MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................................ 3
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................4
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ...........................................................................6
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................7
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu .........................................................7
6. Đóng góp của luận văn ........................................................................................8
7. Bố cục của luận văn .............................................................................................8
Chương 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ
HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO QUẢNG BÌNH TỪ THẾ KỶ XVII
ĐẾN THẾ KỶ XIX ............................................................................................................................. 9
1.1. Điều kiện tự nhiên và vị thế địa lý Quảng Bình thế kỷ XVII-XIX. ..............9
1.1.1. Điều kiện tự nhiên. ..................................................................................9
1.1.2. Vị thế địa lý. ..........................................................................................11
1.1.3. Địa danh và tiến trình lịch sử. ...............................................................12
1.2. Những nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển Phật giáo Quảng
Bình từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX. .................................................................15
1.2.1. Bối cảnh lịch sử Đằng Trong và sự hình thành cộng đồng dân cư vùng
đất Quảng Bình. ..............................................................................................15
TIỂU KẾT ...........................................................................................................................................31
Chương 2: PHẬT GIÁO QUẢNG BÌNH TỪ THẾ KỶ XVII ĐẾN THẾ KỶ XIX ......32
2.1. Vai trò của chính quyền phong kiến, của cộng đồng làng xã và sự phục hồi
Phật giáo Quảng Bình thế kỷ XVII-XIX. ...........................................................32
2.1.1. Vai trò của chính quyền phong kiến và cộng đồng làng xã đối với Phật
giáo Đằng Trong. ............................................................................................32
2.1.2. Sự phục hồi của Phật giáo Quảng Bình từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX.
.........................................................................................................................40
2.2. Dấu ấn Phật giáo Quảng Bình từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX...................59
2.2.1. Quy mô và tổ chức kiến trúc .................................................................59
1
2.2.2. Một số bảo vật tại các chùa ở Quảng Bình. ..........................................64
TIỂU KẾT ...........................................................................................................................................75
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO QUẢNG BÌNH TỪ THẾ
KỶ XVII ĐẾN THẾ KỶ XIX ........................................................................................................76
3.1. Đặc điểm của Phật giáo Quảng Bình từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX. .......76
3.1.1. Phật giáo Quảng Bình phát triển song hành cùng quá trình mở nước và
là tác nhân gắn kết các cộng đồng dân cư trên vùng đất mới. ........................76
3.1.2. Phật giáo Quảng Bình phản ánh giao thoa văn hóa hai miền Nam Bắc.
.........................................................................................................................79
3.1.3. Phật giáo Quảng Bình thế kỷ XVII-XIX mang đậm dấu ấn song hành
của nhiều dòng truyền thừa. ............................................................................81
3.2. Vai trò của Phật giáo trong đời sống văn hóa của người Quảng Bình. .......83
3.2.1. Phật giáo - yếu tố chủ đạo trong văn hóa tâm linh của người Quảng
Bình giai đoạn thế kỷ XVII-XIX. ...................................................................83
3.2.2. Phật giáo đóng góp tích cực trong việc tạo nên nền tảng xã hội của
Đằng Trong. ....................................................................................................85
3.2.3. Phật giáo Quảng Bình góp phần vào sự vận động và phát triển của lịch
sử Quảng Bình trong giai đoạn diễn ra nhiều cuộc chiến tranh, tranh chấp
giữa các tập đoàn phong kiến để đi đến sự thống nhất đất nước. ...................88
KẾT LUẬN .........................................................................................................................................90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................................................................95
PHỤ LỤC
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quảng Bình - vùng đất chịu nhiều biến động xã hội, là địa bàn tranh chấp
quyết liệt của các quốc gia và tập đoàn phong kiến trong suốt chiều dài hàng nghìn
năm lịch sử. Từ vị trí địa chính trị quan trọng đó, Quảng Bình luôn là nơi giao thoa
của các luồng tư tưởng, các tôn giáo; trong đó, Phật giáo đã dừng chân và tồn tại
trong suốt thời gian lâu dài cùng với sự hình thành và phát triển của mảnh đất này.
Phật giáo là tôn giáo lớn của thế giới, có nguồn gốc từ Ấn Độ và sớm truyền
bá vào Việt Nam. Trải qua quá trình thăng trầm của lịch sử dân tộc, với tinh thần
“từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha”, Phật giáo luôn có vai trò nhất định trong tâm linh của
người dân Việt Nam. Ở Việt Nam, dưới các triều đại phong kiến Lý - Trần, Phật
giáo được coi là quốc giáo, sang triều Lê, Nho giáo chiếm thế thượng phong, phục
vụ cho việc xây dựng kỷ cương của nhà nước phong kiến theo hướng quân chủ
chuyên chế, thì Phật giáo trở nên mờ nhạt trong chính trường, nhưng tại các làng xã,
Phật giáo vẫn hiện hữu trong xã hội, góp phần xây dựng những truyền thống văn
hóa tâm linh ở cơ sở.
Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX - khoảng thời gian cầm quyền của các chúa
Nguyễn, triều Tây Sơn và sau là các vua triều Nguyễn, lịch sử phong kiến Việt Nam
có nhiều biến động. Mỗi thế lực cầm quyền đều có những chính sách đối với Phật
giáo, điều đó tác động trực tiếp đến Phật giáo ở vùng đất Quảng Bình.
Đứng trước lịch sử đầy biến động, Nguyễn Hoàng khi vào trấn nhậm xứ
Thuận Quảng đã coi việc “lấy lòng dân” tại vùng đất “xa lạ” là điều rất quan trọng.
Vì vậy, để tạo ra sự hòa hợp trong cộng đồng dân cư trước khi muốn tạo ra những ý
tưởng chính trị lâu dài, các chúa Nguyễn lựa chọn Phật giáo truyền thống và dựa
vào tôn giáo này bước đầu xây dựng nghiệp đồ tại vùng đất mới Đằng Trong. Trong
khi đó, trên cơ sở tín ngưỡng truyền thống của cộng đồng làng xã, chùa làng vẫn
hiện hữu trong ý thức của làng xã và chính niềm tin vào Phật giáo là cơ hội cho sự
tồn tại của những ngôi chùa ở khu vực này.
3
Trong khoảng thời gian cầm quyền của triều Tây Sơn, sau đó là các vua nhà
Nguyễn, Phật giáo Quảng Bình đều có sự phát triển. Đó là sự tồn tại thiết chế vật
chất và thiết chế tâm linh của Phật giáo ăn sâu trong tâm thức tín ngưỡng của người
dân, đóng góp một phần không nhỏ vào đời sống tinh thần của cộng đồng dân cư.
Thông qua Phật giáo, chính quyền phong kiến dưới thời các chúa Nguyễn, triều Tây
Sơn và triều Nguyễn tạo được lòng tin trong một bộ phận lớn nhân dân trên địa bàn
Quảng Bình, là phương sách thu hút sự ủng hộ của nhân dân trong sự nghiệp mở cõi
và phát triển đất nước, để lại những dấu ấn khá đậm nét trong lịch sử dân tộc nói
chung, lịch sử vùng đất Quảng Bình nói riêng.
Vì lẽ đó, nghiên cứu vấn đề Sự hình thành và phát triển của Phật giáo Quảng
Bình thế kỷ XVII-XIX là công việc vừa có ý nghĩa khoa học, vừa mang tính thời sự
và thực tiễn sâu sắc.
Về ý nghĩa khoa học, đề tài góp phần phục dựng lại giai đoạn lịch sử Quảng
Bình thế kỷ XVII-XIX, làm sáng tỏ thêm quá trình hình thành và phát triển của Phật
giáo Quảng Bình trong thời kỳ lịch sử phong kiến Việt Nam có nhiều biến động để
đưa ra những đặc điểm và vai trò của Phật giáo Quảng Bình qua các thời kỳ lịch sử.
Về tính thời sự và ý nghĩa thực tiễn, Phật giáo Quảng Bình là tôn giáo tồn tại
lâu đời và song hành cùng lịch sử mảnh đất này, vì vậy, thông qua việc nghiên cứu
đề tài giúp đánh giá đúng vị trí của Phật giáo trong đời sống tinh thần của cộng
đồng dân cư Quảng Bình, qua đó cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định
các chính sách đối với Phật giáo trong giai đoạn trước mắt và lâu dài.
Với những lý do trên đây, chúng tôi chọn vấn đề “Sự hình thành và phát triển
của Phật giáo Quảng Bình thế kỷ XVII-XIX” làm đề tài luận văn Thạc sĩ khoa học
chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo giai đoạn từ thế kỷ XVII đến thế
kỷ XIX nói riêng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Nhiều công trình của
các tập thể, cá nhân trong nước đề cập đến vấn đề này dưới những góc độ nghiên
cứu và mục tiêu nghiên cứu khác nhau, tiêu biểu như:
4
Tổng quan về Phật giáo Việt Nam và những vấn đề chuyên khảo Phật giáo liên
quan có các công trình: “Lịch sử Phật giáo Việt Nam, ba tập” của tác giả Lê Mạnh
Thát (NXB Thuận Hóa, Huế, năm 1999); “Lịch sử Phật giáo Đàng Trong” của tác
giả Nguyễn Đức Hiền (NXB Tp Hồ Chí Minh, năm 1995); “Lịch sử Phật giáo
Đàng Ngoài” của Nguyễn Đức Hiền (NXB Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh, năm 2009);
“Việt Nam Phật giáo sử luận” của tác giả Nguyễn Lang (NXB Phương Đông, Tp
Hồ Chí Minh, năm 2012); “Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam”
của Đặng Nghiêm Vạn (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2013); “Lịch sử tư
tưởng Việt Nam” của Huỳnh Công Bá (NXB Thuận Hóa, Huế, năm 2015);…
Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam và khu vực phía Nam từ thế kỷ XVII đến
thế kỷ XIX có các công trình: “34 năm cầm quyền của chúa Nguyễn Phúc Chu
(1691 - 1725)” của tác giả Lê Đình Cai (NXB Đăng Trình, năm 1971); “Chúa
Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ
XIX” (NXB Thế giới, Hà Nội, năm 2008); “Xứ Đàng Trong năm 1621” của tác giả
Cristophoro Borri (Hồng Nhuệ, Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị dịch và chú
thích, NXB Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh, năm 2014); “Xứ Đàng Trong lịch sử kinh tế
- xã hội Việt Nam thế kỷ 17 - 18” của tác giả Li Tana (Nguyễn Nghị dịch, NXB Trẻ,
Hà Nội, năm 2014); cuốn “Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802” của Tạ
Chí Đại Trường (NXB Tri thức, Hà Nội, năm 2015)…
Các công trình nêu trên cung cấp một cách nhìn tổng quan về tình hình Việt Nam
và Phật giáo Việt Nam thế kỷ XVII-XIX trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc.
Phật giáo Quảng Bình nói chung và Phật giáo Quảng Bình thế kỷ XVII-XIX
nói riêng cũng được phản ánh qua một số thư tịch cổ đã dịch và ấn hành liên quan
tới đề tài đáng chú ý như: “Ô Châu cận lục” của Dương Văn An (NXB Á Châu);
“Viêm giao trưng cổ ký” của Cao Xuân Dục; “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn;
“Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú; “Đại Nam nhất thống chí”
của Quốc sử quán triều Nguyễn.
Liên quan đến lịch sử phát triển Phật giáo trên địa bàn Quảng Bình có các
công trình như: “Lịch sử Quảng Bình” của tác giả Nguyễn Khắc Thái (NXB Chính
trị Hành chính, Hà Nội, năm 2014); “Địa chí Quảng Bình”, Nguyễn Khắc Thái chủ
biên, đề tài NCKH cấp tỉnh năm 2007, Sở Khoa học công nghệ Quảng Bình;
5
“Những nét đẹp về văn hoá cổ truyền Quảng Bình”, tác giả Nguyễn Tú (NXB
Thuận Hoá, năm 2007); “Địa chí làng Đức Phổ” của tác giả Đặng Thị Kim Liên
(NXB Lao động, Hà Nội, năm 2011); “Những ngôi chùa của tỉnh Quảng Bình” của
tác giả Lệ Quang Phạm Ngọc Hiên (NXB Thuận Hóa, Huế, năm 2012); “Địa chí
Trường Dục” của tác giả Trần Văn Chường (NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm
2015);... Đây là những nguồn tư liệu thiết thực liên quan trực tiếp tới đề tài.
Đặc biệt, trên cơ sở điền dã thực tế tại một số ngôi chùa ở tỉnh Quảng Bình,
Trung tâm Phật giáo Liễu Quán - Huế đã ấn hành tạp chí số 5 (5/2015) - “Những
ngôi cổ tự trên đất Quảng Bình” và số 7 (1/2016) - “Dấu ấn Phật giáo đôi bờ sông
Gianh” với những bài khảo cứu chuyên sâu, trình bày nội dung khái quát về lịch sử
Phật giáo Quảng Bình thông qua các thư tịch cổ, dấu tích còn lại của các ngôi cổ tự
cùng các bảo vật có giá trị hiện còn được bảo lưu. Hai cuốn tạp chí này cung cấp
nguồn thông tin quý giá về Phật giáo Quảng Bình.
Bên cạnh đó, Ban Quản lý Di tích - Sở Văn hóa Thông tin Du lịch Quảng Bình
đã tiến hành xây dựng Hồ sơ Di tích danh thắng núi Thần Đinh (năm 2004) và Lý
lịch Di tích Lịch sử chùa Hoằng Phúc (năm 2010). Việc làm này thiết thực cho thấy
tầm quan trọng của các di tích lịch sử mang dấu ấn Phật giáo như: chùa Kim Phong
- núi Thần Đinh, chùa Hoằng Phúc đối với lịch sử Quảng Bình.
Như vậy, vấn đề “Sự hình thành và phát triển của Phật giáo Quảng Bình thế
kỷ XVII-XIX” bước đầu được các nhà nghiên cứu đề cập trong các công trình nghiên
cứu tổng quan hoặc một số ít công trình chuyên khảo về Phật giáo. Tuy nhiên, do
mục đích, mức độ, phạm vi đề cập và góc nhìn khác nhau của các công trình, cho
đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên khảo toàn diện về diễn trình
phục hồi và phát triển của Phật giáo Quảng Bình từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX
dưới giác độ khoa học lịch sử. Mặc dù vậy, những công trình trên là nguồn tư liệu
quý để tác giả tham khảo và hoàn thành luận văn này.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Sự hình thành và phát triển của Phật giáo
Quảng Bình thế kỷ XVII-XIX, bao gồm: bối cảnh lịch sử và nhân tố tác động tới sự
hình thành và phát triển của Phật giáo Quảng Bình thế kỷ XVII-XIX, sự phục hồi và
dấu ấn của Phật giáo Quảng Bình thế kỷ XVII-XIX, đặc điểm và vai trò của Phật giáo
trong diễn trình lịch sử Quảng Bình từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX.
6
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: luận văn tìm hiểu trong khoảng thời gian từ thế kỷ XVII đến thế
kỷ XIX, trải qua ba thời kỳ: các chúa Nguyễn, triều Tây Sơn và các vua triều Nguyễn.
- Về không gian: vùng đất Quảng Bình, có sự liên hệ đến các vùng ảnh hưởng
trong khu vực phụ cận.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Trình bày có hệ thống và tương đối toàn diện về sự hình thành và phát triển
của Phật giáo Quảng Bình từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX. Trên cơ sở đó rút ra
những đặc điểm và vai trò của Phật giáo Quảng Bình.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn phải thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Thu thập và xử lý các nguồn tư liệu.
- Tái hiện bức tranh toàn cảnh về quá trình hình thành và phát triển của Phật
giáo Quảng Bình từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX.
- Rút ra một số nhận xét về đặc điểm và vai trò của Phật giáo Quảng Bình từ
thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
Đề tài dựa vào các nguồn tư liệu chính:
- Nguồn tư liệu tàng thư lưu trữ tại Viện Hán Nôm, các Trung tâm lưu trữ của
Chính phủ, các trung tâm và cơ sở tư liệu của các cơ quan, các Viện và Trung tâm
khoa học thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Trung tâm lưu trữ tỉnh
Quảng Bình, các kho tư liệu của giáo hội và các cơ sở Phật giáo.
- Nguồn tư liệu từ các công trình khảo cứu về lịch sử nói chung, lịch sử Phật
giáo nói riêng, bao gồm các công trình đã công bố trong giai đoạn nghiên cứu của
đề tài, các công trình khảo cứu về giai đoạn lịch sử nói trên, các chuyên khảo về
Phật giáo, các chuyên luận về Phật giáo đã đăng tải.
- Nguồn liệu điền dã do chính tác giả thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
- Nguồn tư liệu thu thập theo phương pháp chuyên gia qua làm việc trực tiếp
với các nhà nghiên cứu và các nhà tu hành.
7
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Sử học là
cơ sở phương pháp luận của đề tài.
- Để thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp
lôgíc và các phương pháp tiếp cận như: phương pháp văn bản học, phân tích, so
sánh, đối chiếu, tổng hợp,... để phục dựng lịch sử và rút ra những nhận xét, kết luận
khoa học.
6. Đóng góp của luận văn
- Cung cấp hệ thống tư liệu nhận diện bối cảnh lịch sử tỉnh Quảng Bình trong
khoảng thế kỷ XVII-XIX.
- Tái hiện những nét cơ bản về sự hình thành và phát triển của Phật giáo
Quảng Bình từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX.
- Làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và học tập lịch sử nói chung và lịch
sử địa phương nói riêng. Qua đó, góp phần vào việc giáo dục truyền thống, niềm tự
hào về quê hương, đất nước.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo cho các chuyên luận sử
học, Phật học và những ai quan tâm tới vấn đề này.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội
dung của luận văn gồm ba chương
Chương 1: Bối cảnh lịch sử và những nhân tố tác động đến sự phát triển Phật
giáo Quảng Bình từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX.
Chương 2: Phật giáo Quảng Bình từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX.
Chương 3: Đặc điểm và vai trò Phật giáo Quảng Bình từ thế kỷ XVII đến thế
kỷ XIX.
8
Chương 1:
BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ HÌNH
THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO QUẢNG BÌNH TỪ THẾ KỶ XVII
ĐẾN THẾ KỶ XIX
1.1. Điều kiện tự nhiên và vị thế địa lý Quảng Bình thế kỷ XVII-XIX.
1.1.1. Điều kiện tự nhiên.
Quảng Bình là tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ, có diện tích 8.037,6km2. Đây là vùng
đất có chiều ngang hẹp nhất của Tổ quốc Việt Nam. Tại Đồng Hới, chiều ngang từ
Đông sang Tây chỉ khoảng 50km. Địa bàn Quảng Bình trải dài trên một vĩ độ với
toạ độ địa lí là 17005'02" - 18005'12" vĩ độ Bắc, 105036'55" - 106059'37" kinh độ
Đông; phía Bắc giáp tỉnh Hà Tĩnh với đường phân giới dài 136,5km; phía Nam
chung đường biên giới với tỉnh Quảng Trị có độ dài 78,8km; phía Tây là dãy
Trường Sơn hùng vĩ, tiếp giáp với nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, có
đường biên giới dài khoảng 201,87km; phía Đông là biển Đông có đường bờ biển
dài 116,04km.
Địa hình Quảng Bình cấu tạo phức tạp với hình thế đan xen rừng núi gò đồi và
đồng bằng, nhiều nơi núi rừng sát biển, tạo thành độ dốc thấp dần không đều từ Tây
sang Đông. Phía Tây là sườn Đông của dãy Trường Sơn. Phía Đông là dãy đồng
bằng nhỏ hẹp, có nơi chỉ khoảng 5-10km. Địa hình Quảng Bình được phân chia
thành 4 khu vực; vùng đồng bằng, vùng cửa sông có nơi thấp hơn mặt nước biển 23m, trong khi đó, dãi cồn cát lại án ngữ phía Đông cao hơn vùng đồng bằng.
Khoảng 65% diện tích tự nhiên toàn tỉnh là rừng núi, vùng gò đồi chiếm 19,7% diện
tích đất tự nhiên, còn lại là đồng bằng chiếm 11% và vùng cát ven biển chiếm 4,3%
[53, tr.15-16].
Cùng với sự phân hóa địa hình, hệ thống dãy đồi núi chạy xuyên ra biển, các
con sông chính chảy cắt ngang địa bàn tạo nên những tiểu vùng sinh thái tự nhiên.
Quảng Bình nằm trong khu vực đa dạng sinh học Bắc Trường Sơn - nơi có
khu hệ thực vật, động vật đa dạng, độc đáo với nhiều nguồn gen quý hiếm. Đặc
trưng cho đa dạng sinh học ở Quảng Bình là vùng Karst Phong Nha - Kẻ Bàng.
9
Quảng Bình là một tỉnh giáp với biển Đông, có vùng đặc quyền lãnh hải rộng
lớn, tài nguyên biển phong phú, đa dạng, có giá trị về nguồn lợi hải sản, giao thông,
du lịch... Bờ biển Quảng Bình dài 116,04km với 5 cửa sông của 5 con sông chính là
sông Roòn, sông Gianh, sông Lý Hoà, sông Dinh và sông Nhật Lệ. Biển Quảng
Bình nằm trong hệ sinh thái vịnh Bắc Bộ và Trung Bộ, chịu ảnh hưởng sâu sắc của
chế độ hải văn đại dương.
Bờ biển trải dài với nhiều thắng cảnh đẹp: bãi tắm Nhật Lệ, Đá Nhảy, cùng
với ngư trường rộng lớn, trữ lượng khoảng 10 vạn tấn và phong phú về loài (1650
loài), trong đó, nhiều loại quý hiếm, mang giá trị kinh tế cao như tôm hùm, tôm sú,
mực ống, mực nang, san hô. Phía Bắc Quảng Bình có bãi san hô trắng, diện tích
hàng chục ha, đó là nguồn nguyên liệu quý cho sản xuất hàng mỹ nghệ, tạo ra vùng
sinh thái của hệ san hô, góp phần phát triển nền kinh tế tổng hợp vùng ven biển.
Bên cạnh nguồn tài nguyên biển, rừng mang lại, Quảng Bình có nhiều loại
khoáng sản như vàng, sắt, titan, pyrit, chì, kẽm... và một số khoáng sản phi kim loại
như cao lanh, cát thạch anh, đá vôi, đá mable, đá granit... Trong đó, đá vôi và cao
lanh có trữ lượng lớn, đủ điều kiện để phát triển công nghiệp xi măng và vật liệu
xây dựng với quy mô lớn. Khoáng sản phân bố rải đều khắp cả tỉnh: các mỏ, điểm
quặng sắt ở Thu Lộc, Sen Thủy; các mỏ sa khoáng, titan phổ biến ở dọc biển; vàng
sa khoáng ở huyện Tuyên Hóa… Ngoài ra, Quảng Bình còn có 4 nguồn nước
khoáng nóng: suối Bang (Lệ Thủy), Thanh Lâm (Tuyên Hóa), Troóc (Bố Trạch),
Động Ngàn (Bố Trạch); trong đó, suối khoáng nóng Bang là địa điểm du lịch, nghỉ
dưỡng thú vị ở phía Nam Quảng Bình.
Nhìn chung, Quảng Bình là địa phương có địa hình tương đối phức tạp, chia
cắt thành nhiều vùng sinh thái, tạo thành môi trường quần tụ của các tiểu vùng dân
cư. Thiên nhiên Quảng Bình có phần khắc nghiệt; nhưng cũng chính từ sự đa dạng
về điều kiện tự nhiên đã tạo nên nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng, nhiều cảnh
quan đẹp, chứa đựng tiềm năng phát triển du lịch và phát triển kinh tế cho Quảng
Bình. Mặt khác, từ trong khó khăn đó đã hun đúc phẩm chất siêng năng, cần cù
trong lao động, kiên cường, bất khuất trong chiến đấu của con người Quảng Bình.
10
1.1.2. Vị thế địa lý.
Nằm ở điểm trung lưu của Việt Nam, Quảng Bình chính là nơi giao hội của
những đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của hai miền Bắc - Nam, đồng
thời là điểm hội tụ của nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc. Quảng Bình được
xem là bản lề trong không gian đất nước cũng như trong lịch sử dân tộc, là nơi giao
thoa và phát triển văn hóa của các cộng đồng cư dân từ thời tiền sử cho đến ngày
nay, chứa đựng những giá trị lịch sử - văn hóa hết sức phong phú, đa dạng.
“Do vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên có nhiều thuận lợi mà ngay từ thời tiền
sử, cư dân Quảng Bình đã có nhiều mối quan hệ văn hóa với các cộng đồng dân cư
trong vùng, kể cả phía Bắc lẫn phía Nam... những mối quan hệ đó ngày càng phát
triển mạnh mẽ” [48, tr.208].
Ngay từ khi chưa hình thành quốc gia, với những di chỉ khảo cổ học tìm thấy
ở Quảng Bình cho thấy cộng đồng người có mặt rất sớm “dấu ấn sự giao thoa của
các nền văn hóa từ Hòa Bình đến điểm dừng của văn hóa Đông Sơn trên vùng đất
này” [30, tr.24]. Đó chính là chủ nhân của các nền văn hóa khảo cổ khởi nguồn từ
thời đại đồ đá giữa, phát triển mang tính chất liên tục, định hình và có tính hệ thống.
“Những dấu vết của “Văn hóa Hòa Bình cổ điển” trên vùng đất rừng núi phía Tây
Bắc của Quảng Bình là bằng chứng về sự xuất hiện một cộng đồng người đầu tiên,
mở đầu dòng chảy lịch sử Quảng Bình từ thủy đến chung” [58, tr.42].
Nằm trên dải đất hẹp nhất của Tổ quốc, trong lịch sử, Quảng Bình trải qua
nhiều biến cố. Mặt khác, Quảng Bình là nơi gặp gỡ của nhiều cộng đồng dân cư, trở
thành vùng đất chứa đựng sự hội tụ và giao thoa của các sắc thái văn hóa vùng
miền. “Trong lịch sử, vùng đất Quảng Bình ngày nay luôn tồn tại như một vùng
biên của nhiều chiều kích lịch sử” [30, tr.23]. Quảng Bình trở thành lằn ranh giao
thoa và tranh chấp cả trên phương diện chính trị và văn hoá trên trục Bắc - Nam.
“Nó là ranh giới phương Nam lãnh thổ Đại Việt thời nhà Lý được coi là thời
kỳ tạo dựng một nền tự chủ vững bền với Thăng Long là trung tâm của nền văn
hiến,… là nơi khởi đầu các công cuộc mở cõi, không chỉ để mở mang lãnh thổ mà
còn để tiếp nhận những yếu tố văn hóa bản địa "phi Trung Hoa" nhằm gắn kết với
Đông Nam Á và văn minh Ấn Độ” [30, tr.23].
11
Trong mỗi giai đoạn nhất định của dòng chảy lịch sử dân tộc, Quảng Bình là
không gian địa lý chứa đựng những thử thách khắc nghiệt không chỉ của thiên nhiên
mà cả những xung đột xã hội. “Cùng với cuộc phân tranh đẫm máu giữa hai chúa
Trịnh - Nguyễn, Quảng Bình còn là nơi xuất phát những đoàn lưu dân mở mang bờ
cõi về phương Nam theo lời sấm truyền của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm dành
cho Nguyễn Hoàng, người tiên khởi cho sự nghiệp của các chúa Nguyễn “Hoành
Sơn nhất đái vạn đại dung thân” [30, tr.24]. Trải qua hơn nửa thế kỷ chiến tranh
của hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn, Quảng Bình tiếp tục là vùng đất tranh
chấp và là vị trí phân chia ranh giới Đằng Trong và Đằng Ngoài tại sông Gianh.
Xét về mặt kinh tế, ở vào vị trí trung lộ của cả nước, lại nằm trên nhiều đầu mối
giao thông quan trọng với 2 con đường thiên lý chạy dọc đất nước là đường thượng đạo
(ven chân núi) và hạ đạo (ven biển), Quảng Bình là cầu nối của hai miền Nam - Bắc.
Là vùng đất có vị thế địa lý đặc thù, Quảng Bình là nơi hội tụ tất cả những đặc
điểm xã hội - kinh tế - văn hóa của Việt Nam. Chính vì vậy, ngay từ khi các cộng
đồng người Quảng Bình đầu tiên có mặt, ổn định, phát triển và cho tới ngày nay,
con người ở vùng đất nhiều thăng trầm này luôn cần cù, đoàn kết, kiên cường trong
những giai đoạn phát triển của lịch sử Quảng Bình nói riêng, Việt Nam nói chung.
Đề cập đến vị thế tự nhiên của Quảng Bình, ngay từ giữa thế kỷ XVI, tiến sĩ Dương
Văn An nhận định: “Có trời đất mới có núi sông này và nhân vật này. Vì từ khi trời
đất hình thành thì mới có núi sông xuất hiện. Núi sông ổn định nhân vật sinh. Nếu
không có núi sông thì lấy gì để nói rõ công tạo lập của trời đất. Nếu không có nhân
vật thì lấy gì để thấy rõ khí hun đúc tốt đẹp của núi sông” [1, tr.17].
1.1.3. Địa danh và tiến trình lịch sử.
Vùng đất Quảng Bình có bề dày văn hóa hàng nghìn năm. Những cư dân cổ
đầu tiên của Quảng Bình thuộc nền văn hóa Hòa Bình, “tồn tại xuyên suốt cả một
thời gian lịch sử kéo dài từ giai đoạn định hình phát triển cho tới khi chồng lớp với
giai đoạn sớm của thời kỳ đá mới” [58, tr.41]. Cộng đồng người Quảng Bình thời
tiền sử có một nền tảng kỹ thuật đồ đá, đồ gốm cao. Mặt khác, trải qua quá trình dài
từ văn hóa Hòa Bình đến văn hóa Bàu Tró, cư dân đã tạo nên bản sắc độc đáo: văn
hóa Quảng Bình trong bản sắc văn hóa Việt Nam.
12
Dưới thời các vua Hùng dựng nước, vùng đất Quảng Bình nguyên xưa thuộc
xứ Việt Thường. Từ năm 192, vùng đất Quảng Bình thuộc địa vực của quốc gia
Lâm Ấp (sau đổi thành Hoàn Vương, Chiêm Thành). Từ đây, trên vùng đất Quảng
Bình cổ có sự dung hợp giữa văn hoá bản địa có nguồn gốc Việt - Mường với nền
văn hoá mới là văn hoá Chămpa. Đến năm 758, Lâm Ấp đổi tên là Chiêm Thành,
Quảng Bình nằm trong 2 châu: Châu Bố Chính và Châu Địa Lý.
Năm 1069, vua Lý Thánh Tông cử Lý Thường Kiệt đưa quân Nam chinh,
đánh bại quân Chiêm, bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Chế Củ dâng 3 châu Bố
Chính, Địa Lý và Ma Linh cho nhà Lý để chuộc mạng. Vùng đất Quảng Bình
(tương ứng 2 châu Bố Chính, Địa Lý) sáp nhập vào quốc gia Đại Việt, lãnh thổ
quốc gia Đại Việt đã mở rộng qua phía Nam dãy Hoành Sơn (đèo Ngang), mở đầu
cho công cuộc mở cõi về phương Nam trong suốt gần một thiên niên kỷ phát triển
của các vương quốc phong kiến Việt Nam độc lập, tự chủ. “Vùng đất Quảng Bình
trở thành một bộ phần lãnh thổ của Đại Việt là một cơ hội lịch sử để nhân dân
Quảng Bình tiếp tục sự nghiệp khai thiết vùng đất xứ sở của mình trong một điều
kiện mới” [58, tr.149]. Sau đó, Quảng Bình trải qua nhiều lần đổi tên.
Năm 1075, vua Lý Nhân Tông đổi châu Địa Lý thành châu Lâm Bình, vùng
đất Quảng Bình xưa thuộc châu Bố Chính và châu Lâm Bình. Từ đó, vùng đất Bố
Chính (Bắc sông Nhật Lệ) ít thay đổi địa danh nhưng vùng đất Lâm Bình thì thường
xuyên thay đổi địa danh qua các triều đại. Năm 1361, vua Trần Duệ Tông cải châu
Lâm Bình thành phủ Lâm Bình. Năm 1375, đổi thành phủ Tân Bình rồi lộ Tân
Bình. Năm 1397, Hồ Quý Ly đổi lộ Tân Bình thành trấn Tây Bình. Thời thuộc
Minh (1407 - 1427), đổi thành phủ Tân Bình, đem châu Bố Chính và Minh Linh
nhập vào phủ Tân Bình. Thời Lê Thánh Tông diễn ra cuộc cải cách, vùng đất Quảng
Bình tiếp tục được định danh trong bản đồ quốc gia nhà Lê (1469) với tên gọi là
phủ Tân Bình. Năm 1601, nhà hậu Lê đổi phủ Tân Bình thành phủ Tiên Bình.
Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng đất Thuận Hóa với ý đồ thiết lập
hệ thống chính quyền cát cứ phía Nam dãy Hoành Sơn, thúc đẩy sự phát triển toàn
diện cả về kinh tế, văn hóa của vùng đất phía Nam. Năm 1604, chúa Tiên - Nguyễn
Hoàng cho đổi phủ Tiên Bình thành phủ Quảng Bình, năm 1631, đổi thành dinh
Quảng Bình. Danh xưng “Quảng Bình” chính thức xuất hiện, có không gian lãnh
thổ, địa giới hành chính tương đương như ngày nay.
13
Dưới thời các chúa Nguyễn và thời Hoàng đế Quang Trung, địa vực Quảng
Bình nhiều lần thay đổi, với những danh xưng như châu Bắc Bố Chính (ngoại châu
Bố Chính), Nam Bố Chính (nội châu Bố Chính), châu Thuận Chính (trên cơ sở sát
nhập 2 châu Bắc và Nam Bố Chính). Địa vực Quảng Bình dưới thời châu Thuận
Chính phù hợp với địa giới hành chính ngày nay.
Năm 1802, dưới triều Gia Long, châu Thuận Chính chia tách thành Bố Chính
ngoại và Bố Chính nội như trước. Riêng 2 huyện Khang Lộc (sau đổi là Phong Lộc)
và Lệ Thuỷ (Nha Nghi) đặt thành một đơn vị hành chính lấy tên là dinh Quảng Bình.
Năm 1831, Minh Mạng tiến hành cuộc cải cách hành chính trên quy mô toàn
quốc, từ đó, vùng đất Quảng Bình được gắn đơn vị hành chính mới là “tỉnh Quảng
Bình”. Cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng đánh dấu bước ngoặt quan trọng
đối với vùng đất Quảng Bình đầy thăng trầm, biến động. Từ đó, bộ máy hành chính
địa phương ở Quảng Bình được tổ chức chặt chẽ. “Triều Nguyễn xác định lại phạm
vi giới hạn hành chính Quảng Bình, Nam Bắc cách nhau 206 dặm, Đông Tây cách
nhau 126 dặm. Phía Nam Quảng Bình giáp với địa giới huyện Minh Linh tỉnh
Quảng Trị; phía Bắc giáp với địa giới huyện Kỳ Anh (tỉnh Hà Tĩnh) ở cửa Hoành
Sơn, vùng rừng núi thượng du lại giáp với địa giới huyện Hương Khê; phía Đông
giáp bờ biển; phía Tây men theo núi” [58, tr.368].
Tỉnh Quảng Bình có 2 phủ: phủ Quảng Ninh và phủ Quảng Trạch; 7 huyện:
huyện Lệ Thủy, huyện Phong Đăng, huyện Phong Lộc, huyện Bố Trạch, huyện
Bình Chính, huyện Minh Chính và huyện Minh Hóa.
Có thể nói, dưới triều Nguyễn, cơ cấu hành chính Quảng Bình thống nhất và
tương đối hoàn chỉnh. Đó là điều kiện để nhà nước phong kiến tập quyền phát huy
quyền lực, đồng thời, Quảng Bình phát huy thế mạnh của mình trong công cuộc
phát triển kinh tế - xã hội sau này.
Như vậy, sau nhiều biến động lịch sử, đến giai đoạn từ thế kỷ XV đến thế kỷ
XVII, vùng đất Quảng Bình đã được định danh với tên gọi “Quảng Bình”, là đơn vị
hành chính trực thuộc chính quyền Trung ương.
14
1.2. Những nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển Phật giáo Quảng
Bình từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX.
1.2.1. Bối cảnh lịch sử Đằng Trong và sự hình thành cộng đồng dân cư vùng đất
Quảng Bình.
1.2.1.1. Địa bàn Quảng Bình trong bối cảnh phân tranh Bắc Nam.
Trong những năm ba mươi của thế kỷ XVI, lịch sử phong kiến Việt Nam
chứng kiến cuộc nội chiến giữa hai tập đoàn phong kiến đối lập: triều Lê tập hợp
các thế lực ở Thanh Hóa, chống lại nhà Mạc, hình thành cục diện Nam - Bắc triều
kéo dài hơn nửa thế kỷ (1532 - 1592). Năm 1592, nhà Mạc bị tiêu diệt, cục diện
Nam - Bắc kết thúc. Hệ quả của thời kỳ phân tranh Nam - Bắc triều vô cùng nặng
nề, đó cũng là mầm móng của cuộc nội chiến mới với hai thế lực phong kiến Trịnh Nguyễn với nhiều trận chiến tranh chấp diễn ra từ năm 1627 - 1672.
Trước sự lộng quyền của Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng xin vào trấn thủ vùng đất
Thuận Hóa “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” theo lời khuyên của Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nếu như trước đây Hoành Sơn là biên giới tự nhiên giữa
Đại Việt và Chăm pa thì đến thế kỷ XVI, phía Nam dãy Hoành Sơn, với vai trò là
người tiên phong, Nguyễn Hoàng và các vị chúa Nguyễn kế vị đã làm nên sự nghiệp
tại Đằng Trong, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử vùng đất phía Nam sau này.
Sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn viết về núi Hoành Sơn
như sau: “... một dải núi từ xa ở phía tây dăng dài mà đến, ngọn chỏm chồng chất,
kéo ngang ra đến biển, trông như bức trường thành...” [51, tr.30]. Dương Văn An
trong tác phẩm Ô Châu cận lục viết: “Mạch núi ở tổ sơn dẫn đến, có thế rồng cuộn
cọp ngồi, đồi cao ngăn chặn trập trùng, kéo dài ra tới biển, vách dựng đứng hàng
vạn nhận, như bức trường thành án ngữ chặt vùng phương Nam” [1, tr.23].
Vượt qua dãy Hoành Sơn, vùng đất phía Nam chứa đựng nhiều khó khăn.
“Toàn cảnh vùng Thuận Hóa nằm lọt giữa hai trấn sơn, Đèo Ngang ở phía Bắc và
Hải Vân ở phía Nam, chứa đựng nhiều bất ngờ, mới lạ, đang chờ đón người chinh
phục. Biết là vất vả vì lam sơn chướng khí, vì sự dòm ngó của kẻ thù muôn mặt,
nhưng Nguyễn Hoàng cảm thấy hứng thú, vì đây là giang sơn ông phải sống, phải
hành động để thực hiện hoài bão của riêng ông” [27, tr.182].
15
Sau khi vào trấn nhậm Thuận Hóa, bằng những nỗ lực của Nguyễn Hoàng cùng
các tướng lĩnh và dòng người di cư, vùng đất phía Nam Hoành Sơn trở nên trù phú, vị
thế của Thuận Hóa được củng cố vững mạnh. “Một chân trời mới đã mở ra khi đoàn
thuyền của Trấn thủ Nguyễn Hoàng ngược dòng sông Cửa Việt lên đến xã Ái Tử,
thuộc huyện Vũ Xương, nay là huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị” [27, tr.179].
Cũng từ đó, ý đồ cát cứ của chúa Nguyễn ngày càng thể hiện rõ nét hơn. Đó là mối đe
dọa chính quyền chúa Trịnh và nguyên nhân đưa tới nhiều lần giao chiến lẫn nhau.
Để đẩy lùi những đợt tấn công từ phía Bắc của quân Trịnh, chúa Nguyễn đã xây dựng
hệ thống phòng thủ vững chắc trên địa phận Quảng Bình với sự trợ giúp của nhà quân
sự tài ba quê Thanh Hóa - Đào Duy Từ. Với nhãn quan thiên tài của mình, các chúa
Nguyễn cùng với quân sư Đào Duy Từ không chọn những địa điểm hiểm trở để xây
dựng phòng tuyến mà chọn điểm lui để đứng vững trong thế người đánh võ “túc bất
ly địa”, địa bàn làm phòng tuyến gắn liền với hậu phương vững chắc “nhất Đồng Nai,
nhì Hai huyện”, chứ không phải chọn thế “tử ngục” (biển giăng trước mặt, núi vây ba
bề). Mặc dù, Đèo Ngang như “thành”, sông Gianh như “hào”, “thành cao, hào sâu”
hiểm trở, nhưng đó không phải là địa bàn phù hợp bởi không có hậu phương, không
thể đánh lâu dài. Hệ thống thành lũy được xây dựng theo hình thái “phòng tuyến
ngang - thế trận dọc”, lấy thế dọc sông Nhật Lệ làm chỗ dựa cơ động.
“Đào Duy Từ đã lợi dụng triệt để những thuận lợi của điều kiện tự nhiên, địa
thế núi sông, địa hình để xây dựng phòng tuyến… Đào Duy Từ đã giúp chúa
Nguyễn vạch ra nhiều kế sách quân sự quan trọng để đối phó có hiệu quả từ chúa
Trịnh ở Đằng Ngoài, đặc biệt là tổ chức xây dựng hệ thống lũy Đào Duy Từ với các
lũy Nhật Lệ ở Đồng Hới, Trường Dục, Trường Sa ở Phong Lộc. Đây là công trình
thể hiện tư chất, tầm vóc của ông trong nghệ thuật dụng binh và nghệ thuật phòng
thủ, góp phần quan trọng giúp chúa Nguyễn đẩy lùi những cuộc tấn công xâm lấn
của chúa Trịnh ở Đằng Ngoài giữ yên bờ cõi Đằng Trong” [30, tr.30].
Để củng cố, tăng cường sức mạnh phòng thủ, các chúa Nguyễn tiếp tục chăm
lo việc xây dựng thành lũy ở phía Nam sông Gianh. Đây được xem là ranh giới cố
định được định hình, cắt chia hai miền Nam Bắc trong gần 200 năm.
16
Thực tế lịch sử chứng minh, trong suốt ba thế kỷ XVII-XIX, Quảng Bình luôn
ẩn chứa bất ổn, là nơi xung đột và tranh chấp của hai thế lực phong kiến Trịnh Nguyễn. Điều đó gây ra không ít khó khăn cho vùng đất này. Chính trong điều kiện
chiến tranh, bên cạnh việc xây dựng tiềm lực kinh tế, quân sự, hơn lúc nào hết, các
chúa Nguyễn rất cần đến sự an dân và một trong những cứu cánh để an dân là tìm
đến tôn giáo. Trong bối cảnh đó, Phật giáo mang đến cho cộng đồng niềm tin và sự
xích lại gần nhau giữa cộng đồng di dân và cộng đồng bản địa.
1.2.1.2. Các cuộc di dân và sự hình thành cộng đồng dân cư vùng đất Quảng Bình.
Trong bối cảnh ẩn chứa những giao tranh của các thế lực phong kiến, đời sống
nhân dân luôn bị đe dọa; vì vậy, cuộc sống bình yên là ước mơ của cộng đồng dân
cư lúc bấy giờ, cũng là lý do, họ là dòng người tiên phong trong quá trình di dân
theo chúa Nguyễn Hoàng vào Nam khai hoang, lập làng tại vùng đất mới.
Để thực hiện kế hoạch cát cứ lâu dài, xây dựng chính quyền vững mạnh nhằm
chống chọi với lực lượng chúa Trịnh ở phía Bắc, Nguyễn Hoàng và các chúa Nguyễn
kế vị thu nạp một số lượng lớn dân di cư từ miền Bắc. Đoàn người theo chân chúa
gồm những gia đình thân thuộc với chúa Nguyễn trong quá trình gây dựng thế lực khi
còn ở Thanh Hóa; những người nghèo rời bỏ quê hương, tìm tới mảnh đất mới;
những binh lính được đưa từ miền Bắc vào đồn trú, những tù binh và những người bị
bắt trong những lần các chúa Nguyễn đánh ra Bắc, người Chăm và người Việt sở tại,
ổn định nơi ăn chốn ở cho họ, làm chỗ dựa lâu dài. “Có nhiều quan lại cùng với gia
đình họ đã theo Nguyễn Hoàng tới đất Thuận Hóa năm 1558. Nhiều người hương
khúc và nghĩa dũng cũng đi theo họ. Chắc chắn là có những người trong số họ ra đi
với mục đích tìm một tương lai sáng sủa hơn tại vùng đất mới, chứ không phải như
trường hợp của Nguyễn Hoàng để lẫn tránh một tình huống nguy hiểm” [34, tr.30].
Cùng với sự đe dọa từ mối nguy hiểm quân sự, người dân phải chịu nhiều vất
vả từ thiên tai. Trận lũ năm 1559 gây ra thiệt hại nặng nề đối với kinh tế các tỉnh
Thanh Hóa, Nghệ An, mất mùa, nạn đói diễn ra làm cho đời sống cư dân gặp muôn
vàn khó khăn. Một số người bỏ làng, tha phương cầu thực. Họ di cư tới những vùng
đất mới, số lượng người đến Thuận Hóa nói chung, Bố Chính, Quảng Bình nói
riêng ngày càng đông. Trong số những người di cư do đợt thiên tai này có nhiều cư
dân là người huyện Tống Sơn, Thanh Hoá, được Nguyễn Hoàng đưa về sinh sống
17
chung với số dân đã theo Nguyễn Hoàng vào Thuận Hoá từ năm 1558. Nhiều làng
mạc mới hình thành với thành phần dân cư chủ yếu là dân di cư từ Thanh Hóa,
Nghệ An được thành lập tại huyện Khang Lộc (nay thuộc các huyện Quảng Ninh và
một phần huyện Lệ Thủy), Bố Chính (nay thuộc huyện Bố Trạch, Quảng Trạch,
Tuyên Hóa và Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình).
Có lẽ, trong bối cảnh đầy biến động lúc bấy giờ như vậy, cho dù phía Nam
Hoành Sơn là vùng đất đầy bí hiểm trong suy nghĩ của cư dân phía Bắc nhưng đó
cũng chính là “vùng đất hứa” của dòng người theo chân Nguyễn Hoàng. Phan
Khoang trong tác phẩm Việt sử xứ Đàng Trong nhận xét: “Miền Nam luôn là mảnh
đất của những giấc mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn, là một ngõ thoát đối với
người Việt lúc bấy giờ” [34, tr.35]. Liên quan tới vấn đề này, tác giả Hoàng Đình
Hiếu trong Chúa Tiên Nguyễn Hoàng sáng tổ vương quốc Đàng Trong (1525 –
1613) viết: “Một số khác, do lòng cảm mến cũng như được kích thích bởi tinh thần
mạo hiểm, đi tìm đất lạ bên kia dãy Hoành Sơn. Bộ khúc tướng sĩ hơn một nghìn
người” [27, tr.15]. Vì vậy, “như một dòng sông chảy, tuy chậm nhưng liên tục”,
người Việt Nam đã “vượt qua ranh giới Việt - Chăm tiến xuống phía Nam”.
Như vậy, ngay từ thời kỳ chúa Nguyễn mới tạo lập sự nghiệp Nam Hà, trên
địa bàn Quảng Bình bấy giờ có sự hiện diện của một cộng đồng dân cư đa nguồn
gốc, phần lớn trong đó là dân di cư và dân sở tại, bộ phận còn lại là binh lính giải
ngũ và tù binh bị bắt trong chiến tranh. Họ lập thành một hệ thống làng mạc phân
bố rộng khắp trên toàn bộ địa bàn Bố Chính, Quảng Bình.
Thành phần dân cư xứ Thuận Hóa nói chung và khu vực Bố Chính, Quảng
Bình nói riêng khá đa dạng. Trong tác phẩm Việt sử xứ Đàng Trong, học giả Phan
Khoang viết: “Nhân dân Thuận Hoá bấy giờ gồm những thành phần rất phức tạp.
Ngoài những người chăm lo cày cấy, làm ăn, còn những người còn theo nhà Mạc,
hoặc khuấy động cho nhà Mạc, những người tù đày, những du đảng, phiêu lưu từ
các miền Nghệ, Thanh hoặc xa hơn nữa xâm nhập qua các thời đại, đi tìm may mắn
ở miền đất mới, những quan quân bất mãn họ Trịnh hoặc bị lầm lỗi bỏ chạy vào
Nam, những thổ hào, thổ tù cường ngạnh, nhũng nhiễu lương dân, những người
Chàm còn ở lại” [34, tr.110].
18
Tuy nhiên, trong thành phần cư dân phức tạp trên vùng đất Quảng Bình trong
thời kỳ các chúa Nguyễn làm chủ xứ Đằng Trong có cả những người giàu có, những
quan lại đã an trí, những nông dân có tay nghề và kinh nghiệm, tuy không đông
nhưng lại có vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt, giúp cho các thành phần nông
dân không có sản nghiệp, chỉ mang thân đi tìm cơ hội sinh tồn, hạng dân phiêu cư
bạt xứ, những thành phần giang hồ lang bạt… đi theo để mưu tìm tương lai của họ.
Nếu địa bàn quần cư từ xứ Quảng Nam trở vào có nhiều thuận lợi để phát triển
kinh tế - xã hội trong hòa bình thì ngược lại, ở Bố Chính, Quảng Bình, việc định cư
cũng bị chi phối bởi chiến tranh. “Công trình khẩn hoang và giữ đất lúc đầu chỉ do
một số dân từ Quảng Bình trở vào gánh vác. Bấy giờ ưu thế của người Việt không
là kỹ thuật canh tác cao, nhưng là ưu thế về tổ chức chính trị và quân sự. Bộ máy
hành chính khá hoàn hảo đã giúp chúa Nguyễn theo dõi được tình hình ở những địa
phương xa xôi, quân đội có thể tập trung khá nhanh khi cần thiết. Đơn vị xã hội nhỏ
nhất là thôn ấp đủ khả năng tự vệ…” [58, tr.307].
Dòng người di dân vào Nam sinh sống quy tụ, với chính sách khuyến khích
khai hoang vùng đất mới của các chúa Nguyễn đã tạo điều kiện hình thành nên các
làng xã. Trong cuốn Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18,
Litana viết: “Truyền thống của người Việt Nam trong việc duy trì tính chất đại gia
đình đã đóng vai trò quan trọng trong việc di dân xuống phía Nam. Truyền thống
này khuyến khích người di dân đi theo từng nhóm cùng huyết thống hay họ tộc hơn
là đi lẻ tẻ từng cá nhân riêng rẻ hay từng gia đình nhỏ” [38, tr.34].
Trong lịch sử, dân tộc ta chứng kiến những cuộc di dân từ các địa phương
miền Bắc vào Quảng Bình dưới thời Lý, Trần, Lê; đến những năm đầu thời chúa
Nguyễn, dân di cư (cùng một số thành phần khác do nhà nước điều động) đã chiếm
cứ vị trí lan tỏa khắp các địa bàn trong tỉnh, từ vùng bán sơn địa, đồng bằng trước
núi đến đồng bằng ven biển. Mặt khác, vùng đất phía Bắc lúc này, thiên tai, mất
mùa xảy ra, đời sống nhân dân đói kém cũng là nguyên nhân thúc đẩy quá trình di
dân diễn ra mạnh mẽ, làm tăng dân số ở phủ, châu Bố Chính, Quảng Bình trong thời
kỳ đầu chúa Nguyễn, đặc biệt là Khang Lộc và Lệ Thủy.
19
Làn sóng di dân của cư dân Thanh Hóa, Nghệ An vào vùng Thuận - Quảng
vào những năm 50 của thế kỷ XVI là một tất yếu của lịch sử. Trong công trình Xứ
Đàng Trong, lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18, Litana nhận định: “Nếu
Thuận Hóa trước đây xem ra còn là một vùng đất bất trắc, bấp bênh về một số lãnh
vực thì việc họ Nguyễn thiết lập chính quyền ở đây đã được coi như là việc tái
khẳng định quyền của người Việt Nam được định cư tại vùng đất này và vì thế là
một khuyến khích lớn đối với việc di dân” [38, tr.40].
Trong suốt thế kỷ XVII-XIX, cho dù trong bối cảnh chiến tranh Trịnh Nguyễn diễn ra, cuộc di dân từ phía Bắc vẫn tiếp tục, dân số Đằng Trong tăng lên,
số lượng các làng hình thành ngày càng nhiều. Đó là điều kiện để kinh tế - xã hội
Đằng Trong nói chung và Quảng Bình nói riêng có những bước phát triển nhất định.
Quá trình di dân và cộng cư giữa cộng đồng di dân và cộng đồng bản địa đòi
hỏi hòa hợp, gắn kết trên các phương diện kinh tế, văn hóa và đời sống. Một lần nữa,
Phật giáo - tôn giáo truyền thống, gần gũi với tín ngưỡng người Việt, trở thành cứu
cánh tinh thần giúp các cộng đồng cư dân xích lại gần nhau, gắn bó với nhau.
1.2.2. Tình hình kinh tế, xã hội Quảng Bình từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX.
1.2.2.1. Tình hình kinh tế Quảng Bình từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX.
Lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XVII-XIX tác động không nhỏ tới tình hình
kinh tế Việt Nam nói chung và kinh tế Quảng Bình nói riêng.
Với vị trí quan trọng trong chiến lược của mình, các chúa Nguyễn hết sức coi
trọng việc tạo lập nền tảng kinh tế - văn hóa, nhằm mục đích xây dựng cơ nghiệp ở
Đằng Trong, đồng thời tăng cường thêm sức mạnh quân sự, xây dựng thế cầm cự
với chúa Trịnh ở phía Bắc, đặt cơ sở vững chắc cho công cuộc Nam tiến về sau.
Ngay từ buổi đầu khởi nghiệp, Nguyễn Hoàng biết cách thu phục nhân tâm
bằng việc đưa Phật giáo song hành với quá trình Nam tiến. Chính tinh thần “từ bi,
hỷ xả, vô ngã, vị tha” của tôn giáo có mặt từ sớm trên đất nước ta, cuộc sống cư dân
đã ổn định tại vùng đất mới để phát triển kinh tế. “Nhân dân đều an cư lạc nghiệp,
chợ không hai giá, không trộm cướp. Thuyền buồm các nước đến nhiều. Trấn trở
nên một đô hội lớn… Chúa vỗ về quân dân, thu dụng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng,
được dân mến phục, bấy giờ thường xưng là chúa Tiên” [34, tr.110].
20
Với những chính sách thiết thực, vùng đất phương Nam phát triển phồn thịnh.
Nhân dân được khuyến khích khai hoang, đất đai mở mang. Bên cạnh tăng cường
chế độ ruộng đất công làng xã và ruộng tư, chúa Nguyễn còn thi hành chính sách
trưng dụng ruộng bao chiếm của dân làm ruộng công. Ruộng tư được các chúa
Nguyễn thừa nhận và có điều kiện phát triển. Dưới thời các chúa Nguyễn, ruộng đất
công trở thành hình thức sở hữu chủ yếu. Nếu như Thuận Quảng - vùng đất mới
khai phá, “ruộng đất màu mỡ, nhân dân giỏi trồng trọt”, thì ở phía Bắc Bố Chính,
chúa Trịnh lại ít quan tâm phát triển nông nghiệp.
Là chiến trường trực tiếp của cuộc chiến tranh phong kiến Trịnh - Nguyễn
diễn ra gần nửa thế kỷ với nhiều trận chiến lớn nhỏ khác nhau, kinh tế Quảng Bình
lúc bấy giờ ít nhiều bị tác động. Bên cạnh nghề nông là nghề chính, cư dân vùng
Quảng Bình còn phát triển mạnh nghề đánh cá, làm mắm, muối. “Chúa Nguyễn ra
hiểu dụ khuyến khích làm muối, bắt kẻ quấy nhiễu, giảm thuế cho giao dịch mua
bán, từ đó những xã thôn ở gần biển mở nhiều lò nấu” [58, tr.316].
Cùng với sự phát triển của nông nghiệp, thủ công nghiệp, giao thương buôn
bán ở xứ Đằng Trong được các chúa Nguyễn chú trọng. Nhằm tăng thêm sức mạnh
nội lực, “ông (Nguyễn Hoàng) đã tìm thấy giải pháp cho những suy tính của ông
trong việc đẩy mạnh nền thương mại” [58, tr.317]. Trong bối cảnh gặp nhiều khó
khăn của buổi đầu xây dựng cơ nghiệp, thiếu nhân lực, tiền của, không có sẵn quan
hệ với bên ngoài, nhất là khi phải xây dựng trên một vùng đất mới giành được từ
một dân tộc khác có một nền văn hóa khác, thì ngoại thương là yếu tố đưa kinh tế
ổn định và phát triển. Việc giao lưu buôn bán với các thương gia nước ngoài và các
vùng đất lân cận được chúa Nguyễn khuyến khích. Tại Đằng Trong, thương gia
người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Inđônêxia, Nhật Bản đã có mặt, thiết lập quan hệ
buôn bán. “Chúa Đằng Trong không đóng cửa trước một quốc gia nào, ngài để cho
tự do và mở cửa cho tất cả người ngoại quốc, người Hà Lan cũng tới như những
người khác, cùng với tàu chở rất nhiều hàng hóa của họ… Chúa Đằng Trong xưa
kia cho người Nhật, người Hoa chọn một địa điểm và nơi thuận tiện để lập một
thành phố cho tiện việc buôn bán…” [14, tr.92].
21
Hoạt động trao đổi, buôn bán trong vùng phát triển mạnh mẽ, các chợ phiên
hoạt động thường xuyên, phạm vi buôn bán của người Bố Chính, Quảng Bình vượt
ra khỏi địa phận Thuận - Quảng.
“Bất chấp sự ngăn cấm của Trịnh - Nguyễn, nhân dân hai miền vẫn tìm cách
qua lại thăm hỏi và trao đổi buôn bán với nhau. Gạo Đồng Nai, hạt tiêu, đường
mía, vàng Thuận - Quảng vẫn được chở ra Đằng Ngoài…” [27, tr.480].
“Cùng với nguồn hàng lâm, thổ sản, những mặt hàng khoáng sản và thủ công
nghiệp của Quảng Bình cũng giữ vị trí không nhỏ trong hệ thống nguồn thương
phẩm của Đằng Trong xuất đi nước ngoài” [30, tr.187].
Quảng Bình là vùng đất có nguồn hàng và thương phẩm phong phú, đa dạng,
không chỉ đáp ứng nhu cầu rất lớn cho cư dân Đằng Trong mà còn là yếu tố thúc
đẩy hoạt động buôn bán diễn ra tấp nập. “Sự phát triển của thương mại đã kéo theo
sự tham gia mạnh mẽ của thương nhân bản địa. Những cư dân ở châu Nam Bố
Chính có sự tham gia tích cực vào các hoạt động thương mại của Đằng Trong.
Nguồn thương phẩm của Quảng Bình theo đó cũng được buôn bán, trao đổi mạnh
mẽ với các vùng, miền khác của xứ Thuận - Quảng” [30, tr.187].
Mặc dù Quảng Bình hứng chịu tổn thất nặng nề trong chiến tranh Trịnh Nguyễn, nhưng với những chính sách phù hợp về kinh tế của Nguyễn Hoàng, Đằng
Trong trở thành vùng đất trù phú. Sau gần 200 năm nắm quyền, các chúa Nguyễn để
lại dấu ấn quan trọng trong lịch sử dân tộc, đặc biệt là công cuộc mở nước về phía
Nam mà Quảng Bình là địa điểm xuất phát. Đến nửa cuối thế kỷ XVIII, xứ Đằng
Trong rơi vào khủng hoảng chính trị, vai trò lịch sử của các chúa Nguyễn chấm dứt,
nhà Tây Sơn lên thay thế trong bối cảnh đất nước nhiều biến động.
Ngay sau khi kết thúc công cuộc chống ngoại xâm, triều đại Quang Trung bắt
tay xây dựng đất nước. Cùng với việc củng cố bộ máy tổ chức chính quyền và chấn
chỉnh quân đội, Quang Trung ban hành một số chính sách nhằm phục hồi kinh tế,
tăng cường sức mạnh đất nước sau thời gian loạn lạc. Bên cạnh chú trọng ngành
nông nghiệp, Quang Trung đưa ra những chính sách đẩy mạnh giao lưu buôn bán
trong và ngoài vùng. Trước hết, bãi bỏ các thứ thuế, đúc tiền mới, khuyến khích
thuyền buôn của nước ngoài tới buôn bán.
22
Công lao to lớn của Quang Trung là xóa bỏ ranh giới Bắc - Nam tại sông
Gianh, bước đầu thống nhất về mặt lãnh thổ, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển
kinh tế và lưu thông buôn bán thuận lợi hơn.
Tuy nhiên chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, những chính sách của vương triều
Tây Sơn chưa thực sự mang lại nền kinh tế - văn hóa vững chắc cho đất nước và đủ
sức mạnh để triều đại này lãnh đạo đất nước trong thời gian dài.
Sau khi Quang Trung qua đời, nội bộ nhà Tây Sơn bất hòa, đất nước bị phân
chia dẫn đến sụp đổ vương triều. Việt Nam bước vào thời kỳ trị vị của các vua nhà
Nguyễn, trải qua 13 đời vua và cũng là triều đại cuối cùng của chế độ phong kiến
Việt Nam.
Cũng như các triều đại trước, sau khi giành được quyền làm chủ, các vua nhà
Nguyễn ra sức củng cố chính quyền. Để làm được điều đó, triều Nguyễn thi hành
những chính sách nhằm phát triển kinh tế, tạo tiềm lực vững chắc cho đất nước.
Nhà Nguyễn điều hành nhà nước theo hình thức quân chủ chuyên chế, củng cố
quyền lợi dòng họ. Địa bàn Quảng Bình dưới thời Gia Long là một doanh thuộc đất
Kinh kỳ, chịu sự quản lý trực tiếp của Trung ương, đến năm 1826, được gọi là trấn
Quảng Bình. Dưới đời vua Minh Mạng, cuộc cải cách hành chính được thực hiện từ
trung ương tới địa phương. Sau nhiều lần thay đổi, tháng 10/1831, đơn vị hành
chính tỉnh Quảng Bình trực thuộc chính quyền Trung ương.
Quảng Bình dưới thời kỳ các vị vua đầu triều Nguyễn, nền kinh tế có bước phát
triển. Nhà Nguyễn coi trọng việc quản lý ruộng đất và chính sách phát triển nông
nghiệp. “Công việc điều tra ruộng đất, chí ít là trên phạm vi toàn miền Bắc, đã lập sổ
địa bạ để quản lý ruộng đất một cách thống nhất và chặt chẽ, đã được tiến hành một
cách quy mô và vượt xa bất cứ triều đại nào trước đó” [47, tr.59]. Cùng với các
chính sách quản lý ruộng đất, khai hoang, mở rộng diện tích, các vua Nguyễn ban
hành chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp
truyền thống và các nghề phụ khác. Với lợi thế đường bờ biển dài, địa hình phong
phú, tài nguyên biển dồi dào, kinh tế Việt Nam nói chung và Quảng Bình nói riêng
phát triển đa dạng các ngành nghề, bên cạnh phục vụ cho triều đình, cuộc sống hàng
ngày của người dân, các mặt hàng còn trao đổi buôn bán với các địa phương khác.
23
Bên cạnh hệ thống chợ làng truyền thống, các trung tâm thương mại, các chợ đầu mối
hoạt động sôi nổi. Sự thống nhất về mặt hành chính tạo điều kiện cho buôn bán nội
địa phát triển. Mặt khác, nhà Nguyễn thi hành các biện pháp như đúc tiền đồng, tiền
kẽm… để phục vụ cho hoạt động thương mại. So với thời kỳ chúa Nguyễn và nhà
Tây Sơn, thương mại Quảng Bình dưới triều Nguyễn có bước tiến khá dài. “Một số
nguyên liệu như dâu tây và các loại sắt, đồng cũ của Vinh, Hà Nội hoặc Sài Gòn, các
thức ăn như gạo của Nam Định, đường của Quảng Ngãi và của Quy Nhơn, các thức
uống như chè tàu, rượu vang, rượu trắng… những công nghệ phẩm như vải Nam
Định, đồ gốm Thanh Hóa, Quảng Nam và hàng nghìn đồ vật khác bán ở các cửa
hàng và chợ búa. Phần lớn các hàng hóa ấy đều mua ở Vinh, Nam Định và ở Huế.
Hàng xuất ra ngoài tỉnh chủ yếu là hàng hải sản và lâm sản… như nước mắm,
mắm cá, mắm tôm vào Huế và Nam Định, đồ mộc, mây ra Nam Định và Hải Phòng,
nón lá ra Nam Định và Hà Nội, đồ gỗ và các đồ chạm trỗ bằng gỗ gần khắp mọi
nơi, xuất cảng gạo đỏ, ngô, trứng vịt, cau tươi, cau khô” [54, tr.89].
Nhìn chung, trong ba thế kỷ XVII-XIX, mặc dù bối cảnh đất nước nhiều khó
khăn, nhưng các triều đại phong kiến đều có những chính sách phù hợp để cải thiện
tình hình kinh tế, tăng cường tiềm lực chính quyền, chống lại các thế lực thù địch
đang rình rập. Nền kinh tế của Quảng Bình có bước phát triển nhất định, tuy nhiên
quá trình phát triển này chịu sự chi phối mạnh mẽ của bối cảnh lịch sử của vùng đất
nhiều biến động nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam thế kỷ XVII-XIX.
Mặc dù cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến diễn ra nhưng những
tiến bộ về mặt kinh tế thế kỷ XVII-XIX ít nhiều làm cho bộ mặt xã hội Việt Nam
thay đổi đáng kể. Trong điều kiện kinh tế được cải thiện, chính quyền và người dân
quan tâm nhiều hơn đến đời sống tinh thần. Dù mức độ quan tâm của mỗi triều đại
có khác nhau nhưng triều đại nào cũng đầu tư phát triển chùa chiền, tạo điều kiện
thuận lợi cho nhân dân hành đạo. Điều đó cũng kích thích sự mộ đạo của nhân dân.
1.2.2.2. Tình hình xã hội Quảng Bình từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX.
Sau khi vào trấn thủ, Nguyễn Hoàng cùng với những dòng người di dân đã
xây dựng vùng đất Thuận Quảng trù phú, kinh tế phát triển. Điều đó, tạo nên sự ổn
định về mặt xã hội.
24
Là vùng đất phen dậu, nơi xuất phát của quá trình Nam tiến, các chúa Nguyễn,
nhà Tây Sơn, triều Nguyễn đều thấy rõ tầm quan trọng trong việc ổn định về mặt xã
hội ở vùng đất Quảng Bình.
“Một trong những thành công về mặt xã hội của chúa Tiên Nguyễn Hoàng chính là
tạo ra sự ổn định của hệ thống làng xã” [58, tr.322]. Làng xã Việt ở Quảng Bình bước đầu
hình thành dưới thời Lý - Trần và ổn định vào thế kỉ XV-XVII dưới thời các chúa Nguyễn
về cả cấu trúc lẫn văn hóa, đây cũng là thời điểm hình thành nên tỉnh Quảng Bình.
Ngay từ khi vào lập nghiệp ở vùng đất mới, chúa Nguyễn hiểu rõ nhu cầu “an
cư lập nghiệp” của dòng người vào Nam; vì vậy, thu phục nhân tâm bằng những
chính sách an dân, khuyến khích khai hoang là biện pháp trước tiên nhằm cấu kết
lòng dân, cải thiện đời sống nhân dân. Đặc biệt khi chiến tranh Trịnh - Nguyễn diễn
ra, xã hội Quảng Bình nhiều biến đổi, bên cạnh những cộng đồng cư dân hình thành
và ổn định trước đó, lúc này, “số lượng quân lính và người lao động được điều động
đến Quảng Bình khá đông, hình thành một cộng đồng mới, quần tụ theo cấu trúc làng
xã để sản xuất và tổ chức đời sống giữa gian kỳ trận chiến và sẵn sàng từ các làng xã
ấy bước vào hàng ngũ cầm vũ khí, để thực hiện sứ mệnh “Bắc cự” [58, tr.323].
Bên cạnh các dòng họ định cư dưới thời Lý, các cuộc di dân dưới thời Trần
diễn ra ồ ạt hơn. Đặc biệt, vai trò của quan lại, quý tộc nhà Trần khi vào định cư ở
đây, tạo điều kiện mở rộng quy mô khai phá, lập ấp, dựng làng, phát triển kinh tế
vùng đất mới. Hoàng Hối Khanh - Tri huyện Nha Nghi, trấn Tân Bình (Lệ Thuỷ
ngày nay) đưa 12 dòng họ châu Hoan, châu Ái (Thanh Hoá, Nghệ An) vào định cư
lập làng, cùng với dân sở tại, gồm tù binh Chiêm Thành và người Việt được đưa
vào từ thời Lý Thánh Tông và lực lượng nô tỳ được Hoàng Hối Khanh chiêu mộ từ
những người phiêu tán không có sản nghiệp tham gia khai phá đất hoang lập thành
điền trang, cùng với quá trình khai hoang lập điền trang là quá trình lập làng.
“Với ngôi làng mới (ở phía Nam) được thiết lập bởi những người thuộc giai
tầng thấp thay vì bởi bậc vị vọng trong xã hội cổ truyền, một số tri thức bí truyền
liên quan đến lối sống cũ không thể không mất đi. Tuy nhiên, cũng theo lý lẽ đó,
những người khai hoang này ít bị ràng buộc những gò bó của một địa vị xã hội cao
và những quy định trong cách ứng xử của xã hội cũ, nên được tự do phát huy sáng
kiến, một đặc điểm thiết yếu của việc thích nghi đầy hiệu quả của họ khi họ liên tục
tiến xuống phía Nam” [38, tr.227].
25