ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
---------------------------
NGUYỄN NGỌC TRINH
ĐỀ TÀI: SỬ DỤNG PHIM TÀI LIỆU THEO HƢỚNG
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH TRONG DẠY
HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM
1975 Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(CHƢƠNG TRÌNH CHUẨN)
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Thừa Thiên Huế, năm 2018
1
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta, ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam đã
đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả giáo dục hiện nay vẫn còn thấp so với yêu
cầu. Phương pháp giáo dục còn lạc hậu, thiếu thực chất, nặng về nội dung kiến thức.
Vì thế đổi mới giáo dục ngày càng trở nên cấp thiết.
- Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 8 khóa
XI (11/2013) đã ban hành Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, đã khẳng định “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi
mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu,
nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách”. Để đáp ứng yêu cầu về đổi mới nội
dung, chương trình, sách giáo khoa iết (SGK), phương pháp giảng dạy nhất thiết phải
đưa vào các phương tiện dạy học, nhất là các phương tiện dạy học hiện đại nhằm phát
triển năng lực học sinh (HS), góp phần nâng cao hiệu quả việc dạy học nói chung, dạy
học bộ môn Lịch sử nói riêng. Trong số các phương tiện dạy học hiện đại được đưa
vào sử dụng trong dạy học, phim tài liệu chiếm một vị trí quan trọng.
- Trên thực tế, việc sử dụng các phương tiện kĩ thuật hiện đại, đặc biệt là phim tài
liệu trong dạy học lịch sử (DHLS) đã được nhiều chuyên gia giáo dục khẳng định là
góp phần dựng lại bức tranh quá khứ chân thực, sinh động đúng như nó tồn tại, giúp
HS khắc phục tình trạng “hiện đại hóa” lịch sử. Sử dụng phim tài liệu trong DHLS đã
mang lại một số hiệu quả nhất định, tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên (GV) và HS
tiến hành các hoạt động dạy học một cách sinh động, hấp dẫn hơn so với lối dạy thuần
túy bằng lời hay bằng các phương tiện dạy học truyền thống khác. Tuy nhiên, thực tế
sử dụng phim tài liệu trong DHLS vẫn còn nhiều bất cập, nhất là ở khâu khai thác nội
2
dung đoạn phim như thế nào để có thể phát triển năng lực cho HS. Có hai điểm đặt ra
cần cần quan tâm: (1) Quy trình xây dựng một đoạn phim tài liệu trong DHLS được
tiến hành như thế nào? (2) Sử dụng các đoạn phim tài liệu trong DHLS như thế nào để
có thể phát huy được từng năng lực cụ thể của HS. Qua đó góp phần đổi mới phương
pháp dạy học (PPDH) và nâng cao chất lượng bộ môn Lịch sử.
Xuất phát từ những lí do chủ yếu trên, chúng tôi chọn vấn đề “Sử dụng phim tài
liệu theo hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ
năm 1954 đến năm 1975 ở trường trung học phổ thông (Chương trình chuẩn)” làm
đề tài luận văn thạc sĩ.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Từ trước đến nay có nhiều công trình khoa học đã công bố liên quan đến vấn đề
nghiên cứu. Chúng tôi tiếp cận những công trình khoa học này theo hai lĩnh vực:
2.1. Những công trình nghiên cứu về sử dụng trực quan trong dạy học nói
chung, dạy học lịch sử nói riêng
- Trong cuốn “Đồ dùng trực quan trong việc dạy, học lịch sử ở trường phổ
thông cấp II” (1975) của Nxb Giáo dục, các tác giả chỉ ra ý nghĩa và phương pháp sử
dụng đồ dùng trực quan trong dạy – học LS ở trường phổ thông cấp II.
- Tài liệu “Đồ dùng trực quan trong việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông
cấp II-III” (1975), Nxb Giáo dục của Phan Ngọc Liên, Phạm Kỳ Tá đã trình bày hệ
thống các loại đồ dùng trực quan có thể dùng trong DHLS. Trong chương I, các tác giả
phân tích vai trò, ý nghĩa, đặc trưng của đồ dùng trực quan trong DHLS, đưa ra các
nguyên tắc lựa chọn và sử dụng theo hướng tích cực hóa người học.
- Trong cuốn “Giáo dục học”, tập 1 (1987) của NXB Giáo dục, nhóm tác giả Hà
Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt đã chỉ ra vai trò, ý nghĩa của các loại đồ dùng trực quan
trong dạy học, ưu - nhược điểm của mỗi loại và cách sử dụng một số phương tiện trực
quan.
- Trong cuốn “Những vấn đề cơ bản của giáo dục học hiện đại” (1998), Thái
Duy Tuyên nhấn mạnh tầm quan trọng của tài liệu trực quan trong dạy học và cho rằng:
“Tài liệu trực quan chẳng những cung cấp cho học sinh những kiến thức bền vững,
chính xác mà còn giúp học sinh kiểm tra lại chúng nếu phù hợp với thực tiễn”.
3
- Đặng Thành Hưng trong cuốn “Dạy học hiện đại - Lí luận, biện pháp, kĩ
thuật” (2002), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội giới thiệu kĩ thuật sử dụng và khai thác
các phương tiện dạy học trên lớp, trong đó có đồ dùng trực quan.
- Giáo trình “Giáo dục học” (2006) do Trần Thị Tuyết Oanh làm chủ biên,
NXB Đại học sư phạm) khẳng định trực quan không chỉ là một nguyên tắc dạy học,
mà còn là PPDH và tác giả đã dành hẳn chương IX để trình bày rõ về trực quan với
khía cạnh phương pháp và phương tiện dạy học.
- Trịnh Đình Tùng và Nguyễn Mạnh Hưởng (2008): “Sử dụng hiệu quả các
thiết bị DH ở trường phổ thông”, Tạp chí Thiết bị giáo dục, số 22.
Giáo trình “Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm môn lịch sử” của tập thể giảng
viên tổ PPDH, khoa LS, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, do Nguyễn Thị Côi chủ biên
(Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2009) đã dành một chương khá chi tiết viết về rèn
luyện kĩ năng xây dựng và sử dụng các loại đồ dùng trực quan, trong đó có ứng dụng
công nghệ thông tin. Sách nêu rõ các bước tiến hành, kĩ năng khai thác từ các kênh hình
có trong SGK và kênh hình bên ngoài SGK bằng công nghệ thông tin.
Trần Bá Hoành trong cuốn “Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và
sách giáo khoa” (2010), Nxb Đại học Sư phạm khẳng định vai trò của phương pháp
trực quan trong việc tích cực hóa hoạt động người học. Theo tác giả, “phương tiện trực
quan được sử dụng như là “nguồn” chủ yếu dẫn đến kiến thức mới”.
Giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử” – bộ giáo trình được sử dụng trong
các trường đại học, cao đẳng sư phạm hiện nay của nhóm tác giả là giảng viên tổ
PPDH khoa Lịch sử, trường Đại học Sư phạm Hà Nội (Phan Ngọc Liên chủ biên) nhấn
mạnh: “…. đồ dùng trực quan góp phần to lớn nâng cao chất lượng kì học LS, gây
hứng thú học tập cho HS. Nó là chiếc “cầu nối” giữa quá khứ với hiện tại”.
2.2. Những công trình nghiên cứu về sử dụng phương tiện kỹ thuật nói chung,
phim tài liệu nói riêng trong dạy học lịch sử
- Trịnh Đình Tùng, Kiều Thế Hưng (1994): “Xây dụng và sử dụng bản đồ trong
DHLS ở trường phổ thông”, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 6.
4
Nguyễn Hữu Chí (1996):“Sử dụng phim video trong dạy học lịch sử ở trường
trung học phổ thông”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 1 đề cập tới tác dụng, tình hình
sử dụng, đề xuất biện pháp sử dụng video trong DHLS ở trường phổ thông.
- Hoàng Thanh Tú và Nguyễn Tiến Trình (2007): “Sử dụng phim tư liệu trong
dạy học lịch sử”, Tạp chí dạy và học ngày nay, số tháng 5/2007.
Nguyễn Mạnh Hưởng (2008): “Các biện pháp nâng cao hiệu quả bài học lịch
sử ở trường trung học phổ thông với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin”, Tạp chí Giáo
dục số 202 đã đề xuất: “giáo viên có thể ứng dụng công nghệ thông tin để tổ chức cho
các em khai thác kiến thức lịch sử qua các đoạn phim tư liệu” và nêu ra phương pháp
sử dụng khi cho HS xem phim.
- Hoàng Thanh Tú – Ninh Thị Hạnh (2011): “Thiết kế và sử dụng phim tài liệu
lịch sử với sự hỗ trợ của phần mềm Proshow Gold”, Tạp chí Thiết bị giáo dục, số 68.
Trong cuốn “Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở
trường phổ thông”, Nguyễn Thị Côi chỉ rõ một trong những biện pháp quan trọng để
nâng cao hiệu quả bài học là việc trình bày gây xúc cảm LS cho HS, và phương tiện để
đạt được điều đó từ lời nói của GV, tranh ảnh, bản đồ, các đoạn trích từ các tác phẩm
văn học, nghệ thuật, phim ảnh,…
Giáo trình “Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm môn lịch sử” (2009) Nxb Đại
học Sư phạm Hà Nội (Nguyễn Thị Côi chủ biên) đã dành phần đầu tiên của chương VI
đề cập đến vai trò của phương tiện kĩ thuật trong DHLS ở trường phổ thông. Ở chương
VII, bên cạnh việc bồi dưỡng cho GV kĩ năng sử dụng phần mềm Microsoft Power
Point trong thiết kế và tiến hành bài giảng LS, các tác giả còn hướng dẫn cụ thể việc:
“Chèn các biểu tượng, đoạn phim tư liệu, tranh ảnh LS, bản đồ,… đã scan vào các
slide”.
Nguyễn Mạnh Hưởng (2011): “Hướng dẫn học sinh khai thác hiệu quả các
đoạn phim tài liệu trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông”, Tạp chí Giáo
dục số 258. Trong bài viết này, tác giả đưa ra quan niệm phim tài liệu, những mục đích
sử dụng phim tài liệu trong DHLS (kiểm tra bài cũ, minh họa kiến thức và tạo biểu
tượng sinh động, hỗ trợ cho bài miêu tả tưởng thuật, tìm ra kiến thức cơ bản của bài).
5
Trong mỗi mục đích sử dụng, tác giả đều có những ví dụ cụ thể về PP sử dụng để có
thể đạt hiệu quả cao nhất.
Nhìn chung, các tác giả nói trên đã đề cập khái quát vai trò, ý nghĩa, hình thức,
biện pháp sử dụng phim tài liệu trong DH nói chung, DHLS nói riêng. Tuy nhiên,
phần lớn các công trình này chưa đi sâu tìm hiểu việc sử dụng phim tài liệu theo
hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học một khoá trình lịch sử cụ thể ở
thường THPT.
Những thành tựu nghiên cứu của các tác giả nói trên giúp chúng tôi có cơ sở kế
thừa, vận dụng và phát triển đề tài “Sử dụng phim tài liệu theo hướng phát triển
năng lực học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 ở
trường trung học phổ thông (Chương trình chuẩn)”.
3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tƣợng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu quá trình sử dụng phim tài liệu theo hướng phát
triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 ở
trường trung học phổ thông.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, đề tài chỉ tập trung làm rõ những vấn đề
lý luận, thực tiễn và phương pháp khai thác, sử dụng phim tài liệu lịch sử trong dạy
học lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 ở trường trung học phổ thông
(Chương trình chuẩn). Phạm vi tìm hiểu thực tiễn cũng như thực nghiệm sư phạm về
sử dụng phim tài liệu trong dạy học lịch sử chủ yếu được tiến hành ở một số trường
THPT trên địa bàn tỉnh Bình Định.
4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Tìm hiểu và làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc sử dụng
phim tài liệu theo hướng phát triển năng lực của HS trong DHLS ở trường THPT.
- Xác định các nguyên tắc chọn lọc, xử lý và phương pháp sử dụng một cách
khoa học phim tài liệu theo hướng phát triển năng lực của HS nhằm góp phần nâng
cao hiệu quả dạy học lịch sử nói chung, lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975
nói riêng ở trường trung học phổ thông (Chương trình chuẩn).
6
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Hệ thống một số vấn đề lí luận liên quan đến việc chọn lọc, sử dụng phim tài
liệu theo hướng phát triển năng lực của HS trong DHLS ở trường THPT.
- Điều tra xã hội học để tìm hiểu thực tiễn sử dụng phim tài liệu theo hướng phát
triển năng lực của HS trong DHLS ở trường THPT.
- Sưu tầm, chọn lọc và xử lý phim tài liệu liên quan đến lịch sử Việt Nam giai
đoạn 1954 – 1975 cần khai thác, sử dụng trong DHLS ở trường phổ thông theo hướng
phát triển năng lực của HS.
- Xác định các yêu cầu và đề xuất biện pháp sử dụng phim tài liệu một cách khoa
học, hiệu quả trong dạy học lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 ở trường
trung học phổ thông theo hướng phát triển năng lực học sinh.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm định tính khả thi của đề tài
6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1 Phƣơng pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là tư tưởng, chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về lịch sử và giáo dục lịch sử.
6.2 Phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể
+ Nghiên cứu tài liệu về tâm lí học, giáo dục học, giáo trình phương pháp DH,
SGK LS ở trường THPT.
+ Dự giờ, quan sát, điều tra, trao đổi với GV, HS ở trường THPT về tình hình
thực tiễn của việc sử dụng PTLLS trong DHLS theo định hướng phát triển năng lực
HS.
+ Thực nghiệm sư phạm các hình thức, biện pháp sử dụng PTLLS theo định
hướng phát triển năng lực trong DHLS.
+ Phương pháp thống kê nhằm tổng hợp xử lí các số liệu điều tra, so sánh các giá
trị thu được từ lớp thực nghiệm và lớp đối chứng.
7. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu đảm bảo các yêu cầu về chọn lọc, xử lý và phương pháp sử dụng phim tài
liệu theo hướng phát triển năng lực học sinh như luận văn đề xuất thì sẽ góp phần
7
nâng cao đáng kể hiệu quả dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông nói chung,
lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 nói riêng.
8. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài nghiên cứu thành công sẽ góp phần:
- Hệ thống và làm rõ hơn những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn của việc sử
dụng phim tài liệu theo hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử ở
trường THPT.
- Chọn lọc và xử lí một cách khoa học hệ thống phim tài liệu phục vụ dạy học
lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 ở trường trung học phổ thông theo hướng
phát triển năng lực học sinh.
- Đề xuất các yêu cầu, biện pháp giúp GV phổ thông khai thác sử dụng hệ thống
phim tài liệu một cách khoa, hiệu quả trong dạy học lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến
năm 1975 ở trường trung học phổ thông theo hướng phát triển năng lực học sinh. .
9. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, phần giải quyết
vấn đề của khóa luận được cấu tạo thành 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng phim tài liệu theo
hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THPT.
Chƣơng 2: Xây dựng phim tài liệu sử dụng trong dạy học lịch sử Việt Nam từ
năm 1954 đến năm 1975 ở trường THPT theo hướng phát triển năng lực học sinh.
Chƣơng 3: Phương pháp sử dụng phim tài liệu theo hướng phát triển năng lực
học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 ở trường THPT
(Chương trình chuẩn)
8
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG PHIM TÀI LIỆU
THEO HƢỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG.
1.1 Một số vấn đề lý luận của việc sử dụng phim tài liệu theo định hƣớng
phát triển năng lực trong dạy học lịch sử ở trƣờng THPT
1.1.1 Khái niệm phim tài liệu
Khái niệm phim
Phim thực chất là nhiều ảnh được đặt lên trên một màn ảnh, nhằm tạo ra ảo giác
về chuyển động. Đây là một hình thức giải trí phổ biến, cho phép con người đưa mình
vào thế giới ảo trong một khoảng thời gian ngắn.
Phim có thể tái hiện lịch sử, minh họa kiến thức khoa học, miêu tả hành vi thái
độ con người và nhiều thứ khác. Nhiều phim kết hợp giải trí với kiến thức, làm cho
việc học thú vị hơn.
Những hình ảnh trong phim thực ra chỉ là những tấm hình rời rạc, nhưng khi
chúng xuất hiện liên tiếp nhanh chóng thì mắt của chúng ta không nhận ra từng cái
riêng lẻ. Đó là kết quả của sự lưu ảnh, một hiệu ứng thông thường của mắt. Bình
thường, mắt chúng ta lưu lại ảnh ảo của một vật trong một phần nhỏ của giây sau khi
vật đó rời khỏi tầm nhìn. Mặc dù chúng ta không phân biệt được từng ảnh riêng lẻ
trong phim nhưng vẫn có thể nhận biết được sự khác biệt giữa chúng, và bộ não hiểu
sự khác biệt đó là chuyển động.
Một bộ phim được quay bằng các camera được thiết kế đặc biệt để ghi lại hình
ảnh lên phim, sau khi xử lý và xuất ra, phim được chiếu lên màn ảnh bởi một máy
phát. Thiết bị này chiếu ánh sáng xuyên qua phim và ảnh sẽ xuất hiện trên tấm màn
hứng ảnh. Ban đầu, phim không có tiếng. Nhưng ngày nay, tất cả phim đều kèm theo
âm thanh.
9
Có nhiều thể loại phim khác nhau như: phim truyện, phim tài liệu, phim khoa
học, phim hoạt hình. Trong mỗi thể phim lại có nhiều loại khác nhau, như trong lĩnh
vực phim tài liệu (PTL) có loại PTL chính luận, PTL lịch sử (PTLLS), PTL truyền
thông, PTL nghệ thuật,… Trong các thể loại PTL kể trên loại có ưu thế hơn hẳn trong
dạy học lịch sử (DHLS) đó là PTLLS.
Khái niệm phim tài liệu
Đa số cho rằng từ “documentary” (phim tài liệu) lần đầu được dùng bởi John
Grierson trong bài phê bình phim Moana (1926) được đăng trên New York Sun vào
ngày 8/12/1926. Ông đã định nghĩa về phim tài liệu chính là “sự sáng tạo hóa đời
thực”.
Nhà phê bình phim người Mĩ Pare Lorentz thì định nghĩa phim tài liệu là “phim
dựa trên đời thực mà đã được kịch tính hóa”. Ngoài ra, người ta còn cho rằng sở dĩ
PTL khác với các thể loại phim phi hư cấu còn lại là ở chỗ, song song với kể lại đời
thực, bộ phim còn đưa ra ý kiến hoặc ẩn dụ một lời nhắn đặc biệt nào đó.
Trong cuốn sách mang tên “Nghệ thuật điện ảnh: một giới thiệu đại cương”, hai
tác giả David Bordwell và Kristin Thompson, thuộc Trường đại học Wisconsin, định
nghĩa: Phim tài liệu là một tác phẩm chứa đựng trong nội dung của nó những thông
tin chân thực về thế giới bên ngoài.1
Trong cuốn “Nghiên cứu điện ảnh đại cương”, Andrew Britton cho rằng: “Trước
hết, một bộ phim tài liệu có giá trị phải phản ánh được những góc cạnh khác nhau của
sự thực, một sự thực không đơn giản như chúng ta nhìn thấy mà là một sự thực được
đặt trong bối cảnh lịch sử, xã hội đã tạo ra chúng” 1. Như vậy, sự thực trong PTL phải
được xếp đặt trong bối cảnh đã sinh ra nó, nằm trong mối quan hệ biện chứng với
những sự kiện, hiện tượng khác.
Còn theo các bậc thầy của điện ảnh Xô Viết thì PTL xuất hiện từ những năm hai
mươi của thế kỉ trước và nó được gọi là Điện ảnh mắt hay Điện ảnh sự thật. Nghĩa là
chỉ có sự thật và sự thật mà thôi. Không hư cấu, không dàn dựng, không có sự xuất
1
/>
downloadcomvn/231
10
hiện của diễn viên. Hiện thực cuộc sống phải được phản ánh một cách khách quan,
trung thực nhất như nó vốn có; không được bóp méo, đảo lộn hay tô vẽ gì thêm.
Theo “Thuật ngữ Điện ảnh – Truyền hình” do Hội Điện ảnh Việt Nam xuất bản
năm 2009: Phim Tài liệu (Documentary) là thể loại phim mang tính truyền thông về
những sự kiện có thật xảy ra trong xã hội và thế giới tự nhiên được con người quan
tâm. Phim tài liệu thường chứa những sự kiện chọn lọc, những chi tiết chân thực là
sức mạnh thuyết phục của người xem. Một số loại hình phim tài liệu, chẳng hạn như
phim tài liệu khoa học, nghệ thuật hoặc chuyên đề có thể có sự can thiệp, xếp đặt của
đạo diễn để phim có tính điện ảnh cao hơn.1
Theo định nghĩa của thì PTL là “một thuật ngữ trong điện
ảnh dùng để chỉ những loại phim khai thác mọi khía cạnh trong đời sống ở góc độ
chân thực và tự nhiên nhất”.
Theo cuốn Từ điển Tiếng việt thông dụng tài liệu “là văn bản giúp ta tìm hiểu
một vấn đề gì, tài liệu dùng để nghiên cứu hay học tập, giảng dạy một vấn đề.”2
Như vậy, phim tài liệu là phim phục vụ cho công tác nghiên cứu, học tập giảng
dạy, phản ánh những sự kiện, hiện tượng trong đời sống.
Theo cuốn “Từ điển Bách Khoa Việt Nam” phim tài liệu là “phim chuyên ghi lại
những hình ảnh, sự kiện có thật nhằm phản ánh từng mặt hoạt động trong cuộc
sống”3. Đây cũng là định nghĩa về phim tài liệu ghi trong cuốn “Từ điển Tiếng Việt”
do Hoàng Phê chủ biên.4
Mặc dù cách trình bày về khái niệm PTL có khác nhau nhưng vẫn không thể phủ
nhận rằng PTL cũng giống như các thể loại tác phẩm báo chí, truyền hình đều có
1
Vũ Xuân Quang, Trần Thanh Tùng, Thuật ngữ Điện ảnh – Truyền hình, Hội Điện ảnh
Việt Nam, 2009.
Trần Ngọc Hưởng, Trần Công Tùng, Lê Thúy Nga, Từ điển Tiếng Việt thông
dụng, NXB Thanh niên, tr.595
2
3
Từ điển Bách khoa Việt Nam (2003), tập 3, Nxb Từ điển Bách khoa Hà Nội, tr.711
4
Hoàng Phê (chủ biên, 2002): Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà nẵng và Trung tâm từ điển
học, tr.780
11
chung một gốc đó là tất cả đều phải xuất phát từ những hình ảnh có thật đã và đang tồn
tại trong cuộc sống. Từ những quan điểm trên ta có thể hiểu một cách khái quát: PTL
là loại phim được xây dựng trên những hình ảnh ghi lại một cách khách quan, trung
thực những sự kiện, hiện tượng ngay tại thời điểm nó diễn ra, chủ yếu phục vụ cho
mục đích giáo dục hoặc lưu trữ các sự kiện lịch sử. Đảm bảo được tính khoa học,
chính xác, chân thực của quá khứ lịch sử.
Theo các nhà phê bình điện ảnh, đối tượng phản ánh của PTLLS thường là con
người, sự kiện, vấn đề. Dựa vào cách đặt vấn đề, phương pháp thể hiện và tư tưởng
chủ đạo của bộ phim mà người ta chia PTLLS thành ba loại: PTLLS chân dung,
PTLLS sự kiện, PTLLS vấn đề.
- PTLLS chân dung (hoặc kí sự chân dung)
Loại PTLLS này thường lấy con người làm đối tượng miêu tả, trong đó đặc biệt
chú ý đến những suy nghĩ, tình cảm, hành động của họ, với những nét riêng độc đáo và
điển hình, từ đó làm nổi bật tính cách nhân vật, cho thấy những ảnh hưởng, tác động,
hiệu quả, hậu quả của họ đối với những người xung quanh, thậm chí là toàn xã hội.
PTLLS chân dung thường xoay quanh, khai thác những người tiêu biểu, ảnh
hưởng đến xã hội hoặc đại diện cho một tầng lớp cụ thể (như công nhân, nông dân, trí
thức…). Thông thường, nhân vật chính trong PTL chân dung thường là những người
có ảnh hưởng tốt và tích cực đến xã hội như bộ PTL “Hình ảnh về đời hoạt động của
Hồ Chủ Tịch” (1960); “Tiếng gọi mùa xuân” (1968); “Mùa sen nhớ Bác” (1970);
“Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh” (1975)…
- PTLLS sự kiện
Thường dành cho những sự kiện tiêu biểu, quan trọng, có ý nghĩa và tác động to
lớn đối với nhiều người, đối với xã hội, quốc gia cũng như quốc tế. Ví dụ như bộ PTL:
“Chiến thắng Điện Biên Phủ” (1954); “Đầu sóng ngọn gió” (1967); “Lũy thép Vĩnh
Linh” (1970); “Du kích Củ Chi” (1967); “Đường ra phía trước” (1969);… Có thể dễ
dàng nhận thấy, với thể phim này, con người bị đẩy xuống hàng thứ yếu, nhường chỗ
cho các sự kiện như đã nêu. Tác giả sẽ đi sâu phản ánh, đánh giá, phân tích sự kiện, từ
đó cho thấy bản chất, ý nghĩa, tác động, ảnh hưởng của nó là như thế nào. Trên cơ sở
đó, có thể đưa ra những bình luận, kiến nghị, giải pháp, đề nghị.
12
- PTLLS vấn đề
PTLLS vấn đề lại bao gồm các vấn đề, chính luận, luận đề… về chiến tranh, hòa
bình, sản xuất, môi trường, xã hội,… khiến người ta phải quan tâm. Chẳng hạn, với
cấp độ quốc gia như ở Việt Nam, thì đó là những vấn đề thuộc về xóa đói giảm nghèo,
bảo vệ môi trường,… Cao hơn, là hiểm họa từ chiến tranh hạt nhân, vấn đề tranh chấp
lãnh hải trên biển Đông, sự nóng lên của toàn cầu… Đến đây chúng ta nhận thấy,
trong các sự kiện, tự nó thường đã có các vấn đề; ngược lại, mỗi vấn đề có thể chứa
đựng nhiều sự kiện. Nhiệm vụ của những người làm phim là phải tìm ra mối quan hệ
và tác động qua lại giữa các sự kiện và vấn đề ấy, cùng với bản chất thực sự của chúng
là gì.
Trên thực tế, việc phân chia các thể loại PTLLS như trên chỉ mang tính chất
tương đối. Theo nhà biên kịch Nguyễn Hậu, giảng viên khoa Phát thanh – Truyền hình
(Học viện báo chí và tuyên truyền) thì nhìn chung, dù thuộc thể loại nào thì PTLLS
cũng đều có những chức năng chủ yếu như:
Thứ nhất, chức năng thông tấn và báo chí.
Đây chính là chức năng quan trọng nhất, chi phối toàn bộ quá trình xây dựng một
bộ PTLLS nói chung. Mỗi bộ phim thường đi sâu phản ánh một sự kiện, vấn đề hoặc
con người cụ thể, với những mối quan hệ biện chứng, diễn biến, tác động qua lại,
những xung đột và mâu thuẫn… trong một thời gian hoặc không gian xác định, từ đó
làm bật ra tư tưởng chủ đề tác phẩm. Trong rất nhiều trường hợp, người ta có thể tìm
thấy trong phim tài liệu những thông tin xác thực, khách quan, mang tính thời sự nóng
hổi, ngay cả khi nó phản ánh những vấn đề đã thuộc về quá khứ. Bên cạnh đó là những
bộ phim chính luận với mục đích thông tin tuyên truyền phục vụ những sự kiện chính
trị nổi bật , các ngày lễ lớn, nhân dịp kỉ niệm,….Ngoài ra còn có thể kể đến những bộ
phim được coi như một thứ vũ khí lợi hại chống lại những quan điểm, hành vi sai trái
về chính trị, tư tưởng….
Thứ hai, chức năng giáo dục và nhận thức.
Thông qua những hình ảnh chân thực về con người, sự việc, sự kiện, vấn đề…
với tất cả sự phong phú và đa dạng của nó, PTLLS giúp nâng cao nhận thức và tư duy
của người xem, thậm chí là góp phần định hướng tư tưởng và thay đổi hành vi của họ.
13
Hơn thế nữa, PTLLS còn có thể giúp người xem phát hiện bản chất của hiện tượng và
sự kiện, nâng sự kiện lên tầm khái quát hóa bằng hình tượng tiêu biểu. Và cuối cùng,
PTLLS có thể nhấn mạnh ý nghĩa xã hội của hiện tượng và sự kiện thông qua việc sử
dụng các chi tiết điển hình, kết hợp với âm nhạc, tiếng động, lời bình, các thủ pháp
dựng phim…, tác động mạnh mẽ tới người xem, tạo nên một thứ “hiệu ứng dây
chuyền”, lan rộng trong xã hội.
Thứ ba, chức năng thẩm mĩ và giá trị tư liệu lịch sử.
Không dừng lại ở việc miêu tả hiện thực một cách khách quan, trung thực,
PTLLS còn chú trọng khai thác chất thơ với những ẩn dụ, tượng trưng, ước lệ… nhằm
tác động tới cảm xúc thẩm mĩ của khán giả, khiến họ cùng vui, buồn, hờn, giận… với
những hình ảnh trong phim. Mặt khác, chúng ta cũng không thể quên được rằng, mỗi
bộ PTLLS, tự nó đã chứa đựng những giá trị tư liệu nhất định về lịch sử, văn hóa, đất
nước và con người. Điều này đặc biệt quan trọng đối với tất cả những gì đã thuộc về
quá khứ, những sự việc, sự kiện đã trở thành lịch sử. Chẳng hạn như hình ảnh Chủ tịch
Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập; những người lính phất cao cờ đỏ sao vàng trên
nóc hầm Đờ Cátxtri; B52 Mỹ cháy trên bầu trời Hà Nội,... Đó là những hình ảnh mà
không ai và chẳng bao giờ có thể bịa ra hay “làm lại” được.
1.1.2 Khái niệm phát triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử
- Khái niệm năng lực (NL): Có nhiều cách phát biểu khác nhau về khái niệm
NL:
Denyse Tremblay cho rằng NL là “khả năng hành động thành công và tiến bộ
dựa vào việc huy động và sử dụng hiệu quả tổng hợp các nguồn lực để đối mặt với các
tình huống trong cuộc sống”1
Theo F.E.Weinert, NL là “tổng hợp các kĩ năng và khả năng có sẵn có hoặc học
được cũng như sự sẵn sàng của HS nhằm giải quyết những vấn đề nảy sinh và hành
động một cách có trách nhiệm, có sự phê phán để đi đến giải pháp”
1
Hoàng Hòa Bình (2015), “Năng lực và đánh giá theo năng lực”, Tạp chí Khoa học
ĐHSP thành phố Hồ Chí Minh, tr.22
14
Theo quan niệm của chương trình giáo dục phổ thông của Quecsbec (Chương
trình GDTH Quecsbec – Bộ giáo dục Canada – 2004) định nghĩa: “Năng lực như là
một khả năng hành động hiệu quả bằng sự cố gắng dựa trên nhiều nguồn lực. Những
khả năng này được sử dụng một cách phù hợp, bao gồm tất cả những gì học được từ
phía nhà trường cũng như những kinh nghiệm của học sinh; những kỹ năng, thái độ và
sự hứng thú; ngoài ra còn có những nguồn từ bên ngoài như bạn cùng lớp, thầy cô
giáo, các chuyên gia hoặc các nguồn thông tin khác”.
Theo Nguyễn Quang Uẩn: “Năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá
nhân, phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định, bảo đảm cho hoạt
động đó hoạt động có kết quả” .1
Với cách hiểu này thì việc HS chỉ có kiến thức, kĩ năng và thái độ không được
xem như là có NL mà cả ba yếu tố này phải được người học vận dụng trong một tình
huống nhất định thì mới phát triển thành NL.
Ngoài ra, NL còn được hiểu:
+ NL là các khả năng và kỹ năng nhận thức vốn có ở cá nhân hay có thể học
được… để giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống. NL cũng hàm chứa trong nó
tính sẵn sàng hành động, động cơ, ý chí và trách nhiệm xã hội để có thể sử dụng một
cách thành công và có trách nhiệm các giải pháp… trong những tình huống thay đổi”2
+ NL là khả năng cá nhân đáp ứng các yêu cầu phức hợp và thực hiện thành công
nhiệm vụ trong một bối cảnh cụ thể. 3
1
Nguyễn Quang Uẩn (CB), Nguyễn Văn Lũy, Đinh Văn Vang (2010), Giáo trình tâm
lí học đại cương, NXB ĐHSP, Hà Nội.
2
Nguyễn Thành Ngọc Bảo (2014), Bước đầu tìm hiểu khái niệm “đánh giá theo năng
lực và đề xuất một số hình thức đánh giá năng lực Ngữ văn của học sinh”, Tạp chí
Khoa học ĐHSP TPHCM, tr.158
3
Nguyễn Thành Ngọc Bảo (2014), Bước đầu tìm hiểu khái niệm “đánh giá theo năng
lực và đề xuất một số hình thức đánh giá năng lực Ngữ văn của học sinh”, Tạp chí
Khoa học ĐHSP TPHCM, tr.158
15
Có thể nhận thấy điểm chung, cốt lõi của các cách hiểu trên về khái niệm “năng
lực” chính là khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng và thái độ để thực hiện tốt các
nhiệm vụ học tập, giải quyết có hiệu quả những vấn đề có thực trong cuộc sống của
các em.
Từ đó chúng ta có thể nhận định NL của HS phổ thông chính là khả năng vận
dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ và hứng thú để hành động một
cách phù hợp và có hiệu quả trong các tình huống đa dạng của việc học tập và cuộc
sống.
Mối quan hệ giữa NL, kiến thức, kĩ năng, thái độ là mối liên hệ hữu cơ gắn bó
mật thiết với nhau. Kiến thức là cơ sở để hình thành NL. Tuy nhiên muốn vận dụng
những kiến thức đã học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn thì phải cần đến kĩ năng
vì kĩ năng là những thao tác, những cách thức thực hành, vận dụng kiến thức, kinh
nghiệm đã có để thực hiện một hoạt động nào đó trong môi trường quen thuộc.
Kiến thức, kĩ năng là cơ sở cần thiết để hình thành NL trong một lĩnh vực hoạt
động nào đó. Tuy nhiên, nếu chỉ có kiến thức, kĩ năng thì chưa chắc đã được coi là
NL, mà nó còn cần đến việc sử dụng hiệu quả các nguồn kiến thức, kĩ năng cùng với
thái độ, giá trị, trách nhiệm của bản thân để thực hiện thành công các nhiệm vụ và giải
quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn cuộc sống.
- Các mức độ phát triển năng lực trong dạy học lịch sử ở trƣờng phổ thông
Trong những năm gần đây, vấn đề dạy học theo định hướng phát triển NL được
nhiều nước quan tâm. NL được chia làm năng lực chung và NL qua dạy học bộ môn.
Các chuyên gia nghiên cứu của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong tài liệu “Tài liệu
tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo hướng phát triển năng lực
học sinh, môn lịch sử cấp THPT”1 [3; tr.47-48] đã xác định những năng lực chung cần
1
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh, môn Lịch sử cấp THPT, Hà
Nội, tr.47-48.
16
hình thành và phát triển cho HS trong quá trình dạy học của mỗi môn học, những năng
lực thiết yếu của con người để con người có thể thích ứng với xã hội. Đó là:
- NL tự học.
- NL quản lí.
- NL hợp tác.
- NL giải quyết vấn đề.
- NL ngôn ngữ giao tiếp.
- NL sử dụng công nghệ.
- NL suy nghĩ sáng tạo.
- NL tính toán.
Trên cơ sở các NL chung, trên cơ sở nội dung, phương pháp nhận thức và vai trò
của bộ môn lịch sử, các nhà nghiên cứu đã cụ thể hóa các NL chung trong dạy học lịch
sử, thể hiện ở Bảng 1.1.
Bảng 1.1: Hệ thống NL trong dạy học lịch sử ở trƣờng THPT
TT
1
2
3
Tên năng lực
Ví dụ
Tái hiện lại các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử quá
khứ tiêu biểu, có ảnh hưởng đến lịch sử thế giới và dân
tộc.
- Quan sát đọc và trình bày diễn biến trên bản đồ, lược
đồ.
Năng lực
- Lập niên biểu các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm,
thực hành
các chiến dịch, các cuộc chiến tranh, các thành tựu về
bộ môn lịch sử
kinh tế, văn hóa.
- Khai thác nội dung lịch sử cần thiết thông qua lược đồ,
bản đồ, tranh ảnh, phim tư liệu, hiện vật.
Xác định và giải
- Xác định và giải quyết được mối liên hệ, ảnh hưởng, tác
quyết mối liên hệ, động giữa các sự kiện, hiện tượng lịch sử với nhau: - Lý
ảnh hưởng, tác động giải được mối liên hệ giữa các sự kiện, hiện tượng với
giữa các sự kiện,
hoàn cảnh lịch sử.
hiện tượng lịch sử - Lý giải được nguồn gốc, bản chất của mối quan hệ và
với nhau
tác động qua lại giữa các sự kiện, hiện tượng.
Tái hiện sự kiện,
nhân vật lịch sử
17
4
5
6
7
So sánh, phân tích,
phản biện,
khái quát
Nhận xét, đánh giá,
rút ra bài học lịch
sử từ những sự kiện,
hiện tượng, vấn đề
lịch sử, nhân vật
lịch sử
Vận dụng, liên hệ
kiến thức đã học để
giải quyết những
vấn đề thực tiễn đặt
ra
Thông qua sử dụng
ngôn ngữ lịch sử thể
hiện chính kiến của
mình về các vấn đề
lịch sử
- So sánh nhân vật, sự kiện, giai đoạn, thời kỳ lịch sử.
- Phân tích một nhân vật, một sự kiện lịch sử.
- Phản biện các luận điểm, nhận định lịch sử.
- Khái quát một giai đoạn, một thời kỳ lịch sử.
- Nhận xét, đánh giá các vấn đề lịch sử: Các phong trào
yêu nước, hoạt động của các cá nhân tiêu biểu, các hoạt
động quân sự, chính trị…
- Rút ra bài học lịch sử từ công cuộc dựng nước và giữ
nước của ông cha ta và các bài học lịch sử khác.
Biết vận dụng kiến thức lịch sử và liên hệ thực tiễn để
giải quyết những vấn đề trong cuộc sống hiện nay.
Biết sử dụng ngôn ngữ lịch sử để trình bày, lập luận các
vấn đề lịch sử qua đó thể hiện chính kiến của mình, như
lập luận khẳng định hoặc phủ định các nhận định, nhận
xét về một sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử.
Khi dạy học theo định hướng phát triển NL thì người ta không quá xem trọng
việc HS nhớ nội dung kiến thức đến đâu mà xem trọng việc HS có hiểu kiến thức hay
không. Có nghĩa thông qua một sự kiện, hiện tượng lịch sử HS phải biết được ý nghĩa,
bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử, thấy được mối liên hệ bên ngoài, bên trong
giữa các sự kiện, hiện tượng. Từ đó, có thể rút ra được điểm tương đồng và khác biệt
giữa chúng và khái quát vấn đề.
Như vậy, muốn xác định và giải quyết mối liên hệ, ảnh hưởng, tác động giữa các
sự kiện, hiện tượng lịch sử với nhau thì đòi hỏi HS phải nắm kiến thức ở một mức độ
cao hơn so với nhận biết do trí nhớ mang lại. Bên cạnh đó dạy học theo định hướng
phát triển NL cũng cần phải chú trọng đến vấn đề phát triển NL sử dụng đồ dùng trực
quan của HS. NL sử dụng đồ dùng trực quan trong học tập không chỉ giúp HS nắm
vững những kiến thức lịch sử cơ bản cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, nhận biết được
18
các mối quan hệ giữa các yếu tố trên các loại đồ dùng trực quan, nâng tấm hiểu biết
của HS lên một mức độ cao hơn.
Từ biết, hiểu và xác định được các mối liên hệ giữa các sự kiện, hiện tượng lịch
sử hoạt động dạy và học theo định hướng phát triển NL HS còn phải xem xét đến việc
phát triển NL vận dụng, liên hệ kiến thức lịch sử đã học để giải quyết những vấn đề
thực tiễn đặt ra đó cũng là mục tiêu cao nhất cần hướng tới trong dạy học bộ môn.
1.2. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc sử dụng phim tài liệu theo định hƣớng
phát triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử ở trƣờng THPT
1.2.1. Sự cần thiết của việc sử dụng phim tài liệu theo định hướng phát triển
năng lực học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THPT
Mục tiêu đặt ra trong dạy học nói chung và DHLS nói riêng là phải đạt được 3
yêu cầu giáo dục, giáo dưỡng, phát triển. Theo các nhà lí luận dạy học, cách giáo dục
truyền thống trước đây chỉ đáp ứng được yêu cầu về giáo dục và giáo dưỡng. Sản
phẩm của cách dạy trên là tạo ra thế hệ học sinh thụ động, yếu năng lực vận dụng kiến
thức vào thực tiễn.
Hiện nay, với sự phát triển của xã hội thì yêu cầu đặt ra trong dạy học nói chung,
DHLS nói riêng là phải phát huy được các NL cần thiết cho học sinh (HS). Trong
DHLS có nhiều con đường, biện pháp khác nhau để phát huy năng lực học tập của HS
trong đó phổ biến và có tác dụng lớn nhất trong việc dạy học là sử dụng đồ dùng trực
quan mà đặc biệt là PTL để phát triển NL của HS trong DHLS. “Bởi vì do việc thông
tin ngày càng tăng, trình độ khoa học càng phong phú nên cần cải tiến phương pháp
dạy học truyền thống với các phương tiện kĩ thuật hiện đại hơn… Việc sử dụng các
phương tiện kĩ thuật không hạ thấp vai trò của thầy giáo mà vẫn tăng hiệu quả bài học
ở các mặt: thu nhận thông tin, tư duy (nhận thức), ghi nhớ và vận dụng kiến thức”1
Sử dụng PTL trong DHLS càng có ý nghĩa đặc biệt đối với đặc trưng bộ môn LS
và việc nhận thức LS của HS. Đặc trưng của LS là cái đã xảy ra không lặp lại nên
trong học tập LS HS không được trực tiếp quan sát sự kiện, nhân vật, quá trình LS
theo kiểu “trực quan sinh động”. Mặt khác do LS là quá khứ nên nội dung của nó có
1
Kiều Thế Hưng, Hệ thống thao tác sư phạm trong dạy học sách sử ở trường phổ thông trung
học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999, tr117
19
nhiều điều khác, thậm chí khác xa với hiện nay nên trong quá trình học tập LS HS rất
dễ rơi vào tình trạng “hiện đại hóa” LS. Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên tất yếu trong
DHLS là phải tái tạo lịch sử, tức là phải làm cho HS tiếp xúc với những chứng cứ vật
chất, những dấu vết của quá khứ, tạo ra cho các em những hình ảnh cụ thể, sinh động,
chính xác về sự kiện, hiện tượng lịch sử… Vậy phải tái tạo bằng cách nào? Đó là lời
nói sinh động, giàu hình ảnh của giáo viên (GV) và sử dụng đồ dùng trực quan. So với
lời nói của GV, đồ dùng trực quan cụ thể là PTL có ưu thế hơn trong việc tạo ra hình
ảnh cụ thể, sinh động, giúp HS thuận lợi hơn trong việc tạo biểu tượng LS.
Trên cơ sở những hình ảnh cụ thể trên, bằng sức mạnh tư duy trừu tượng và
thông qua hoạt động độc lập, tích cực của bản thân (tư duy sáng tạo), HS mới nắm
vững khái niệm, mới hiểu được bản chất, quy luật, các mối liên hệ của sự kiện lịch sử
và rút ra bài học LS cũng như liên hệ với thực tiễn cuộc sống. Lối dạy học thuộc lòng,
máy móc, thụ động theo hướng tiếp cận nội dung, chủ yếu ghi nhớ, tái hiện lịch sử (tư
duy tái tạo) nhiều lắm cũng chỉ đem lại hiệu quả dạy học ở mức độ nhất định.
1.2.2. Ý nghĩa của việc sử dụng phim tài liệu trong dạy học lịch sử theo định
hướng phát triển năng lực học sinh ở trường THPT
Bảo đảm tính trực quan nói chung và việc sử dụng phim tài liệu nói riêng trong
DHLS ở trường THPT là yêu cầu có tính nguyên tắc. Các nghiên cứu của khoa học
giáo dục cho thấy phim tài liệu lịch sử không chỉ để minh họa mà còn nhằm bổ sung
thông tin cho kênh chữ, giúp HS nhận thức các sự kiện, hiện tượng lịch sử một cách
sâu sắc, sinh động hơn. Phim tài liệu cần được khai thác, sử dụng trong nhiều khâu của
quá trình DHLS như một phương tiện phát triển tư duy, rèn luyện các kĩ năng theo
hướng phát huy tính tích cực của người học.
Sử dụng PTL là một trong những phương tiện dạy học có nhiều ưu thế trong việc
góp phần nâng cao hiệu quả DHLS ở trường THPT về nhiều mặt. Cụ thể:
Về kiến thức:
Sử dụng PTL trong DHLS không chỉ có tác dụng giúp HS nhanh chóng tạo được
biểu tượng chân thực về quá khứ khách quan, mà còn là biện pháp quan trọng giúp HS
hình thành khái niệm, hiểu được bản chất và những mối liên hệ bên trong của sự kiện
20
lịch sử từ đơn lẻ đến phức tạp. Qua đó, giúp HS khắc sâu kiến thức, khắc phục tình
trạng hiện đại hóa lịch sử.
Chúng ta đều biết đặc điểm nổi bật của kiến thức lịch sử là tính quá khứ, tính
không lặp lại, việc nhận thức lịch sử thường diễn ra một lần và không quay trở lại. Vì
vậy, nếu không tạo biểu tượng HS sẽ nhanh quên. Trong DHLS để tạo biểu tượng cho
HS thì không có phương pháp dạy học nào có ưu thế bằng sử dụng đồ dùng trực quan
vì “hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí nhớ chúng ta là những hình ảnh
chúng ta thu nhận được bằng trực quan”1
Khi sử dụng PTL trong DHLS, HS sẽ được cung cấp những sự kiện cụ thể, chính
xác thông qua những hình ảnh trực quan, sinh động và có tính thực tế. Qua đó, HS có
thể khôi phục được bức tranh quá khứ đúng như nó đã từng tồn tại. Thông qua việc sử
dụng PTL đặc biệt là sử dụng PTL theo hướng phát triển NL, HS không chỉ dừng lại ở
mức độ hiểu sự kiện mà còn phải thấy được mối liên hệ, bản chất bên trong của chúng,
hiểu sâu sắc sự kiện, từ đó hình thành khái niệm , giúp các em hoàn thành quá trình
“nhận thức lí tính”.
Về kĩ năng:
Để thực hiện nhiệm vụ phát triển năng lực trong dạy học bộ môn, nhất định
“phải gắn học với hành, học để vận dụng, học để sáng tạo trong hành nghề, trong
hành nghiệp, trong cuộc sống”2. Thực tế trong DHLS, bằng nhiều cách khác nhau
trong đó có việc sử dụng kênh hình sẽ rèn luyện cho HS rất nhiều các kĩ năng:
- Sử dụng PTL LS trong DHLS có ý nghĩa tích cực vào phát triển khả năng quan
sát, ghi nhớ, tái tạo sự kiện, hiện tượng lịch sử. Cùng với sự hướng dẫn của GV, khi
xem bất cứ đoạn phim nào, HS cũng thích được nhận xét, phán đoán quá khứ được
phản ánh như thế nào bằng cách suy nghĩ và diễn đạt bằng lời nói chính xác, có hình
ảnh rõ ràng, cụ thể bức tranh xã hội đã qua. Thông qua đó phát triển kĩ năng phân tích,
1
Phan Ngọc Liên (Chủ biên) (2009): Phương pháp DHLS, tập 2, Nxb Đại học Sư
phạm Hà Nội, Hà Nội, tr63
2
Phạm Văn Đồng, Về vấn đề giáo dục – đào tào, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội,
1999, tr.10
21
so sánh, khái quát hóa, nhận xét, rút ra bài học kinh nghiệm từ những sự kiện, hiện
tượng, nhân vật lịch sử. Kĩ năng vận dụng kiến thức LS để giải quyết những vấn đề
thực tiễn trong cuộc sống, hay các vấn đề thời sự đang diễn ra trong nước và thế giới.
- Sử dụng PTL trong DHLS còn giúp HS nâng cao kĩ năng khai thác phim, khai
thác Internet để tìm kiếm các đoạn PTL liên quan đến nội dung bài học, khả năng sử
dụng các phần mềm dạy học như Format factory để thiết kế đoạn phim, Powerpoint để
trình bày nội dung LS. Nhờ đó, các kĩ năng học tập của HS với phương tiện nghe nhìn,
phương tiện DH hiện đại được phát triển và hoàn thiện hơn. HS sẽ có cái nhìn toàn
diện về vấn đề, tổng hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực, nhiều môn học. Điều này sẽ góp
phần không nhỏ vào việc bồi đắp niềm ham mê học tập ở mỗi HS, tăng cường khả
năng tự học của HS.
Tóm lại, khai thác và sử dụng các đoạn PTL giúp HS khôi phục bức tranh quá
khứ LS một cách sinh động, cụ thể như nó đã diễn ra với các sự kiện, nhân vật, hiện
tượng của LS dân tộc và thế giới ở từng giai đoạn LS. Đồng thời, sử dụng các đoạn
PTL cũng khơi dậy ở HS những xúc cảm LS: sự hồi hộp, xúc động, căm ghét,… tăng
hứng thú học tập cho các em, qua đó góp phần phát triển các năng lực nhận thức,
thành phần nhân cách và các kĩ năng, kĩ xảo thực hành bộ môn cho HS. Khai thác và
sử dụng các đoạn phim tài liệu khoa học trong DHLS là một trong những biện pháp
góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả bài học LS Việt Nam (1954 – 1975).
Về thái độ, tình cảm
Việc sử dụng các đoạn PTL trong DHLS phù hợp với nội dung bài học làm cho
HS có cảm giác “dường như ta đang chứng kiến, tham gia vào sự kiện đang xảy ra”,
do vậy, nó có tác dụng truyền cảm mạnh mẽ và sâu sắc, có khả năng giáo dục nhiều
mặt cho HS: “Giá trị của những bộ phim tài liệu thật lớn lao vô cùng… Phim tài liệu
làm sống lại thời đại đã qua thành những hình ảnh nhìn thấy được, sẽ gây xúc động
hơn rất nhiều so với bất kì một “bộ đồ thời đại” nào bằng hiện vật”1
Nguyễn Thị Việt Nga (1996): Phim tài liệu giai đoạn 1953 – 1985 trong việc
góp phần hình thành và phát triển nhân cách văn hóa Việt Nam, Viện Văn hóa
nghệ thuật Việt Nam, tr.73.
1
22
- Sử dụng PTL trong DHLS sẽ góp phần quan trọng vào việc bồi dưỡng những tư
tưởng, tình cảm và tính thẩm mỹ cho HS. Đó là giáo dục lòng yêu quê hương, đất
nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, quốc tế; lòng biết ơn với những người có công trong
sự nghiệp đấu tranh bảo vệ, giữ vững nền độc lập cho quê hương, Tổ quốc; niềm tin
tuyệt đối vào sự lãnh đạo tài tình của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh; tin
tưởng và trung thành vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước trong công cuộc Đổi mới
đất nước hiện nay.
1.3. Cơ sở thực tiễn: Điều tra thực trạng vấn đề sử dụng phim tài liệu theo
định hƣớng phát triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam từ năm
1954 đến năm 1975 ở trƣờng trung học phổ thông (chƣơng trình chuẩn)
Để có được những kết luận chính xác, khách quan làm cơ sở cho việc nghiên cứu
đề tài, tôi đã tiến hành sử dụng PTL trong dạy học Bài 21 “Khôi phục và phát triển
kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 – 1975)” (tiết 2)
(chương trình chuẩn), SGK LS12 để điều tra thực trạng và tính khả thi của việc sử
dụng PTL theo định hướng phát triển năng lực HS trong DHLS.
1.3.1 Mục đích điều tra
- Tìm hiểu, đánh giá tình hình dạy học môn LS nói chung và việc sử dụng PTL
theo định hướng phát triển năng lực HS trong DHLS nói riêng.
- Từ kết quả điều tra tạo cơ sở thực tế về vấn đề luận văn nghiên cứu, từ đó đối
chiếu với lý luận, đề xuất những biện pháp để phát triển năng lực HS và nâng cao chất
lượng dạy học môn LS ở trường phổ thông.
1.3.2 Đối tƣợng điều tra
Chúng tôi đã tiến hành điều tra, khảo sát một số trường THPT trên địa bàn tỉnh
Bình Định: Trường THPT Trưng Vương, THPT Nguyễn Diêu, THDTNT Vân Canh.
Đối tượng điều tra là GV dạy học môn LS và HS của trường THPT nêu trên.
1.3.3 Nội dung điều tra
Nội dung điều tra, khảo sát chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau (Phiếu điều tra –
xem Phụ lục
- Về phía GV: chúng tôi đưa ra một số câu hỏi để tìm hiểu quan niệm của họ về
việc sử dụng PTL trong DHLS, thực trạng của việc sử dụng PTL theo định hướng phát
23
triển năng lực cho HS, những thuận lợi, khó khăn GV thường gặp phải cũng như
những biện pháp mà GV sử dụng PTL trong DHLS.
- Đối với HS, nội dung điều tra chủ yếu tập trung vào việc tìm hiểu thực trạng,
kết quả phát triển năng lực của HS thông qua việc sử dụng PTL trong DHLS, GV có
thường sử dụng PTL để giúp HS tiếp thu các kiến thức hay không, việc sử dụng PTL
có nhằm hướng đến mục tiêu phát triển năng lực hay chỉ để minh họa sự kiện, hiện
tượng, nhân vật LS.
1.3.4 Phƣơng pháp điều tra
Chúng ta đã tiến hành giảng dạy, dự giờ thăm lớp, phỏng vấn, hỏi chuyện, sử
dụng phiếu điều tra 10 GV và 135 HS thuộc các trường THPT đã nêu ở trên.
1.3.5 Xử lí kết quả điều tra và rút ra kết luận về thực trạng vấn đề sử dụng
phim tài liệu theo định hƣớng phát triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử
Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 (chƣơng trình chuẩn)
Qua điều tra GV và HS ở các trường THPT trên địa bàn tỉnh Bình Định, chúng
tôi rút ra một số kết luận như sau:
Đối với GV:
Một là, đa số GV đều nhận thức được tầm quan trọng của việc sử dụng đồ dùng
trực quan nói chung và sử dụng PTL nói riêng theo hướng phát triển NL của HS đối
với việc nâng cao chất lượng bài học LS. Song chưa áp dụng có hiệu quả trong thực
tiễn dạy học ở trường phổ thông. Vấn đề sử dụng PTL chỉ mới được tiến hành trong
các tiết dự giờ, thao giảng mà chưa thực hiện đồng bộ trong toàn bộ chương trình. Do
đó, chưa phát huy được tính tích cực học tập của HS, hiệu quả của bài học LS chưa
cao.
Hai là, hiện nay Bộ giáo dục và Đào tạo đã cho xuất bản rất nhiều tài liệu tập
huấn, tổ chức các buổi Hội thảo liên quan đến vấn đề đổi mới căn bản và toàn diện
giáo dục Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn chưa có một công trình nào viết riêng về vấn đề sử
dụng PTL để phát triển NL của HS trong DHLS. Vì vậy, dù cho đã nhận thức được
tầm quan trọng cũng như vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng PTL trong DHLS nhưng
nhiều GV vẫn còn lúng túng trong khai thác, sử dụng PTL theo hướng phát triển NL
cho HS. Thậm chí một số GV ít quan tâm sử dụng PTL trong dạy học bộ môn do điều
24
kiện thiết bị dạy học và còn gây mất thời gian khó đảm bảo kế hoạch dạy học. Từ đó
làm cho quá trình dạy học ở trường THPT đôi lúc còn mang tính một chiều, kiến thức
bộ môn chủ yếu được HS tiếp thu từ GV nên không tạo được hứng thú học tập cho HS,
làm cho HS dễ chán nản, thụ động trong học tập LS. Để khắc phục được tình trạng đó,
cần phải có những tài liệu viết riêng để trang bị về mặt lí luận chuyên sâu cho vấn đề
sử dụng PTL theo định hướng phát triển NL cho HS trong DHLS.
Ba là, dựa trên việc thực nghiệm sư phạm ở cả ba trường thuộc ba khu vực khác
nhau: thành phố, nông thôn và miền núi. Chúng tôi thấy các trường nằm ở địa bàn
thành phố hầu như được trang bị đầy đủ hệ thống máy chiếu phục vụ cho việc chiếu
PTL phục vụ cho việc dạy và học bộ môn, các trường ở nông thôn tuy không được
trang bị mỗi lớp một máy chiếu nhưng vẫn đủ để phục vụ cho việc chiếu PTL, còn
trường nằm ở khu vực miền núi thì hầu như rất ít quan tâm đến việc trang bị hệ thống
máy chiếu để phục vụ việc dạy và học. Một số trường tuy có đầy đủ các thiết bị phục
vụ dạy học nhưng hầu hết GV vẫn sử dụng phương pháp dạy truyền thống, một số GV
còn khó khăn trong việc tiếp cận các phần mềm xử lí phim, để chuyển đổi định dạng
phim, cắt, nối, biên tập phim cho phù hợp với kiến thức cơ bản cũng như thời gian tiến
hành của bài học trên lớp. Đây là trở ngại lớn đối với GV khi sử dụng PTL trên lớp
học.
Như vậy, hầu hết GV dạy LS ở trường THPT đều thấy được sự cần thiết của việc
sử dụng PTL trong DHLS ở trường THPT nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của
DHLS và phù hợp với xu hướng đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát
triển năng lực HS hiện nay. Tuy nhiên, từ thực tiễn cho thấy việc sử dụng PTL trong
DHLS ở trường PT còn rất hạn chế. Cùng với đó là gặp khó khăn trong điều kiện cơ sở
vật chất của nhà trường còn thiếu nhất là các trường nằm ở khu vực miền núi, chưa
đáp ứng được nhu cầu sử dụng phương tiện để phục vụ việc dạy và học của GV và HS.
Ngoài ra, thời lượng của một tiết học còn quá ít trong khi nội dung kiến thức GV cần
truyền tải nhiều không đủ thời gian để khai thác và sử dụng PTL trong dạy học bộ
môn. Trong khi vấn đề là cần sử dụng PTL theo hướng phát triển năng lực HS nhưng
các GV chỉ chủ yêu sử dụng trong minh họa sự kiện LS. Việc sử dụng phim theo
hướng phát triển năng lực HS không được chú trọng.
25