bao gồm trước
hết là những bài thơ sáng tác bằng chữ Hán và làm theo thể tự do như: ca, hành,
ngâm, ngũ ngôn, thất ngôn, trường thiên. Những bài thơ bát cú, tuyệt cú không đưa
16
vào đối tượng khảo sát của đề tài, bởi vì chúng tôi nghĩ dạng thức này không có
ranh giới rõ ràng giữa luật thi và bất luật thi.
1.1.3. Thơ cổ phong và sự xuất hiện thơ cổ phong chữ Hán trong văn học trung đại
Trong dòng chảy của nền văn học trung đại Việt Nam, văn học chữ Hán xuất
hiện rất sớm, tồn tại trong suốt quá trình hình thành và phát triển của văn học trung
đại, bao gồm cả thơ và văn xuôi. Về thể loại văn học chữ Hán chủ yếu tiếp thu các
thể loại văn học từ Trung Quốc như chiếu, biểu, hịch, cáo, truyện truyền kì, tiểu
thuyết chương hồi, thơ cổ phong, thơ Đường luật … dù ở thể loại nào văn học chữ
Hán cũng có những thành tựu nghệ thuật đáng kể.
Người mở đầu cho thể thơ cổ phong trung đại đó chính là tác giả Trần Tung.
Sáng tác của Trần Tung được tập hợp trong bộ Thượng sĩ ngữ lục. Bộ sách gồm bốn
phần: Phần thứ nhất: Đối cơ, gồm những mẩu đối thoại giữa Tuệ Trung với các môn
đệ và các học giả. Phần thứ hai: Cử Công án, gồm 13 công án, mỗi công án có lời
niêm (nhận xét) và một bài kệ của Tuệ Trung. Phần thứ ba: Thi tụng, gồm 49 bài
vừa thơ vừa kệ của Tuệ Trung. Phần thứ tư: Thượng sĩ hành trạng, do Trần Nhân
Tông viết. Sau bài của Trần Nhân Tông là một số bài kệ tụng của các vị đệ tử nổi
danh của ông viết.
Qua việc tìm hiểu và khảo sát có thể thấy, Trần Tung đã để lại hơn 50 bài thơ
chữ Hán được làm theo các thể khác nhau trong đó có các bài thơ cổ phong khá đa
dạng về thể như (ca, ngâm, tạp ngôn; thất ngôn, ngũ ngôn trường thiên) gồm các bài
sau: Phật tâm ca; Mê ngộ bất dị; Phóng cuồng ngâm; Sinh tử nhàn nhi dĩ; Thị đồ;
Trì giới kiêm nhẫn nhục; Trữ từ tự cảnh văn; Trừu thần ngâm. Nhóm thơ cổ phong
của Trần Tung đã phản ánh nội dung tư tưởng gần với đời sống hiện thực mang
nhiều màu sắc. Ông đã để lại trong các tác phẩm văn chương dấu ấn tâm linh thiền
đạo khá lớn, đóng góp không nhỏ cho văn học Thiền và văn học trung đại Việt
Nam. Mặc dù, số lượng các bài thơ cổ phong của Trần Tung để lại không nhiều,
nhưng nó cũng góp phần tạo tiền đề cho quá trình hình thành và phát triển thể thơ
cổ phong trong những giai đoạn sau của nền văn học dân tộc.
Bước sang giai đoạn văn học từ thế kỉ XIV đến hết thế kỉ XVII, một số tác giả
như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có sáng tác theo thể thơ cổ phong,
nhưng xét về số lượng tác phẩm thơ cổ phong không giống nhau.
Đầu tiên chúng tôi khảo sát trong tập thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi: Tập“Ức
Trai thi tập” gồm 105 bài thơ chữ Hán được sáng tác theo các thể loại khác nhau
17
như: thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú và trong đó chỉ có hai bài
thơ được sáng tác theo thể cổ phong đó là bài: Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên và
Côn Sơn ca.
Đến với thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng tôi nhận thấy thơ cổ phong được ông
sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm. Trong Bạch Vân am thi tập (tập thơ chữ Hán)
có hai bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn và ngũ ngôn cổ phong gồm các bài
như: : Trách tử, Trung tân ngụ hứng. Trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập (Tập thơ
chữ Nôm) có 7 bài được làm theo thể cổ phong gồm các bài: Đạo thường; Mặc ai
tài trí; Thú ẩn dật; Thú dưỡng thân; Tăng thử, Thương loạn, Cảm hứng. Nhóm bài
thơ cổ phong của Nguyễn Bỉnh Khiêm nói lên chức năng phản ánh hiện thực xã hội,
trong đó có những bài thơ cổ phong lên án chiến tranh phi nghĩa, phê phán thói
tham lam đục khoét của những kẻ đương quyền, khiến xã hội suy vi.
Sang thế kỉ XVIII đây là giai đoạn văn học có những phát triển rực rỡ nhất
trong văn học dân tộc dưới chế độ phong kiến. Văn học thời kì này đã kế thừa
những di sản văn học quý báu của những thế kỉ trước. Văn học lúc này có chức
năng phản ánh hiện thực xã hội và giải bày tâm trạng của con người. Chính vì vậy,
các tác giả văn học trung đại thời kì này ít nhiều đều có sử dụng thơ cổ phong để
sáng tác. Nhờ đó số lượng các tác phẩm được viết bằng thể cổ phong có xu hướng
tăng dần, nội dung cũng phong phú đa dạng hơn.
Sáng tác thơ cổ phong trong giai đoạn này, chúng ta phải kể đến là tác giả
Đặng Trần Côn với tác phẩm Chinh phụ ngâm rất nổi tiếng. Tác phẩm Chinh phụ
ngâm có 13 tiểu mục khác nhau như: Loạn thời; xuất chinh; sầu tủi; hoài tưởng; cô
lánh; vọng tưởng; sầu muộn; thất vọng; vọng tầm; hoài nghi; ưu lão; nguyện ước;
khẩn cầu. Tác phẩm viết về đề tài chiền tranh, chiến tranh luôn gắn liền với những
vấn đề: tình yêu, lòng thủy chung, sự chờ đợi, hạnh phúc, hi sinh…Chinh phụ ngâm
là tác phẩm nói lên sự oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa đồng thời thể hiện
tâm trạng khát khao tình yêu, hạnh phúc đôi lứa. Thể thơ phóng túng tự do có ưu
điểm tạo nên sự linh hoạt trong mạch thơ, nhịp thơ dồi dào nhạc tính làm cho khúc
ngâm luôn đổi mới, phù hợp với tâm trạng và tình cảm của người chinh phụ.
Hay khi tìm về với 250 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, chúng tôi nhận thấy
thơ chữ Hán được ông sáng tác theo những thể khác nhau. Trong tập thơ có 26 bài
thơ làm theo thể cổ phong. Những bài thơ cổ phong của Nguyễn Du có cái nhìn bao
quát hơn về hiện thực xã hội lúc bấy giờ, đặc biệt là nhóm thơ cổ phong được ông
18
viết trong tập Bắc hành tạp lục. Hiện hữu trong mỗi bài thơ cổ phong của Nguyễn
Du, ẩn chứa một câu chuyện, một cảnh ngộ, một cuộc đời của một nhân vật cụ thể
nào đó: ví như bài “Long thành cầm giả ca” kể về cuộc đời của một ca nữ vô danh,
từ số phận cuộc đời của ca nữ trong tác phẩm thấy được số phận bất hạnh của
những người phụ nữ trong xã hội.
Sau tác giả Nguyễn Du, ta bắt gặp những tác phẩm thơ cổ phong trong sáng
tác của Hồ Xuân Hương trong tập“Lưu hương kí” gồm 24 bài thơ chữ Hán và 28
bài thơ chữ Nôm. Trong tập Lưu hương kí có sáu bài được sáng tác theo thể cổ
phong gồm các bài sau: Thu ca phong; Nguyệt dạ ca kỳ 1; Nguyệt dạ ca kỳ 2; Ngư
ông khúc hành; Tặng Tốn Phong Tử. Những bài thơ cổ phong của Hồ Xuân Hương
đã góp phần đem đến một đề tài mới cho thơ cổ phong đó là đề tài tình yêu, là sự
bộc bạch nỗi lòng, tâm sự thầm kín của nhà thơ nói riêng, cũng như những người
phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung.
Bước sang giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX, chúng tôi nhận thấy, Cao Bá Quát là
một trong những tác giả sáng tác theo thể thơ cổ phong nhiều nhất. Khảo sát, trên
251 bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát, chúng tôi nhận thấy ông để lại số lượng tác
phẩm thơ cổ phong tương đối nhiều trên 53 bài thơ cổ phong, chiếm tới 21,1%
trong tổng số 251 bài thơ chữ Hán của ông. So với các nhà thơ khác, Cao Bá Quát
là người sử dụng khá nhiều loại thơ cổ thể trường thiên. Đối với ông, thể tài này
tương đối tự do và dung lượng lớn, thích hợp với những tứ thơ hào mại, sảng khoái.
Những bài thơ cổ phong của Cao Bá Quát được viết theo thể ngũ ngôn, thất ngôn cổ
phong có thể dẫn ra một số tác phẩm như: Ban Siêu đầu bút; Bảo Xuyên ông nhục
kiến thứ họa, tẩu bút thù chi; Bân phong đồ…Từ đây có thể thấy rằng Cao Bá Quát
được xem là một trong những tác giả sáng tác thơ cổ phong nhiều nhất trong nền
văn học trung đại Việt Nam thế kỉ XVIII đến nữa đầu thế kỉ XIX. Chính nhờ những
tác phẩm thơ cổ phong của Cao Bá Quát, thơ cổ phong Việt Nam thực sự đạt tới
phẩm chất “Tập đại thành” của dòng thơ cổ phong.
Như vậy, tìm hiểu sự hình thành và phát triển của thể thơ cổ phong, ở một số
tác giả lớn trong văn học trung đại Việt Nam. Chúng tôi nhận thấy, ở mỗi giai đoạn
phát triển của văn học trung đại đều có các tác giả sáng tác thơ cổ phong. Tuy số
lượng tác phẩm thơ cổ phong ở mỗi giai đoạn không giống nhau, nhưng ít nhiều
cũng góp phần hình thành và phát triển thể thơ cổ phong về sau.
19