ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
------
LÊ THỊ ÁI PHƢƠNG
SỰ HẬU THUẪN CỦA TÂY BAN NHA
ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG MỸ TỪ NĂM 1776
ĐẾN NĂM 1783
Chuyên ngành: Lịch sử Thế giới
Mã số
: 60 22 03 11
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
THEO ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ THÀNH NAM
Thừa Thiên Huế, năm 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các
số liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực, được các
đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kỳ
một công trình nào khác.
Họ tên tác giả
LÊ THỊ ÁI PHƢƠNG
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến Ban Giám hiệu, phòng
Đào tạo Sau Đại học; Quý Thầy cô trong khoa Lịch sử, tổ Lịch sử Thế giới,
trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi hoàn thành khóa học.
Đặc biệt, tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến Thầy
giáo: PGS.TS. Lê Thành Nam, đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá
trình thực hiện và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã quan tâm, khích
lệ và giúp đỡ tôi trong suốt khóa học.
Mặc dù đã rất cố gắng song do năng lực còn hạn chế, kinh nghiệm
nghiên cứu chưa nhiều nên luận văn không tránh khỏi những khiếm khuyết,
rất mong được sự góp ý chân thành của quý thầy cô, bạn bè.
Tác giả luận văn
Lê Thị Ái Phƣơng
iii
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa ............................................................................................................... i
Lời cam đoan ..............................................................................................................ii
Lời cảm ơn ................................................................................................................ iii
MỤC LỤC ................................................................................................................. 1
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 3
NỘI DUNG .............................................................................................................. 14
Chƣơng 1. NHỮNG NHÂN TỐ THÚC ĐẨY TÂY BAN NHA
CAN DỰ CÁCH MẠNG MỸ TỪ NĂM 1776 ĐẾN NĂM 1783 ......................... 14
1.1. Những xung đột giữa Tây Ban Nha với Anh trong quan hệ quốc tế ........ 14
1.2. Cuộc chiến tranh giành độc lập của cư dân thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ ..... 21
1.3. Sự tìm kiếm ủng hộ quốc tế của cách mạng Mỹ ....................................... 28
Chƣơng 2. SỰ HẬU THUẪN CỦA TÂY BAN NHA ĐỐI VỚI
CÁCH MẠNG MỸ TỪ NĂM 1776 ĐẾN NĂM 1783 .......................................... 36
2.1. Hoạt động hậu thuẫn của Tây Ban Nha đối với
cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1779 ..................................................... 36
2.1.1. Thái độ của triều đình Madrid đối với tình hình cách mạng Mỹ ...... 36
2.1.2. Những hoạt động của Tây Ban Nha trợ giúp cho cách mạng Mỹ .... 41
2.2. Hoạt động hậu thuẫn của Tây Ban Nha đối với cách mạng Mỹ
từ năm 1779 đến năm 1783 .............................................................................. 50
2.2.1. Con đường dẫn Tây Ban Nha tới chiến tranh với nước Anh ............ 50
2.2.2. Hoạt động hỗ trợ vật chất và quân sự
trong chiến tranh cách mạng Mỹ ................................................................. 56
2.2.3. Quá trình thương lượng chấm dứt chiến tranh
giữa Tây Ban Nha và Anh ........................................................................... 63
Chƣơng 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ SỰ HẬU THUẪN CỦA
TÂY BAN NHA ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG MỸ
1
TỪ NĂM 1776 ĐẾN NĂM 1783 ............................................................................ 66
3.1. Sự dính líu của Tây Ban Nha trong cuộc chiến tranh Bắc Mỹ:
từ bí mật đến công khai ................................................................................... 66
3.2. Nhân tố nước Pháp dẫn dắt triều đình Madird
tham gia vào cách mạng Mỹ ............................................................................ 68
3.3. Thái độ lấp lững của người Tây Ban Nha trong tiến trình hậu thuẫn
cho những người Mỹ da trắng ......................................................................... 71
3.4. Sự huy động tối đa nguồn lực của đế Tây Ban Nha trong
các hoạt động cho cách mạng Mỹ .................................................................... 73
3.5. Hiệu ứng trong nội bộ đế chế Tây Ban Nha và quan hệ quốc tế
khi cách mạng Mỹ kết thúc .............................................................................. 76
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 84
PHỤ LỤC ................................................................................................................ 90
2
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nhận định “Trên thế giới này không có đồng minh vĩnh viễn hay kẻ thù vĩnh
viễn chỉ có lợi ích mới là vĩnh viễn” (Thủ tướng Anh Lord Palmerston, 1784-1865)
hoàn toàn đúng khi nói về quan hệ quốc tế ở châu Âu thời cận đại, Bởi mỗi chủ thể
khi tham gia vào ván bài cạnh tranh quyền lực luôn đặt quyền lợi quốc gia lên hàng
đầu và áp đặt sức mạnh, ý chí lên bên còn lại. Châu Âu thế kỉ XVIII trở thành trung
tâm của những mối quan hệ đan xen, chằng chéo tạo nên những liên minh phức tạp,
những hợp tác và cạnh tranh được che đậy bằng ngoại giao khéo léo. Trong sự vận
động của những quan hệ đó, nổi lên 3 cường quốc hàng đầu là Anh, Pháp và Tây
Ban Nha. Đó là cuộc tranh đấu giữa Pháp và Anh trên lục địa châu Âu, sự ganh đua
giữa Anh và Tây Ban Nha giành thống trị trên biển, tất cả đều đẩy mạnh bành
trướng thuộc địa, gồng mình vươn lên vị trí minh chủ châu Âu, bá chủ thế giới.
Trong hơn nửa đầu thế kỷ XVIII, châu Âu trở thành bãi chiến trường chính cho các
bên phô diễn tiềm lực, sức mạnh của bản thân. Kết quả là Anh luôn là người chiến
thẳng, kẻ cầm cờ trắng, chấp nhận thua thiệt luôn là Pháp và Tây Ban Nha. Do vậy,
sau khi mất trắng ở hai cuộc chiến tranh Thừa kế Tây Ban Nha (1701-1714) và
chiến tranh Bảy năm (1756-1763), nổi uất hận tràn ngập trong lòng chính giới hai
nước, tạo nên chất xúc tác giúp hai cường quốc xích lại gần nhau và cùng nuôi ý chí
phục thù Anh.
Tình hình quốc tế diễn ra theo hướng có lợi cho cả Pháp và Tây Ban Nha khi
cuộc Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ nổ ra. Nắm bắt
được sự rạn nứt trong quan hệ giữa Anh và các thuộc địa ở Bắc Mỹ, Pháp và Tây
Ban Nha xem đây là cơ hội “trả đũa ngọt ngào” không thể bỏ qua. Từ sự dẫn dắt tư
duy đó, Pháp từng bước lôi kéo Tây Ban Nha tham gia vào cuộc chiến chống kẻ thù
chung – Anh. Tuy nhiên, khác với Pháp, Tây Ban Nha vô cùng quan ngại trước
những cuộc nổi dậy của người dân thuộc địa Bắc Mỹ, bởi những thành quả cách
mạng mà thuộc địa có được sẽ là mối nguy hiểm khôn lường, ảnh hưởng và làm phá
vỡ hệ thống thuộc địa của Tây Ban Nha ở Trung Nam Mỹ. Song trước những
3
thương thượng ngoại giao với lợi ích béo bở đầy hứa hẹn từ Pháp, Tây Ban Nha
quyết định không là đồng minh của Mỹ mà tham gia vào cuộc chiến chống Anh với
tư cách là đồng minh của Pháp, gián tiếp hậu thuẫn cuộc nổi dậy của người Mỹ da
trắng với một phong thái ngoại giao đầy toan tính và thận trọng. Chính vì thế, mỗi
bước tiến của sự nghiệp tiến bộ của nhân dân Mỹ đều mang dấu ấn hết sức đậm nét
của nước Pháp, ngược lại, vai trò và những đóng góp không thể thiếu của Tây Ban
Nha cho sự thắng lợi của cách mạng Mỹ lại ít được sử sách đề cập.
Cho tới nay việc làm rõ sự hậu thuẫn của Tây Ban Nha trong cuộc cách mạng
Mỹ vẫn còn là khoảng trống nhận thức của giới nghiên cứu sử học Việt Nam. Sự
tìm hiểu một cách thấu triệt vấn đề đặt ra vẫn còn là khoảng mở cần thiết để tác giả
luận văn có cơ hội thực hiện. Chính vì lẽ đó, việc tìm hiểu chủ đề “Sự hậu thuẫn
của Tây Ban Nha đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783” vừa có ý
nghĩa cả về mặt khoa học lẫn ý nghĩa thực tiễn:
Về ý nghĩa khoa học, thông qua việc nghiên cứu đề tài giúp hiểu rõ những
mâu thuẫn giữa Anh và Tây Ban Nha trong quan hệ quốc tế cận đại; hiểu rõ những
cuộc vận động ngoại giao của nước Pháp nhằm lôi kéo Tây Ban Nha trở thành
đồng minh, đứng về phía Mỹ trong cuộc chiến chống Anh; hiểu được những hoạt
động hỗ trợ bí mật về tài chính và quân sự cũng như quá trình tham chiến của Tây
Ban Nha đối với sự nghiệp tiến bộ của cư dân Mỹ; hiểu rõ những đặc điểm của mối
quan hệ Tây Ban Nha – Mỹ trong cuộc chiến tranh giành độc lập của nhân dân Mỹ;
hiểu rõ những tác động đối với hai chủ thể khi tham gia cùng một chiến tuyến cũng
như trên bình diện quốc tế.
Về ý nghĩa thực tiễn, ngày nay đất nước ta đang trong quá trình hội nhập
quốc tế, trong đó có việc đẩy mạnh quan hệ với nhiều quốc gia trên thế giới. Tây
Ban Nha và Mỹ là hai quốc gia mà Đảng và Nhà nước ta đang tăng cường quan hệ,
hợp tác với nhau trên nhiều nhiều lĩnh vực. Do đó, những dữ kiện lịch sử của hai
quốc gia này cùng mối quan hệ giữa họ trở thành nguồn tham khảo quý giá cho mọi
cơ quan nhà nước trong việc hoạch định, thực thi quan hệ với hai đối tác. Hơn nữa,
những vấn đề trình bày trong luận văn sẽ trở thành bài học cho việc phân biệt đối
tác/đối tượng (tùy theo hoàn cảnh) để từ đó giúp cho đất nước chúng ta có thể chọn
4
lựa đúng đắn trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, hội nhập sâu
rộng trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra một cách mạnh mẽ. Bởi đó là xu thế
tất yếu hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Là một trong những mối quan hệ đặc biệt của lịch sử quan hệ quốc tế thời cận
đại, quan hệ Tây Ban Nha – Mỹ trong cuộc chiến tranh giành độc lập của người Mỹ
da trắng đã thu hút sự quan tâm, chú ý không ít của các nhà nghiên cứu, học giả với
nhiều công trình được xuất bản, nhiều ấn phẩm khác nhau được ra đời.
2.1. Ở trong nước, tức Việt Nam, vấn đề này ít nhiều được đề cập trong các
nhóm công trình sau:
Nhóm thứ nhất là những công trình mang tính chất giáo trình, như: “Lịch sử
thế giới cận đại” và “Lịch sử quan hệ quốc tế, Tập 1” do Vũ Dương Ninh chủ biên
(Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2002 & 2005); “Lịch sử thế giới cận đại, Tập 1” do Phan
Ngọc Liên chủ biên (Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2008). Trong các công trình
này khi trình bày cuộc đấu tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ vào
cuối thế kỷ XVIII, các tác giả đề cập tới liên minh Tây Ban Nha – Pháp năm 1779.
Sự kiện này được các tác giả xâu chuỗi trong tiến trình của cách mạng Mỹ.
Trên phương diện rộng lớn hơn, Tây Ban Nha tham gia vào cách mạng Mỹ
với tư cách là đồng minh của Pháp được đề cập trong các công trình thông sử nước
Mỹ, như: “Lịch sử Hoa Kỳ từ độc lập đến chiến tranh Nam Bắc” của Nguyễn Thế
Anh (Lửa Thiêng xuất bản, Sài Gòn, 1969);
Nhìn chung, trong nhóm công trình này mới chỉ dừng lại trong việc trình bày
các sự kiện tiêu biểu liên quan tới vấn đề mà tác giả quan tâm, nghiên cứu.
Nhóm thứ hai là những công trình dưới dạng chuyên khảo. Tiêu biểu cho thể
loại này là: “Liên bang Mỹ - đặc điểm xã hội và văn hóa” của Nguyễn Thái Yên
Hương (Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2005); “Nước Mỹ với
quá trình Tây tiến: Chính sách ngoại giao mở rộng lãnh thổ (1787-1861)” của Lê
Thành Nam (Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2016) đã trình bày quan hệ
ngoại giao của các thuộc địa Bắc Mỹ trong cuộc đấu tranh giành độc lập và chính
sách đối ngoại của nhà nước cộng hòa non trẻ trong buổi đầu vừa mới ra đời. Là
5
một quốc gia đối trọng với nước Anh trong sự kiện cuộc chiến tranh do các thuộc
địa Bắc Mỹ tiến hành, vương quốc Tây Ban Nha nhận được mối lưu tâm từ phía cư
dân ở đây.
Bên cạnh các các công trình chuyên khảo là các luận văn Thạc sĩ được hoàn
thành và bảo vệ trong gần một thập kỷ trở lại đây, trong đó đáng chú ý: “Chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ khi lập quốc (1776) đến trước cuộc Nội chiến (18611865)” của Lê Thành Nam (Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại học Sư phạm –
Đại học Huế, 2007). Ở công trình này, tác dành hẳn một mục nhỏ trong chương thứ
nhất: “Ngoại giao vì mục tiêu độc lập” để phân tích sự vận động ngoại giao của
những đại diện các thuộc địa Bắc Mỹ tại Tây Ban Nha nhằm thuyết phục chính giới
và dư luận quốc gia này ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của họ. Một luận văn Thạc sĩ
khác cũng đề cập ít nhiều tới chủ đề mà tác giả nghiên cứu là: “Sự tham gia của các
cường quốc châu Âu trong cách mạng Mỹ từ năm 1775 đến năm 1783)” của Trịnh
Nam Giang (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2008). Trong công trình này, tác giả
trình bày sự tham gia, góp mặt và ủng hộ của các cường quốc châu Âu cho cả từ hai
phía trong cuộc chiến tranh giành độc lập Bắc Mỹ. Điều này có nghĩa là, các cường
quốc châu Âu có sự phân định rõ nét thành hai chiến tuyến. Một bên ủng hộ cư dân
thuộc địa Bắc Mỹ đấu tranh thoát khỏi ách áp bức của thực dân Anh, bao gồm:
Pháp, Tây Ban Nha, Hà Lan, Thụy Điển và Đan Mạch. Bên còn lại ủng hộ chính
quyền London theo đuổi chính sách đàn áp cuộc nổi dậy của cư dân Bắc Mỹ, trong
đó nhiệt tình nhất là các tiểu quốc Đức và vương quốc Phổ. Bên cạnh đó, luận văn
còn đề cập đến thái độ trung lập của một số cường quốc châu Âu trước sự kiện cách
mạng diễn ra ở phía bên kia bờ Đại Tây Dương. Sa hoàng Nga và Áo hoàng là
những nhân vật thể hiện quan điểm này rõ rệt nhất. Dĩ nhiên, sự trung lập của hai
thế lực phong kiến này có tác động theo chiều hướng thuận nghịch cho cả Anh và
cư dân Bắc Mỹ. Do trình bày dàn trải thái độ của từng cường quốc châu Âu trong
cách mạng Mỹ nên khi đề cập tới nước Pháp, luận văn chỉ dành dung lượng số trang
vừa phải.
Cùng với Luận văn Thạc sĩ, những năm gần trở lại đây, các công trình Luận án
Tiến sĩ về chủ thể Tây Ban Nha trong lịch sử được một số học giả lưu tâm. Điều cần
6
chú ý rằng, các công trình này tập trung làm rõ sự chi phối của Tây Ban Nha tới
những khu vực, các quốc gia khác nhau trên khắp thế giới, dưới góc độ thương mại,
chính trị và xã hội v.v… Có thể tìm thấy thông tin này trong các công trình: “Quá
trình hoạt động thương mại của Tây Ban Nha ở các thuộc địa Mỹ latinh (thế kỷ XVI
– đầu thế kỷ XIX)” của Phạm Thị Thanh Huyền (Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội, 2016); “Chính sách đóng cửa và mở cửa của Tây Ban
Nha ở thuộc địa Philippines từ cuối thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX” của Trần Thị
Quế Châu (Luận án Tiến sĩ Lịch sử Thế giới, Trường Đại học Khoa học, Đại học
Huế, 2018).
Nói tóm lại, trong chừng mực nhất định, các chuyên khảo trong nhóm công trình
này đề cập khá cụ thể thái độ của vương quốc Tây Ban Nha đối với cách mạng Mỹ.
Nhóm thứ ba là các bài báo khoa học đăng tải trên các tạp chí khoa học
chuyên ngành của Viện Nghiên cứu châu Mỹ, chẳng hạn như: “Ngoại giao Hoa Kỳ
trong cuộc chiến tranh giành độc lập (1773-1783)” và “Nước Pháp với cuộc chiến
tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ (1775-1783)” của Lê Thành
Nam (Châu Mỹ ngày nay, số 3(108)2007 và số 8(137)2009). Trong bài viết đầu
tiên, tác giả trình bày nghệ thuật ngoại giao của phái đoàn ngoại giao do Đại hội lục
địa gửi sang các triều đình phong kiến châu Âu (Pháp, Nga, Phổ) để lôi cuốn chính
giới ở đây lưu tâm tới sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Bắc Mỹ. Mục đích của
những phái đoàn này nhằm cô lập kẻ thù, tức nước Anh, đồng thời mở rộng sự liên
kết với các quốc gia ở Cựu lục địa. Bài viết còn lại phân tích nỗ lực của triều đình
nước Pháp trong việc ủng hộ nhân dân Bắc Mỹ chiến đấu chống lại thực dân Anh.
Sự chiến đấu đó không chỉ dừng lại trên chiến trường mà còn biểu hiện thông quan
sự vận động ngoại giao của triều đình Pháp đối với một số triều đình phong kiến các
nước châu Âu. Có thể nói, hai bài viết này chỉ lướt qua việc chính giới Pháp lôi kéo
Tây Ban Nha, một nước vốn mâu thuẫn với Anh về sở hữu vùng Gibrantar và
Minorque, tạo thành liên minh chống Anh.
2.1. Ở nước ngoài, các công trình liên quan tới chủ đề nghiên cứu khá phong
phú. Có thể phân chia thành những nhóm sau:
7
Nhóm thứ nhất là các công trình liên quan trực tiếp tới đề tài, như: “Spain
and the independence of the United States: An Intrinsic gift” (Tây Ban Nha và nền
độc lập của nước Mỹ: món quà nội tại) của Thomas E. Chavez (Albuquerque:
University of New Mexico Press, 2002) đã trình bày rõ vai trò của Tây Ban Nha đối
với sự ra đời của nước Mỹ, một khía cạnh ít được nhắc đến về quá trình giành độc
lập của nước Mỹ non trẻ. Thông qua chiến đấu thực tế, Tây Ban Nha đã hậu thuẫn,
cung cấp tài chính và quân sự, những người lính được tuyển mộ từ khắp đế chế Tây
Ban Nha, từ Tây Ban Nha và thuộc địa Tây Ban Nha ở Trung và Nam Mỹ, tất cả
những nổ lực đó của Tây Ban Nha đã giúp các thuộc địa non trẻ giành thắng lợi
trong cuộc chiến chống lại mẫu quốc Anh. Một công trình khác: “The role of Spain
in the American Revolution: An Unavoidable Strategic Mistake” (Vai trò của Tây
Ban Nha trong cách mạng Mỹ: một chiến lược sai lầm không tránh khỏi) của Major
Jose I. Yaniz (spain) (Master of military studies, Marine Corps University, Virginia,
2009). Đây là công trình bàn về quá trình Tây Ban Nha trở thành đồng minh của
Pháp tham gia vào cách mạng Mỹ với mục đích trã đũa nước Anh sau thất bại trong
chiến tranh Bảy năm (1756-1763). Song, bất ngờ thay, “hạt giống” thuộc địa Bắc
Mỹ đã nảy mầm và đe dọa đến hệ thống thuộc địa khu vực Trung và Nam Mỹ. Đây
là chiến lược sai lầm không tránh khỏi. Hay “The Spanish Army in North America
1700–1793 (Men-at-Arms)” (Quân đội Tây Ban Nha ở Bắc Mỹ 1700-1793) của
René Chartrand (2011); “From Across the Spanish Empire: Spanish Soldiers Who
Helped Win the American Revolutionary War, 1776-1783. Arizona, California,
Louisiana, New Mexico, and Texas Military Rosters” (Từ khắp Đế chế Tây Ban
Nha: Những người lính Tây Ban Nha đã giúp Chiến thắng Cách mạng Hoa Kỳ,
1776-1783. Arizona, California, Louisiana, New Mexico và Texas Paper Rosters)
của Leroy Matinez (2015); “Galvez / Spain - Our Forgotten Ally In The American
Revolutionary War: A Concise Summary of Spain's Assistance” (Galvez / Tây Ban
Nha – đồng minh bị lãng quên trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ: Bản tóm tắt
ngắn gọn sự trợ giúp của Tây Ban Nha) của Sr. Judge Edward F. Butler (2015), hầu hết
các công trình này đã nêu rõ vai trò và đóng góp về mặt quân sự của Tây ban Nha trong
cách mạng Mỹ.
8
Nhóm thứ hai, là công trình liên quan tới lịch sử ngoại giao nước Mỹ từ khi
quốc gia này còn là một phần của đế chế Anh cho tới thời hiện đại. Mặc dù các tác
phẩm này trình bày ngoại giao của nước Mỹ theo tiến trình lịch sử nhưng trong nội
dung ngoại giao thời kỳ cách mạng, các tác giả chú ý tới việc làm rõ những toan
tính, hoạt động của Tây Ban Nha can thiệp gián tiếp vào cách mạng Mỹ. Có thể tìm
thấy nội dung này trong các tác phẩm như: “A Diplomatic History of the United
States” (Lịch sử ngoại giao của nước Mỹ) của Samuel Bemiss (Henry Holt and
Company, New York, 1951); "A Diplomatic History of the American People” (Lịch
sử ngoại giao của nhân dân Mỹ) của Thomas A. Bailey (Appleton-Century-Crofts,
Inc, New York, 1958); “American Diplomacy A History” (Lịch sử ngoại giao Mỹ)
của Robert H. Ferrell (W.W Norton & Company Inc, New York 1975); “A History
of American Foreign Policy, Vol 1 (Growth to World Power 1700-1914)” (Lịch sử
chính sách đối ngoại Mỹ, Tập 1 (Sự phát triển tới cường quốc thế giới 1700 – 1914)
của Alexander DeConde (Charles Scribner’s Sons, New York, 1978); “A
Companion to American Foreign Relations” (Sự đồng hành quan hệ đối ngoại Mỹ)
của Robert D. Schulzinger (Blackwell Publishing Ltd).v.v…
Nhóm thứ ba là các công trình liên quan tới lịch sử nước Mỹ, như: “The
Reinterpretation of the American Revolution 1763-1789” (Diễn giải lại cách mạng
Mỹ 1763-1789) của Jack P. Greene (Harper & Row Publisher, 1968); “The
American Republic to 1865, Vol 1” (Cộng hòa Mỹ tới năm 1865) của Richard
Hofstadter (Prentice-Hall Inc, Englewood Cliffs, New Jersey, 1959); “The
American Reconstruction through the 20th century” (Tái xây dựng nước Mỹ trong
suốt thế kỷ XX) của Gerald A. Danzer… (McDouglas Little Inc, A Houghton
Miffin Company, 1999); “American History: A Survey” (Khái quát lịch sử Mỹ) của
Alan Brinkley (McGraw-Hill Higher Education, 2003) v.v… Đây là những công
trình thông sử nước Mỹ trình bày tất cả các lĩnh vực của quốc gia này từ khi còn là
thuộc địa của thực dân Anh cho tới hiện nay. Vấn đề ngoại giao trong thời kỳ cuộc
chiến tranh độc lập được đề cập tương đối chừng mực với những sự kiện tiêu biểu,
song chưa lý giải được bản chất hiện tượng của vấn đề đối ngoại của nước Mỹ thời
cận đại.
9
Nhóm thứ tư là các công trình của tác giả nước ngoài được dịch sang tiếng
Việt bàn về lịch sử nước Mỹ, như: “Lịch sử Hoa Kỳ những vấn đề quá khứ” của
Irwin Unger (Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2009); “Lịch sử dân tộc Mỹ” của
Howard Zinn (Nxb Thế giới, Hà Nội, 2010) đã trình bày các sự kiện liên quan tới
nước Mỹ. Vấn đề của tác giả đang tìm hiểu chỉ được nêu một cách sơ lược.
Tóm lại, qua việc điểm qua những công trình mà chúng tôi tiếp cận được có
thể rút ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, tại Việt Nam, chủ đề của luận văn được xâu chuỗi trong các công
trình mang tính giáo trình hoặc phần nào được trình bày trong các chuyên khảo. Các
công trình này bước đầu đề cập đến việc Tây Ban Nha trở thành đồng minh của
Pháp, đứng về phía thuộc địa chống mẫu quốc trong cách mạng Mỹ. Một công trình
với tên gọi như đề tài luận văn hầu như vắng bóng trong các tác phẩm chuyên biệt.
Thứ hai, tại nước ngoài, nhất là Mỹ, chủ đề này được thể hiện hết sức phong
phú với các nguồn sử liệu hết sức có giá trị. Có tác phẩm đề cập một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp tới vấn đề đặt ra. Do tiếp cận cả hai chiều hướng, tức khuynh hướng
ủng hộ và khuynh hướng phản đối Tây Ban Nha can dự vào cuộc chiến tranh giành
độc lập của cư dân Bắc Mỹ nên có sự chằng chéo nhau trong cách trình bày cũng
như cách giải thích các sự kiện. Mặt khác, nhiều sự kiện do cách nhìn nhận chưa
thực sự khách quan nên đánh giá cao về ngoại giao của nước Mỹ.
Mặc dù vậy, các công trình nêu trên đã cung cấp cho tác giả luận văn nhiều
tư liệu có giá trị, giúp người viết có thể hoàn thành công việc đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là khôi phục một cách hệ thống về sự hậu thuẫn của
Tây Ban Nha đối với cách mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783. Trên cơ sở đó,
luận văn làm rõ các hoạt động nổi bật: giai đoạn Tây Ban Nha với tư cách là đồng
minh của Pháp gián tiếp viện trợ bí mật về tài chính và quân sự cho thuộc địa
(1776-1778) và giai đoạn Tây Ban Nha tham chiến trực tiếp (1779-1783), góp phần
giúp đỡ các thuộc địa Bắc Mỹ trong cuộc chiến chống lại mẫu quốc – nước Anh.
Để thực hiện mục tiêu nêu trên, đề tài luận văn tập trung giải quyết những
nhiệm vụ như sau:
10
Thứ nhất, hệ thống hóa quá trình Tây Ban Nha trở thành đồng minh của
Pháp, ủng hộ cuộc chiến tranh giành độc lập của cư dân Bắc Mỹ trên cơ sở tư liệu
hiện có.
Thứ hai, phân tích những nhân tố bên trong và bên ngoài thúc đẩy Tây Ban
Nha can dự vào cách mạng Mỹ.
Thứ ba, phân tích và tổng hợp những hoạt động hỗ trợ về tài chính và quân sự
của Tây Ban Nha đối với các thuộc địa Bắc Mỹ (1776-1783).
Thứ tư, rút ra nhận xét, đánh giá về sự hậu thuẫn của Tây Ban Nha đối với
cách mạng Mỹ trong khung thời gian đặt ra.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu là hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ của Tây Ban Nha
đối với cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ, được thể
hiện trên các lĩnh vực: tài chính và quân sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi không gian, địa bàn trọng tâm mà luận văn tập trung chủ yếu là
châu Mỹ và châu Âu – những nơi thể hiện sự tương tác, kết quả của Tây Ban Nha
trong việc tham gia ủng hộ cách mạng Mỹ.
Về phạm vi thời gian, mốc mở đầu là năm 1776, cụ thể là ngày 27-6-1776,
khi hoàng đế Tây Ban Nha – Carlos III bí mật chuyển cho công ty Roderique
Hortalez et Compagnie (công ty của Pháp) số tiền 270.000 pesos (1.000.000 france)
để hỗ trợ cho cách mạng Mỹ. Mốc kết thúc là năm 1783, cụ thể là, 3-9-1783, nước
Mỹ kí kết hòa ước Paris chấm dứt chiến tranh với Anh. Sự kiện này đồng thời cũng
chấm dứt luôn sự hậu thuẫn của vương quốc Tây Ban Nha đối với cách mạng Mỹ.
Hai mốc thời gian nêu trên cố nhiên không phải là sự phân định máy móc, tùy tiện
mà không cho phép luận văn đẩy về phía trước hoặc lùi dần về phía sau khi làm rõ
chủ đề nghiên cứu.
5. Các nguồn tƣ liệu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của đề tài, luận văn tập trung khai thác
và sử dụng của nguồn tư liệu chủ yếu sau đây:
11
- Các hiệp ước, công hàm ngoại giao, thư từ trao đổi, hồi ký của Bộ trưởng
Ngoại giao, công sứ của Tây Ban Nha, các đại diện ngoại giao Mỹ ở châu Âu, nhất
là tại Madrid. Đây là những tư liệu gốc được in trong các công trình, như: “Spanish
Correspondence Concerning the American Revolution” của James A. Robertson –
1918; “Spanish Observers and the American Revolution, 1775-1783” của Light
Townsend Cummins – 1991; ,…
- Các công trình có phản ánh trực tiếp tới việc ủng hộ của Tây Ban Nha đối
với cách mạng Mỹ, như: “Spain and the independence of the United States: An
Intrinsic gift” của Thomas E. Chavez - 2002; “Galvez/ Spain - Our Forgotten Ally
In The American Revolutionary War: A Concise Summary of Spain's Assistance”
của Sr. Judge Edward F. Butler – 2015 ,…
- Các công trình có nội dung phản ánh trực tiếp đến lịch sử ngoại giao của
Mỹ, như: “A Diplomatic History of The United States” của Samuel Bemis – 1951;
“A History of American Foreign Policy, Vol 1 (Growth to World Power 1700 –
1914)” của Alexander DeConde – 1979; “The History of American Foreign Policy”
của Jerald Combs và Athur Combs
– 1986 và “The Cambridge History of
American Foreign Relations, Vol 1: The Creation of a Republican Empire 1776 –
1865” của Bradford Perkins – 1993 .v.v...
- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các công trình chuyên khảo về lịch sử thế
giới, lịch sử quan hệ quốc tế, lịch sử ngoại giao và các bài nghiên cứu liên quan đến
nội dung đề tài được công bố trên các tạp chí chuyên ngành.
6. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Về phương pháp luận: Luận văn quán triệt quan điểm chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
nghiên cứu khoa học lịch sử. Những quan điểm này được xem là kim chỉ nam trong
quá trình xử lý, hệ thống tư liệu và hình thành luận văn.
- Về phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu lịch sử là phương
pháp cơ bản để thực hiện đề tài. Theo đó, luận văn vận dụng linh hoạt các phương
pháp nghiên cứu chuyên ngành: Sưu tầm, chọn lọc, phân loại, tổng hợp, so sánh, đối
chiếu,… Bên cạnh đó, phương pháp logic cũng được vận dụng. Là đề tài thuộc
12
chuyên ngành Lịch sử Thế giới nên tác giả còn chú ý tới phương pháp nghiên cứu
quốc tế khi phân tích và khái quát những vấn đề đặt ra.
7. Đóng góp của luận văn
Thứ nhất, luận văn là công trình đầu tiên ở Việt Nam hệ thống hóa các tài
liệu liên quan tới sự hậu thuẫn của triều đình phong kiến Mardid cho cuộc đấu tranh
giành độc lập của cư dân Bắc Mỹ.
Thứ hai, luận văn là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho sinh viên ngành lịch
sử, quốc tế học và học viên cao học chuyên ngành lịch sử thế giới, đồng thời đối với
những ai quan tâm tới vấn đề này.
Cuối cùng, luận văn trong chừng mực nhất định góp thêm dữ liệu, khuyến
nghị cho các cơ quan ban ngành trong việc hoạch định, thực thi đường lối đối ngoại
trong quá trình hội nhập một cách sâu rộng quan hệ quốc tế đương đại.
8. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu (11 trang), kết luận (4 trang), tài liệu tham khảo (5 trang)
và phụ lục, nội dung của luận văn được kết cấu trong 3 chương:
Chương 1. Những nhân tố thúc đẩy Tây Ban Nha can dự cách mạng Mỹ từ
năm 1776 đến năm 1783 (21 trang)
Chương 2. Sự hậu thuẫn của Tây Ban Nha đối với cách mạng Mỹ từ năm
1776 đến năm 1783 ( 30 trang)
Chương 3. Một số nhận xét về sự hậu thuẫn của Tây Ban Nha đối với cách
mạng Mỹ từ năm 1776 đến năm 1783 ( 14 trang)
13
Chƣơng 1
NHỮNG NHÂN TỐ THÚC ĐẨY
TÂY BAN NHA CAN DỰ CÁCH MẠNG MỸ
TỪ NĂM 1776 ĐẾN NĂM 1783
1.1. Những xung đột giữa Tây Ban Nha với Anh trong quan hệ quốc tế
Các cuộc phát kiến địa lý vào cuối thế kỷ XV – đầu thế kỷ XVI đã mở ra quá
trình di dân ồ ạt và thuộc địa hóa những vùng đất châu Mỹ của các cường quốc châu
Âu. Dưới nhãn quan của giới cầm quyền ở Cựu lục địa đều xem “Tân thế giới là
đấu trường chinh phục để tích tụ của cải và quyền lực” [12, tr. 309]. Bị ám ảnh to
lớn bởi tư tưởng đó, quá trình thuộc địa hóa lại càng được đẩy nhanh hơn.
Trong số các cường quốc châu Âu, chiếm giữ vị trí tiên phong trong quá
trình này là Tây Ban Nha. Lúc đầu, khi mới đặt chân tới Tân thế giới vào cuối thế
kỷ XV, người Tây Ban Nha chiếm hữu những hòn đảo nằm trong vùng biển
Caribbean, các vùng đất thuộc: Cuba, Jamaica và Puerto Rico. Từ những địa điểm
đứng chân ngoài khơi Đại Tây Dương, Tây Ban Nha tiến sâu vào những lãnh thổ
giàu có lục địa châu Mỹ nằm ở Trung và Nam Mỹ. Sau khi chinh phục xong và xây
dựng nên những thuộc địa thịnh vượng tại đây, trong nửa đầu thế kỷ XVI, người
Tây Ban Nha bắt đầu tiến hành ngày một nhiều hơn các chuyến thám hiểm ngược
lên phía Bắc đến miền Nam nước Mỹ ngày nay với mục đích chủ yếu là tìm kiếm
của cải (là những kho báu, vàng và các kim loại quý khác). Cuối cùng, vì không tìm
thấy của cải và xuất phát từ nhu cầu buôn bán dọc hải lưu Gulf Stream, người Tây
Ban Nha đã thiết lập thị trấn St. Augustine ở phía Bắc của Floridas thành một khu
vực định cư lâu dài và sau đó phát triển nơi đây thành thuộc địa của Tây Ban Nha ở
Bắc Mỹ. Đây được xem là “khu vực định cư lâu dài đầu tiên của người châu Âu ở
vùng đất là nước Mỹ ngày nay” [7, tr. 15]. Cũng trong thời gian này, từ địa bàn
đứng chân ở Floridas, bằng các chuyến thám hiểm, người Tây Ban Nha còn gây
dựng “uy thế” của mình tại những vùng đất phía Tây nước Mỹ ngày nay thuộc các
14
tiểu bang Texas, Kansas, New Mexico, Arizona và California. Kết quả của việc
chinh phục, Tây Ban Nha đã thu về nguồn của cải vô tận từ Tân thế giới, trong đó
vàng và bạc là hai mặt hàng đáng kể. Theo thống kê, trong thời gian từ năm 1521
đến năm 1660, mười tám nghìn tấn bạc và hai trăm tấn vàng được chuyển từ châu
Mỹ về Tây Ban Nha [2, tr. 44].
Bị hấp dẫn với nguồn của cải vô tận cướp đoạt từ Tân thế giới của Tây Ban
Nha, đồng thời không mãn nguyện với kết quả tuyên bố đơn phương của Giáo
hoàng La Mã dành cho hai quốc gia nằm trên bán đảo Iberia những đặc quyền về lợi
ích trong việc khám phá những vùng đất mới và đại dương mới (1493)1, các quốc
gia Tây Âu khác (Anh, Pháp) từng bước tham gia vào việc ganh đua, cạnh tranh và
thách thức đế chế Tây Ban Nha ở phía bên kia Đại Tây Dương.
Chậm chân hơn so với người Tây Ban Nha gần một thế kỷ trong việc thuộc
địa hóa châu Mỹ, năm 1578, Nữ hoàng Anh - Elizabeth, cho phép công dân của
mình được quyền lập thuộc địa ở “những miền đất ngoại đạo và dã man ở Tân thế
giới mà các nhà truyền giáo Thiên chúa giáo khác vẫn chưa tuyên bố quyền sở hữu”
[54, tr. 101]. Đến đầu thế kỷ XVII, cụ thể là vào năm 1607, người Anh thiết lập khu
định cư đầu tiên tại Jamestown, thuộc Virginia. Từ địa điểm này, các khu định cư của
người Anh nhanh chóng lan tỏa dọc theo miền duyên hải Đại Tây Dương với gốc rễ
ngày càng vững chắc, với 13 thuộc địa được thành lập vào giữa thế kỷ XVIII. Giống
như người Anh, cuối thế kỷ XVII – đầu thế kỷ XVIII, nước Pháp cũng thiết lập cho
mình những cứ điểm rộng lớn ở Bắc Mỹ, bao gồm Canada và Louisiana. Với chính
giới cầm quyền của nhiều quốc gia châu Âu, thông lệ vốn ngự trị trong tư tưởng của
họ vào các thế kỷ XVII – XVIII, việc sở hữu “các thuộc địa rộng lớn và sự kiểm
soát thương mại của chúng trở thành tiêu chuẩn của sự thịnh vượng quốc gia, niềm
kiêu hãnh và quyền lực” [31, tr.3].
1
Để tránh sự tranh giành lợi ích thực dân cũng như ngăn chặn nguy cơ một cuộc xung đột giữa hai
thành viên trong Giáo hội Thiên Chúa giáo Roma - Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, về phạm vi
truyền giáo ra bên ngoài Cựu lục địa, ngày 3-5-1493, Giáo hoàng Alexander VI ban hành Sắc chỉ
Inter Cetera. Theo đó, một đường phân giới nằm ở kinh tuyến 100 leagues phía Tây của Azores
được thiết lập. Phần phía Đông của đường phân giới này thuộc quyền của Bồ Đào Nha; phần phía
Tây thuộc phạm vi kiểm soát của Tây Ban Nha. Dựa trên sắc chỉ của Giáo hoàng, điều này có
nghĩa là, toàn bộ lục địa châu Mỹ được giao Tây Ban Nha; châu Phi và Ấn Độ được dành cho Bồ
Đào Nha [3, tr. 22].
15
Có một thực tế lịch sử là trong khi các quốc gia Tây Âu đang tiến hành mở
rộng phạm vi thế lực ra các khu vực khác, trong đó có châu Mỹ thì tại châu Âu một
sự kiện quốc tế diễn ra mà có thể làm đảo lộn trật tự cũng như vị thế của mỗi cường
quốc trên Cựu lục địa. Tháng 11-1700, Charles II, hoàng đế Tây Ban Nha cuối cùng
thuộc dòng họ Habsburgs băng hà. Vì không có con nối dõi nên trước lúc lâm chung,
nhà vua để lại bản di chúc chỉ định cháu nội của vua nước Pháp - Louis XIV, thuộc
dòng họ Bourbons là công tước Philippe d’ Anjou kế vị ngai vàng. Công tước d’
Anjou lên ngôi với niên hiệu Philip V (cầm quyền 1700 – 1746), mở đầu thời kỳ nắm
quyền của dòng họ Bourbons tại Tây Ban Nha. Điều đáng nói rằng Philip V cũng
được ông nội của mình chỉ định làm người kế nhiệm ngôi báu nước Pháp. Việc một
người thuộc dòng họ Bourbons lên ngôi vua Tây Ban Nha đồng thời cũng là hoàng đế
nước Pháp trong tương lai dẫn tới khả năng kịch bản nước Pháp sẽ sáp nhập lãnh thổ
Tây Ban Nha cũng như các thuộc địa của nó nằm trong biên giới của Pháp [26, tr.14].
Dưới nhãn quan của các quốc gia châu Âu phong kiến, một khi kịch bản nêu
trên trở thành hiện thực sẽ phá vỡ thế cân bằng quyền lực – một luận thuyết vốn ra
đời từ sau hiệp ước Westphalia (1648), cho rằng bất cứ một sự thay đổi nào tại vùng
đất châu Âu cũng đe dọa đến sự ổn định của toàn bộ Cựu lục địa cũng như các vùng
đất khác đang phụ thuộc vào nó. Đối với nước Anh, sau khi trở thành một quốc gia tư
sản, nguy cơ đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động thương mại, xuất khẩu hàng hóa
sang các nước khác trong lục địa do vấp phải hàng rào thuế quan của người Pháp đặt
ra. Xa hơn, nước Anh sẽ mất dần việc kiểm soát các đại dương, từ đó các thuộc địa
của Anh dễ dàng rơi vào thế cô lập.
Để ngăn chặn ý đồ của nước Pháp, liên minh các nước châu Âu trong có nước
Anh đã lôi kéo nước Pháp vào cuộc chiến mà lịch sử gọi là Chiến tranh giành quyền
Thừa kế Tây Ban Nha (1701-1713). Đây là “cuộc chiến lớn nhất mà châu Âu chứng
kiến, kể từ thời Thập tự chinh” [15, tr. 291].
Với tư cách thành viên của dòng họ Bourbons, Tây Ban Nha cũng phải chia sẻ
gánh nặng một phần chiến tranh với nước Pháp. Nói cách khác, liên minh Pháp – Tây
Ban Nha phải đương đầu với gần như toàn bộ thế lực phong kiến châu Âu do nước
Anh cầm đầu. Nhờ sự cơ động linh hoạt của quân đội cộng với việc “mượn tay kẻ
16
khác” để làm suy yếu đối phương, nước Anh chiếm ưu thế trên mọi mặt trận. Trong
khi đó, Tây Ban Nha bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Lợi dụng sự yếu của đối
phương, nước Anh chiếm giữ những vị trí chiến lược của Tây Ban Nha ở Địa Trung
Hải, như: Gibraltar (1704), Minorca v.v… Trong số các vị trí này, Gibraltar đóng vai
trò quan trọng bậc nhất đối với triều đình Madrid, là cửa sau (backdoor), “chiếc chìa
khóa”, điểm yết hầu kiểm soát hoạt động lưu thông của mọi thuyền bè từ Địa Trung
Hải ra Đại Tây Dương và ngược lại.
Năm 1713, chiến tranh kết thúc với sự thất bại của liên minh Pháp – Tây Ban
Nha. Với tư cách một bên tham chiến, triều đình Madrid buộc phải chấp ký kết các
hiệp ước do bên thắng trận đưa ra. Trong các hiệp ước Utrecht (1713) và hiệp ước
Rasotat (1714), Tây Ban Nha phải thừa nhận một cách pháp lý về quyền sở hữu của
nước Anh đối với Gibraltar, Minorca; đồng thời chuyển giao cho nước Anh các
asiento de negros (hợp đồng buôn bán nô lệ) từ châu Phi sang châu Mỹ, đảm bảo cho
Anh đặc quyền cung cấp nô lệ thuộc vùng châu Mỹ thuộc Tây Ban Nha [8, tr. 80].
Với điều khoản này, “Tây Ban Nha đã buộc phải chấp nhận cho đối thủ truyền thống
là Anh được tham gia chính thức vào thương mại quốc tế từ năm 1713” [8, tr.80].
Ngoài ra, Tây Ban Nha bị tước đi những vùng đất ở châu Âu mà trước đây họ nắm
quyền chi phối, cụ thể là chuyển giao cho Áo vùng đất phía Nam Netherland, các tiểu
quốc thuộc lãnh thổ Italy, như: Napoli, Milano, Sardinia. Những tổn thất này khiến
cho triều đình Madrid bị suy giảm vị thế, cô lập trên trường quốc tế. Rõ ràng, “Tây
Ban Nha đã bị hạ hẳn xuống vị trí cường quốc thứ yếu ở Tây Âu, địa vị mà Tây Ban
Nha đi vào lịch sử các thế kỷ XVIII – XIX” [25, tr. 530]. Chính từ đây, “Anh trở
thành kẻ thù chính của Tây Ban Nha” [15, tr. 313].
Tiếp sau cuộc Chiến tranh giành quyền Thừa kế Tây Ban Nha, sự xung đột
giữa triều đình Madrid với London không chỉ dừng lại tại Cựu lục địa mà còn biểu
hiện ở vùng “ngoại vi”, tức vùng thuộc địa do chính quyền hai bên quản lý. Năm
1739, Anh phát động cuộc chiến tranh chống Tây Ban Nha. Cuộc chiến này trong lịch
sử gọi là Chiến tranh vì cái tai của Jenkin (The war of Jenkin’s ear) hay chiến tranh
Anh – Tây Ban Nha. Sự thật là xung đột giữa Anh và Tây Ban Nha nảy sinh vào thập
niên đầu tiên của thế kỷ XVIII và chiếc tai bị cắt của Jenkin chỉ là cái cớ cho cuộc
17
chiến nổ ra. Chiến tranh bắt nguồn từ tranh chấp lãnh thổ biên giới giữa Floridas
thuộc Tây Ban Nha và Georgia thuộc Anh. Chiến tranh kéo dài trong hai năm, tới
năm 1741, mà không đưa đến sự phân thắng bại rõ ràng. Mặc dù tiếng súng chấm dứt
nhưng các phần tử có tư tưởng hiếu chiến tại thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ vốn tin
rằng “định mệnh giao cho họ bành trướng sang phía bên kia dãy Allegheny” [42, tr.
19] nên thường xuyên tiến hành các hoạt động quấy phá, tấn công các khu định cư
của người Tây Ban Nha ở Florida, Texas .v.v… Điều này gây ra sự thù hằn, hiềm
khích giữa cư dân Tây Ban Nha với người Anh đang sinh sống tại Bắc Mỹ.
Cần phải thấy rằng, sự vận động của những xung đột giữa Tây Ban Nha và
Anh trong quan hệ quốc tế nửa đầu thế kỷ XVIII luôn có tác nhân từ phía Pháp, mà
quốc gia này lại đang đầy rẫy mâu thuẫn với nước Anh. Mâu thuẫn quán xuyến giữa
Anh và Pháp xoay quanh việc tranh chấp thuộc địa ở Bắc Mỹ và Ấn Độ. Do không
dung được hòa lợi ích nên cả hai bên lao vào cuộc chiến tranh Bảy năm (1756-1763).
Cuộc chiến mà lần đầu tiên trong lịch sử quân sự thế giới chứng kiến sự tác chiến
linh hoạt của quân đội các quốc gia châu Âu, nhất là Anh, nằm ngoài chiến trường
châu Âu (Bắc Mỹ) với những ứng dụng nguyên tắc chiến lược mang tầm nghệ thuật
của một cuộc chiến tranh hiện đại.
Để tiến hành cuộc chiến chống lại Anh, ngày 15-8-1761, Pháp và Tây Ban
Nha đã xác nhận lại tính hiệu lực của “Bản Thỏa ước gia đình” Bourbons (Family
Compact) mà hai bên đã ký trước đó 2. Bản thỏa ước lần này nói rõ thêm, bất cứ đối
phương nào tấn công một ông vua trong khối đồng minh thì đồng nghĩa tấn công
người còn lại. Nhiệm vụ bắt buộc của thành viên trong khối đồng minh là phải hỗ trợ
và tấn công đối phương [31, tr. 6]. Nhằm cột chặt Tây Ban Nha đi theo mình đến
cùng trong cuộc chiến, triều đình Versailles hứa sẽ chiến đấu cho tới khi nào vương
triều Madrid lấy lại được Minorca và Gibraltar. Nói một cách khác, Tây Ban Nha
cùng tham chiến với Pháp chống lại Anh.
Trong thế kỷ XVIII, có 3 bản hiệp ước với tên gọi Thỏa ước gia đình liên minh, mà hoàng đế
Pháp và Tây Ban Nha tuyên bố thiết lập một mặt trận thống nhất trong chiến tranh lẫn hòa bình
nhằm chống lại kẻ thù. Hai bản hiệp ước đầu tiên được ký vào ngày 7-10-1733 và 3-10-1743,
hướng trực diện vào dòng họ Hapsburgs ở Italy cũng như chống lại tham vọng thuộc địa và hàng
hải của Anh [31, tr. 6].
2
18
Một điều cần chú ý, trong cuộc chiến tranh Bảy năm, mặc dù là một bên tham
chiến nhưng nước Anh không trực tiếp dính líu, không tham gia chiến sự chống lại
đối phương, tức Pháp và Tây Ban Nha, mà để các quốc gia khác chiến đấu hộ mình.
Thực chất, chính quyền London muốn mượn tay kẻ khác để hạ gục đối thủ. Nhờ vậy,
nước Anh một mặt đỡ tốn kém tài chính; mặt khác thoải mái hoành hoành trên đại
dương để chiếm những thuộc địa quan trọng của Tây Ban Nha. Kết quả, nước Anh
chiếm Cuba và Philippines (1762). Chứng kiến người Anh chiếm đóng hai địa điểm
này khiến cho người đứng đầu vương triều Madrid, Carlos III (cầm quyền 1759 1788) cảm thấy nhục nhã, như nhận xét của một học giả: “Khi người Anh tiến vào
Havana vào ngày 14 tháng Tám năm 1762, điểm yếu của đế quốc rộng lớn Tây Ban
Nha đã bị phơi bày ra toàn thế giới… từ đó dẫn đến sự thay đổi trong giấc ngủ ở đế
chế châu Mỹ của Carlos III” [8, tr. 81].
Với ưu thế về hạm đội, sự tác chiến linh hoạt, nước Anh giành phần thắng
trong cuộc đối đầu liên minh Pháp – Tây Ban Nha. Chiến tranh kết thúc mà Gibraltar
và Minorca vẫn còn nằm trong tay người Anh. Nói cách khác, những kỳ vọng của
Tây Ban Nha trong cuộc chiến tranh Bảy năm hoàn toàn tan vỡ. Hiệp ước Paris
(1763) ghi rõ những tổn thất mà Tây Ban Nha phải gánh chịu, bồi thường cho nước
Anh. Theo đó, Tây Ban Nha nhượng cho Anh lãnh thổ Florida và toàn bộ phần lãnh
thổ nằm phía đông dòng sông Mississippi, đổi lại nước Anh rút khỏi Cuba và
Philippines; công nhận quyền khai thác gỗ của người Anh ở vịnh Honduras (thuộc
Trung Mỹ) và các địa điểm khác thuộc sở hữu của Tây Ban Nha trong khu vực này
[31, tr.8]. Để bù đắp cho đồng minh thân cận của mình trong việc mất Florida, nước
Pháp nhượng vùng đất Louisiana cho Tây Ban Nha bao gồm “không chỉ New
Orleans và vùng cửa sông Mississippi mà cả một yêu sách mập mờ đối với các vùng
lãnh thổ mà bấy giờ bao gồm nhiều dân cư và giàu có hơn so với vương quốc Tây
Ban Nha” [56, tr. 500]. Với Louisiana và một số lượng lớn các thuộc địa ở Trung và
Nam Mỹ, khi Cách mạng Mỹ nổ ra, Tây Ban Nha là quốc gia có nhiều ưu thế nổi bật
hơn cả để đóng vai trò trực tiếp hỗ trợ cho người Mỹ, nếu họ sẵn lòng.
Có thể nói rằng, bước ra khỏi chiến tranh Bảy năm, người Tây Ban Nha ngậm
đắng, nuốt cay, bởi chẳng những không tái khôi phục lại Gibraltar, Minorca như kỳ
19
vọng mà còn phải chấp nhận sự hiện diện của Anh ở Floridas. “Sự công nhận sở hữu
của Anh ở Đông và Tây Florida, do đó củng cố sự hiện diện của kẻ thù truyền thống
của Tây Ban Nha ở vịnh Mexico” [8, tr. 82]. Việc kiểm soát của Anh ở vịnh Mexico
góp phần chia cắt hoạt động thương mại của các thuộc địa Tây Ban Nha trong vùng
biển Caribbean (Cuba, Dominique) với những vùng đất thuộc quyền quản lý của triều
đình Madrid tại lục địa Bắc Mỹ (Texas, Louisiana, California). Có thể nói rằng, sau
chiến tranh Bảy năm “lợi ích mà nước Anh thu được là cực kỳ to lớn, đấy không chỉ
là sự mở rộng lãnh thổ, cũng không chỉ là quyền bá chủ trên biển mà còn là uy tín và
địa vị trong mắt các dân tộc đã nhận thức được nguồn lực vĩ đại và sức mạnh to lớn
của nước này” [15, tr. 408].
Cần nhấn mạnh rằng, những cuộc chiến tranh Anh – Pháp – Tây Ban Nha
trong hơn nửa đầu thế kỷ XVIII, kết thúc với “những thủ đắc lãnh thổ được xem như
những thẻ nhựa dùng thay tiền trong các sòng bạc mà các nhà lãnh đạo phải thu
hoặc gom được tùy theo may rủi của chiến tranh, không chút quan tâm đến lợi ích
của người dân” [4, tr. 569]. Hay nói theo cách của cựu Bộ trưởng Ngoại giao Tây
Ban Nha, Alberoni: “Họ cắt và tỉa các quốc gia giống như miếng phomat Hà Lan”
[31, tr. 14].
Bên cạnh những xung đột lợi ích về mặt lãnh thổ thì giữa Tây Ban Nha với
Anh còn hiện hữu cạnh tranh về mặt thương mại. Đó là việc người Anh hậu thuẫn
những băng cướp biển người Moor đang đồn trú, ẩn nấp dọc theo bờ biển Bắc Phi.
Chúng thường xuyên tấn công vào các tàu chở hàng của Tây Ban Nha đang lưu
thông trong biển Địa Trung Hải hay các thương thuyền trở về từ Tân thế giới. Hệ
quả, nền thương mại của Tây Ban Nha tại vùng biển này suy giảm đáng kể so với
những địa bàn khác.
Một thực tế lịch sử khác, trong quan hệ giữa Tây Ban Nha và Anh còn nảy
sinh xung đột liên quan tới Bồ Đào Nha. Trong thập niên 30 của thế kỷ XVII, giữa
hai quốc gia láng giềng trên bán đảo Iberia thường xảy ra chiến sự. Hệ quả, năm
1640, Bồ Đào Nha tách ra khỏi lãnh thổ Tây Ban Nha. Trước hành động của Bồ
Đào Nha, vương triều Madrid tìm mọi cách sáp nhập, thôn tính trở lại. Để ngăn cản
ý định này, chính quyền Bồ Đào Nha tìm kiếm sự liên minh với Anh (1654) hòng
20
dựa vào quốc gia này để bảo vệ nền độc lập, chống lại những cuộc tấn công thường
xuyên của quốc gia láng giềng. Bắt đầu từ thời điểm này cho tới giữa thế kỷ XVIII,
liên minh Anh – Bồ quan hệ chặt chẽ với nhau. Điều cần chú ý, để nhận được sự
che chở của nước Anh, chính quyền Lisbon cho phép thương thuyền của nước Anh
tham gia vào việc buôn bán trực tiếp với Brazil, một thuộc địa của Bồ Đào Nha ở
Tây bán cầu. Đối với thương nhân và nhà sản xuất người Anh, sự hấp dẫn không chỉ
là thị trường Brazil mà từ đây họ có thể qua ngã đường Rio de la Plata tiến vào
vùng giàu có kim loại bạc ở Potosí (Thượng Peru), thuộc địa của Tây Ban Nha ở
Nam Mỹ [8, tr. 76-77]. Để bảo vệ hoạt động buôn bán tại Nam Mỹ, Anh hỗ trợ Bồ
Đào Nha tấn công các thương thuyền của Tây Ban Nha. Điều này gây ra nhiều thiệt
hại cho Tây Ban Nha, làm xói mòn chính sách độc quyền thương mại của vương
triều Madrid đang thực hiện tại châu Mỹ thuộc Tây Ban Nha. Do vậy, một cơ hội để
phục thù, đẩy nước Anh ra khỏi Tây bán cầu luôn thường trực trong mọi tính toán
của triều đình Madrid.
Tóm lại, giống như nước Pháp, trong hơn nửa thế kỷ XVIII, mối quan hệ
giữa Anh với Tây Ban Nha đầy rẫy mâu thuẫn. Trong mối quan hệ này, Tây Ban
Nha là quốc gia luôn thiệt thòi, tổn hại về quyền lợi, nhường lại phần hơn cho nước
Anh. Bị uất hận trước việc mất Gibraltar, Minorca, đồng thời thường xuyên chịu sự
tấn công vào các thuộc địa của mình ở châu Mỹ bởi người Anh, vương triều Madrid
tìm mọi cơ hội có thể để thanh toán, phục thù. Dưới con mắt của Tây Ban Nha, Anh
là kẻ trù thù truyền kiếp, không chỉ gây ra cho họ những tổn thất thuộc địa mà còn
đóng vai trò làm suy giảm vị thế của triều đình Madrid trên trường quốc tế.
Sự phục thù đối với người Anh luôn thường trực trong tính toán ngoại giao
của Tây Ban Nha từ sau thập niên 60 của thế kỷ XVIII trở đi !
1.2. Cuộc Chiến tranh giành độc lập của cƣ dân thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ
Là quốc gia khởi động quá trình thuộc địa hóa ở Tân thế giới chậm hơn so
với các cường quốc châu Âu khác nhưng các thuộc địa của nước Anh tại vùng đất
Bắc Mỹ tỏ ra ưu thế, vượt trội hơn và ngày càng có gốc rễ vững chắc. Cho tới giữa
21
thế kỷ XVIII, người Anh đã thiết lập tại Bắc Mỹ 13 thuộc địa 3. Điểm chung của các
thuộc địa nơi đây là tiếp giáp với đại dương – Đại Tây Dương. Với vị trí địa lý
thuận lợi cùng với cơ chế quản lý thông thoáng của mẫu quốc, các thuộc địa của
Anh đã nhanh chóng trở thành những vùng dân cư trù mật, giàu có.
Một đặc điểm nổi bật của 13 thuộc địa Anh chính là sự phát triển nhộn nhịp
của nền thương mại. Hầu hết các hoạt động sản xuất khác, như: nông nghiệp, thủ
công nghiệp ở đây đều phát triển theo xu hướng thương mại hóa. Do nằm dọc theo
miền duyên hải đại dương nên hầu như thuộc địa nào cũng có hải cảng và phát triển
với bên ngoài. Vào thập niên 50 của thế kỷ XVIII, nhiều trung tâm thương mại và
hải cảng lớn mang tầm cỡ khu vực đã xuất hiện, tiêu biểu như: Boston (thuộc địa
Massachusett), Philadelphia (thuộc địa Pennsylvania), Charleston (thuộc địa South
Carolina) .v.v… Không chỉ dừng lại ở việc trao đổi trong phạm vi nội tuyến, tức
trong nội bộ đế chế Anh, các thương nhân thuộc địa còn mạnh dạn, chủ động tham
gia buôn bán ngoại tuyến. “Tam giác thương mại” Bắc Mỹ - Châu Phi – Tây Ấn
(Trung và Nam Mỹ) mang lại cho thương nhân Bắc Mỹ lợi nhuận kếch xù. Hoạt
động giao thương của thương nhân Bắc Mỹ đã đóng góp một phần rất đáng kể trong
thương mại của đế chế Anh. Sự lớn mạnh của các thuộc địa khiến cho cư dân Bắc
Mỹ nhận thức rằng: “Sức mạnh và sự thịnh vượng của đế chế Anh phụ thuộc đáng
kể vào việc nước Anh sở hữu vùng đất ở Bắc Mỹ và ngày càng to lớn hơn trong
tương lai” [26, tr. 20].
Điều cần phải nhận thấy, sự phát triển mạnh mẽ của thương mại vừa là điều
kiện vừa là biểu hiện rõ rệt nhất cho sự vận động theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa của
nền kinh tế 13 thuộc địa. Nền kinh tế này lúc đầu còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của
kinh tế chính quốc nhưng càng về sau, khi tính chất tư bản chủ nghĩa ngày càng
đậm nét thì cũng là lúc nó có xu hướng thoát li dần khỏi quyền kiểm soát thực dân.
Việc các thương gia thuộc địa tham gia vào các tuyến buôn bán bên ngoài như đã đề
cập ở trên là minh chứng cho nhận định vừa mới nêu ra. Điều tất yếu của sự thịnh
Bao gồm các thuộc địa: Connecticut, Delaware, Georgia, Maryland, Massachusetts, New Jersey,
New York, New Hamphsire, North Carolina, Pennsylvania, Rhode Island, South Carolina,
Virginia.
3
22