MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................3
1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................................3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................................4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .........................................................................11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..........................................................................12
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ............................................................ 12
6. Đóng góp của Luận văn .........................................................................................13
7. Bố cục của Luận văn .............................................................................................. 13
CHƢƠNG 1 NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CUỘC CHIẾN ĐẤU
CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI CỦA QUÂN DÂN BỐ TRẠCH ...............14
1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và truyền thống yêu nước cách mạng của
nhân dân Bố Trạch ..................................................................................................14
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên .....................................................................................14
1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội ..........................................................................16
1.1.3. Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Bố Trạch ................17
1.2. Cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở Bố Trạch (1965-1968) ............21
1.2.1. Phá hoại bằng gián điệp và biệt kích .........................................................21
1.2.2. Phá hoại bằng không quân và hải quân .....................................................23
1.3. Chủ trương của Đảng về chống chiến tranh phá hoại .....................................28
1.3.1. Chủ trương của Trung ương Đảng và Quân khu 4 ....................................28
1.3.2. Chủ trương của Tỉnh Quảng Bình và huyện Bố Trạch ............................. 31
1.4. Công tác xây dựng lực lượng sẵn sàng đối phó với chiến tranh phá hoại của
Bố Trạch .................................................................................................................34
1.4.1. Lực lượng dân quân tự vệ và bộ đội địa phương ......................................34
Tiểu kết .........................................................................................................................36
CHƢƠNG 2 QUÁ TRÌNH QUÂN VÀ DÂN BỐ TRẠCH CHIẾN ĐẤU CHỐNG
CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ NHẤT CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (1965-1968)
.......................................................................................................................................37
2.1. Trên lĩnh vực phòng không nhân dân .............................................................. 37
2.1.1. Công tác phòng tránh tại chỗ.....................................................................37
2.1.2. Công tác sơ tán, giãn dân ..........................................................................42
2.2. Đảm bảo giao thông vận tải .............................................................................44
1
2.2.1. Công tác mở đường và bảo vệ đường .......................................................44
2.2.2. Công tác vận tải chiến lược .......................................................................51
2.3. Chiến đấu chống biệt kích và máy bay ............................................................ 55
2.3.1. Đánh biệt kích ........................................................................................... 55
2.3.2. Đánh máy bay ............................................................................................ 57
Tiểu kết .........................................................................................................................64
CHƢƠNG 3 ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ...64
3.1. Đặc điểm ..........................................................................................................64
3.1.1. Đối đầu với cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân rất
quy mô và khốc liệt ............................................................................................. 65
3.1.2. Cuộc chiến đấu diễn ra rộng khắp trên các địa bàn...................................67
3.1.3. Cuộc chiến đấu diễn ra trên khắp các mặt trận, trong đó giao thông vận tải
là mặt trận nóng bỏng nhất ..................................................................................69
3.2. Ý nghĩa lịch sử .................................................................................................72
3.2.1. Khẳng định sự đúng đắn của đường lối kháng chiến chống Mỹ của Trung
ương Đảng được vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào thực tiễn của địa phương ....72
3.2.2. Góp phần quan trọng cùng với Quảng Bình và cả miền Bắc đánh bại cuộc
chiến tranh phá hoại lần thứ nhất ........................................................................73
3.2.3. Nêu cao tinh thần yêu nước, đấu tranh bất khuất, phát huy cao độ trí thông
minh sáng tạo, lòng dũng cảm của quân và dân Bố Trạch ..................................74
3.3. Bài học kinh nghiệm ........................................................................................75
3.3.1. Tổ chức công tác phòng không nhân dân phục vụ chiến đấu, chi viện cho
tiền tuyến, bảo vệ an toàn tính mạng, tài sản của nhân dân trong mọi tình huống
............................................................................................................................. 75
3.3.2. Xây dựng lực lượng toàn dân đánh giặc, trong đó lấy lực lượng dân quân
tự vệ làm nòng cốt ............................................................................................... 77
3.3.3. Đảm bảo giao thông vận tải thông suốt trong mọi tình huống ..................79
3.3.4. Xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện ngang tầm nhiệm vụ lãnh đạo nhân
dân trong mọi tình huống ....................................................................................81
KẾT LUẬN ..................................................................................................................83
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 86
PHỤ LỤC
2
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Để cứu vãn sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn trong chiến lược “chiến tranh đặc
biệt”, cùng với việc đưa quân vào miền Nam tham chiến, từ tháng 2-1965, Mỹ mở
rộng cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc nhằm phá tiềm lực kinh tế và quốc phòng của
Việt Nam Dân chủ cộng hòa, ngăn chặn nguồn chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và
từ miền Bắc vào miền Nam, đồng thời uy hiếp ý chí chống Mỹ cứu nước của nhân dân
ta ở hai miền Bắc - Nam.
Với vị trí địa - chính trị quan trọng, được mệnh danh là vùng “cán soong”, “yết
hầu”của mạch máu giao thông từ miền Bắc chi viện cách mạng miền Nam, Quảng
Bình là trọng điểm đánh phá khốc liệt của đế quốc Mỹ. Địch đã trút xuống mảnh đất
hẹp Quảng Bình hơn 1,5 triệu tấn bom đạn các loại, gây nên những tổn thất nghiêm
trọng về người và của. Vượt lên sự khốc liệt của chiến tranh phá hoại, quân và dân
Quảng Bình đã chiến đấu anh dũng, ngoan cường để bảo vệ quê hương, trong đó quân
và dân Bố Trạch có đóng góp quan trọng.
Bố Trạch là huyện có diện tích lớn nhất tỉnh Quảng Bình, địa hình trải dài theo
chiều Đông - Tây từ biển lên đến biên giới Việt - Lào, là nơi tập trung hầu hết mọi tuyến
đường chi viện cách mạng miền Nam như Quốc lộ 1, Đường 15, Đường 20, với những
bến bãi quan trọng như cảng Gianh, phà Gianh, phà Xuân Sơn, A-T-P, …; nơi đặt nhiều
binh trạm, kho tàng quân sự của tuyến đường Hồ Chí Minh; là trạm trung chuyển của
các đơn vị bộ đội chủ lực, thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến vào chiến
trường. Vì vậy, Bố Trạch có một vị trí chiến lược quan trọng về quân sự trong kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước và trở thành một trong những trọng điểm đánh phá của đế
quốc Mỹ ở Quảng Bình. Dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, quân và dân Bố Trạch đã
đoàn kết một lòng, bám đất bám làng, anh dũng chiến đấu, phục vụ chiến đấu, tích cực
chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần cùng với cả nước đánh bại cuộc chiến
tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ.
Do đó, việc nghiên cứu quân và dân Bố Trạch chống chiến tranh phá hoại lần thứ
nhất của đế quốc Mỹ (1965-1968) có ý nghĩa cả về khoa học và thực tiễn.
3
Về ý nghĩa khoa học, Luận văn tái hiện quá trình quân và dân Bố Trạch chiến đấu
chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ (1965-1968), rút ra những đặc
điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm. Qua đó, Luận văn góp phần làm rõ tinh
thần đấu tranh anh dũng cùng sự sáng tạo của quân dân Bố Trạch trong việc vận dụng
đường lối kháng chiến chống Mỹ của Trung ương Đảng vào thực tiễn của địa phương,
góp phần làm phong phú hình thái chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại
của đế quốc Mỹ.
Về ý nghĩa thực tiễn, Luận văn góp thêm những tư liệu vào việc nghiên cứu cuộc
chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của nhân dân miền Bắc trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, góp phần phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng đối với quân và dân
Quảng Bình nói chung, quân và dân Bố Trạch nói riêng, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Từ
quá trình chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của quân và dân Bố Trạch,
luận văn rút ra những bài học kinh nghiệm để vận dụng vào quá trình xây dựng và bảo vệ
đất nước hiện nay.
Với ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài “Quân và dân huyện Bố Trạch (Quảng Bình)
chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ từ 1965 đến 1968” làm đề tài Luận văn
Thạc sĩ Sử học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Liên quan đến đề tài có nhiều công trình đề cập đến trên những chủ đề sau:
Về cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ và cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá
hoại của quân dân miền Bắc có:
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1982, 1983), Chiến tranh nhân dân đánh thắng
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, trình bày đặc
điểm và diễn biến của chiến tranh, rút ra những bài học kinh nghiệm về chỉ đạo chiến
tranh nhân dân đánh thắng không quân và hải quân Mỹ, đảm bảo giao thông vận tải, tổ
chức phòng không nhân dân, …
Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 (1994), Quân khu 4 Lịch sử kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, đề cập đến
cuộc chiến tranh phá hoại ở các tỉnh trên địa bàn Quân khu 4 từ Thanh Hóa vào khu
vực Vĩnh Linh.
4
Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh (1995), Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập II (1954-1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
trong chương X và XI đề cập những diễn biến chính của cuộc chiến đấu của quân và
dân miền Bắc chống chiến tranh phá hoại của Mỹ.
Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng kết cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Thắng lợi và bài học, đề cập đến các giai đoạn phát
triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ, rút ra nhiều bài học kinh nghiệm lớn, trong đó
có bài học về nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân sáng tạo, tổ chức cả nước
đánh giặc.
Văn Tiến Dũng (1996), Về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, dành chương VI đề cập đến cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc
Việt Nam của không quân Mỹ và cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng
không quân của nhân dân miền Bắc. Đế quốc Mỹ coi việc đánh phá miền Bắc là đánh
phá hậu phương của chiến tranh cách mạng miền Nam và cũng là hậu phương của
cách mạng Lào, Campuchia và chiến tranh phá hoại bằng không quân đối với miền
Bắc là biện pháp phải có, biện pháp chủ yếu là dùng không quân ném bom kết hợp với
hải quân phong tỏa bắn phá vào các mục tiêu kinh tế - chính trị, quân sự, giao thông và
dân cư của ta kết hợp với tổ chức các vụ biệt kích phá hoại. Dưới sự chỉ đạo của Trung
ương Đảng, nhân dân miền Bắc đã kịp thời chuyển hướng tư tưởng, chuyển hướng xây
dựng kinh tế từ thời chiến sang thời bình, tổ chức, tăng cường lực lượng phòng thủ đất
nước, lực lượng vũ trang, xây dựng nhiều đơn vị phòng không, … hình thành nên lưới
lửa phòng không đánh địch; quân và dân miền Bắc đã kết hợp chặt chẽ các phương
thức tác chiến tại chỗ với phương thức tác chiến tập trung hiệp đồng binh chủng của
lực lượng phòng không chủ lực, xây dựng hệ thống pháo binh bờ biển để đánh địch kết
hợp với công tác đảm bảo giao thông vận tải, chi viện cho chiến trường miền Nam.
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1997), Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt
Nam (1945-1975), Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, đề cập đến quá trình xây dựng
hậu phương vững mạnh toàn diện, làm chỗ dựa cho cách mạng miền Nam, công trình
còn trình bày về vấn đề xây dựng và phát huy tuyến vận tải chiến lược chi viện cho
cách mạng miền Nam, chủ yếu qua tuyến đường Trường Sơn.
5
Đồng Sỹ Nguyên (1999), Đường xuyên Trường Sơn, Nxb Quân đội Nhân dân,
Hà Nội. Tập Hồi kí có đề cập đến cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải
quân vào miền Bắc của đế quốc Mỹ, đặc biệt là những cuộc đánh phá vào Quân khu 4,
đồng thời trình bày công tác tổ chức, chỉ đạo của Quân khu ủy và Bộ Tư lệnh quân khu
trong việc tổ chức một số cụm phòng không, pháo ven biển, xây dựng và củng cố các
loại trận địa pháo kích, về cách đánh máy bay địch, công tác vận tải cơ giới kết hợp
với vận tải thô sơ, ... hình thành thế trận chiến tranh nhân dân chống giặc Mỹ xâm
lược.
Bộ Tư lệnh Hải quân (2005), Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam (1995- 2005),
Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, trình bày về lịch sử hình thành, phát triển của lực
lượng Hải quân nhân dân Việt Nam, trong đó, chương 2 và chương 3 đề cập đến cuộc
chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, như âm mưu, thủ đoạn
dùng không quân, hải quân, biệt kích, gián điệp theo đường biển nhằm điều tra, phá
hoại việc xây dựng lực lượng hải quân của ta, ... Về việc xây dựng các căn cứ hải quân
như căn cứ Sông Gianh, căn cứ Hải Phòng; về sự chỉ đạo, lãnh đạo của Trung ương
Đảng, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương về chống chiến tranh phá hoại của Mỹ; các
trận đánh của hải quân căn cứ Sông Gianh, xây dựng lực lượng pháo binh bờ biển,
phối hợp với lực lượng dân quân tự vệ và pháo binh bờ biển hiệp đồng chiến đấu đánh
may bay, tàu chiến, đánh gián điệp, biệt kích bảo vệ vùng trời và vùng biển Tổ quốc,
tham gia chiến đấu và chi viện cho tiền tuyến miền Nam.
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước 1954-1975, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia-Sự Thật, Hà Nội, ở chương 18 trình
bày quá trình quân và dân miền Bắc vừa xây dựng vừa chiến đấu, đánh bại các bước
leo thang chiến tranh phá hoại của Mỹ, chi viện cho chiến trường miền Nam. Trước sự
đánh phá của không quân và hải quân Mỹ, quân và dân miền Bắc dưới sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Trung ương Đảng, Đảng ủy các cấp đã nhanh chóng chuyển mọi hoạt động từ
thời bình sang thời chiến, vừa chiến đấu vừa sản xuất, xây dựng lực lượng vũ trang ba
thứ quân, xây dựng các phương án phối hợp chiến đấu hình thành nên lưới lửa phòng
không đất đối không, đất đối biển dày đặc trên toàn miền Bắc, đồng thời làm tốt công
tác đảm bảo giao thông và chi viện cho chiến trường miền Nam góp phần cùng cả
nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
6
Nguyễn Văn Quang (2014), Vai trò của hậu phương Quân khu 4 trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, trình bày về vai trò
của hậu phương Quân khu 4 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trong đó có
đề cập đến vai trò của hậu phương Quân khu 4 trong chiến đấu chống chiến tranh phá
hoại trên các lĩnh vực như đánh máy bay địch, phòng tránh sơ tán chiến tranh, đảm bảo
giao thông vận tải, …
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2015), Tổng kết chiến đấu chống đế quốc Mỹ
phong tỏa sông, biển miền Bắc bằng thủy lôi và bom từ trường (1965-1973), Nxb
Quân đội Nhân dân, đã đề cập đến âm mưu, thủ đoạn đánh phá, phong tỏa của Mỹ trên
các tuyến sông, tuyến biển thuộc Quân khu 3 và Quân khu 4, trong đó tập trung chủ
yếu ở một số cảng có vị trí chiến lược như cảng Hải Phòng, cảng Gianh và cảng Nhật
Lệ, đồng thời công trình cũng làm rõ quá trình quân dân ta đối phó, làm vô hiệu hóa
cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ từ đó rút ra những kết quả, ý nghĩa và bài học kinh
nghiệm.
Về cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở Quảng Bình, trong
đó có Bố Trạch, có:
Nguyễn Tư Thoan (1965), Mấy kinh nghiệm vừa chiến đấu, vừa sản xuất, Nxb Sự
Thật, Hà Nội, trình bày sự kết hợp giữa chiến đấu và sản xuất trong thời gian đầu Mỹ ném
bom ra Quảng Bình, rút ra những bài học kinh nghiệm trong chiến đấu và sản xuất.
Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng, Tỉnh ủy Quảng Bình (1975), Quảng Bình ơn Bác,
do Ty Văn hóa Quảng Bình xuất bản, đề cập đến công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đối với Quảng Bình xuất phát từ bức thư của Bác khen ngợi nhân dân Quảng Bình vào
ngày 14-7-1965 về thành tích bắn rơi máy bay thứ 100 trên miền Bắc.
Lại Văn Ly (1993), Tuyến lửa những năm tháng sôi động, do Sở Giao thông vận
tải Quảng Bình xuất bản, làm nổi bật cuộc chiến đấu và phục vụ chiến đấu kiên cường
và dũng cảm của quân và dân Quảng Bình trên mặt trận giao thông vận tải thời chống
Mỹ.
Thường vụ Tỉnh ủy, Đảng ủy, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình (1994), Lịch
sử Quảng Bình chống Mỹ cứu nước 1954-1975, đề cập công cuộc xây dựng Chủ nghĩa
xã hội cùng quá trình quân dân Quảng Bình chiến đấu chống chiến tranh phá hoại,
đảm bảo chi viện chiến trường, làm nghĩa vụ hậu phương lớn.
7
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tỉnh Quảng Bình (1995),Lịch sử phong trào đấu
tranh cách mạng phụ nữ tỉnh Quảng Bình 1930-1975, sơ thảo. Đã đề cập đến cuộc chiến
tranh phá hoại của Mỹ ở Quảng Bình, đặc biệt là ở huyện Bố Trạch như các cuộc đánh
phá của máy bay Mỹ vào Ba Dốc, Tây Hoàn Lão, Vạn Trạch, Khe Nước, Thanh Trạch,
Hạ Trạch từ ngày 25 đến 31-3-1965 đến tháng 4-1967 và cuộc chiến đấu của nhân dân
Quảng Bình nói chung và nhân dân Bố Trạch nói riêng, đặc biệt ở giai đoạn này phụ nữ
Bố Trạch tiếp tục hưởng ứng phong trào “Ba đảm đang”, “Hai giỏi”, để cùng lực lượng
vũ trang đánh bại âm mưu phá hoại của đế quốc Mỹ.
Ban Chấp hành Đảng bộ Quảng Bình (2000), Lịch sử Đảng bộ Quảng Bình, tập II,
1954-1975, Đồng Hới, trong chương XII đề cập đến quá trình quân và dân Quảng Bình
củng cố hậu phương XHCN, vừa sản xuất vừa chiến đấu, phục vụ chiến đấu cùng cả nước
đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, ra sức chi viện cho tiền tuyến.
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Bố Trạch (2005), Lịch sử Đảng bộ huyện Bố
Trạch, Tập II, 1954-1975, ở các mức độ khác nhau đã đề cập đến hoạt động chiến đấu
và sản xuất của quân và dân Quảng Bình nói chung quân và dân Bố Trạch nói riêng
dưới sự chỉ đạo về đường lối của Đảng bộ Quảng Bình. Trước âm mưu mở rộng chiến
tranh ra miền Bắc của đế quốc Mỹ, xác định vị trí chiến lược của Quảng Bình - Vĩnh
Linh tuyến đầu của hậu phương XHCN, để lãnh đạo tốt phong trào cách mạng trong
thời kỳ mới, Tỉnh ủy Quảng Bình đã đề ra nhiệm vụ: Chuyển hướng xây dựng và phát
triển kinh tế sang thời chiến nhằm phục vụ đời sống và phòng không chiến đấu, bố trí
lại lực lượng sản xuất theo hướng phân tán, sơ tán, … Đảng bộ, quân và dân Bố Trạch
đã tích cực triển khai công tác phòng không nhân dân, tổ chức chiến đấu chống biệt
kích và gián điệp, vừa sản xuất vừa chiến đấu, phục vụ chiến đấu, đảm bảo giao thông,
chi viện cho tiền tuyến miền Nam cùng cả nước đánh thắng chiến tranh phá hoại của
đế quốc Mỹ.
Thường vụ Huyện ủy, Đảng ủy, Ban chỉ huy Công an huyện Bố Trạch (2009), Lịch
sử Công an nhân dân Bố Trạch (1945-2005), đã trình bày đầy đủ về cuộc chiến tranh phá
hoại của đế quốc Mỹ trên địa bàn huyện Bố Trạch đồng thời trình bày về cuộc chiến đấu
chống chiến tranh phá hoại của lực lượng công an nhân dân huyện như công tác phòng
chống gián điệp, biệt kích, công tác phòng không nhân dân, đảm bảo giao thông vận tải,
chi viện chiến trường, … quá trình phối hợp với quần chúng nhân dân đánh bại các cuộc
tập kích của không quân và hải quân Mỹ trên địa bàn huyện.
8
Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2012), Lịch sử hệ thống hành
chính nhà nước cấp tỉnh ở Quảng Bình (1945-2000), trong chương V đề cập công tác
tổ chức các lực lượng, điều hành các hoạt động quản lí xã hội, vừa sản xuất vừa chiến
đấu chống chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, trong đó đã trình bày rất cụ thể về
công tác chuyển hướng mọi hoạt động sang thời chiến, công tác phòng không nhân
dân, đảm bảo giao thông vận tải và chi viện cho chiến trường miền Nam và những
thành tích tiêu biểu trong sản xuất và chiến đấu.
Nguyễn Khắc Thái (2014), Lịch sử Quảng Bình, Nxb Chính trị - Hành chính,
Hà Nội, trong đó dành chương 14 đề cập đến cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá
hoại của quân và dân Quảng Bình, trong vị thế tuyến lửa của miền Bắc, hậu phương
trực tiếp của miền Nam, nhân dân Quảng Bình vừa sản xuất, vừa sẵn sàng chiến
đấu, đập tan các hoạt động quân sự của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, bao gồm công tác
phòng không nhân dân khắp các địa phương trong địa bàn tỉnh đều xây dựng các
phương án phòng tránh, sơ tán, xây dựng hệ thống hầm hào, hầm trú ẩn nối liền
giữa các hộ dân cư, các xóm, các thôn, xã, làm tốt công tác đảm bảo giao thông vận
tải, chi viện chiến trường góp phần đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ.
Về lịch sử Đảng bộ các địa phương có: Ban Chấp hành Đảng bộ xã Cự Nẫm
(2009), Lịch sử Đảng bộ xã Cự Nẫm, tập 1 (1945-2005), ở chương IV trình bày về quá
trình Đảng bộ Cự Nẫm lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu
nước, đặc biệt là chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên địa bàn xã,
bao gồm công tác phòng không nhân dân, công tác đảm bảo giao thông và chi viện cho
chiến trường miền Nam.
Ban Chấp hành Đảng bộ xã Thanh Trạch (2015), Lịch sử Đảng bộ xã Thanh
Trạch, tập 1 (1945-2010), ở chương VI trình bày về quá trình Đảng bộ Thanh Trạch
lãnh đạo nhân dân củng cố hậu phương vừa sản xuất vừa chiến đấu, cùng cả nước đánh
thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, trong đó đã trình bày
rất cụ thể về quá trình Đảng bộ lãnh đạo chuyển các hoạt động sang thời chiến, nhân dân
trên địa bàn xã đã phối hợp cùng nhau làm tốt công tác phòng không nhân dân, xây
dựng hệ thống hầm hào, các trận địa pháo để chống lại các cuộc oanh tạc của máy bay
Mỹ đồng thời làm tốt công tác phòng gian bảo mật để chống lại các cuộc tập kích vào
vùng biển của gián điệp, biệt kích, làm tốt công tác đảm bảo giao thông vận tải, chi viện
cho chiến trường miền Nam.
9
Ban Chấp hành Đảng bộ xã Hoàn Trạch (2015), Lịch sử Đảng bộ xã Hoàn Trạch,
tập 1, (1930-2010); Ban Chấp hành Đảng bộ xã Xuân Trạch (2015),Lịch sử Đảng bộ xã
Xuân Trạch, tập 1 (1930-2015); Ban Chấp hành Đảng bộ xã Đại Trạch (2015), Lịch sử
Đảng bộ xã Đại Trạch, tập 1, (1930-2015), …đề cập đến cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước ở địa phương, trong đó có đề cập đến cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ vào các
vị trí then chốt của địa phương đồng thời cũng đề cập đến cuộc chiến đấu chống chiến
tranh phá hoại trên các lĩnh vực: phòng không nhân dân, đảm bảo giao thông vận tải, chi
viện cho tiền tuyến miền Nam, ... ở các địa phương này.
Một số luận văn, khóa luận tốt nghiệp đề cập đến cuộc chiến đấu chống chiến
tranh phá hoại của quân và dân Quảng Bình:
Đinh Phan Thủy Yến (2006), Quảng Bình kháng chiến chống Mỹ trên mặt trận
Giao thông vận tải (1965-1968), Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại học Sư phạm
Huế, trình bày về quá trình chiến đấu chống Mỹ trên mặt trận giao thông vận tải bao
gồm, quá trình mở đường đảm bảo giao thông vận tải, các cuộc chiến đấu bảo vệ hệ
thống giao thông đường bộ, đường thủy, bảo vệ bến phà Gianh, … trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình
Thái Thị Lợi (2007),Lực lượng thanh niên xung phong tỉnh Quảng Bình trong
kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-1975), Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại học
Sư phạm Huế; Trần Như Hiền (2007), Hậu phương Quảng Bình trong kháng chiến chống
Mỹ (1964-1968), Luận văn Thạc sĩ Sử học, Trường Đại học Sư phạm Huế; Trần Thị
Giang (2011), Vai trò của Hải quân Việt Nam trong chống chiến tranh phá hoại lần thứ
nhất (1964-1968), Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường Đại học Sư phạm Huế; Bùi Thị
Thanh Thúy (2012), Hoạt động của Thanh niên xung phong trên địa bàn huyện Bố Trạch
(Quảng Bình) trong kháng chiến chống Mỹ giai đoạn (1965-1975) Khóa luận tốt nghiệp
Đại học, Trường Đại học Sư phạm Huế.
Trần Như Hiền (2016), Đảng bộ Quảng Bình lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ hậu
phương từ năm 1964 đến năm 1975, Luận án Tiến sĩ Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Đã làm rõ những chủ trương và quá trình chỉ đạo thực
hiện của Đảng bộ Quảng Bình về thực hiện nhiệm vụ hậu phương từ năm 1964 đến
năm 1975, bao gồm: xây dựng tiềm lực hậu phương, bảo vệ hậu phương, đảm bảo giao
thông vận tải, chi viện miền Nam và chiến trường Lào.
10
Mai Xuân Toàn (2017), Chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình trong kháng chiến
chống Mỹ (1965-1973), Luận án Tiến sĩ Sử học, Trường Đại học Sư phạm Huế, trình bày
và làm rõ cuộc chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình từ năm 1965 đến năm 1973 như việc
chuyển hướng mọi hoạt động từ thời bình sang thời chiến, xây dựng lực lượng quân sự bao
gồm lực lượng 3 thứ quân, tổ chức phòng không nhân dân bao gồm công tác phòng tránh tại
chỗ, sơ tán và giãn dân; quá trình quân và dân Quảng Bình chuyển mọi hoạt động thời bình
sang thời chiến theo hình thức quân sự hóa, tổ chức tốt công tác sơ tán, giãn dân trên địa
bàn tỉnh và phối hợp cùng các cơ quan tổ chức tốt kế hoạch K8 và K10, … về công tác mở
đường và vận tải chiến lược; làm rõ quá trình chuẩn bị, tổ chức, phối hợp chiến đấu giữa các
lực lượng vũ trang để đánh máy bay, tàu chiến địch. Trên cơ sở đó, tác giả rút ra một số bài
học kinh nghiệm như quán triệt đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng; chủ động đối phó
với mọi âm mưu, thủ đoạn của địch trong mọi tình huống; đảm bảo giao thông thông suốt
trong quá trình chiến đấu, phát triển kinh tế địa phương, xây dựng hậu cần tại chỗ.
Những công trình trên đây đã cung cấp sử liệu cụ thể, có định hướng để trên cơ
sở đó chúng tôi kế thừa và tiếp thu thành quả của những người đi trước đồng thời đi
vào nghiên cứu cụ thể, góp phần nhìn nhận rõ hơn về cuộc chiến đấu chống chiến
tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ (1965-1968) của quân và dân Bố Trạch.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nhằm tái hiện lại bức tranh chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần
thứ nhất của quân và dân Bố Trạch (1965-1968), qua đó góp phần khẳng định vị trí
chiến lược và vai trò của quân và dân Bố Trạch đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước. Trên cơ sở đó, luận văn rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc vận
dụng đường lối của Đảng vào điều kiện cụ thể của từng địa phương,
3.2 . Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, làm rõ những nhân tố tác động đến cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá
hoại của quân dân Bố Trạch.
Hai là, làm rõ âm mưu, thủ đoạn của Mỹ trong chiến tranh phá hoại miền Bắc nói
chung và ở huyện Bố Trạch nói riêng cùng chủ trương của Trung ương Đảng, Quân khu 4
và Đảng bộ Quảng Bình, Đảng bộ Bố Trạch về chống chiến tranh phá hoại.
11
Ba là, tái hiện cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của quân
và dân Bố Trạch trên các lĩnh vực: Phòng không nhân dân (bao gồm phòng tránh và
đánh trả), đảm bảo giao thông vận tải.
Bốn là, rút ra đặc điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm từ cuộc chiến đấu
chống chiến tranh phá hoại của quân và dân Bố Trạch.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất
của đế quốc Mỹ (1965-1968) của quân và dân Bố Trạch.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian, từ ngày 7-2-1965 (khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại
miền Bắc) đến ngày 1-11-1968 (khi Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc).
Về không gian, địa bàn huyện Bố Trạch trong thời kì 1954-1975, trong đó tập
trung ở những địa bàn chủ chốt.
Về nội dung, Luận văn tập trung làm rõ âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ trong
chiến tranh phá hoại miền Bắc, Quảng Bình nói chung và Bố Trạch nói riêng; cuộc
chiến tranh phá hoại của Mỹ ở Bố Trạch đồng thời làm rõ cuộc chiến đấu chống chiến
tranh phá hoại của quân và dân Bố Trạch trên lĩnh vực phòng không nhân dân (bao
gồm phòng tránh và đánh trả) và đảm bảo giao thông vận tải.
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng các nguồn tư liệu chủ yếu sau:
Nguồn tài liệu lưu trữ: là những báo cáo, nghị quyết, chỉ thị, … của Tỉnh ủy, Bộ
Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình được lưu trữ tại Phòng Lưu trữ - Văn phòng Tỉnh
ủy Quảng Bình,Phòng Lưu trữ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Bình, Bảo tàng Tổng
hợp Quảng Bình.
Nguồn tài liệu thành văn: gồm sách và hồi ký, tạp chí, báo đã xuất bản.
Nguồn tài liệu điền dã: là những thông tin do các nhân chứng lịch sử từng tham
gia chiến đấu chống chiến tranh phá hoại và những di tích lịch sử quan trọng trong giai
đoạn 1965-1968.
12
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc
và các phương pháp cụ thể của bộ môn như phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp, ...
để rút ra những nhận xét, kết luận cần thiết.
6. Đóng góp của Luận văn
Một là, Luận văn là công trình nghiên cứu tương đối có hệ thống về cuộc chiến
đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ (1965-1968) của quân và
dân Bố Trạch (Quảng Bình).
Hai là, Luận văn làm rõ cuộc chiến đấu anh dũng cùng sự sáng tạo của quân dân Bố
Trạch trong việc vận dụng đường lối kháng chiến chống Mỹ của Trung ương Đảng vào
thực tiễn của địa phương, góp phần làm phong phú những bài học kinh nghiệm của cuộc
chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
Ba là, Luận văn góp thêm những tư liệu vào việc nghiên cứu cuộc chiến đấu
chống chiến tranh phá hoại của nhân dân miền Bắc, cũng như làm tài liệu để nghiên
cứu, giảng dạylịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ ở địa phương, góp phần phát huy
truyền thống yêu nước và cách mạng đối với quân và dân Bố Trạch, đặc biệt là đối với
thế hệ trẻ. Từ quá trình chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của quân và
dân Bố Trạch, luận văn rút ra những bài học kinh nghiệm để vận dụng vào quá trình
xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu (11 trang), kết luận ( 2 trang), tài liệu tham khảo ( 6 trang) và
phụ lục, Luận văn dài 68 trang, chia làm 3 chương:
Chương 1. Những nhân tố tác động đến cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá
hoại của quân dân Bố Trạch ( 22 trang).
Chương 2. Quá trình quân và dân Bố Trạch chiến đấu chống chiến tranh phá hoại
lần thứ nhất của đế quốc Mỹ (1965-1968) ( 28 trang).
Chương 3. Đặc điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm ( 18 trang).
13
CHƢƠNG 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CUỘC CHIẾN ĐẤU
CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI CỦA QUÂN DÂN BỐ TRẠCH
1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và truyền thống yêu nước cách mạng của
nhân dân Bố Trạch
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Bố Trạch là một huyện nằm ở vị trí trung tâm của tỉnh Quảng Bình, có tọa độ
17014’39’’ đến 170 43’3’’ vĩ độ Bắc và 1050 58’3’’ đến 106035’57” kinh độ Đông. Phía
Bắc giáp các huyện Quảng Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa; phía Nam giáp thành phố
Đồng Hới và huyện Quảng Ninh; phía Đông giáp biển Đông với đường bờ biển dài
24km; phía Tây giáp tỉnh Savannakhet (Lào).
Bố Trạch có diện tích tự nhiên 2.123,1km2 (chiếm 26% diện tích toàn tỉnh), có 26
xã, nằm vào nơi hẹp nhất của đất nước tính từ núi Đầu Mâu đến bờ biển Đông chỉ có
40.5km. Địa hình Bố Trạch hẹp dần từ Bắc vào Nam, thấp dần từ Tây sang Đông, nơi
cao nhất là núi Ba Rền 1.137m nơi thấp nhất là vùng đồng trũng giữa các xã
HoànTrạch, Vạn Trạch, Phú Trạch, Đồng Trạch. Địa hình bị phân cắt mạnh, độ dốc
lớn, quá trình xâm thực và rửa trôi mạnh. Với đặc điểm địa tầng, địa mạo như vậy đã
chia Bố Trạch thành bốn dạng địa hình liên quan đến nhau trong một hình thái địa lí
hoàn chỉnh.
Vùng rừng núi và núi cao đá vôi chiếm 1/2 diện tích tự nhiên, chạy dài từ Tây
Bắc đến Tây Nam, nằm trong hệ thống dãy Trường Sơn cắt ngang địa hình có dãy núi
Bung. Ở đây có nhiều đỉnh núi cao như Phicophi 2.017m, Caroòng cao 1.540m, cao
điểm 75 đèo Lý Hòa, đặc biệt có hệ thống núi đá vôi Phong Nha-Kẻ Bàng có giá trị
cao về kinh tế, du lịch và chiến lược quân sự. Những dãy núi đá vôi xếp chồng lên
nhau tạo nên những thung lũng, vùng lõm như thung lũng Chà Nòi, Khe Gát. Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vùng rừng núi này là nơi đặt các binh trạm, kho
tàng,… Các lực lượng bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến và nhân dân
đã dựa vào địa thế rừng núi để hình thành những con đường vận tải chiến lược.
Vùng gò đồi chiếm 1/3 diện tích tự nhiên có độ cao trung bình từ 100-200m là
vùng chuyển tiếp giữa vùng rừng núi cao và núi đá vôi với vùng đồng bằng, đây là
14
vùng đất đai rộng lớn gồm núi thấp theo dạng địa hình bát úp kéo dài từ Nông trường
Việt-Trung và các xã Lý Trạch, Nam Trạch, Tây Trạch, Hòa Trạch, Phú Định, Vạn
Trạch, Hoàn Trạch, Cự Nẫm, Sơn Lộc, Hưng Trạch, Sơn Trạch, Phúc Trạch, Lâm
Trạch, Xuân Trạch. Vùng này thuận lợi để bố trí các kho tàng, triển khai các loại vũ
khí, khí tài quân sự, lực lượng chiến đấu trong chiến tranh giải phóng và chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc [2, tr.10].
Vùng đồng bằng nằm dọc hai bờ hạ lưu các con sông như sông Gianh, sông
Dinh, sông Lý Hòa và các trục đường giao thông lớn tuy diện tích không lớn nhưng lại
có một vị trí chiến lược về kinh tế - xã hội và quân sự.
Vùng ven biển dài 24km từ hạ lưu sông Gianh vào đến cửa sông Dinh được
ngăn cách giữa biển và làng mạc là những động cát kéo dài từ Bắc vào Nam.Trên
vùng đất ven biển Bố Trạch có ba cửa sông lớn: Gianh, Lý Hòa và Dinh, trong đó
cửa sông Gianh lớn nhất và sâu nhất có khả năng tàu vận tải 1.000 tấn ra, vào và đi
sâu vào nội địa hơn chục km, là nơi có đủ điều kiện để xây dựng cảng kinh tế và
quân sự [2, tr.11]. Dọc bờ biển là nơi cư trú của cư dân 4 làng biển Thanh Trạch,
Nhân Trạch, Hải Trạch và Đức Trạch. Đây là vùng địch thường xuyên thả biệt kích,
người nhái, thả hàng tâm lí chiến trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (19651968).
Về khí hậu và sông ngòi, Bố Trạch nằm trong vùng chịu ảnh hưởng của khí hậu
nhiệt đới gió mùa với hai mùa, mùa khô từ tháng 1 đến tháng 7, mùa này thời tiết khô
ráo kèm theo những đợt gió tây nóng (gió Lào), mùa mưa kéo dài từ tháng 8 đến tháng
12 và thường tập trung vào tháng 9, tháng 10 lượng mưa trung bình hằng năm vào
khoảng 2.057mml. Trong chiến tranh phá hoại, đế quốc Mỹ thường xuyên lợi dụng
thời tiết mưa bão để gia tăng hiệu quả đánh phá hệ thống giao thông cũng như các
công trình trú ẩn.
Ngoài 3 con sông lớn, Bố Trạch còn có một hệ thống các sông lớn nhỏ phân bố
đều trên địa bàn với đặc điểm chung là chiều dài ngắn, độ uốn khúc lớn, lưu vực nhỏ,
dốc nên tốc độ dòng chảy lớn nhất là về mùa mưa thường gây ngập lụt trên diện
rộng.
Bố Trạch có hệ thống giao thông tương đối phát triển và đa dạng, có giá trị về
kinh tế và quốc phòng. Quốc lộ 1 chạy dọc theo trung tâm huyện dài 31km, bắt đầu từ
15
Nam cầu Gianh vào Đồng Hới; Tỉnh lộ 2 dài nhất từ ngã ba Hoàn Lão đi qua ngã ba
Thọ Lộc, Cự Nẫm nối đường Hồ Chí Minh đến cầu Bùng, Xuân Sơn- Phong Nha,
Troóc, Khe Gát, đèo Đá Đẽo. Ngoài hệ thống đường giao thông trên còn có các tuyến
đường mòn dân sinh, những tuyến giao liên vô cùng quan trọng.
Tuyến ven biển có đường từ Quang Phú ra Nhân Trạch chạy xuyên qua các động
cát Trung Trạch, Đức Trạch ra Lý Hòa lên Hỷ Duyệt (Phú Trạch) qua Cự Nẫm lên
Troóc; đường giữa từ Nam Trạch qua Đại Trạch ra Hoàn Trạch đến Phú Trạch vượt
Khe Sắn ra các xã Bắc Trạch, Hạ Trạch, Mỹ Trạch. Đường núi từ bến Triêm qua U Bò
ra Bồng Lai, CổGiang theo Tỉnh lộ 2 lên Troóc vượt sông Son sang Gia Hưng. Cùng
với hệ thống đường bộ, tuyến đường sắt xuyên Việt chạy qua Bố Trạch dài 30 km, có
4 ga: Ngân Sơn, Thọ Lộc, Hoàn Lão, Phúc Tự.
Bố Trạch còn có tuyến giao thông đường thủy nội địa từ cảng Gianh theo sông Son
lên các xã miền Tây, tuyến giao thông đường biển nối cảng Gianh và 4 làng biển Thanh
Trạch, Lý Hòa, Đức Trạch và Nhân Trạch. Với hệ thống giao thông đường thủy, đường bộ
và đường sắt ngang dọc trải dài trên địa bàn, huyện Bố Trạch chính là nơi “hội tụ” và xuất
phát của các tuyến đường giao thông chiến lược ra Bắc vào Nam của đất nước hay sang
Lào, nơi đặt các binh trạm, kho tàng và các trạm trung chuyển của các đơn vị bộ đội, thanh
niên xung phong và dân công hỏa tuyến vào chiến trường. Vì vậy, Bố Trạch có vị trí chiến
lược quan trọng về quân sự trong kháng chiến chống Mỹ và trở thành một trong những
trọng điểm đánh phá ác liệt của Mỹ trong chiến tranh phá hoại (1965-1968).
1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Sau ngày giải phóng (18-8-1954), dưới sự lãnh - chỉ đạo của Ban Chấp hành
Đảng bộ huyện, nhân dân Bố Trạch đã tiến hành công cuộc hàn gắn vết thương chiến
tranh, cải cách ruộng đất, khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế - xã hội.
Về nông nghiệp, qua cải cách ruộng đất, hợp tác hóa nông nghiệp và cải tạo xã
hội chủ nghĩa,“đến đầu năm 1960 có tất cả 25 xã đã xuất hiện phong trào hợp tác
hóa, trong đó, có 10 xã đã hoàn thành xây dựng hợp tác xã, toàn huyện có 152 hợp tác
xã nông nghiệp; ruộng đất đưa vào hợp tác xã có 5.221.6 ha đạt 73%, trâu bò cày
8.107 con, các hợp tác xã bậc cao có 406 hộ đạt 3,67%” [1, tr.58].
Từ những năm 1960-1961, hưởng ứng phong trào thi đua “Học tập, tiến kịp và
vượt Đại Phong” trong toàn tỉnh, các hợp tác xã ở Bố Trạch đã dấy lên phong trào thi
16
đua lao động, sản xuất sôi nổi. Kết quả là năm 1961, toàn huyện có 11.367 hộ nông
dân vào hợp tác xã cấp thấp chiếm 95,16%, hợp tác xã cấp cao chiếm tỉ lệ 65,8% gồm
7.121 hộ, đến năm 1964 đã căn bản hoàn thành hợp tác xã bậc cao với quy mô thôn,
với 95% tổng số hộ nông dân tham gia vào hợp tác xã, trong đó có 97% hộ tham gia
hợp tác xã bậc cao [1, tr.125]. Để hỗ trợ cho phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, đẩy
mạnh sản xuất, Đảng bộ huyện đã chỉ đạo thành lập các hợp tác xã mua bán và tín
dụng, hợp tác xã “Tứ Mỹ” trở thành hợp tác xã “Đại Phong” đầu tiên của huyện.
Công tác cải tiến kĩ thuật và áp dụng khoa học - kĩ thuật vào sản xuất nông nghiệp đã
đạt được nhiều thành tựu, năng suất, diện tích và tổng sản lượng lương thực trong toàn
huyện tăng nhanh. Năm 1962 toàn huyện đạt 8.852ha đạt 90,1%, năng suất vụ lúa
chiêm đạt 18 tạ/ha, một số nơi ở Cự Nẫm vụ tám đạt 13 tạ/ha, tổng sản lượng lương
thực năm 1963 là 22.643 tấn” [1, tr.107].
Về lâm nghiệp, công tác trồng cây gây rừng, khai thác gỗ được cán bộ, nhân dân
quan tâm, đẩy mạnh. Toàn huyện đã trồng được 2.150.000 cây các loại, các xã Đức
Trạch, Thanh Trạch, hợp tác xã Tứ Mỹ trồng được trên 420.000 cây, khai thác được
trên 3.656m3 gỗ phục vụ sản xuất và đời sống.
Về tiểu thủ công nghiệp, công tác cải tạo tiểu thủ công nghiệp được huyện quan
tâm và chỉ đạo chặt chẽ, năm 1960 có hai hợp tác xã thủ công nghiệp với 155 xã viên
đạt 59,4%, thành lập mới 5 cơ sở sản xuất gạch ngói, vôi ở Thanh Trạch, Trung Trạch,
Vạn Trạch, năm 1963 trên 90% số hộ làm nghề thủ công, vận tải biển, các nghề mộc,
rèn, nấu dầu tràm, dầu sả phát triển rộng khắp, hợp tác xã Mai Hồng sản xuất được
nhiều nông cụ đáp ứng kịp thời vụ sản xuất [1, tr.126].
Bên cạnh phong trào xây dựng hợp tác xã và phát triển kinh tế, các hoạt động văn
hóa-xã hội, bảo vệ sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ. Toàn huyện có 44 trường học,
trong đó có 50% được ngói hóa, số lượng học sinh cấp I từ 17.630 em năm 1962 tăng lên
19.418 em năm 1963; học sinh cấp II tăng từ 1.863 em năm học 1962 lên 2.066 em, bình
quân cứ 100 người có 28 người đi học. Các công trình phúc lợi được chú ý đúng mức,
toàn huyện có 24 trạm xá, nhà hộ sinh. Trong đó có 12 trạm xá được xây dựng kiên cố,
đội ngũ y tế toàn huyện có 5 y sĩ, 227 y tá và nữ hộ sinh [1, tr.127].
1.1.3. Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Bố Trạch
17
Trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta,
vùng đất và con người Bố Trạch luôn gắn liền với mỗi bước thăng trầm và phát triển
của lịch sử đất nước Việt Nam.
Từ năm 1069, sau cuộc hành quân của vua Lý Thánh Tông và Lý Thường Kiệt, 3
châu Ma Linh, Địa Lý và Bố Chính nhập vào Đại Việt.Năm 1558, Nguyễn Hoàng
được cử vào trấn thủ đất Thuận Quảng, đặt lại phủ Bố Chính (Hà Tĩnh, Quảng Bình)
thuộc Thuận Hóa.
Năm 1064, Nguyễn Hoàng cho đổi phủ Tiên Bình thành phủ Quảng Bình, sau đổi
thành dinh Quảng Bình. Năm 1801, sau khi lên ngôi, Gia Long trở lại gọi vùng đất Quảng
Bình hiện nay là Bố Chính nội nhằm phân biệt với vùng đất Bố Chính Ngoại ở bờ Bắc
sông Gianh vốn thuộc đất chúa Trịnh cũ. Năm 1831, nhà Nguyễn sau khisan định lại địa
giới hành chính tỉnh, huyện trong cả nước, vùng đất Bố Trạch ngày nay chính thức được
mang tên huyện Bố Trạch thuộc tỉnh Quảng Bình [2, tr.15].
Năm 1425, dưới cờ khởi nghĩa của Lê Lợi, nhân dân vùng Hà Khương đã nổi dậy
tham gia cùng nghĩa quân Lam Sơn do tướng Lê Hãn chỉ huy chiến đấu đánh tan quân
Minh tại sông Gianh góp phần giải phóng Tân Bình khỏi ách thống trị của nhà Minh.
Vào thế kỉ XVIII, cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn nổ ra, sông Gianh trở thành
giới tuyến chia cắt Đàng Trong và Đàng Ngoài. Năm 1786, sau khi giải phóng Phú
Xuân, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy kéo quân ra Bắc đánh chúa Trịnh, các
tầng lớp nhân dân Bố Trạch đã nổi dậy phối hợp cùng nghĩa quân Tây Sơn đập tan sự
kháng cự của 3 vạn quân Trịnh trên tuyến sông Gianh và tiến ra Bắc Hà.
Từ năm 1885, vùng đất Quảng Bình trở thành một trong những nơi tụ nghĩa của
phong trào Cần Vương chống Pháp. Tại Bố Trạch, cuộc khởi nghĩa của nhân dân các
địa phương phía Bắc huyện Bố Trạch do Lê Mô Khởi lãnh đạo đã lập căn cứ tại Ba
Trại để chống Pháp [2, tr.18].
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sau đó, Xứ ủy Trung Kỳ ra đời, trực
tiếp chỉ đạo xây dựng hệ thống tổ chức cơ sở Đảng ở các tỉnh miền Trung, ngày 22-41930, tại ga Kẻ Rấy (Hoàn Lão - Bố Trạch), chi bộ cộng sản đầu tiên của Quảng Bình
được thành lập, đánh dấu sự trưởng thành của phong trào cách mạng ở Quảng Bình nói
chung và Bố Trạch nói riêng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Bố Trạch đã đứng lên
cùng nhân dân cả nước đánh Pháp đuổi Nhật giành chính quyền về tay nhân dân vào ngày
23-8-1945 góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng tháng Tám.
18
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, quân và dân Bố Trạch đã bám đất,
bám làng tổ chức chiến đấu. Ngày 28-3-1947, quân Pháp huy động hơn 500 quân tấn
công Bố Trạch trên hai hướng: Hướng thứ nhất theo Quốc lộ 1 tiến ra đánh chiếm Liên
Dinh và Hoàn Lão; hướng thứ hai bằng đường biển đổ bộ lên cửa sông Lý Hoà và cửa
sông Gianh đánh chiếm Lý Hòa, Quy Đức và Thanh Khê sau đó hai cánh hợp quân
đánh chiếm những vùng còn lại.
Ngay khi quân Pháp đặt chân lên vùng đất Bố Trạch, dưới sự chỉ đạo của chi bộ
Huyện, lực lượng dân quân tự vệ, dân quân, du kích ở các xã đã tập trung triển khai lực
lượng, lợi dụng địa hình, địa vật anh dũng chiến đấu chống lại thực dân Pháp.
Nhận thức được tầm quan trọng và vai trò chiến lược của địa bàn huyện cũng
như các lực lượng chiến đấu tại chỗ trong chiến tranh giải phóng. Cấp ủy và chính
quyền các cấp đã coi trọng công tác xây dựng lực lượng dân quân, du kích cả về tổ
chức, quân số và chính trị, tư tưởng.
Tháng 6-1947, tại căn cứ Ồ Ổ (Cổ Giang), Đại đội 4 - du kích thường trực huyện
được thành lập, dân quân, du kích trong các vùng tạm chiếm ở các xã Nam Trạch,
Trung Trạch, Hải Trạch, Tây Trạch, Sơn Trạch, Bắc Trạch đã phục kích chặn đánh
nhiều đợt tấn công của địch. Phối hợp cùng với lực lượng vũ trang, tại các vùng tạm
chiếm, mặc dù bị địch phong tỏa, kiểm soát gắt gao nhưng Hội phụ nữ các làng Lý
Hòa, Lý Nhân Nam đã lợi dụng những chuyến đi “buôn làng, sang chợ” để tiếp tế
thực phẩm, thuốc chữa bệnh, quần áo, … ra vùng du kích, vùng tự do. Các làng chiến
đấu như Cự Nẫm, Hòa Duyệt được xây dựng, nhân dân huy động các loại tre trồng kín
quanh làng, làm cổng làng bằng gai tre, tổ chức tuần tra canh gác, phát hiện và kiểm
tra những người lạ mặt vào làng. Hệ thống hầm hào, công sự được đào đắp từ xóm này
sang xóm khác, kết hợp với hầm chông, bãi mìn theo phương án chiến đấu đánh ngoài
làng, đánh trong làng.
Cùng với tinh thần "Quảng Bình quật khởi", làng chiến đấu đã tạo nên thế trận
chiến chiến tranh nhân dân rộng khắp, một "thiên la địa võng" đánh địch mọi nơi mọi
lúc, tạo cơ sở cho lực lượng vũ trang của tỉnh mở những cuộc tấn công lớn. Sau 8 năm
chiến đấu đầy hi sinh, gian khổ, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban kháng chiến
hành chính mà trực tiếp là của Huyện ủy - Ủy ban kháng chiến hành chính huyện và
được sự phối hợp chặt chẽ của bộ đội chủ lực Liên khu, bộ đội chủ lực tỉnh, lực lượng
19
vũ trang huyện, quân và dân Bố Trạch đã “bám đất, bám làng” xây dựng và phát triển
lực lượng, thực hiện phương châm tác chiến du kích, góp phần cùng với nhân dân
Quảng Bình đánh thắng giặc Pháp xâm lược.
Do hậu quả của chiến tranh và thiên tai, cuối năm 1954 đầu năm 1955, nạn đói
diễn ra khắp nơi. Trước tình hình đó, ngày 21-12-1954 Tỉnh ủy đã họp quán triệt chỉ
thị Phòng chống đói của Ban Bí thư Trung ương Đảng (ngày 3-11-1954) và ra Nghị
quyết số 93/QN-QB ngày 21-12-1954 về công tác sản xuất chống đói: “…Đẩy mạnh
tương trợ, phục hồi sản xuất, chú ý giúp đỡ các gia đình hiện đang đói rét. Phát động
thi đua ngắn hạn, trồng thêm hoa màu mau ăn…”.
Tháng 10-1954, Tỉnh ủy Quảng Bình họp Hội nghị nghiên cứu Nghị quyết của
Bộ Chính trị (tháng 9-1954). Hội nghị đã quyết định nhiệm vụ chung của Đảng bộ,
quân và dân tỉnh ta từ năm 1954 đến 1957 là,“Hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi
phục kinh tế, đẩy mạnh sản xuất, tiết kiệm, tổ chức đời sống nhân dân, chuẩn bị mọi
điều kiện tiến tới thực hiện vận động triệt để giảm tô, cải cách ruộng đất và khôi phục
phát triển kinh tế, văn hóa có kế hoạch” [2, tr.135].
Thực hiện nghị quyết Tỉnh ủy, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, Chi ủy, chi bộ
Huyện đội Bố Trạch nhanh chóng triển khai quán triệt nhiệm vụ khắc phục hậu quả
chiến tranh, khôi phục phát triển kinh tế trong toàn lực lượng.
Trong những năm 1960-1961, nổi bật lên trong sản xuất nông nghiệp có hợp tác
xã Đại Phong trở thành ngọn cờ đầu của phong trào hợp tác hóa nông nghiệp toàn
miền Bắc. Trên tinh thần đó, Tỉnh ủy đã phát động phong trào thi đua “học tập, tiến
kịp và vượt Đại Phong” trong toàn tỉnh. Học tập Đại Phong các hợp tác xã trong toàn
huyện đã dấy lên phong trào thi đua lao động, sản xuất sôi nổi và đạt được nhiều kết
quả lớn.
Trong lúc nhân dân miền Bắc đang ra sức thi đua thực hiện nhiệm vụ của kế
hoạch 5 năm đầu lần thứ nhất, thì Mỹ và chính quyền Sài Gòn cấu kết với bọn phản
động được cài lại ở miền Bắc để phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của
nhân dân ta. Tại Bố Trạch, đêm ngày 2-6-1961, Mỹ cho thả một toán biệt kích xuống
vùng núi Cây Lim (xã Lâm Trạch) mục đích là móc nối với bọn phản động trong đồng
bào công giáo ở địa phương để nắm bắt tình hình bố phòng của ta, tổ chức gây dựng
cơ sở, chờ thời cơ phá hoại. Năm 1964, Mỹ cho tàu chiến thả nhiều toán biệt kích,
20
người nhái xuống vùng biển thuộc xã Thanh Trạch, Hải Trạch. Dưới sự chỉ đạo của
Huyện ủy, quân và dân trên địa bàn tập trung củng cố, tổ chức lực lượng, tăng cường
công tác tuần tra, phát hiện kịp thời các dấu hiệu khả nghi trên địa bàn để có phương
án đối phó, trấn áp kịp thời. Phong trào phòng chống biệt kích được phát động sâu
rộng và được nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ, phát hiện, truy bắt nhiều toán biệt kích
xâm nhập.
Trước âm mưu mở rộng chiến tranh của Mỹ, ngày 26-6-1964, Bộ Chính trị Trung
ương Đảng ra Chỉ thị số 81-CT/TW về “Tăng cường sẵn sàng chiến đấu chống lại mọi
âm mưu khiêu khích, phá hoại miền Bắc của địch”, Chỉ thị nêu rõ nhiệm vụ cần kíp
của nhân dân miền Bắc là “Tăng cường công tác phòng thủ, phòng không, sẵn sàng
tiêu diệt địch xâm phạm và ra sức chi viện cho cách mạng miền Nam” [2, tr.167].
Tháng 7-1964, Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị cán bộ cốt cán toàn tỉnh để bàn về việc
tăng cường sẵn sàng chiến đấu, hội nghị chỉ rõ nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân của tỉnh ta là “tích cực đẩy mạnh sản xuất, ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội,
đồng thời tích cực chuẩn bị để sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của địch” [1, tr.137].
Ngày 5-8-1964, đế quốc Mỹ mở cuộc tấn công “Mũi tên xuyên” đánh phá vào
các căn cứ, khu neo đậu của tàu hải quân của ta. Từ ngày 7-2-1965, Mỹ tiến hành cuộc
chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc. Bố Trạch trở
thành một trong những trọng điểm bắn phá ở Quảng Bình. Dưới sự lãnh đạo của các
cấp ủy Đảng, chính quyền, quân và dân Bố Trạch đã đoàn kết cùng nhau vượt qua mọi
khó khăn, gian khổ chuyển mọi hoạt động từ thời bình sang thời chiến, sẵn sàng đánh
trả lại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ.
1.2. Cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở Bố Trạch (1965-1968)
1.2.1. Phá hoại bằng gián điệp và biệt kích
Ở Bố Trạch, từ năm 1961 đến năm 1964, đế quốc Mỹtung nhiều toán biệt kích,
gián điệp xuống địa bàn như vùng Cây Lim (xã Lâm Trạch), các xã Thanh Trạch, Hải
Trạch và Đức Trạch. Ngoài ra, địch còn dùng máy bay thả truyền đơn, hàng tâm lí
chiến xuống các khu dân cư có đồng bào theo đạo Thiên Chúa sinh sống và xuống khu
vực đường mòn Hồ Chí Minh.
Theo tuyến đường bộ,biệt kích xâm nhập bằng cách băng qua các khu phi quân
sự hoặc xâm nhập qua biên giới Việt-Lào với phương thức vượt tuyến, bí mật hoặc
21
công khai trà trộn vào trong số người ra bắc với nhiều lí do như trốn quân dịch, đầu
hàng, bất mãn nhằm mục đích nắm tin tức, móc nối với tổ chức phản động cũ được cài
lại. Ngoài ra, lợi dụng địa hình đêm tối và địa hình phức tạp, Mỹ và chính quyền Sài
Gòn nhiều lần dùng đường không thả biệt kích xuống vùng núi.
Vùng biển huyện Bố Trạch trong chiến tranh phá hoại (1965-1968) là nơi địch
thường xuyên tung biệt hải, thả hàng tâm lý chiến, trong đó tập trung vào khu vực
cảng Gianh và tập kích vào vùng biển thuộc các xã Nhân Trạch, Thanh Trạch, Đức
Trạch và Lý Hòa (Hải Trạch). Tháng 5-1965, đế quốc Mỹ cho biệt kích đổ bộ vào bờ
biển phía Nam xã Nhân Trạch, cùng với việc thả biệt kích lên địa bàn xã, Mỹ còn cho
các tàu chiến bắt cóc ngư dân đánh cá trên biển để khai thác tình hình. Tháng 6-1965,
tàu chiến Mỹ xâm phạm vùng biển miền Bắc bắt 6 ngư dân xã Nhân Trạch đang đánh
cá trên biển đem về bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng).
Từ ngày 10 đến ngày 18-10-1966, nhiều lần tàu địch xâm nhập và lợi dụng sự sơ
hở của ta, chúng đã thả biệt kích lên cửa sông Dinh ở Nhân Trạch.
Từ ngày 14-4-1967 và tháng 8-1967, biệt kích tiếp tục xâm nhập vào vùng biển
xã Thanh Trạch hay đêm 7-9-1967, 3 tàu biệt kích hoạt động ngoài bờ biển của xã,
chúng đã rải truyền đơn lên bờ và rút lui an toàn.
Những toán biệt kích này trước khi được tung ra miền Bắc đều được huấn luyện
rất bài bản và được trang bị đầy đủ các loại thiết bị như: 2 máy truyền tin, sổ đặc lệnh
truyền tin, máy pin cơ liên lạc với máy bay, hỏa châu, các loại súng lục, súng tiểu liên,
các loại mìn chống người, chống chiến xa, tiền ngân hàng miền Bắc, vàng, bạc và các
loại lương thực thực phẩm, súng giảm thanh, bản đồ, giấy thông hành giả và các đồ
dùng miền Bắc để chúng dễ thâm nhập vào quần chúng và có thể hoạt động tự lập
trong mọi điều kiện, hoàn cảnh ở miền Bắc.
Trên tuyến biên giới Việt - Lào, tháng 3-1967, Mỹ cho một toán biệt kích do tên
Nguyễn Văn Luyện chỉ huy ra thị sát chiến trường miền Bắc, nhảy dù xuống bản Aki
(xã Thượng Trạch).
Bằng phương thức xâm nhập đường biển, đường bộ hoặc đường không thì tất cả
mọi hoạt động của biệt kích, gián điệp khi xâm nhập vào Bố Trạch đều nhằm mục
đích: Điều tra về lực lượng quân đội, tiềm lực và khả năng quốc phòng, các kho tàng
quân sự và đường giao thông chiến lực quan trọng; về lực lượng an ninh, dân quân tự
vệ, thái độ chính trị của nhân dân đối với Đảng và chính phủ; về mối quan hệ giữa
22
Việt Nam Dân chủ cộng hòa với các nước xã hội chủ nghĩa; về các cơ sở kinh tế,
phong tục tập quán của địa phương, mẫu tiền ngân hàng và các loại giấy tờ tùy thân
của nhân dân. Đồng thời, chúng tìm cách móc nối cơ sở, tăng cường phục kích bắt cóc,
ám sát cán bộ, bộ đội, phá hoại cầu cống, kho tàng, các mục tiêu trọng điểm trên địa
bàn,thu thập tình báo trực tiếp phục vụ cho các cuộc ném bom bắn phá của không
quân, hải quân Mỹ hòng ngăn chặn sự chi viện của hậu phương miền Bắc cho tiền
tuyến miền Nam và cách mạng Lào.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 của quân dân miền Nam đã làm
phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Cùng với việc không đạt được
mục đích trong chiến tranh phá hoại miền Bắc, Nhà Trắng buộc phải xuống thang chiến
tranh, từng bước hạn chế, chấm dứt ném bom. Cùng với đó, hoạt động gián điệp, biệt
kích chống phá miền Bắc cũng được dừng lại “Tháng 11-1968, SOG (nhóm nghiên cứu
và quan sát thuộc Bộ chỉ huy trợ giúp quân sự Mỹ ở Việt Nam-TG) nhận được một
thông báo khẩn của Washington. Bản thông báo yêu cầu chấm dứt tất cả hoạt động bên
kia giới tuyến. Tại sao điều đó lại xảy ra? Đại tá Cavanaugh, chỉ huy trưởng của SOG
tự hỏi. Ông nhớ lại: “không lâu sau khi tôi có mặt ở đó. Washington cho gọi tôi và hỏi:
Anh có toán nào đang hoạt động bên trên giới tuyến không? Tôi có ba toán, và họ nói
“Anh phải đưa họ về ngay lập tức, chúng ta chuẩn bị ngừng ném bom và tuyên bố
chúng ta không có hoạt động gì bên trên giới tuyến. Tôi nhớ kĩ bởi vì mệnh lệnh này gây
ra sự kinh hoàng và không thể có cách nào đưa họ về ngay được. Vì thế, đó là lần cuối
cùng chúng tôi đưa người ra Bắc” [58].
1.2.2. Phá hoại bằng không quân và hải quân
Để tránh sự phản đối của dư luận thế giới và nhân dân Mỹ, làm cơ sở pháp lí cho
cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, đế quốc Mỹ đã cho các tàu khu trục xâm nhập vịnh
Bắc Bộ theo kế hoạch Desoto.
Dựng lên sự kiện “vịnh Bắc Bộ”, ngày 5-8-1964, Johnson ra lệnh cho không quân
ném bom đánh phá vào các căn cứ hải quân ở Hòn Gai, Lạch Trường, Hòn Ngư, sông
Gianh. Ngày 16-10-1964,máy bay Mỹ trinh sát dọc đường 12A, bắn phá địa bàn
Tuyên Hóa và Minh Hóa. Ngày 18-11-1964, máy bay đánh phá vùng phía Tây tỉnh
Quảng Bình.
Ngày 7-2-1965, lấy cớ trả đũa quân Giải phóng miền Nam tấn công doanh trại
quân Mỹ ở Plâycu (6-2-1965), Johnson ra lệnh mở chiến dịch “Mũi lao lửa” ném bom
23
bắn phá thị xã Đồng Hới và đảo Cồn Cỏ, chính thức mở đầu cuộc chiến tranh không
quân và hải quân đánh phá miền Bắc.
Tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc,
đế quốc Mỹ nhằm:
-
Làm lung lay quyết tâm giải phóng của quân và dân ta ở cả hai miền.
-
Ngăn chặn sự chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và chi viện từ miền Bắc
vàomiền Nam, nhằm cô lập và tiêu diệt cách mạng miền Nam.
-
Phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và làm suy yếu tiềm lực kinh tế,
quốc phòng của miền Bắc đồng thời răn đe hệ thống xã hội chủ nghĩa hòng uy hiếp tinh thần
chống đế quốc của các nước trung lập và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Quảng Bình trở thành một trong những chiến trường ác liệt, là địa bàn chiến lược
quan trọng đối với miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, là tuyến đầu của miền
Bắc xã hội chủ nghĩa và là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam. Là một
huyện trung tâm của tỉnh, Bố Trạch nằm trên tuyến hành lang vận tải chiến lược, ở vào
vùng đất hẹp nhất của đất nước mà địch thường gọi là “cổ chai” hay “vùng cán soong”,
nơi mọi tuyến đường chi viện cho miền Nam như Quốc lộ 1, đường 15A, đường 20, … đi
qua cùng với những bến bãi quan trọng như cảng Gianh, phà Xuân Sơn đây cũng là nơi đặt
các trạm trung chuyển của các đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến
vào chiến trường. Vì vậy, Bố Trạch trở thành trọng điểm đánh phá của Mỹ vào Quảng Bình
trong chiến tranh phá hoại.
Những mục tiêu đế quốc Mỹ tập trung đánh phá bao gồm:
- Mục tiêu quân sự: Các doanh trại quân đội, các kho tàng quân sự, hậu cần, các
trạm rada, đài quan sát, khu tập kết và trú quân của bộ đội.
- Mục tiêu giao thông vận tải: Các trục đường giao thông chiến lược: Quốc lộ 1,
đường 15A, đường 20 và các tuyến đường thủy, đường sắt, đường liên thôn, liên xã.
- Mục tiêu kinh tế - chính trị: Bao gồm các nông trường, công trường, xí nghiệp,
các công trình thủy lợi.
- Mục tiêu dân cư: Làng mạc, bệnh viện, trường học, chợ búa.
Trong chiến tranh phá hoại, đế quốc Mỹ đã chia việc đánh phá miền Bắc thành
hai giai đoạn tùy thuộc vào nhịp độ của cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam gồm:
Giai đoạn leo thang (từ ngày 7-2-1965 đến ngày 31-3-1968); giai đoạnxuống thang (từ
24
ngày 1-4-1968 đến ngày 1-11-1968). Đối với giai đoạn leo thang, không quân và hải
quân Mỹ đánh theo ba bước. Bước 1: từ ngày 7-2-1965 đến ngày 13-6-1965; Bước2:
từ ngày 14-6-1965 đến ngày 21-2-1967; Bước3: từ ngày 22-2-1967 đến ngày 31-31968. Mỹ đánh phá miền Bắc theo ba bước này vì cuộc chiến tranh phá hoại bị hạn chế
trong khuôn khổ của chiến tranh xâm lược ở miền Nam, phát triển phụ thuộc vào diễn
biến chiến tranh ở miền Nam nên Mỹ vừa đánh, vừa phải thăm dò, leo thang từng
bước từ thấp đến cao.
Với kế hoạch này, Mỹ từng bước leo thang đánh phá vào vùng đất Quảng Bình,
trong đó có huyện Bố Trạch.
Ngày 2-3-1965, 160 lần chiếc máy bay của Hạm đội 7 và 20 máy bay của không
lực Sài Gòn gồm đủ các loại, chia thành nhiều tốp đánh vào căn cứ sông Gianh.Suốt 3
tiếng đồng hồ, chúng đã trút xuống đây 200 tấn bom đạn.
Cuối tháng 3-1965, hầu hết các khu doanh trại quân đội trên địa bàn Bố Trạch
đều bị đánh phá như Ba Dốc, Hoàn Lão, Vạn Trạch, Bắc Khe Nước. Từ đánh ban ngày
là chủ yếu, đánh doanh trại quân đội là trọng điểm, địch chuyển sang đánh các mục
tiêu giao thông vận tải.Gần như tất cả tuyến đường và công trình giao thông khác ở Bố
Trạch đều bị đánh. Trong tháng 4, Mỹ tập trung đánh phá vào các cầu lớn trên Quốc lộ
1 và quân cảng sông Gianh. Cụ thể, từ ngày 7-4 đến 14-4-1965, máy bay tập trung
đánh phá cầu Lý Hòa, Xuân Sơn (19-4), cầu Chánh Hòa (23-4), Rào-Bùng (xã Hưng
Trạch), đánh vào quân cảng sông Gianh (28-4),… Cùng thời gian này, Mỹ cho tàu
chiến trinh sát, bắn phá vào các xã dọc bờ biển như Nhân Trạch (7-5), Đức Trạch,
Thanh Trạch (23-5), đồng thời cho biệt kích xâm nhập, vây bắt ngư dân đánh cá trên
biển.
Từ tháng 6-1965, máy bay Mỹ chuyển hẳn sang đánh mục tiêu giao thông vận
tải. Chúng đánh phá toàn diện, đánh cả đường bộ, đường thủy, đường liên thôn, liên xã
cho đến cầu cống, bến đò ngang dân sinh, nhằm vào các phương tiện vận tải ô tô, ca
nô, tàu thuyền lớn, nhỏ, thậm chí còn đánh vào cả xe bò, xe đạp thồ, … trọng điểm
đánh phá lúc này ở Bố Trạch vẫn là các đầu mối giao thông, bến bãi, Quốc lộ 1, phà
Gianh, Khe Nước, Xuân Sơn. Chỉ trong 5 ngày đầu tháng 12 đánh vào đường chiến
lược 15A 43 lần, Từ nam Gianh đến cầu Lý Hòa địch dùng máy bay chỉ điểm cho
pháo tàu từ ngoài biển bắn phá.
25