Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Sự hình thành các thể thơ dân tộc trong văn học việt nam từ thế kỷ xiv đến thế kỷ xix

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (830.65 KB, 94 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

LÊ NGUYỄN HẠNH NGUYÊN

SỰ HÌNH THÀNH CÁC THỂ THƠ DÂN TỘC
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
TỪ THẾ KỶ XIV ĐẾN THẾ KỶ XIX

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Thừa Thiên Huế, năm 2016


ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢ ỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

LÊ NGUYỄN HẠNH NGUYÊN

SỰ HÌNH THÀNH CÁC THỂ THƠ DÂN TỘC
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
TỪ THẾ KỶ XIV ĐẾN THẾ KỶ XIX

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số : 60220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS NGÔ THỜI ĐÔN


Thừa Thiên Huế, năm 2016
i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và
kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho phép
sử dụng và chưa từng công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Lê Nguyễn Hạnh Nguyên

ii


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên,
giúp đỡ.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Ngô Thời Đôn,
người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cám ơn các thầy cô giáo, người đã đem lại cho tôi những kiến
thức bổ trợ, vô cùng có ích trong những năm học vừa qua.
Cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo sau
đại học, Đại học Sư phạm Huế đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập.
Huế, ngày 15 tháng 9 năm 2016

Lê Nguyễn Hạnh Nguyên

iii



MỤC LỤC
Trang phụ bìa……………………………………………………………………….i
Lời cam đoan……………………………………………………………………….ii
Lời cám ơn…………………………………………………………………………iii
Mục lục ........................................................................................................................1
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................3
1. Mục đích, ý nghĩa đề tài ..........................................................................................3
2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................6
4. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................7
5. Đóng góp của luận văn ............................................................................................7
6. Cấu trúc của luận văn ..............................................................................................8
NỘI DUNG ................................................................................................................9
Chƣơng 1 CƠ SỞ CỦA SỰ HÌNH THÀNH CÁC THỂ THƠ DÂN TỘC ..........9
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về khái niệm thể thơ dân tộc .................................9
1.1.1. Thơ và thể thơ ...................................................................................................9
1.1.2. Hệ thống thể loại trong văn học trung đại .......................................................12
1.1.3. Thể thơ dân tộc ................................................................................................15
1.2. Điều kiện hình thành các thể thơ dân tộc ...........................................................17
1.2.1. Điều kiện văn hóa, lịch sử, xã hội ...................................................................17
1.2.2. Điều kiện về hoạt động sáng tác .....................................................................19
1.2.3. Điều kiện về mối quan hệ của văn học trung đại với văn học dân gian .........20
1.3. Những dấu hiệu đầu tiên làm tiền đề cho sự ra đời các thể thơ dân tộc ...........21
1.3.1. Những dấu hiệu từ thơ ca dân gian .................................................................21
1.3.2. Sự phá cách trong thơ Đường luật ..................................................................25
Chƣơng 2 SỰ VẬN ĐỘNG CỦA CÁC THỂ THƠ DÂN TỘC TỪ THẾ KỈ XIV
ĐẾN THẾ KỈ XIX ...................................................................................................30
2.1. Sự vận động của các thể thơ dân tộc về mặt chức năng và nội dung.................30

2.1.1. Thể vãn vè .......................................................................................................31
2.1.2. Thể lục bát .......................................................................................................36

1


2.1.3. Thể song thất lục bát .......................................................................................41
2.1.4. Hát nói .............................................................................................................46
2.2. Sự vận động của các thể thơ dân tộc về hình thức .............................................51
2.2.1. Thể vãn vè .......................................................................................................52
2.2.2. Thể lục bát .......................................................................................................54
2.2.3. Thể song thất lục bát .......................................................................................59
2.2.4. Thể hát nói.......................................................................................................61
Chƣơng 3 THỂ THƠ DÂN TỘC LÀ MỘT THÀNH TỰU LỚN CỦA NỀN
VĂN HỌC DÂN TỘC .............................................................................................65
3.1. Thành tựu nổi bật của các thể thơ dân tộc .........................................................65
3.1.1. Tạo nên những thể loại văn học độc đáo thuần Việt .......................................65
3.1.2. Sự xuất hiện mảng văn học: làm thơ chữ Hán theo thể thơ dân tộc ...............66
3.2. Vai trò của sự hình thành các thể thơ dân tộc trong tiến trình văn học Việt Nam ....72
3.2.1. Thể hiện ý thức dân tộc ...................................................................................72
3.2.2. Đánh dấu bước tiến lớn cho văn học chữ Nôm...............................................73
3.3. Sự vắt dòng của các thể thơ dân tộc từ thế kỷ XIX sang thế kỷ XX .................76
KẾT LUẬN ..............................................................................................................80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................82
PHỤ LỤC

2


MỞ ĐẦU

1. Mục đích, ý nghĩa đề tài
Trong toàn bộ tiến trình văn học dân tộc, văn học trung đại có một vị trí đặc
biệt quan trọng. Văn học trung đại đã phản ánh được đất nước Việt, con người Việt,
đồng thời là ý thức của người Việt về tổ quốc, dân tộc. Có thể thấy nền văn học ấy
đã nảy sinh từ chính quá trình đấu tranh dựng nước, giữ nước vĩ đại của dân tộc. Từ
văn học trung đại, những truyền thống lớn trong văn học dân tộc đã hình thành, phát
triển và ảnh hưởng rất rõ đến sự vận động của văn học hiện đại. Chính vì thế sự
hình thành các thể thơ dân tộc có một vị trí quan trọng trong tiến trình văn học dân
tộc nói chung và trong văn học trung đại nói riêng.
Các thể thơ dân tộc ngay từ khi mới xuất hiện và trong suốt chặng đường về
sau tỏ ra có vai trò đặc biệt trong việc thỏa mãn các nhu cầu sáng tác cũng như nhu
cầu thưởng thức. Sự thành công đó đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu như: Việc
hình thành những thể thơ dân tộc có những điều kiện gì? Chúng đảm nhận vai trò
chuyển tải nội dung ra sao? Chúng đã tồn tại và vận động như thế nào trong quá
trình phát triển của đời sống văn học dân tộc? Các thể thơ dân tộc có vị trí như thế
nào trong tiến trình lịch sử của văn học trung đại?....
Các thể thơ dân tộc có nguồn gốc nội sinh trên nền tảng các thể loại văn học
dân gian, bao gồm vãn vè, lục bát, song thất lục bát và hát nói. Việc hình thành các
thể thơ này thể hiện ý thức dân tộc, tư duy sáng tạo của nhân dân và đánh dấu bước
tiến lớn của văn học chữ Nôm. Với ý nghĩa như vậy việc tìm hiểu quá trình định
hình của các thể thơ này là việc làm cần thiết có tính khoa học, giúp người đọc thấy
được vị thế và tầm quan trọng của các thể thơ dân tộc trong văn học trung đại và
trong tiến trình văn học dân tộc.
Nghiên cứu Sự hình thành các thể thơ dân tộc trong văn học Việt Nam từ
thế kỷ XIV đến thế kỷ XIX có thể góp phần giải quyết một số vấn đề liên quan đến
sự hình thành các thể thơ dân tộc từ đó dẫn đến những gợi mở bổ ích cho thực tiễn
sáng tạo thơ ca cũng như thực tiễn nghiên cứu và giảng dạy thơ ca Việt Nam.

3



2. Lịch sử vấn đề
Các thể thơ dân tộc đặt ra nhiều vấn đề, nhiều hướng tiếp cận khác nhau cho
giới nghiên cứu khoa học cũng như người đọc yêu mến văn học, đam mê tìm hiểu
lịch sử văn học dân tộc. Trong quá trình tìm hiểu, thu thập và xử lý tư liệu, tôi nhận
thấy có những công trình nghiên cứu hay các bài báo, tiểu luận đã ít nhiều đề cập
đến sự hình thành các thể thơ dân tộc. Điều đó chứng tỏ nghiên cứu việc nghiên cứu
về các thể thơ dân tộc đã thu hút được nhiều sự chú ý của giới nghiên cứu khoa học
vì đây là một thành tựu nổi bật và quan trọng trong tiến trình vận động của văn học
Việt Nam. Tuy nhiên, những công trình khoa học hay những bài báo mà chúng tôi
tiếp cận cho đến lúc này chỉ đề cập đến một vài tiểu loại của thể thơ dân tộc mà
chưa có cái nhìn hệ thống.
Vãn vè được đề cập ở mức độ khiêm tốn trong hầu hết các công trình nghiên
cứu văn học trung đại (Lịch sử văn học Việt Nam – nhiều tác giả, Mấy vấn đề thi
pháp trung đại – Trần Đình Sử, Việt Nam văn học sử yếu – Dương Quảng Hàm).
Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức đã chỉ ra ở chương 2: “Các thể thơ ca cổ truyền
Việt Nam” trong quyển Thơ ca Việt Nam – Hình thức và thể loại nhưng chỉ dừng
lại ở những giới thiệu sơ lược, khái quát. Đặc biệt, trong “Khảo và luận một số thể
loại tác giả, tác phẩm văn học trung đại Việt Nam”, giáo sư Bùi Duy Tân đã giới
thiệu về thể tài vãn vè là một thể tài mới trong văn học trung đại Việt Nam giai
đoạn XVI –XVII đạt được nhiều thành tựu. Tác giả cũng đã phân tích một số nét cơ
bản về nội dung và nghệ thuật các tác phẩm vãn của Phùng Khắc Khoan, Đào Duy
Từ và vè của Nguyễn Cư Trinh. Trong công trình Văn học sử giản ước tân biên
(Phạm Thế Ngũ), tác giả đã dành chương IV – tập II để bàn về văn học Nam Hà,
trong đó có đề cập đến vãn, vè phương Nam giai đoạn XVI –XVIII.
Về nguồn gốc của thể lục bát có nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều ý kiến
khác nhau. Ví dụ các công trình nghiên cứu của: Chu Xuân Diên, Phan Diễm
Phương, Nguyễn Xuân Kính, Nguyễn Xuân Đức,… Các nghiên cứu của họ đều gặp
nhau ở một điểm là: Lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam, không
chịu ảnh hưởng của những yếu tố ngoại lai, nó xuất hiện sớm nhất vào thế kỷ

XV trong văn học viết…Về vần, luật, ngôn ngữ, nhịp điệu, chức năng,…có hàng loạt
4


các bài nghiên cứu cho thể loại nói chung và cho các tác giả, tác phẩm nói riêng.
Ngoài ra còn rất nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận văn và luận
án có bàn đến thể thơ này như: “Tản mạn về thể thơ lục bát” (Mai Văn Hoan), “Đi
tìm nguồn gốc thể lục bát Việt Nam” Nguyễn Xuân Đức), “Thể lục bát với tính
cách là phương tiện biểu đạt đa chức năng thể loạ” (Trần Anh Tuấn), .....
Về thể song thất lục bát, tác giả Nguyễn Ngọc Quang trong bài viết “Tìm
hiểu quá trình vận động phát triển của thể loại song thất lục bát” trên Tạp chí văn
học số 5 – 2000 đã chỉ ra được ba giai đoạn phát triển của thể thơ này dựa trên hai
căn cứ điều kiện lịch sử và quá trình vận động nội tại của thể thơ song thất lục bát.
Nhưng tác giả chỉ mới chỉ ra sự vận động về mặt hình thức còn sự vận động về mặt
nội dung thì chưa nhắc đến. Đỗ Thị Hường trong luận văn thạc sĩ “Kết cấu vận luật
của thể song thất lục bát trong tiến trình phát triển thể loại ngâm khúc” đã góp
phần làm rõ thêm những đặc trung của thể song thất lục bát đồng thời cũng là rõ
những bước chuyển biến của thể thơ này.
Về hát nói có một số bài viết như bài “Về nguồn gốc thể thơ hát nói” của
Phạm Quang Ái trên Văn hóa nghệ thuật quân đội, “Vị trí của hát nói trong dòng
văn học chữ Nôm” của Nguyễn Xuân Diện trong Hội thảo quốc tế về chữ Nôm,...
Nguyễn Ðức Mậu trong luận án Tiến sĩ Thể loại hát nói trong sự vận động của lịch
sử văn học được bảo vệ tại Viện Văn học cũng đã tiến thêm một bước khẳng định
thể loại văn học này. Nguyễn Ðức Mậu dành hẳn chương 3: Hát nói là một hiện
tượng nghệ thuật độc đáo của thơ ca dân tộc để phân tích cái hay, cái độc đáo của
thể loại văn học này. Ðặc biệt, Nguyễn Ðức Mậu đã có một nhận xét quan trọng:
“Hát nói đáp ứng những nhu cầu khác truyện Nôm và ngâm khúc”. Chính phát hiện
này đã khẳng định tính độc lập độc đáo của hát nói trong tiến trình thể loại văn học
Việt Nam. Tuy nhiên qua các chương và qua kết luận cuối cùng của luận án,
Nguyễn Ðức Mậu tỏ ra rất dè dặt trong khẳng định vị trí của hát nói trong dòng văn

học chữ Nôm nói riêng, và trong lịch sử văn học nói chung.
Tuy nhiên có rất ít các công trình nghiên cứu chung về sự hình thành của các
thể thơ dân tộc hay đặt các thể thơ trong cùng một hệ thống để đối chiếu, so sánh,
nhận định một cách khái quát về sự hình thành của chúng trong tương quan với hệ
5


thống các thể thơ có ảnh hưởng từ Trung Hoa. Cho đến nay có thể kể đến Phan Thị
Diễm Phương với công trình “Nghiên cứu so sánh sự phát triển về cấu trúc âm luật
và chức năng biểu đạt của hai thể thơ lục bát và song thất lục bát”. Tác giả đã
nghiên cứu sự phát triển về cấu trúc âm luật của hai thể thơ trong thơ ca Việt Nam
thời kỳ trung đại, cận đại. Ngoài ra tác giả còn đề cập đến lục bát và song thất lục
bát trong thơ ca Việt Nam hiện đại.
Bên cạnh đó có những bài viết nghiên cứu về thể thơ dân tộc trên cơ sở tiếp
nhận và vận dụng, phát triển trong văn học hiện đại như bài viết “Sự tiếp nhận các
thể thơ truyền thống dân tộc trong văn học yêu nước - cách mạng Nam Bộ 1900 –
1945” của Nguyễn Văn Triều, “Hệ thống thể loại trong Thơ mới 1932 -1945” của
Biện Thị Quỳnh Nga, ....
Có thể thấy rằng, việc nắm bắt và chiếm lĩnh những vấn đề thuộc về văn học
trung đại đối với người đọc cũng như những người quan tâm thuộc thời hiện đại
luôn là một vấn đề còn nhiều khó khăn và trở ngại do nhiều yếu tố khách quan lẫn
chủ quan. Hơn nữa với một vấn đề lớn như vấn đề các thể thơ dân tộc thì việc tìm
hiểu luôn luôn cần thiết. Vì lẽ đó, nghiên cứu sự hình thành của các thể thơ dân tộc
là một hướng đi có ý nghĩa trên con đường khám phá, tiếp nhận và tiếp tục phát huy
những giá trị của nền văn học trung đại.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Các thể thơ dân tộc: vãn vè, lục bát, song thất lục bát, hát nói. Các tác phẩm
phục vụ cho quá trình nghiên cứu sẽ được nêu ở phần phụ lục.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là sự hình thành các thể thơ dân tộc trong văn
học Việt Nam từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XIX. Khi tìm hiểu sự hình thành của các thể
thơ dân tộc chúng tôi đi tìm hiểu bản chất, những tiền đề từ bên trong và các yếu tố
có ý nghĩa tác động đến sự hình thành và phát triển của các thể thơ này. Bên cạnh
đó chúng tôi cũng trình bày những biểu hiện cụ thể của sự vận động của các thể thơ

6


về chức năng nội dung cũng như hình thức. Nhất là hướng đến các nhà sáng tác đã
làm cho thể loại dân tộc trở nên xuất sắc từng thời.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp so sánh: vận dụng phương pháp này nhằm làm nổi bật sự
hình thành các thể thơ dân tộc trong tiến trình vận động của văn học trung đại
- Phương pháp cấu trúc – hệ thống: phương pháp này nhằm xây dựng một
cấu trúc hợp lí để thấy được mối quan hệ của các yếu tố trong quá trình hình thành
các thể thơ dân tộc
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng để làm sáng tỏ những
vấn đề cụ thể của sự hình thành các thể thơ dân tộc cũng như lý giải, khái quát ý
nghĩa của sự hình thành đó.
- Phương pháp thống kê, miêu tả: sử dụng nhằm khảo sát vấn đề trong tính
hệ thống, trên cơ sở thống kê, miêu tả các yếu tố trong quá trình định hình các thể
thơ để chỉ ra những giá trị nổi trội, mang tính kết luận.
Về mặt tư liệu người viết sẽ tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu, tổng hợp tất cả
tư liệu có liên quan đến đề tài mà đặc biệt là những bài viết của những nhà nghiên
cứu, phê bình, bình luận văn học, từ đó chọn lọc ra những ý kiến tiêu biểu để đưa
vào bài viết nhằm giúp luận văn có tính chính xác cao và thuyết phục.
5. Đóng góp của luận văn
- Cung cấp một cái nhìn có tính chất tương đối tổng quát và xuyên suốt quá
trình hình thành của các thể thơ dân tộc. Khẳng định trong tiến trình phát triển, văn

học không ngừng vận động, có tiếp thu đổi mới đồng thời kế thừa truyền thống văn
học dân tộc.
- Vẽ nên một bức tranh tương đối đầy đủ các thể thơ dân tộc và khẳng định
về quá trình cũng như vai trò sự hình thành của các thể thơ dân tộc trong văn học
trung đại.

7


- Kết quả nghiên cứu góp phần xác định vị trí của các thể thơ dân tộc trong
dòng chảy thơ ca nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Tạo nguồn tư liệu về
việc nghiên cứu các thể thơ dân tộc.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phần nội dung luận văn
được triển khai thành ba chương như sau:
Chƣơng 1: Cơ sở của sự hình thành các thể thơ dân tộc
Chƣơng 2: Sự vận động của các thể thơ dân tộc từ thế kỷ XIV đến thế
kỷ XIX xét về mặt nội dung và hình thức.
Chƣơng 3: Thể thơ dân tộc là một thành tựu lớn của nền văn học dân tộc.

8


NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ CỦA SỰ HÌNH THÀNH CÁC THỂ THƠ DÂN TỘC
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về khái niệm thể thơ dân tộc
1.1.1. Thơ và thể thơ
Thơ là hình thái văn học đầu tiên của loài người. Ở nhiều dân tộc, trong một
thời gian tương đối dài, các tác phẩm văn học đều được viết bằng thơ. Vì thế trong

lịch sử văn học của nhiều dân tộc nói đến thơ ca tức là nói đến văn học.
Thơ là một hình thức nghệ thuật dùng ngôn từ làm chất liệu. Sự chọn lọc từ
cũng như tổ hợp của chúng được sắp xếp dưới một hình thức logic nhất định tạo nên
hình ảnh hay gợi cảm âm thanh có tính thẩm mỹ cho người đọc, người nghe. Lịch
sử nghiên cứu và phê bình văn học đã được chứng kiến rất nhiều định nghĩa về thơ.
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học
cho rằng: Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện tâm
trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là
có nhịp điệu [10, tr.262]. Định nghĩa này đã định danh một cách đầy đủ về thơ ở cả
nội dung và hình thức nghệ thuật. Đặc biệt định nghĩa đã khu biệt được đặc trưng cơ
bản của ngôn ngữ thơ với ngôn ngữ trong những thể loại văn học khác.
Theo Từ điển Tiếng Việt, thể là hình thức sáng tác thơ văn; thể loại là hình
thức sáng tác văn học nghệ thuật chia theo phương thức phản ánh hiện thực, vận
dụng ngôn từ [22,tr.900]. Còn trong Từ điển văn học: Thể loại là một dạng thức tồn
tại của tác phẩm văn học được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá
trình phát triển của lịch sử văn học thể hiện sự giống nhau về cách thức tổ chức tác
phẩm, về đặc điểm của các loại hiện tượng đời sống được miêu tả và về tính chất
của mối quan hệ của nhà văn đối với các hiện tượng đời sống ấy [5,tr.202-203].
Như vậy, thể thơ là cách thức làm thơ. Hay nói cách khác, cách thức tổ chức
ngôn từ khác nhau sẽ tạo nên những bài thơ khác nhau xét về hình thức biểu đạt.
Loại rộng hơn thể, thể nằm trong loại.

9


Nói tới thể loại văn học là đề cập tới dạng thức của tác phẩm văn học, được
hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình phát triển lịch sử của văn
học, thể hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm các loại
hiện tượng đời sống được miêu tả và về tính chất của mối quan hệ của nhà văn đối
với các hiện tượng đời sống ấy [10,tr.299]. Bất cứ một tác phẩm văn học nào cũng

luôn được xem xét và xác định xem nó thuộc thể loại nào, bởi lẽ không có tác phẩm
nào lại tồn tại ngoài hình thức quen thuộc của thể loại. Các tác phẩm thơ cũng vậy,
dù sáng tác ở thời kỳ nào, người sáng tác là ai, sáng tác nhằm mục đích gì thì đều
gắn với một thể loại nhất định. Thế loại là dạng thức cụ thể và hình thái cụ thể của
tác phẩm văn học hiển hiện trước mắt độc giả, là cơ sở để độc giả nắm bắt, nhận
thức tác phẩm văn học.
Để là một thể loại, ít nhất có một số điểm sau: Sự ổn định tương đối biểu
hiện ở sự công nhận của người sáng tác và công chúng về cách thức tổ chức, hình
thức xây dựng tác phẩm: dung lượng, phương thức phản ánh, thủ pháp nghệ thuật,
ngôn ngữ, kết cấu, mức độ triển khai..., về nội dung, đề tài, mức độ thông tin, chất
liệu sử dụng khai thác, hướng tiếp cận, giải quyết...Tất cả những yếu tố ổn định này
đều được kiểm nghiệm trong thực tiễn sáng tác ở một thời gian khá lâu dài. Chúng
được đánh giá như sản phẩm sáng tạo của tập thể, mang tính xã hội, phổ cập chứ
không tuỳ thuộc ý muốn chủ quan của một tác giả cụ thể nào. Mỗi cá nhân đóng
góp một phần từ khâu tìm tòi đến thể nghiệm và khẳng định sự tồn tại hoặc phủ
nhận ở tất cả các yếu tố hình thức lẫn nội dung theo tiêu chí, qui định khá cụ thể cho
từng thể loại.
Thể loại là “nhân vật chính”, nhân vật số một của tiến trình văn học, điều này
càng đúng với văn học trung đại nói chung, văn học trung đại Việt Nam nói riêng.
Theo Trần Đình Sử, trong các công trình nghiên cứu của mình Đ.X.Likhachov luôn
luôn xem hệ thống thể loại là nơi thể hiện đặc trưng của văn học trung đại.
Likhachov nhấn mạnh đến việc nghiên cứu hệ thống thể loại văn học trung đại: Cần
phải nghiên cứu không chỉ là bản thân các thể loại, mà còn các nguyên tắc làm cơ
sở cho việc phân chia các thể loại; không phải chỉ nghiên cứu các thể loại riêng lẻ,
mà còn phải nghiên cứu lịch sử của nó, hệ thống các thể loại cùng một thời đại...

10


Bởi vì các thể loại không tồn tại độc lập với nhau, mà kết thành hệ thống và hệ

thống đó diễn biến trong lịch sử. [26,tr.31]
Ở một mặt khác, phong cách trong văn học thường được nhìn từ ba cấp độ:
phong cách tác giả, phong cách thời đại, phong cách thể loại. Trong đó phong cách
thể loại là vấn đề lớn, vấn đề quan trọng của văn học trung đại. một trong những đặc
điểm cơ bản của văn học trung đại là tính quy phạm. Đặc điểm này chi phối thể loại,
làm nên tính quy phạm về thể loại, dẫn đến sự chặt chẽ về phong cách thể loại. Mỗi
thể loại là một phong cách, tồn tại khá bền vững trong suốt quá trình phát triển của
văn học. Dù sáng tác trước hay sau, muốn đổi mới thì tác giả văn học trung đại về
cơ bản phải tuân theo những quy phạm thể loại. Văn học hiện đại thường thoát ra
khỏi tính chặt chẽ này, ranh giới thể loại cũng bị xóa nhòa, những quy phạm chặt
chẽ về thể loại không còn như văn học trung đại.
Thể loại tồn tại song song với tiến trình phát triển của lịch sử xã hội. Sự xuất
hiện các thể loại văn học trong lịch sử là cả một quá trình. Vì vậy, thể loại văn học
là một phạm trù mang tính lịch sử mà nó chỉ xuất hiện ở những giai đoạn phát triển
nhất định của văn học, sau đó thường xuyên biến đổi và thay thế nhau. Nói rõ hơn
là mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi trào lưu văn học lại gắn liền với mỗi thể loại khác
nhau, hoặc đề cao thể loại này hoặc hình thành nên thể loại mới cùng tồn tại và phát
triển tạo nên sự đan dạng, phong phú về thể loại trong một giai đoạn nhất định. Dấu
ấn lịch sử bao giờ cũng in đậm trên mỗi thể loại, có những thể loại chỉ sinh ra và tồn
tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định sau đó biến mất hoặc được biến đổi thành
một thể khác cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội, tình cảm và tâm sinh lý của công
chúng đón nhận. Vì thế, khi nghiên cứu thể loại bao giờ chúng ta cũng phải đặt nó
trong những điều kiện lịch sử cụ thể, có như vậy ta mới lý giải được sự thay đổi của
thể loại không phải là ngẫu nhiên mà nó có cơ sở. Thể loại là một phạm trù vừa cũ,
vừa mới, không bất biến mà trái lại nó luôn vận động biến đổi trong sự ổn định
nhằm phán ánh khuynh hướng phát triển của văn học.
Thể loại văn học có vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống lý thuyết và
thực tiễn văn học. Về mặt lý thuyết, nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển và
sự tương tác của các thể loại văn học cũng đồng nghĩa với việc nghiên cứu lịch sử
11



văn học. Về phía thực tiễn, thể loại chính là diện mạo, sức sống của một giai đoạn
văn học, hay rộng hơn là một nền văn học. Hiểu, nắm bắt một cách chính xác thể
loại và đặc trưng của nó, đối với sáng tác, tiếp nhận, phê bình nghiên cứu đều có ý
nghĩa rất quan trọng.
1.1.2. Hệ thống thể loại trong văn học trung đại
Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX được định danh là văn học
trung đại. Hệ thống thể loại của văn học trung đại bao gồm hai bộ phận đó là bộ
phận thể loại có nguồn gốc từ Trung Quốc và bộ phận thể loại có nguồn gốc từ văn
học dân gian. Văn học trung đại Việt Nam có một hệ thống thi pháp riêng với nhiều
thể loại kể cả thể loại nội sinh và ngoại nhập. Mỗi một thể loại lại có chức năng
riêng trong việc chuyển tải nội dung, tư tưởng, những vấn đề nhân sinh thiết thực
mà cuộc sống yêu cầu qua những hình thức nghệ thuật khác nhau mang tính quan niệm.
Nói đến thể loại là nói đến những khuôn định về nội dung và hình thức, trong
đó hình thức là chủ yếu. Với văn học trung đại, khuôn thức là một trong những nét
tạo nên đặc thù của sáng tạo và thưởng thức văn chương. Nhìn từ góc độ hiện đại,
thể loại cũng được chú ý không kém bởi sự xuất hiện của những cách tiếp cận mới,
chú trọng nhiều hơn vào văn bản, vào sự sáng tạo của nhà văn về hình thức thể hiện,
vào sự đan xen thể loại hoặc phá vỡ các quy ước thể loại.
Với văn học trung đại Việt Nam, hệ thống thể loại chữ Hán có trước thể loại
văn học chữ Nôm. Văn học chữ Hán ra đời từ thế kỷ X, chịu nhiều ảnh hưởng của
văn học Trung Quốc, đặc biệt là về thể loại văn học. Thể loại văn học chữ Hán phát
triển bao gồm cả thơ và văn xuôi, trong khi thể loại văn học chữ Nôm lại thiên về thơ.
Vì chữ Hán được sử dụng như một công cụ có sẵn để tổ chức chính quyền,
do đáp ứng các hoạt động trong đời sống chính trị, xã hội, bang giao mà các thể loại
này được hình thành. Các thể loại này còn có các chức năng ngoài văn học. Chữ
Nôm do chưa chuẩn hóa, chưa thống nhất, chưa được sử dụng rộng rãi, không tiện
sử dụng trong điều hành chính quyền, cho nên thể loại văn học chữ Nôm ít mang
chức năng ngoài văn học hơn. Thể loại văn học chữ Nôm chủ yếu đáp ứng sinh hoạt

phi quan phương. Hệ thống thể loại văn học Hán và Nôm sẽ bổ sung cho nhau tạo
thành hệ thống thể loại văn học trung đại hoàn chỉnh.
12


Nhìn một cách khái quát, trong văn học trung đại Việt Nam văn học Hán tồn
tại song song với văn học Nôm qua ba giai đoạn:
- Thế kỷ X – XIV có sự xuất hiện văn học chữ Nôm bên cạnh văn học chữ
Hán. Từ thế kỷ XIII, đã có những tác giả văn học Nôm như Nguyễn Thuyên,
Nguyễn Sĩ Cố. Sau đó là Hồ Quý Ly, Chu An vào cuối thế kỷ XIV. Các tác giả này,
bên cạnh sáng tác bằng chữ Hán còn có các bài phú Nôm, như Trần Nhân Tông với
Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, Lí Đạo Tái với Hoa Yên tự
phú, Mạc Đĩnh Chi với Giáo tử phú. Những bài phú Nôm đời Trần đã chứng tỏ
ngôn ngữ văn học dân tộc đã phát triển đến trình độ sáng tác văn học. Phong trào
sáng tác thơ Nôm đời Trần cũng đã đặt nền móng cho văn học viết bằng chữ Nôm ở
giai đoạn sau.
- Thế kỷ XV – XVII ghi dấu bước đột khởi. Ở phạm vi cả nền văn học là sự
xuất hiện nhiều sáng tác chữ Nôm phong phú về thể loại, bên cạnh các sáng tác chữ
Hán. Ở phạm vi cá nhân là sáng tác của nhiều tác giả như Nguyễn Trãi, Lê Thánh
Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hàng, Trịnh Căn, Trịnh Cương, Trịnh Doanh,
Trịnh Sâm…Ở giai đoạn này, bên cạnh sự phong phú đa dạng của thể loại văn học
chữ Hán là sự phong phú đa dạng của thể loại văn học chữ Nôm. Thơ Nôm Đường
luật có các tập thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Hồng Đức quốc âm thi tập
của các tác giả thời Hồng Đức, Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Ngự đề thiên hòa doanh bách vịnh của Trịnh Căn, Càn nguyên ngự chế thi
tập của Trịnh Doanh… Phú có các giai tác như Phụng thành xuân sắc phú của
Nguyễn Giản Thanh, Đại Đồng phong cảnh phú của Nguyễn Hàng, Ngã Ba Hạc
phú của Nguyễn Bá Lân… Thể vãn có Lâm tuyền vãn của Phùng Khắc Khoan,
Ngọa Long cương vãn, Tư Dung vãn của Đào Duy Từ… Diễn ca lịch sử có Thiên
Nam ngữ lục, Thiên Nam minh giám của tác giả khuyết danh. Điều đáng lưu ý ở

bước đột khởi này: giữ vai trò quan trọng trong thành phần văn học Nôm là thể loại
văn học dân tộc hóa như thơ Nôm Đường luật, hoặc những thể loại văn học dân tộc
nội sinh như vãn, diễn ca lịch sử được viết bằng thể thơ dân tộc như lục bát, song
thất lục bát.

13


- Thế kỷ XVIII – XIX là thời kỳ đỉnh cao rực rỡ. Ở phạm vi cả nền văn học
là văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm đều có những thành tựu lớn, kết tinh văn
học đời trước, mẫu mực cho văn học đời sau. Ở phạm vi cá nhân tác giả là sáng tác
của những tài năng lớn như Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Đặng Trần
Côn, Đoàn Thị Điểm, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ…, đặc biệt là sáng tác của
thiên tài văn học Nguyễn Du. Các thể loại văn học dân tộc nội sinh cũng đạt tới
đỉnh cao.
Văn học các thế kỷ XVI, XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII kế thừa rất nhiều ở
giai đoạn trước về mặt thể loại, nhưng cũng có sự đổi mới, đáp ứng sự đổi mới về
nội dung văn học. Có những thể loại không còn giữ ưu thế như trong giai đoạn
trước, có những thể loại về cơ bản là thể loại cũ, biến đổi chưa nhiều, có những thể
loại mới ra đời. Đặc biệt là sự phát triển của các thể loại văn học nghệ thuật. Trước
thế kỷ XVI có nhiều tác phẩm chính luận chữ Hán nổi tiếng như những áng hùng
văn tiêu biểu cho tính chiến đấu của văn học trong thời kỳ lịch sử ấy như Chiếu dời
đô của Lý Thái Tổ, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Quân trung từ mệnh tập,
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi... Từ thế kỷ XVI trở đi, tác phẩm chính luận vẫn
còn nhưng không có vị trí quan trọng, tác động lịch sử lớn lao như các thế kỷ trước.
Khi mà mâu thuẫn giữa nhân dân và giai cấp phong kiến đã nổi lên hàng đầu trong
thực tại lịch sử, Nhà nước phong kiến không còn tác dụng tích cực thì tác phẩm văn
học chính luận như chiếu, biểu, hịch, cáo... gắn với sinh hoạt chính trị của Nhà nước
phong kiến không còn tác dụng tích cực nữa.
Lý thuyết về nghiên cứu văn học trung đại phương Đông theo phương pháp

loại hình áp dụng vào văn học trung đại Việt Nam có thể thấy rằng: Ở giai đoạn
đầu, “những thể loại hoàn toàn mang tính chức năng” là trung tâm hệ thống văn học
còn văn học nghệ thuật “hoàn toàn nằm ngoài phạm vi của hệ thống văn học”. Dần
dần theo quá trình phát triển vị trí các thể loại có sự thay đổi và văn học nghệ thuật
sẽ chuyển vào trung tâm. Đến cuối thời kỳ văn học trung đại Việt Nam, sáng tác
văn học chữ Nôm với các thể loại văn học dân tộc hóa và thể loại văn học dân tộc
nội sinh dần chuyển vào và phát huy những ưu thế của mình ở vị trí trung tâm.

14


1.1.3. Thể thơ dân tộc
Thể thơ được nhận diện qua các tiêu chí cơ bản như số chữ trong một câu
thơ, số câu trong một khổ thơ, số câu thơ trong một bài thơ; cách gieo vần, cách
phối thanh (bằng – trắc), cách ngắt nhịp, cách tạo phép đối... Thông thường cách đặt
tên các thể thơ luôn gắn với đặc điểm cơ bản của thể thơ đó. Hay đó chính là cách
gọi tên cách thức để tạo ra bài thơ xét về mặt hình thức. Ví dụ thể thơ lục bát là thể
thơ mà mỗi cặp thơ gồm một câu sáu tiếng và một câu tám tiếng liên tiếp nhau.
Thông thường bài thơ mở đầu bằng câu sáu chữ và kết thúc bằng câu tám chữ. Thể
thơ song thất lục bát gồm có hai câu bảy chữ, hai câu dưới là câu lục và câu bát (lục
bát), mỗi khổ thơ bốn câu.
Thông qua giao lưu giữa các nền văn hóa, các thể thơ được tăng dần. Từ
những cấu trúc đơn giản đến những cấu trúc phức tạp. Trong các thể thơ trong văn
học Việt Nam ta có thể kể đến vài loại như vãn vè, lục bát, song thất lục bát, hát
nói, các thể loại thơ Đường luật như thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn
bát cú rồi đến các loại thơ mới và thơ tự do. Ngoại trừ thơ tự do, một hình thức hầu
như không có một cấu trúc rõ rệt, các loại thơ khác hầu như đều có một cấu trúc
nhất định.
Ở giai đoạn đầu của nền văn học viết, nước ta chủ động tiếp thu ảnh hưởng
của văn học Trung Hoa về văn tự, thể loại, thi liệu... để viết về những vấn đề trọng

đại của đất nước, về những tâm tư, khát vọng của con người thời đại. Ngay từ khi
mới ra đời, văn học chữ Hán được coi là văn chương cao quý, là dòng chính thống.
Trên thực tế, trong lịch sử văn học Việt Nam đã tồn tại những tác phẩm bất hủ được
viết bằng chữ Hán như Thiên đô chiếu, bài thơ thần Nam quốc sơn hà; những bài
thơ nổi tiếng như Cáo tật thị chúng, Tụng giá hoàn kinh sư, Thuật hoài, Thiên
Trường vãn vọng,...
Việc tiếp nhận văn học nước ngoài vẫn có những hạn chế nhất định. Nhu cầu
xây dựng thể loại văn học dân tộc đã bắt đầu từ sự “cách tân” thể loại ngoại nhập
đến việc sáng tạo những thể thơ mới cho thơ ca dân tộc.

15


Từ thế kỷ XIV, văn học chữ Nôm đã trở thành một bộ phận quan trọng trong
dòng văn học viết. Sự ra đời và phát triển của văn học chữ Nôm là một tất yếu của
quá trình văn học nước ta. Văn học chữ Nôm có thể ra đời và phát triển được trước
hết chủ yếu dựa trên cơ sở của văn học dân gian. Từ cơ sở đó đã tạo nên một trong
những thành tựu của văn học trung đại về mặt thể loại đó là xây dựng các thể thơ
dân tộc.
Các thể thơ trong văn học trung đại phát sinh từ hai nguồn: nguồn ngoại sinh
đến từ Trung Hoa và nguồn nội sinh trên nền tảng các thể thơ dân gian của dân tộc.
Trong đó các thể thơ dân tộc bao gồm khúc ngâm song thất lục bát, truyện thơ lục
bát, thơ hát nói và vãn vè có nguồn gốc nội sinh. Từ nhiều kết luận của các nhà
nghiên cứu có thể kết luận rằng các thể thơ dân tộc được xây dựng và phát triển dựa
trên sự kế thừa các thể loại, thể thơ của văn học dân gian.
Bài thơ lục bát sớm nhất còn được lưu trữ trong thư tịch là một bài hát Cửa
Đình của Lê Đức Mao (1462-1529). Trong tác phẩm Nam phong giải trào, ông
Trần Danh Án cũng ghi được một số bài hát cửa đình theo thể lục bát từ thời Lê.
Sang thế kỷ thứ XVIII và XIX, lục bát đã trải qua thời kỳ cực thịnh với những tác
phẩm danh tiếng như Nhị độ mai (không rõ tác giả), Bích Câu kỳ ngộ (không rõ tác

giả), Hoa tiên truyện của Nguyễn Huy Tự (1745-1790), Truyện Kiều của Nguyễn
Du (1765-1820), Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888). Điều đáng lưu
ý là thể lục bát cũng đã được sử dụng trong một số tác phẩm bằng Hán văn như
Phụng Sứ Yên Đài Tổng Ca của Nguyễn Huy Oánh (1713-1789).
Là một thể thơ đặc biệt của người Việt, song thất lục bát cùng với lục bát rất
được các tác giả ưa chuộng trong suốt thời kỳ văn học trung đại Việt Nam. Thể thơ
này phát triển mạnh vào thế kỷ XVIII cho đến tận đầu thế kỷ XX. Nhiều tác phẩm
tiêu biểu của văn học Việt Nam đã sử dụng thể thơ này như bản dịch Chinh phụ
ngâm Đoàn Thị Điểm), Ai tư vãn (Lê Ngọc Hân), Văn tế thập loại chúng sinh
(Nguyễn Du), Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Tự tình khúc (Cao Bá
Nhạ), bản dịch Tì bà hành (Phan Huy Thực), Khóc Dương Khuê (Nguyễn Khuyến),
Hải Ngoại huyết thư (Phan Bội Châu), v.v...

16


Trong dòng văn chương bác học, đến cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII,
có sự xuất hiện của khá nhiều bài vãn có giá trị như Lâm tuyền vãn của Phùng Khắc
Khoan (1528-1613), và Ngọa Long cương vãn cùng Tư Dung vãn của Đào Duy Từ
(1572-1634).
Hát nói là một thể thơ ca dân tộc được sinh ra từ nhu cầu của bộ môn nghệ
thuật ca trù và trở nên một thể thơ độc đáo trong nền văn học Việt Nam nói chung,
văn học chữ Nôm nói riêng. Hát nói xuất hiện sớm nhưng phải đợi đến đầu thế kỷ
XIX mới có những tác phẩm lưu truyền đến nay như các tác phẩm của Nguyễn
Công Trứ, Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh...
Các thể thơ dân tộc dù hình thành và phát triển muộn hơn so với các thể thơ
vay mượn Trung Quốc nhưng dần dần tiến lên theo quá trình của lịch sử và đạt
được nhiều thành tựu có ý nghĩa.
1.2. Điều kiện hình thành các thể thơ dân tộc
Thể loại văn học được hình thành và biến đổi trong cả một quá trình dài. Quá

trình này chịu sự chi phối của các yếu tố như nhu cầu xã hôi, giao lưu văn hóa, văn
học, sự trưởng thành của lực lượng sáng tác và công chúng văn học... Do vậy để tìm
hiểu về sự hình thành của các thể thơ dân tộc trước hết chúng ta cần biết được
những điều kiện làm nảy sinh các thể thơ dân tộc.
1.2.1. Điều kiện văn hóa, lịch sử, xã hội
Đầu tiên không thể không nói đến vai trò tiên quyết trong việc hình thành các
thể thơ dân tộc đó là sự ra đời của chữ Nôm. Đất nước phát triển, ý thức về dân tộc
về văn hóa dân tộc càng mạnh mẽ, nhu cầu về văn tự ghi âm tiếng Việt càng bức
thiết. Tương truyền chữ Nôm có từ thế kỷ XIII, nhưng tác phẩm hiện có thì từ thế
kỷ XIV, tính từ Cư trần lạc đạo phú của Trần Nhân Tông (1285 – 1308) và Vịnh
Vân yên tự phú của Lý Đạo Tái (1254 – 1308). Chữ Nôm ra đời bắt nguồn từ ý thức
của dân tộc chống lại xu hướng Hán hóa của người phương Bắc, khẳng định tinh
thần dân tộc của người Việt. Sự hình thành và phát triển của chữ Nôm, dù nói gì
chăng nữa, cũng mang đậm tính thuần Việt ở chỗ nó đi lên từ đòi hỏi của đời sống
Việt, nó được cư dân Việt Nam chấp nhận trong nền văn hóa của mình mà không
17


cần một “sắc lệnh” nào từ giới cầm quyền. Sự hình thành và phát triển của chữ Nôm
là bước ngoặt thứ nhất trong lịch sử ngôn ngữ văn tự của người Việt và cũng là một
bước ngoặt trong lịch sử văn hóa Việt Nam, đáp ứng đòi hỏi của việc trực tiếp ghi
chép hoặc diễn đạt lời ăn tiếng nói cùng tâm tư, suy nghĩ và tình cảm của bản thân
người Việt. Mặc dù còn những khiếm khuyết, chữ Nôm đã tạo nên những thành tựu
rực rỡ làm phong phú kho tàng văn hóa Việt, điều mà trước nó chữ Hán trên đất
Việt không hề có được. Và trong những thành tựu đó có sự ra đời của các thể thơ
dân tộc.
Về mặt lịch sử xã hội, sau khi nước nhà độc lập, nhu cầu thiết yếu mà nhà
nước phong kiến Việt Nam cần phải chú ý là việc xây dựng một nền văn hóa mang
đậm bản sắc dân tộc chống lại âm mưu đồng hóa của kẻ thù phương Bắc và nâng
cao tự hào dân tộc. Những tác phẩm chữ Hán thời kỳ này thường dễ xa lạ với với

quần chúng bình dân, tác phẩm ít được truyền tụng rộng rãi, vì vậy càng về sau nhu
cầu quần chúng hóa, dân tộc hóa tác phẩm ngày càng mạnh mẽ.
Hiện thực xã hội rộng lớn đòi hỏi sự ra đời của những thể loại văn học mới,
đủ dung lượng, đủ khả năng nhận thức, tái hiện và lý giải cuộc sống, đáp ứng
nguyện vọng của người tiếp nhận. Muốn phản ánh chân thực và sinh động hiện thực
phức tạp và đa dạng cùng với những biến động lịch sử; muốn lý giải những vấn đề ý
nghĩa thời đại đặt ra, văn học không thể dừng lại ở những thể loại nhỏ hay thể loại
vay mượn, những phương pháp biểu hiện vốn có. Nhu cầu phản ánh của văn học
xuất phát từ thực tại xã hội bắt đầu phức tạp trở thành nguyên nhân xuất hiện nhiều
thể loại mới.
Bên cạnh việc tiếp nhận những thể loại văn học Trung Hoa, các tác gia trung
đại còn xây dựng nên những thể thơ thuần túy dân tộc là lục bát, song thất lục bát,
thơ hát nói, vãn vè... Tùy theo từng giai đoạn lịch sử cụ thể mà các thể thơ dân tộc
cũng bao quát một phạm vi phản ánh riêng, đặc trưng. Điều này phụ thuộc vào các
yếu tố bên trong thể thơ cũng như khả năng phản ánh của từng thể thơ dân tộc.
Nhưng bao quát lại có thể nhận thấy rằng các thể thơ dân tộc đều tỏ ra rất phù hợp
trong việc nhận thức, tái hiện đời sống hiện thực của đất nước qua các thời kỳ, các
giai đoạn khác nhau. Mỗi thể loại đảm nhiệm một phương diện phản ánh riêng, tạo
18


thành bức tranh thể loại vô cùng phong phú có khả năng chuyển tải nội dung thơ ca
của dân tộc.
1.2.2. Điều kiện về hoạt động sáng tác
Sáng tác thơ là quá trình tư duy nghệ thuật, quá trình khám phá về nội dung,
cũng là quá trình cách tân, phát minh về hình thức. Nó thể hiện khả năng sáng tạo
của người nghệ sĩ. Sự ra đời của các thể thơ dân tộc gắn với ý chí tự cường của dân
tộc, với sự trưởng thành về ý thức dân tộc của mỗi nhà thơ. Mặt khác vì viết bằng
chữ Hán nên những tác phẩm chữ Hán bị hạn chế khi cần phản ánh hiện thực sinh
động và cụ thể của đất nước Việt, tâm tư sâu xa, thầm kín của con người Việt. Các

nhà thơ cũng mong muốn có thể thơ của chính mình mà không phải vay mượn để
thể hiện tâm tư, khát vọng của dân tộc mình, nhân dân mình. Văn học luôn là
phương tiện hữu hiệu nhất giúp cho con người giãi bày tâm trạng, gửi gắm tình
cảm. Thế nhưng đời sống nội tâm của con người vốn rất phong phú, phức tạp nên
không phải bất kỳ hình thức văn học nào cũng có thể đảm nhận một cách tốt nhất
việc diễn tả những cung bậc tình cảm ấy. Rõ ràng không phải ngẫu nhiên mà các thi
sĩ đã lựa chọn các thể thơ làm hình thức diễn đạt của các thể loại khác nhau. Vãn vè
ra đời gắn với nhu cầu bộc bạch tâm tình của người đương thời trước cuộc sống,
trước những biến cố của lịch sử, xã hội. Thơ lục bát được dùng để viết nên Truyện
Nôm, thể loại phù hợp nhất phán ánh những vấn đề về số phận con người mang tính
xã hội rộng lớn, bức thiết. Thơ song thất lục bát được sử dụng để viết nên những tác
phẩm thơ trữ tình trường thiên (khúc ngâm song thất lục bát) biểu đạt tâm trạng con
người trước bi kịch của cuộc đời. Hát nói lại thích hợp với sự giải thoát tâm tư của
cái tôi cá nhân ngày càng phát triển...
Mỗi dân tộc có một ngôn ngữ và văn hóa, đó là những “điều kiện nội tại” của
sự ra đời của các thể thơ dân tộc với hệ thống âm luật riêng. Quan điểm cho rằng
ngôn ngữ và văn hóa của mỗi dân tộc là những điều kiện nội tại cho sự hình thành
các thể thơ của dân tộc đó là một quan điểm khá thống nhất của các nhà ngôn ngữ
học có quan tâm đến thi luật học. Nhà nghiên cứu người Nga Stomar đã viết: Hệ
thống âm luật văn vần của bất cứ dân tộc nào cũng đều được lựa chọn ra trong sự
phụ thuộc trực tiếp vào cấu trúc âm thanh của ngôn ngữ ấy, chứ không phải là ngẫu
19


nhiên. Dựa vào ý kiến này có thể thấy được mối liên hệ giữa ngôn ngữ dân tộc với
các thể thơ dân tộc. Sự ra đời của các thể thơ dân tộc phù hợp với điều kiện ngôn
ngữ và văn hóa dân tộc: ngôn ngữ đơn lập, có thanh điệu; xu hướng thẩm mỹ mang
tính chất tâm lý xã hội của dân tộc thể hiện trong ý thích sử dụng vần và nhịp.
Trong quá trình vận động và phát triển, những đề tài mới xuất hiện đòi hỏi
những hình thức thể hiện mới. Trong khi ngôn ngữ ngày càng phong phú hơn, chính

xác hơn, uyển chuyển hơn. Do vậy các nhà thơ luôn tìm tòi một hình thức thể hiện
mới phù hợp với việc chuyển tải những nội dung xuất hiện trong những điều kiện
lịch sử khác nhau. Đó cũng là một trong những yêu cầu của quá trình sáng tác dẫn
đến sự ra đời của các thể thơ dân tộc.
1.2.3. Điều kiện về mối quan hệ của văn học trung đại với văn học dân gian
Trong tiến trình lịch sử văn học, luôn diễn ra quá trình nối tiếp, kế thừa và
phát triển những thành tựu giữa các nền văn học, các giai đoạn, các trào lưu văn học
với nhau. Thậm chí kế thừa, tiếp nối và cách tân đó còn thể hiện ở từng tác giả trong
cùng một trào lưu hay một dòng văn học. Có thể khẳng định rằng quy luật của kế
thừa và cách tân là quy luật sinh thành và phát triển của bất cứ nền văn học nào.
Trong quá trình phát triển, văn học trung đại Việt Nam chịu sự chi phối rất
đậm nét của văn học dân gian. Văn học dân gian là cội nguồn gần gũi trực tiếp nhất
ảnh hưởng đến văn học trung đại. Chính văn học dân gian đã trở thành nguồn mạch
mát lành nuôi dưỡng cho nền văn học viết Việt Nam ngày càng khởi sắc. Văn học
dân gian và văn học trung đại tuy là hai bộ phận văn học có phương thức sáng tác
khác nhau nhưng lại có quan hệ gắn bó rất mật thiết. Mối quan hệ giữa văn học viết
trung đại Việt Nam và văn học dân gian biểu hiện ở chỗ: văn học viết tiếp thu văn
học dân gian từ đề tài, thi liệu, ngôn ngữ, quan niệm thẩm mỹ ở khía cạnh ngôn ngữ
và thể loại Giới nghiên cứu văn học khi tìm hiểu về mối quan hệ này tuy có nhiều ý
kiến bàn cãi nhưng họ đều thừa nhận giữa văn học dân gian và văn học trung đại có
ảnh hưởng qua, đó là mối quan hệ biện chứng, tác động, bổ sung lẫn nhau để cùng
phát triển.
Thơ ca dân gian là một thuật ngữ mà các nhà nghiên cứu dùng để gọi chung
các loại hình nghệ thuật văn vần trong dân gian như tục ngữ, thành ngữ, ca dao, dân
20


ca, câu đố,... Có thể nói, tác phẩm trong mảng sáng tác này chiếm một số lượng
tương đối lớn trong văn học Việt Nam. Nó có giá trị đặc sắc về nội dung và hình
thức thể hiện, đồng thời cũng có sự ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn học viết.

Các thể thơ dân tộc được xây dựng và phát triển dựa trên sự kế thừa các thể
loại, thể thơ của văn học dân gian. Hình thức của thơ ca dân gian là cơ sở, nền tảng
của hình thức của các thể thơ dân tộc. Câu thơ dân gian trong quá trình tiến triển có
tính chất tự phát của nó, được chia ra làm hai hướng: hướng thứ nhất là tìm tòi một
hình thức ổn định và thích hợp với lối diễn cảm nhiều màu sắc. Hướng thứ hai là
được xác định bầng cách tổ hợp thể này với thể khác để hình thành một thể mới, rồi
thể mới này lại tổ hợp một lần nữa với một thể khác để trở thành một thể mới hơn.
Dĩ nhiên sự tổ hợp này không thể không có giới hạn mà ngừng lại khi đạt đến một
thể ổn định và thích hợp. [20,tr.31] Các thể thơ xuất hiện là nhờ sự kết hợp của các
thể nhỏ hơn. Tuy vậy, như đã nói, nó sẽ dừng lại nếu sự kết hợp đó thấy phù hợp
với cảm xúc và tư duy thể hiện.
Văn học dân gian là quá trình xây dựng, rèn giũa ngôn ngữ văn học dân tộc
và các thể thơ dân tộc. Quá trình kế thừa, khai thác văn học dân gian là quá trình
hoàn thiện dần các yếu tố tinh lọc từ văn học dân gian. Mỗi một thể thơ dân tộc có
sự kế thừa những yếu tố khác nhau từ các câu thơ dân gian. Điều đó sẽ được làm
sáng rõ khi tìm hiểu quá trình vận động của các thể thơ dân tộc. Tuy nhiên đến đây
có thể khẳng định rằng sự hình thành của các thể thơ dân tộc trong văn học trung
đại Việt Nam có sự đóng góp và ảnh hưởng không nhỏ của văn học dân gian.
1.3. Những dấu hiệu đầu tiên làm tiền đề cho sự ra đời các thể thơ dân tộc
1.3.1. Những dấu hiệu từ thơ ca dân gian
Văn học dân gian ở nước ta từ lâu đã là nền tảng cho sự phát triển của văn
học viết, đặc biệt là văn học viết bằng chữ Nôm. Trong thời kỳ suy thoái của chế độ
phong kiến thì ảnh hưởng của văn học dân gian đối với dòng văn học viết càng ngày
càng nhiều hơn, đậm nét hơn. Sự thâm nhập của các sáng tác dân gian vào văn học
viết có nhiều con đường. Như ta đã biết, số đông các tác giả sáng tác trong văn học
viết là nho sĩ ẩn dật và nhỏ sĩ bình dân hay có nguồn gốc xuất xứ từ nông thôn. Họ

21



×