Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Quan hệ giữa tỉnh savannakhet và salavan của chdcnd lào với tỉnh quảng trị (1989 2014)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.12 MB, 141 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
----------

TRẦN THỊ QUỲNH PHƯƠNG

QUAN HỆ GIỮA TỈNH SAVANNAKHET
VÀ SALAVAN CỦA CHDCND LÀO VỚI
TỈNH QUẢNG TRỊ (1989 - 2014)

Chuyên ngành: LỊCH SỬ THẾ GIỚI
Mã số: 60 22 03 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ SỬ HỌC

Thừa Thiên Huế, năm 2016


ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
----------

TRẦN THỊ QUỲNH PHƯƠNG

QUAN HỆ GIỮA TỈNH SAVANNAKHET
VÀ SALAVAN CỦA CHDCND LÀO VỚI
TỈNH QUẢNG TRỊ (1989 - 2014)

Chuyên ngành: LỊCH SỬ THẾ GIỚI
Mã số: 60 22 03 11


LUẬN VĂN THẠC SĨ SỬ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. LÊ VĂN ANH

Thừa Thiên Huế, năm 2016
i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực,
được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố
trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả

Trần Thị Quỳnh Phương

ii


Lời Cảm Ơn
Với tình cảm chân thành và lòng quý trọng, cho phép tôi được bày tỏ lòng biết
ơn sâu sắc đến thầy PGS.TS Lê Văn Anh, người đã trực tiếp giảng dạy và hướng
dẫn bằng tất cả lòng nhiệt tình, sự chu đáo trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô giáo đã giảng dạy trong suốt thời gian học
tập cũng như đóng góp những ý kiến rất thiết thực cho luận văn. Cảm ơn tập thể
thầy cô giáo khoa Lịch sử, Phòng đào tạo sau Đại học - Trường Đại học sư phạm
Huế đã quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho quá trình học tập và nghiên cứu.
Cảm ơn Chi cục Văn thư - Lưu trữ tỉnh Quảng Trị, Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh

Quảng Trị, Trưởng Phòng Đối ngoại UBND tỉnh Quảng Trị, Trưởng phòng Quản lý
biên giới Sở Ngoại vụ tỉnh Quảng Trị và Trưởng phòng Tuyên truyền Ban Tuyên
giáo Tỉnh ủy Quảng Trị đã giúp đỡ và cung cấp tư liệu để tôi có thể hoàn thành
luận văn này.

Huế, tháng 10 năm 2016
Tác giả

iii
iii


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa ............................................................................................................... i
Lời cam đoan ...............................................................................................................ii
Lời cảm ơn ................................................................................................................ iii
Mục lục ........................................................................................................................ 1
Danh mục chữ viết tắt ................................................................................................. 3
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................... 5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiêm cứu ...................................................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 9
6. Nguồn tư liệu ....................................................................................................... 9
7. Đóng góp của luận văn ........................................................................................ 9
8. Bố cục của luận văn ........................................................................................... 10
NỘI DUNG .............................................................................................................. 11
Chương 1. CƠ SỞ QUAN HỆ GIỮA TỈNH SAVANNAKHET VÀ

SALAVAN VỚI TỈNH QUẢNG TRỊ (1989 - 2014)............................................. 11
1.1. Cơ sở địa - chính trị, kinh tế, văn hóa ............................................................. 11
1.1.1. Cơ sở địa - chính trị, kinh tế ..................................................................... 11
1.1.2. Cơ sở văn hóa ........................................................................................... 14
1.2. Quan hệ giữa tỉnh Savannakhet, Salavan với tỉnh Quảng Trị trong hai
cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc ..................................................................... 16
1.2.1. Từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời đến năm 1945 ..................... 16
1.2.2. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ ............................................ 17
1.3. Quan hệ giữa tỉnh Savannakhet, Salavan với tỉnh Bình Trị Thiên từ năm
1976 đến năm 1989 ................................................................................................ 22
1.3.1 Quan hệ chính trị, an ninh - quốc phòng ................................................... 22
1.3.2. Quan hệ kinh tế......................................................................................... 23
1.3.3. Quan hệ văn hóa, giáo dục - đào tạo và lĩnh vực khác ............................. 27

1


1.4. Những nhân tố mới tác động đến quan hệ hợp tác giữa ba tỉnh ..................... 29
1.4.1. Tình hình thế giới và khu vực .................................................................. 29
1.4.2. Chính sách của Lào, Việt Nam và bước phát triển của quan hệ đặc
biệt giữa hai nước ............................................................................................... 30
Chương 2. QUAN HỆ GIỮA TỈNH SAVANNAKHET VÀ SALAVAN
VỚI TỈNH QUẢNG TRỊ (1989 - 2014) ................................................................. 32
2.1. Quan hệ chính trị, an ninh - quốc phòng và biên giới .................................... 32
2.1.1. Tiếp tục củng cố quan hệ chính trị ........................................................... 32
2.1.2. Tăng cường hợp tác an ninh - quốc phòng ............................................... 34
2.1.3. Đẩy mạnh hợp tác bảo vệ biên giới .......................................................... 37
2.2. Quan hệ kinh tế ............................................................................................... 42
2.2.1. Tăng cường hợp tác nông, lâm nghiệp ..................................................... 42
2.2.2. Đẩy mạnh hợp tác công nghiệp, xây dựng và giao thông vận tải ............ 46

2.2.3. Nâng cao hiệu quả hợp tác thương mại .................................................... 50
2.3. Quan hệ văn hóa, giáo dục - đào tạo và lĩnh vực khác ................................... 54
2.3.1. Đẩy mạnh hợp tác văn hóa ....................................................................... 54
2.3.2. Nâng cao chất lượng hợp tác giáo dục - đào tạo ...................................... 56
2.3.3. Tăng cường hợp tác y tế ........................................................................... 58
Chương 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ QUAN HỆ GIỮA TỈNH
SAVANNAKHET VÀ SALAVAN VỚI TỈNH QUẢNG TRỊ (1989 - 2014)...... 62
3.1. Thành tựu, hạn chế trong quan hệ giữa ba tỉnh từ năm 1989 đến năm
2014 ....................................................................................................................... 62
3.1.1. Những thành tựu nổi bật ........................................................................... 62
3.1.2. Một số tồn tại và hạn chế.......................................................................... 67
3.2. Đặc điểm của quan hệ hợp tác giữa ba tỉnh .................................................... 69
3.3. Triển vọng của quan hệ hợp tác giữa tỉnh Savannakhet, Salavan với tỉnh
Quảng Trị ............................................................................................................... 73
3.4. Một số bài học kinh nghiệm của quan hệ hợp tác giữa ba tỉnh ...................... 75
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 81
PHỤ LỤC

2


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN

: Assciation of South East Asian Nations - Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á

BĐBP


: Bộ đội biên phòng

CHDCND

: Cộng hòa dân chủ nhân dân

CHXHCN

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

FTA

: Hiệp định thương mại tự do

NXB

: Nhà xuất bản

QLBG

: Quản lý biên giới

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

UBND

: Ủy ban nhân dân


UBKHXH

: Ủy ban khoa học xã hội

UBKHXHQG : Ủy ban khoa học xã hội quốc gia
USD

: United States of Dollas - Đô la Mỹ

VNĐ

: Việt Nam đồng

VNPT

: Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam

VIETTEL

: Tập đoàn viễn thông Quân đội

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua những năm tháng khó khăn gian khổ kề vai sát cánh bên nhau xây
dựng và bảo vệ đất nước, mối quan hệ Lào - Việt Nam ngày càng gắn bó. Cho đến
nay, nó đã trở thành di sản quí báu của hai dân tộc, biểu tượng mẫu mực về quan hệ

giữa hai nước láng giềng.
Cùng với sự phát triển của quan hệ giữa hai nước Lào - Việt Nam qua các thời
kỳ lịch sử, các tỉnh Savannakhet, Salavan với tỉnh Quảng Trị không ngừng tăng
cường quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt. Từ mối quan hệ “láng giềng
thân thiện” trong buổi đầu dựng và giữ nước, “tình đoàn kết đặc biệt, liên minh chiến
đấu” trong các cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung, ba tỉnh đã đẩy mạnh “quan hệ
hữu nghị đặc biệt, hợp tác toàn diện” trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Savannakhet, Salavan và Quảng Trị là ba tỉnh gần gũi về địa lý; có nhiều điểm
tương đồng về tự nhiên, kinh tế, văn hóa và xã hội; có vị trí địa - chiến lược; nhiều
tiềm năng để phát triển kinh tế. Trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm trước
đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay, quan hệ giữa ba
tỉnh giữ vị trí quan trọng và có tác động to lớn đến tình hình chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hóa của Lào - Việt Nam cũng như quan hệ đặc biệt giữa hai nước. Từ năm
1989 đến năm 2014, mặc dù tình hình thế giới, khu vực Đông Nam Á và hai nước
có nhiều thay đổi, các tỉnh Savannakhet, Salavan với Quảng Trị còn nhiều khó
khăn, nhất là về kinh tế, nhưng quan hệ giữa ba tỉnh vẫn không ngừng được tăng
cường và đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần thúc đẩy quan hệ đặc biệt
Lào - Việt Nam phát triển.
Sự biến đổi của tình hình thế giới, khu vực Đông Nam Á và tác động ngày
càng sâu sắc của quá trình toàn cầu hóa cùng với chủ trương “mở cửa” của Đảng,
Nhà nước và Chính phủ Lào hiện nay tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ hợp tác
toàn diện Lào - Việt Nam cũng như quan hệ giữa các địa phương của hai nước,
nhưng cũng là cơ hội để các nước khác, nhất là Thái Lan, Trung Quốc gia tăng ảnh
hưởng của mình tại quốc gia này. Trước sự biến đổi khôn lường đó, tiếp tục đẩy
mạnh quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam cũng như quan hệ giữa tỉnh Savannakhet,
4


Salavan với Quảng Trị là nhệm vụ có ý nghĩa hết sức quan trọng, không chỉ để phát
triển kinh tế, văn hóa mà còn để tăng cường an ninh - quốc phòng. Vì vậy, tìm hiểu

thực trạng, những thành tựu và hạn chế của quan hệ giữa tỉnh Savannakhet, Salavan
với Quảng Trị từ năm 1989 đến năm 2014, trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh
nghiệm nhằm góp phần tăng cường hơn nữa quan hệ giữa hai nước và ba tỉnh trong
các giai đoạn tiếp theo, là yêu cầu cần thiết cả về phương diện lý luận lẫn thực tiến.
Về ý nghĩa khoa học: Nghiên cứu quan hệ giữa tỉnh Savannakhet, Salavan với
Quảng Trị từ năm 1989 đến năm 2014 không chỉ góp phần làm sáng tỏ những nội
dung quan trọng trong quan hệ hợp tác toàn diện giữa ba tỉnh, mà còn bổ sung thêm
những tư liệu mới về quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước trong giai đoạn cách
mạng mới, một giai đoạn hợp tác hết sức quan trọng giữa Lào - Việt Nam.
Về ý nghĩa thực tiễn: Tìm hiểu quan hệ giữa tỉnh Savannakhet, Salavan với
Quảng Trị trong những năm từ 1989 đến 2014 góp phần giúp các tầng lớp nhân dân,
thế hệ trẻ nhận thức sâu sắc về mối quan hệ đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn
diện giữa hai nước Lào - Việt Nam, qua đó, thấy được sự cần thiết và ý nghĩa to lớn
của việc củng cố, tăng cường quan hệ hợp tác giữa ba tỉnh trong giai đoạn hiện nay
cũng như các giai đoạn tiếp theo.
Với tất cả những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề “Quan hệ giữa tỉnh
Savannakhet và Salavan của CHDCND Lào với tỉnh Quảng Trị (1989 - 2014)”
làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Sử học chuyên ngành Lịch sử thế giới.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Mối quan hệ Lào - Việt nói chung, quan hệ song phương giữa địa phương hai
nước nói riêng đã được một số công trình nghiên cứu, bài viết về Lào, Việt Nam và
quan hệ giữa hai nước đề cập đến. Cũng đã có một số công trình, bài viết đề cập
trực tiếp quan hệ song phương giữa các tỉnh của hai bên qua các thời kỳ lịch sử.
- Các công trình nghiên cứu, bài viết về Lào, Việt Nam và quan hệ giữa hai
nước đề cập đến quan hệ địa phương
Thời kỳ cổ trung đại, các tác phẩm: “Đại Nam thực lục” của Quốc sử quán
triều Nguyễn, hay tác phẩm của Lê Quí Đôn như “Phủ biên tạp lục”… đã có ghi
chép về địa lý, phong tục, sản vật, con người Ai Lao và quan hệ bang giao, quân sự,
kinh tế, văn hóa giữa Ai Lao với Đại Việt.


5


Trong thời kỳ cận đại, một số nhà nghiên cứu đã tiến hành điều tra khảo sát
địa lý, tài nguyên khoáng sản, lịch sử, văn hóa của Lào và Việt Nam nhằm phục vụ
chủ yếu cho mục đích xâm lược, cai trị và bóc lột. Những công trình nghiên cứu về
quan hệ giữa hai nước và quan hệ các địa phương không có nhiều.
Đến thời kỳ hiện đại, nhất là sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp của hai
nước giành thắng lợi, đã xuất hiện ngày càng nhiều các công trình nghiên cứu,
sách báo, tạp chí về lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng của Lào, Việt Nam và quan hệ
giữa hai nước.
Các công trình nghiên cứu: “Lịch sử Lào” của Trung tâm Khoa học Xã hội và
Nhân văn Quốc gia; “Đất nước Lào: Lịch sử và văn hóa” của Lương Ninh (chủ
biên); “Lào Đất nước - Con người” của Hoài Nguyên; “Lịch sử Lào hiện đại” của
Nguyễn Hùng Phi - Buasi Chalonsuc; “Lịch sử Đảng Nhân dân Cách mạng Lào”
của Ban chỉ đạo lý luận và thực tiễn Đảng Nhân dân Cách mạng Lào… và các công
trình nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam… đã đề cập
đến mối quan hệ giữa hai nước và các địa phương của hai nước qua từng thời kỳ
lịch sử.
Mối quan hệ Lào - Việt, Việt - Lào là vấn đề được các nhà lãnh đạo của Lào
và Việt Nam hết sức quan tâm.
Các bài viết: “Tình đoàn kết đặc biệt, sự hợp tác toàn diện và liên minh chiến
đấu Lào - Việt Nam thời kỳ cách mạng mới” của Khămtày Xiphănđon; “Gắn bó keo
sơn, hỗ trợ vô tư, hợp tác hiệu quả” của Thủ tướng Bouasone Bouphavanh; “Việt
Nam và Lào:chặng đường 30 năm phát triển kinh tế” của Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng… đều đã khẳng định quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam là nhân tố quan trọng
đưa cách mạng hai nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Quan hệ hợp tác Lào - Việt, Việt - Lào là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu. Bên cạnh các công trình và bài viết đã được công bố trong các
sách, báo, tạp chí, hội thảo về quan hệ Lào - Việt, Việt - Lào đã được tổ chức.

Các chuyên khảo: “ Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào (1930 - 2007)”
của Ban chỉ đạo nghiên cứu biên soạn lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào;
“Quan hệ đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào trong giai đoạn 1954 - 2000”

6


của Lê Đình Chỉnh; “Quan hệ Việt Nam - Lào từ 1975 đến 2005” của Nguyễn Thị
Phương Nam… và các bài viết: “Quan hệ Việt Nam - Lào trong thời kỳ cổ trung
đại” của Nguyễn Hào Hùng; “Một số vấn đề về tình đoàn kết Việt - Lào” trong thời
kỳ cận đại của Đinh Xuân Lâm… đã góp phần làm rõ các khía cạnh khác nhau
trong quan hệ Lào - Việt Nam.
Các hội thảo: Hội thảo khoa học Quốc gia 40 năm quan hệ Việt Nam - Lào:
Nhìn lại và Triển vọng do Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia phối
hợp tỉnh Nghệ An tổ chức tại Thành phố Vinh, tháng 8 - 2002 và Hội thảo Quốc tế
“Tình đoàn kết đặc biệt, liên minh chiến đấu và sự hợp tác toàn diện giữa Việt Nam
và Lào” do UBKHXH Việt Nam và UBKHXHQG Lào tổ chức tại thủ đô Viêng
Chăn, tháng 6 - 2007 cũng đã góp phần làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề về quan hệ
giữa hai nước và các địa phương qua các thời kỳ lịch sử.
- Các bài viết, công trình nghiên cứu đề cập trực tiếp đến quan hệ giữa ba tỉnh
Một số bài viết của các tác giả đăng trên tạp chí như:“Quan hệ đặc biệt giữa
tỉnh Quảng Trị với một số địa phương của nước bạn Lào” của Nguyễn Viết Niên;
Hoàng Đăng Mai với bài viết “Quảng Trị, Savannakhet, Salavan thắm tình hữu
nghị và hợp tác”... đã đề cập đến những thành tựu cơ bản trong quan hệ hợp tác
song phương giữa ba tỉnh qua các giai đoạn lịch sử, nhất là trong thời kỳ đổi mới.
Các tác giả cũng đã nêu lên một số biện pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh quan hệ giữa
hai bên.
Ngoài ra, các công trình: “Lịch sử Đảng bộ Quảng Trị”; “Lịch sử quan hệ hữu
nghị đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam” của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng
Trị và Luận văn Cao học “Quan hệ hợp tác Quảng Trị (Việt Nam) - Savannakhet

(Lào) từ 1986 đến 2008” của Vũ Thị Thu Trường Đại học Vinh đã đề cập đến quan
hệ song phương giữa một số tỉnh thuộc hai bên.
Như vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện,
có hệ thống cơ sở, thực trạng, những thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm của
quan hệ hợp tác giữa tỉnh Savannakhet, Salavan với Quảng Trị trong giai đoạn từ
năm 1989 đến năm 2014.

7


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận văn tập trung phân tích cơ sở mối quan hệ gắn bó giữa hai tỉnh
Savannakhet, Salavan với Quảng Trị, đồng thời làm nổi bật những nội dung quan
trọng nhất, những khía cạnh sâu sắc nhất của quá trình hợp tác giữa hai bên từ năm
1989 đến năm 2014; trên cơ sở những thành tựu và hạn chế của quan hệ hợp tác
giữa ba tỉnh, luận văn rút ra một số bài học kinh nghiệm nhằm góp phần tăng cường
quan hệ giữa ba tỉnh cũng như hai nước trong các giai đoạn tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ
Để làm sáng tỏ mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ
cụ thể sau đây:
- Phân tích cơ sở của quan hệ hợp tác giữa tỉnh Savannakhet, Salavan với
Quảng Trị.
- Hệ thống hóa thực trạng quan hệ giữa ba tỉnh trên các lĩnh vực chủ yếu:
Chính trị, an ninh - quốc phòng, kinh tế, văn hóa, giáo dục - đào tạo và một số lĩnh
vực khác từ năm 1989 đến 2014.
- Trên cơ sở bức tranh toàn diện, hệ thống về quan hệ hợp tác giữa tỉnh
Savannakhet và Salavan với tỉnh Quảng Trị (1989 - 2014) đánh giá những thành
tựu, hạn chế, đặc điểm, triển vọng và rút ra những bài học kinh nghiệm của quan hệ
giữa ba tỉnh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiêm cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan hệ hợp tác toàn diện giữa tỉnh
Savannakhet, Salavan của Lào với tỉnh Quảng Trị từ năm 1989 đến năm 2014.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu từ năm 1989 đến năm 2014 (năm
1989 là mốc đánh dấu tỉnh Quảng Trị bắt đầu được tách ra từ tỉnh Bình Trị Thiên).
Tuy nhiên, để có tính hệ thống luận văn cũng đề cập giai đoạn trước năm 1989, bao
gồm thời kỳ từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập (1930) đến năm 1945,
thời kỳ hai dân tộc cùng chống kẻ thù chung là Pháp và Mỹ (1945 - 1975) và thời
kỳ hợp tác giữa hai tỉnh Savannakhet, Salavan và tỉnh Bình Trị Thiên (1976 - 1989).

8


Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu hai tỉnh của Lào là
Savannakhet, Salavan và tỉnh Quảng Trị của Việt Nam (đây là các tỉnh thuộc hai
bên của hai nước có chung 206 km đường biên giới)
5. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận: Luận văn dựa vào quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Nhân dân cách mạng
Lào, Đảng Cộng sản Việt Nam về đường lối đối ngoại, về quan hệ hữu nghị và hợp
tác toàn diện giữa hai nước trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước.
Các phương pháp cụ thể: Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và
phương pháp logic, kết hợp với một số phương pháp khác như: thống kê, so sánh,
phân tích, mô tả, tổng hợp, điền dã… để giải quyết các vấn đề liên quan đến nội
dung đề tài.
6. Nguồn tư liệu
Luận văn được thực hiện dựa vào nguồn tư liệu sau:
- Các bài phát biểu của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ hai nước Lào Việt Nam và các lãnh đạo địa phương.

- Các Văn bản của Đảng bộ chính quyền hai tỉnh Savannakhet, Salavan và tỉnh
Bình Trị Thiên (từ năm 1976 đến năm 1989), Quảng Trị (từ năm 1989 đến năm 2014).
- Các Hiệp ước, Hiệp định, Nghị định thư, Thỏa thuận hợp tác giữa nước
CHDCND Lào và nước CHXHCN Việt Nam và các Biên bản ghi nhớ, Biên bản hội
đàm, Biên bản làm việc giữa ba tỉnh từ năm 1989 đến năm 2014.
- Các số liệu, Báo cáo sơ kết, tổng kết công tác hợp tác với hai tỉnh Lào của
Tỉnh ủy, UBND, các Ban, Ngành địa phương của tỉnh Bình Trị Thiên (từ năm 1976
đến năm 1989) và Quảng Trị (từ năm 1989 đến năm 2014).
- Các sách, tạp chí, công trình chuyên khảo và một số luận án Tiến sĩ Lịch sử,
Luận văn Thạc sĩ về quan hệ Lào - Việt Nam và các địa phương ba tỉnh đã được
khảo cứu để góp phần giải quyết những nội dung của đề tài.
7. Đóng góp của luận văn
- Luận văn hệ thống hóa quan hệ giữa hai tỉnh Savannakhet, Salavan và tỉnh
Quảng Trị từ năm 1989 đến năm 2014.

9


- Từ việc nghiên cứu mối quan hệ giữa tỉnh Savannakhet và Salavan với tỉnh
Quảng Trị, luận văn đã đưa ra một số nhận xét, đánh giá từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm và một số định hướng có tính tham khảo cho quan hệ giữa tỉnh Savannakhet
và Salavan với tỉnh Quảng Trị trong giai đoạn mới.
- Kết quả nghiên cứu sẽ là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn
đề liên quan; đặc biệt giúp lãnh đạo tỉnh Quảng Trị trong việc hoạch định chính
sách đối ngoại về quan hệ hợp tác với nước CHDCND Lào nói chung và hai tỉnh
Savannakhet, Salavan nói riêng trong giai đoạn tiếp theo.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục; nội dung của luận
văn bao gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở quan hệ giữa tỉnh Savannakhet và Salavan với tỉnh Quảng

Trị (1989 - 2014)
Chương 2. Quan hệ giữa tỉnh Savannakhet và Salavan với tỉnh Quảng Trị
(1989 - 2014)
Chương 3. Một số nhận xét về quan hệ giữa tỉnh Savannakhet và Salavan với
tỉnh Quảng Trị (1989 - 2014)

10


NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ QUAN HỆ GIỮA TỈNH SAVANNAKHET VÀ SALAVAN
VỚI TỈNH QUẢNG TRỊ (1989 - 2014)
1.1. Cơ sở địa - chính trị, kinh tế, văn hóa
1.1.1. Cơ sở địa - chính trị, kinh tế
Các tỉnh Savannakhet, Salavan của Lào có vị trí liền kề với tỉnh Quảng Trị của
Việt Nam. Giữa ba tỉnh có chung 206 km đường biên giới và là những điểm nhấn
trên tuyến đường 9 xuyên Á.
Savannakhet là tỉnh thuộc miền Trung Lào, hình thành do sự kéo dài của sườn
phía Tây dãy Trường Sơn đến phía Đông sông Mê Kông, phía Bắc giáp tỉnh Khăm
Muộn, phía Nam giáp tỉnh Salavan, phía Đông giáp các tỉnh của Việt Nam (tỉnh
Quảng Trị và tỉnh Quảng Bình) và phía Tây giáp tỉnh Moukdahane (Vương quốc
Thái Lan). Tỉnh Savannakhet có 15 đơn vị hành chính cấp huyện, trung tâm của tỉnh
Savannakhet là thị xã Kaysone Phomvihane. Diện tích đất tự nhiên của tỉnh
Savannakhet rộng 21.774km2.
Phía Nam tỉnh Savannakhet là tỉnh Salavan. Tỉnh Salavan thuộc Nam Lào,
phía Đông giáp tỉnh Quảng Trị của Việt Nam (có chung 80 km đường biên giới).
Tỉnh Salavan có 8 huyện thị. Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh Salavan là
10.691km2, trong đó có 707.400 ha rừng tự nhiên.
Quảng Trị nằm trong vùng Bắc Trung Bộ của Việt Nam, là láng giềng gần gũi
với các tỉnh Savannakhet, Salavan của Lào.

Tỉnh Quảng Trị nằm ở tọa độ từ 16o18’ đến 17o10’ vĩ độ Bắc và từ 106o 28,55’
đến 107o 23,18’ kinh độ Đông, phía Bắc giáp với tỉnh Quảng Bình, phía Nam giáp với
tỉnh Thừa Thiên - Huế, phía Đông giáp biển Đông và phía Tây giáp hai tỉnh của Lào
Savannakhet, Salavan. Toàn tỉnh có 10 đơn vị hành chính bao gồm: 1 thành phố, 1 thị
xã và 8 huyện (1 huyện đảo Cồn Cỏ). Quảng Trị là một trong những tỉnh có địa hình
đa dạng, bị chia cắt bởi nhiều núi, đồi, sông, suối. Trong tổng số 5.120 km2 đất tự nhiên
của tỉnh, núi và trung du chiếm hơn 80% diện tích.
Không chỉ gần gũi về địa lý, ba tỉnh trên còn có một số điểm tương đồng về
điều kiện tự nhiên. Phần lớn diện tích đất tự nhiên của ba tỉnh là núi và trung du.

11


Núi và trung du chiếm hơn 2/3 diện tích hai tỉnh Savannakhet, Salavan và hơn 20%
diện tích đất tự nhiên của Quảng Trị. Ba tỉnh đều nằm trong vành đai khí hậu nhiệt
đới, có nhiệt độ trung bình hàng năm từ 20oC - 36oC và độ ẩm tương đối cao. Với
khí hậu nóng lắm, mưa nhiều kết hợp với địa hình đồi núi có độ dốc cao, hai bên có
điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp, nhưng đồng thời phải đối
mặt với thiên tai như hạn hán, bão, lụt và lũ quét… Các tỉnh Savannakhet, Salavan
và miền Tây Quảng Trị đều nằm trong dãy đất bazan, rất thuận lợi để phát triển các
loại cây công nghiệp dài ngày như cà phê, cao su, chè, hồ tiêu, đồng thời có nhiều
đồng cỏ để phát triển chăn nuôi gia súc.
Sự gần gũi về địa lý kết hợp với những điểm tương đồng về địa hình, khí hậu,
đất đai giữa ba tỉnh là tiền đề để nhân dân các tỉnh Savannakhet, Salavan và Quảng
Trị sớm xác lập mối quan hệ “láng giềng thân thiện” trong sản xuất, sinh hoạt tinh
thần cũng như trong các cuộc đấu tranh để bảo vệ quê hương, đất nước.
Các tỉnh Savannakhet, Salavan cũng như Quảng Trị là những tỉnh có vị trí địa chiến lược. Trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược của hai dân tộc, nhất là trong
hai cuộc kháng chiến chống pháp và Mỹ xâm lược, hai bên giữ vị trí hết sức quan trọng.
Savannakhet, Salavan là hai tỉnh có vị trí chiến lược trong các cuộc đấu tranh
bảo vệ nền độc lập của nhân dân Lào. Trong thời kỳ cổ trung đại, địa bàn hai tỉnh này

trở thành nơi tranh chấp quyết liệt giữa các thế lực phong kiến Lào, còn trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, nơi đây đã trở thành căn cứ địa cách mạng
vững chắc cho bộ đội Pathét Lào trong chiến dịch Trung Lào và Hạ Lào. Đường 9 là
huyết mạch giao thông quan trọng trong việc chi viện sức người, sức của cho chiến
trường miền Nam Việt Nam và chiến trường Lào, đồng thời là cửa ngõ phía Đông để
Lào thông thương đi lại với Việt Nam và các nước khác trên thế giới hiện nay.
Quảng Trị là vùng đất với diện tích không rộng và người không đông, Quảng
Trị đã giữ một vị trí địa lí chiến lược vô cùng quan trọng, là vùng địa đầu trọng yếu,
làm tiền đồn vững chắc cho đất nước. Trong thời kỳ phong kiến, Nguyễn Trãi coi:
“Quảng Trị là phên dậu thứ tư về phương Nam” [28, tr.5], nhà sử học Phan Huy
Chú đánh giá: “Miền đất này núi thì cao, biển thì rộng, thực là một nơi hiểm yếu
trời tự đặt” [17, tr.24]. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, Quảng Trị
trở thành hậu phương vững chắc đầu cầu tiếp viện cho các chiến trường trong nước
cũng như chiến trường Lào. Mặc cho mưa bom, bão đạn, quân và dân Quảng Trị đã
12


anh dũng chiến đấu, giữ vững mạch máu giao thông quan trọng để chi viện sức
người, sức của cho các chiến trường. Các địa danh như Đường 9, cảng quân sự
Đông Hà, căn cứ quân sự Dốc Miếu và hàng rào điện tử Mac Namara, địa đạo Vĩnh
Mốc, Thành Cổ… của tỉnh này đã đi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt
Nam như những địa danh huyền thoại.
Từ Quảng Trị có thể thông thương, đi lại với các tỉnh thành khác của Việt
Nam và các nước khác trên thế giới bằng đường bộ (Quốc lộ 1A và đường Hồ Chí
Minh), đường sắt (Đường sắt Bắc - Nam), đường thủy (cảng Cửa Việt). Với các
nước trong khu vực Đông Nam Á lục địa, nhất là với Lào, từ Quảng Trị có thể theo
đường 9, sang tỉnh Savannakhet qua cửa khẩu Quốc tế Lao Bảo - Đensavan, từ
đường 15B sang tỉnh Salavan qua cửa khẩu Quốc tế La Lay - La Lay và hàng chục
con đường mòn do nhân dân dọc hai bên biên giới tự mở. Mạng lưới giao thông nối
liền hai bên đã khắc phục hạn chế do địa hình tạo ra, góp phần tạo nên vị trí chiến

lược quan trọng cho cả ba tỉnh.
Không chỉ có vị trí địa - chiến lược, các tỉnh Savannakhet, Salavan và Quảng
Trị còn là những tỉnh có nhiều tiềm năng, thế mạnh để phát triển kinh tế.
Mặc dù núi và trung du chiếm phần lớn diện tích đất tự nhiên, không thuận
lợi trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp, nhưng các tỉnh Savannakhet,
Salavan lại có nguồn tài nguyên, khoáng sản rất phong phú và du lịch.
Các tỉnh Savannakhet, Salavan có những cánh rừng bạt ngàn với nhiều loại gỗ quí
có thể khai thác hàng triệu m3 gỗ/năm để phục vụ sản xuất, đời sống và xuất khẩu; có
nhiều loài động vật quí hiếm và nhiều loại dược liệu quí hiếm để chế biến đông dược.
Không chỉ giàu về tài nguyên rừng, hai tỉnh này còn có nguồn tài nguyên khoáng
sản rất phong phú. Các mỏ vàng, đồng là hai loại khoáng sản quý (huyện Vị Lạ Bu
Ly). Ngoài ra, còn có đất cao lanh, đá granit dồi dào để sản xuất vật liệu xây dựng.
Với hệ thống sông, suối ngắn và dốc của tỉnh Savannakhet, Salavan thường
gây ra lũ lụt, nhưng mặt khác lại tạo cho khu vực này tiềm năng để xây dựng các
công trình thủy điện. Thượng nguồn sông Mê Kông (Savannakhet) hay các con
sông Sê Bặng Phay, Sê Pôn, Sê Cham Phon… đều có các thác nước với độ dốc cao,
tạo điều kiện thích hợp cho việc lắp đặt các trạm bơm nước và các công trình thủy
điện để phục vụ sản xuất, đời sống.

13


Ngoài ra, còn phải kể tới tiềm năng phát triển du lịch tại hai tỉnh Savannakhet,
Salavan. Thạt In Hăng, thư viện cổ, Nhà đá, Rừng nguyên sinh Quốc gia
PhuSengHe, Xương khủng long có niên đại hơn 100 triệu năm và nhiều loại khác.
Nơi đây hàng năm đã thu hút hàng vạn khách du lịch trong và ngoài nước.
Cũng như các tỉnh Savannakhet, Salavan, Quảng Trị có tiềm năng để phát triển
nông, lâm nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng, khai khoáng và phát triển du lịch.
Tuy không có khoảng không gian rộng lớn như đồng bằng Bắc Bộ hay Nam
Bộ, nhưng vùng duyên hải Quảng Trị cũng có điều kiện thuận lợi để canh tác các

loại cây lương thực như lúa, ngô, khoai và nhiều loại cây công nghiệp ngắn ngày
như đậu, lạc, vừng. Còn khu vực miền Tây có điều kiện để phát triển các loại cây
công nghiệp dài ngày như cà phê, cao su, chè, hồ tiêu.
Với bờ biển dài 75 km, Quảng Trị có thế mạnh để phát triển ngành vận tải
biển, đánh bắt, nuôi trồng thủy sản, phát triển nghề muối và du lịch biển.
Nguồn khoáng sản của Quảng Trị đa dạng, nhiều mỏ có giá trị như: mỏ Sắt,
Titan ở huyện Vĩnh Linh, Cam Lộ; mỏ nước khoáng ở Tân Lâm, Đakrông…
Như vậy, những tiềm năng sẵn có của các tỉnh Savannakhet, Salavan cũng như
những thế mạnh của Quảng Trị là điều kiện thuận lợi để hai bên đẩy mạnh trong
lĩnh vực hợp tác kinh tế.
1.1.2. Cơ sở văn hóa
Mối quan hệ giữa tỉnh Savannakhet, Salavan với Quảng Trị không chỉ bắt
nguồn từ sự gần gũi về địa lý, những nét tương đồng về điều kiện tự nhiên và vị trí
chiến lược của mỗi tỉnh, mà còn xuất phát từ những điểm tương đồng về văn hóa.
Trên địa bàn các tỉnh Savannakhet, Salavan và Quảng Trị có nhiều tộc người
chung sống. Tuy khác nhau về nguồn gốc và lịch sử cư trú, nhưng thông qua lao
động sản xuất, trao đổi hàng hóa và sinh hoạt tinh thần, giữa các tộc người dần dần
đã có mối quan hệ gần gũi, thân thiết.
Các tỉnh Savannakhet, Salavan là địa bàn cư trú của người Lào Lùm (cư dân nói
tiếng Thái, chủ yếu sống ở vùng đồng bằng và ven sông suối), Lào Thơng (cư dân nói
tiếng Môn - Khơ Me, cư dân bản địa, chủ yếu sống ở vùng trung du) và Lào Xủng (cư
dân nói tiếng H’Mông - Dao, chủ yếu sống trên vùng núi cao). Theo số liệu điều tra,
tỉnh Savannakhet có 969.700 người (trong đó 72,85% người Lào Lùm, 19,63% người

14


Lào Thơng và 6,7% người Lào Xủng), tỉnh Salavan có 398.864 người ( trong đó người
Lào Lùm chiếm đa số). Ngoài ra, ở đây còn có một số kiều bào, chủ yếu là Việt kiều và
Hoa kiều. Quá trình định cư của các tộc người tại hai tỉnh này diễn ra không đồng nhất.

Người Lào Thơng là cư dân bản địa. Người Lào Lùm có mặt muộn hơn, từ khoảng thế
kỷ VIII đến thế kỷ XIII. Muộn hơn cả là người Lào Xủng có mặt vào khoảng cuối thế
kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX. Còn Việt Kiều và Hoa Kiều có mặt ở đây với nhiều lý
do và bằng nhiều con đường khác nhau.
Trong số 64 vạn người của tỉnh Quảng Trị, người Việt (Kinh) chiếm trên 90%
dân số. Cùng chung sống với người Việt có các tộc người Vân Kiều và một số dân tộc
khác như Hoa, Mường, Tày, Thái, Cà Tu… Người Việt chủ yếu định cư vùng đồng bằng
và ven biển, còn các tộc người thiểu số chủ yếu định cư ở vùng núi và trung du (thuộc
miền Tây Quảng Trị). Cũng giống như tại hai tỉnh Savannakhet, Salavan, quá trình định
cư của các tộc người ở tỉnh Quảng Trị diễn ra không đồng nhất. Trong khi người Việt,
chủ nhân của nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc, có mặt ở đây từ rất sớm, thì các tộc
người khác lại có mặt muộn hơn nhiều. Mặc dù vậy, thông qua lao động sản xuất, sinh
hoạt tinh thần và nhất là thông qua các cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung, các tộc
người ở hai bên này đã sớm đoàn kết gắn bó với nhau.
Trong số các tộc người cùng chung sống tại các tỉnh Savannakhet, Salavan và
Quảng Trị có một số tộc người cùng ngôn ngữ Môn, Khơ Me. Với yếu tố tương
đồng về tiếng nói cùng với việc bảo lưu những giá trị văn hóa truyền thống của các
tộc người Lào là sợi dây vô hình kết nối người Lào ở các tỉnh Savannakhet, Salavan
với người Vân Kiều ở tỉnh Quảng Trị.
Trong hoạt động kinh tế, hầu hết các tộc người của hai bên đều lấy nông
nghiệp làm ngành kinh tế chính. Dựa vào đặc điểm địa hình của mỗi bên người Lào
Lùm ở các tỉnh Savannakhet, Salavan và người Việt ở Quảng Trị chủ yếu canh tác
lúa nước. Từ rất sớm họ đã biết cày, bừa, hái và biết xây dựng hệ thống thủy lợi để
phục vụ tưới tiêu. Các tộc người thiểu số chủ yếu canh tác trên nương rẫy. Họ duy
trì khá lâu lối sống du canh du cư với phương thức hỏa canh là chính. Cùng với hoạt
động sản xuất nông nghiệp, các tộc người ở hai bên đã sớm phát triển một số ngành
thủ công như đan lát, mộc, rèn, quay tơ, dệt vải…
Về văn hóa vật chất, một số tộc người ở hai bên có nhiều nét tương đồng trong
kiến trúc xây dựng nhà cửa và trang phục (nhất là của nữ giới). Nhà sàn là loại hình
15



kiến trúc nhà cửa truyền thống của một số tộc người thiểu số ở ba tỉnh này. Các tộc
người ở hai tỉnh của Lào và người Vân Kiều ở Quảng Trị không chỉ có trang phục
giống nhau, mà ngay cả nghệ thuật trang trí trên sản phẩm dệt của họ cũng có nhiều
nét tương đồng. Phụ nữ hai bên có thói quen mặc váy có nhiều kiểu dáng. Có thể
nói, từ xa xưa hai nền văn hóa này đã có sự giao lưu và tiếp thu ảnh hưởng của nhau
một cách sâu sắc.
Trong lĩnh vực văn hóa tinh thần, cư dân các tỉnh Savannakhet, Salavan và
Quảng Trị có mối quan hệ khá bền chặt. Phong tục tập quán của các tộc người trong
các dịp lễ, tết hay cưới hỏi, ma chay, tục thờ cúng thần linh, ông bà, tổ tiên… vẫn
được bảo lưu các yếu tố truyền thống, đồng thời có sự tiếp thu và chịu ảnh hưởng
của các tộc người xung quanh. Ngay cả hiện nay, khi đường biên giới giữa hai nước
đã được hoạch định, cắm mốc Quốc giới, việc qua lại thăm thân giữa các tộc người
vẫn diễn ra khá phổ biến.
Tiếp thu và chịu ảnh hưởng về văn hóa tinh thần giữa các tộc người là qui luật tất
yếu nhằm làm giàu văn hóa dân tộc mình. Sự giao lưu và tiếp thu văn hóa giữa các tộc
người ở các tỉnh Savanakhet, Salavan và Quảng Trị chính là sợi dây vô hình kết nối họ
lại với nhau, giúp họ đoàn kết gắn bó cùng nhau trong lao động sản xuất, sinh hoạt cũng
như trong các cuộc đấu tranh để bảo vệ quê hương đất nước qua các thời kỳ lịch sử.
1.2. Quan hệ giữa tỉnh Savannakhet, Salavan với tỉnh Quảng Trị trong hai
cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc
1.2.1. Từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời đến năm 1945
Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp lần lượt tiến hành xâm lược Việt Nam,
Cămpuchia và Lào, lập ra Đông Dương thuộc Pháp. Từ đây, nhân dân ba nước
Đông Dương cùng chung một kẻ thù. Chính sách cai trị và bóc lột tàn bạo của thực
dân Pháp đã làm cho nhân dân Đông Dương bị bần cùng hóa nặng nề, kinh tế - xã
hội biến đổi sâu sắc, nhưng vô hình trung đã tạo điều kiện cho họ xích lại gần nhau.
Hòa trong phong trào chống xâm lược, giải phóng dân tộc của nhân dân Đông
Dương, mối quan hệ giữa nhân dân ba tỉnh Savannakhet, Salavan của Lào với

Quảng Trị của Việt Nam tiếp tục phát triển. Ngày 29 - 9 - 1885, Chiếu Cần Vương
lần thứ hai được phát ra, hưởng ứng Chiếu Cần Vương, một phong trào cứu nước
rầm rộ dấy lên từ Bắc đến Nam. Trên địa bàn Quảng Trị đã nổ ra nhiều cuộc khởi
nghĩa, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa do Trương Đình Hội, Nguyễn Tự Như đã lãnh
16


đạo nghĩa binh đánh Pháp ở đồng bằng Triệu Phong, ở Trạng Mè (Gio Linh), ở Đò
Lúc (Vĩnh Linh) và tấn công vào các đồn Đề Nhất (Khe Cây Giang), Đề Nhị (Khe
Chử), Đệ Tam (Bến Me) [1, tr. 85]. Sau khi cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng
(Hà Tĩnh) bị đàn áp, phong trào Cần Vương chấm dứt, các chí sĩ yêu nước trong cả
nước nói chung, ở Quảng Trị nói riêng đã liên minh với nhân dân các bộ tộc Lào
phối hợp chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược.
Bước sang thế kỷ XX, ngay từ những ngày đầu chống Pháp, đã xảy ra cuộc
phá ngục Lao Bảo (năm 1915), tù nhân Lao Bảo đã nổi dậy phá ngục, cướp khí giới
lấy thành, sau đó theo con đường Làng Con - Lao Bảo rút lên phía tây Bắc Sê Pôn,
rồi lập căn cứ trong bản Ta Cha thuộc tỉnh Savannakhet (Lào). Dựa vào rừng núi
hiểm trở trên vùng biên tiếp giáp, được sự giúp đỡ của nhân dân các bộ tộc Lào
trong vùng, nghĩa quân đã chiến đấu và chống cự lại kịch liệt khi giặc Pháp truy
kích đến nơi. Ngày 25 - 10, địch trên đường từ bản Ta Cha về bản Ta Soi
(Savannakhet) đã bị nghĩa quân chặn đánh. Nhưng sau đó do yếu thế nên nghĩa
quân phải rút trước sự truy lùng ác liệt của quân thù [33, tr.73].
Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời (1930), đã tạo ra bước ngoặt trong
lịch sử cách mạng ba nước Việt Nam, Lào và Cămpuchia. Cũng từ đây, mối quan hệ
giữa nhân dân các tỉnh Savannakhet, Salavan với tỉnh Quảng Trị càng thắt chặt hơn.
Đảng bộ Quảng Trị đã cử cán bộ sang Lào xây dựng cơ sở, thành lập chi bộ ở
Savannakhet và PakSe để hoạt động cách mạng [1, tr.40].
Ngày 15 - 8 - 1945, sau khi phát xít Nhật đầu hàng quân Đồng minh không điều
kiện, nhân dân Việt Nam đã chớp thời cơ, tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám
thắng lợi, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (2 - 9 - 1945). Cũng trong thời gian

này nhân dân Lào đã vùng lên khởi nghĩa. Ngày 12 - 10 - 1945, chính phủ Lào Ixala đã
tuyên bố độc lập. Trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Lào, các chiến sĩ cách
mạng người Việt Nam đang hoạt động trên đất Lào và một số bà con Việt kiều đã tích
cực tham gia, nhất là tại hai tỉnh Savannakhet và Salavan.
1.2.2. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ
- Thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp xâm lược, quân và dân tỉnh Quảng Trị
đã phối hợp với quân và dân tỉnh Savannkhet, Salavan chiến đấu cũng như tạo điều
kiện cho các đơn vị của Trung Lào gây dựng và phát triển phong trào cách mạng.
17


Sự phối hợp chiến đấu của quân và dân ba tỉnh diễn ra ngay sau khi Cách
mạng tháng Tám ở Việt Nam và Khởi nghĩa giành chính quyền ở Lào giành thắng
lợi. Trong lúc nhân dân ba tỉnh đang mừng thắng lợi của cách mạng, một số tàn
binh Pháp đã đánh chiếm vào các vị trí quan trọng trên các trục đường giao thông
nối liền giữa ba tỉnh, nhằm làm bàn đạp để tiến về phía Tây đường 9. Trước tình
hình đó, quân và dân tỉnh Quảng Trị đã phối hợp chặt chẽ với quân và dân hai tỉnh
Savannakhet, Salavan để chặn đánh địch. Trận tiến công địch ở Sê Pôn (11 - 1945),
đã diệt và bắt sống 53 tên, thu toàn bộ vũ khí. Sau đó, tiếp tục đánh địch ở Mường
Phìn, Phà Lan, Huội Cay, cầu Thà Khống. Chiến thắng Sê Pôn tiêu diệt được một
bộ phận lớn sinh lực địch, bước đầu đánh bại âm mưu “chiếm giữ hành lang Thái
Phiên - Thuận Hóa - Đông Hà - Lao Bảo - Savannakhet”, bám chặt đường 9 hòng
chiếm đóng Bình - Trị - Thiên, chia cắt Việt Nam làm đôi [1, tr.235]. Đây là những
hoạt động phối hợp đầu tiên, mở đầu cho quá trình đoàn kết chiến đấu giữa nhân
dân ba tỉnh trong cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp.
Năm 1946, Quảng Trị đã cử nhiều đội xung phong, lập các đơn vị liên quân
Việt - Lào sang xây dựng cơ sở kháng chiến tại tỉnh Savannakhet của Lào. Cuối
tháng 3 - 1947, thực dân Pháp cơ bản đã chiếm được Quảng Trị, thực hiện ý đồ nối
thông con đường chiến lược Đà Nẵng - Đông Hà - Savannakhet. Bộ tư lệnh Bắc

Trung bộ Pháp đóng ở Huế do tướng Lơbrit cầm đầu. Để thực hiện kế hoạch chúng
chia Bình - Trị - Thiên thành 3 phân khu. Phân khu Quảng Trị nơi có ngã ba đường
chiến lược quan trọng Việt - Lào đi qua được địch đặc biệt coi trọng.
Đến tháng 5 - 1948, khi Trung ương Đảng có chủ trương thành lập “đại đội
độc lập”, “tiểu đoàn tập trung” tỉnh Quảng Trị tiếp tục cử thêm nhiều đội vũ trang
sang hoạt động, gây dựng cơ sở tại vùng NậmXàLô (Savannakhet). Đây là địa bàn
đứng chân an toàn của Đảng bộ Đảng Cộng sản Đông Dương của tỉnh bạn Lào.
Cũng trong giai đoạn này, trên cơ sở huy động nhân lực và vật lực tại Bình - Trị Thiên, Ban cán sự Đảng và Trung đoàn Trung Lào được thành lập, đã nhanh chóng
trở thành lực lượng nòng cốt trong các cuộc chiến đấu trên chiến trường Lào.
Sau thắng lợi của chiến dịch Tây Bắc và Thượng Lào, Quân ủy Trung ương
Việt Nam quyết định với Pathét Lào mở chiến dịch Trung và Hạ Lào. Tỉnh Quảng
Trị được giao nhiệm vụ cung cấp một phần nhân lực, vật lực cho chiến dịch. Để

18


thực hiện kế hoạch, bộ đội địa phương và dân quân du kích Quảng Trị phối hợp với
Trung đoàn 18 đã phá tan âm mưu địch nối giao thông đường số 9 với chiến trường
nước bạn Lào, cô lập quân địch ở chiến trường. Với vị trí, tầm quan trọng của con
đường chiến lược số 9, tháng 1 - 1954, tỉnh Quảng Trị “chỉ đạo lực lượng vũ trang
đẩy mạnh hoạt động trên mặt trận đường 9 và sau lưng địch, phá sập 17 cầu, cống
từ Đông Hà đến Lao Bảo. Con đường huyết mạch chi viện cho chiến dịch Trung
Lào bị tê liệt dài ngày” [16, tr.112]. Những thắng lợi quan trọng ở Thà Khẹt, Khăm
He, Kha Ma, Sê Pôn… trong chiến dịch Trung và Hạ Lào có phần đóng góp lớn của
quân và dân Quảng Trị, Thừa Thiên.
Chiến dịch Trung và Hạ Lào thắng lợi, đã góp phần quan trọng làm phá sản kế
hoạch Nava, đưa cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 đi đến thắng lợi
cuối cùng bằng trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, buộc Pháp ký hiệp định
Giơnevơ, công nhận độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương.
- Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược (1954 - 1975)

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tỉnh Savannakhet, Salavan của
Lào và tỉnh Quảng Trị của Việt Nam tiếp tục phối hợp chặt chẽ trong lĩnh vực chính
trị - quân sự, đồng thời bước đầu hợp tác giúp đỡ lẫn nhau trong các lĩnh vực kinh
tế, văn hóa, nhất là giúp đỡ vùng giải phóng của Lào khôi phục kinh tế, văn hóa,
hàn gắn vết thương chiến tranh để ổn định sản xuất và đời sống cho nhân dân.
Mỹ nhận thức được vị trí quan trọng của các tỉnh Savannakhet, Salavan và
tỉnh Quảng Trị trên cục diện chiến trường Đông Dương, chúng đã chỉ đạo chính
quyền Sài Gòn và chính quyền Viêng Chăn tổ chức các hoạt động gián tiếp, biệt
kích quấy phá vùng giáp biên giữa ba tỉnh.
Song song với hoạt động quấy phá ở biên giới phía Tây tỉnh Quảng Trị, Mỹ
chỉ đạo phái cực hữu ở Lào tổ chức các đợt tấn công vào hai tỉnh tập kết của Pathét
Lào. Để làm thất bại âm mưu thâm độc của Mỹ, lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Trị
cử cán bộ quân sự sang Savannakhet, Salavan giúp các địa phương này phát động
phong trào quần chúng, xây dựng lực lượng vũ trang, mở rộng căn cứ địa, sẵn sàng
phối hợp khi thấy cần thiết.
Tháng 3 - 1961, hoạt động của địch trên tuyến biên giới có chiều hướng gia tăng.
Lực lượng vũ trang Quảng Trị phối hợp với lực lượng Pathét Lào truy quét bọn tề,

19


ngụy giúp bạn giải phóng Cánh đồng Chum. Cùng với công tác chuẩn bị phòng thủ,
sẵn sàng chiến đấu, lực lượng vũ trang Quảng Trị còn được Quân khu giao nhiệm vụ
giúp bạn chiến đấu trên tuyến đường 9. Tham gia chiến đấu có bộ đội địa phương, dân
quân du kích các huyện Hướng Hóa. Sau nhiều ngày chiến đấu, toàn bộ khu vực dọc
theo đường 9 từ biên giới Lào - Việt đến “Sê Pôn, Mường Phìn, Mường Pha Lan
(Savannakhet) đã được giải phóng” [16, tr.118].
Năm 1968, trong khi quân và dân miền Nam Việt Nam tiến hành cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy, thì trên chiến trường Lào, các tiểu đoàn bộ đội địa phương của tỉnh
đội Quảng Trị đã phối hợp với lực lượng vũ trang tỉnh Savannakhet, Salavan tấn công

các cứ điểm của huyện Sê Pôn, Mường Nòng, Sa Muồi. Những thắng lợi này góp phần
quan trọng làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ ở Lào.
Để cứu vãn tình hình tại Lào, Mỹ đã huy động lực lượng quân đội Sài Gòn
phối hợp với quân đội Viêng Chăn, có cố vấn Mỹ đi kèm mở cuộc hành quân “Lam
Sơn 719” đánh vào Đường 9 - Nam Lào. Với ảo tưởng của Mỹ là muốn cắt đứt
tuyến đường chiến lược chi viện cho cách mạng miền Nam, tạo ra sự thay đổi tương
quan trên chiến trường, giành lại thế mạnh trên bàn đàm phán để “xuống thang”
trong danh dự. Xác định tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của chiến dịch, Quân ủy
Trung ương đã quyết định mở chiến dịch phản công với tinh thần quyết chiến quyết
thắng. Lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Trị được giao nhiệm vụ phối hợp chiến đấu
trên trục đường 9, thuộc địa bàn tỉnh Savannakhet. Quân và dân tỉnh Quảng Trị
được giao nhiệm vụ phục vụ hậu cần cho chiến dịch. Với tinh thần quyết chiến
quyết thắng, các lực lượng tham gia chiến dịch đã khắc phục mọi khó khăn, gian
khổ, hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp phần vào chiến thắng Đường 9 - Nam
Lào, và tạo điều kiện để Trung ương quyết định mở cuộc tiến công chiến lược năm
1972 giải phóng tỉnh Quảng Trị. Cũng trong thời gian này, lực lượng vũ trang
Quảng Trị phối hợp với sư đoàn 968 quân tình nguyện Việt Nam trên đất Lào cùng
với lực lượng vũ trang tỉnh Salavan tiêu diệt địch, giải phóng tỉnh Salavan và toàn
bộ cao nguyên Bôlaven.
Trước tình thế không thể cứu vãn trên chiến trường Lào, sau khi buộc phải ký
Hiệp định Pari (ngày 27 - 1 - 1973), Mỹ đã phải chấp nhận ký Hiệp định Viêng
Chăn (ngày 2 - 2 - 1973).

20


Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử kết thúc thắng lợi (ngày 30 - 4 - 1975), miền
Nam Việt Nam hoàn toàn được giải phóng. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã
cổ vũ và tạo điều kiện cho cách mạng Lào đi đến giành thắng lợi cuối cùng. Chớp
thời cơ, Bộ chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã phát động toàn dân đứng

dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Trị đã khẩn
trương triển khai kế hoạch hỗ trợ các địa phương của Lào nổi dậy đập tan chính
quyền phản động, giành chính quyền về tay nhân dân. Thắng lợi của cuộc khởi
nghĩa giành chính quyền ở Lào đã mở đường cho sự ra đời của nước Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào (2 - 12 - 1975) và đưa nước Lào bước vào kỷ nguyên mới.
Song song với sự phối hợp chiến đấu trên các chiến trường, các tỉnh
Savannakhet, Salavan và Quảng Trị đã bước đầu hợp tác trong lĩnh vực khác, nhất
là hỗ trợ, giúp đỡ vùng giải phóng hai tỉnh của Lào khôi phục và phát triển kinh tế,
văn hóa và giáo dục.
Từ năm 1960 đến năm 1965, mặc dù đang ra sức phấn đấu cùng nhân dân
miền Bắc thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) và làm hậu phương
cho chiến trường miền Nam Việt Nam, tỉnh Quảng Trị vẫn ưu tiên giúp vùng giải
phóng của Lào. Tỉnh Quảng Trị viện trợ cho vùng mới giải phóng của Lào một số
mặt hàng thiết yếu như “muối, vải và một số nông cụ trong sản xuất” [16, tr.119].
Năm 1973, sau khi được Đảng, Nhà nước và Chính phủ hai nước nhất trí, tỉnh
Savannakhet và tỉnh Quảng Trị kết nghĩa anh em. Tỉnh Quảng Trị đã tích cực triển
khai nhiều chương trình, kế hoạch giúp vùng giải phóng tỉnh Savannakhet ổn định
đời sống nhân dân và phát triển sản xuất.
Trong những năm 1973 đến 1975, quan hệ kinh tế, văn hóa, giáo dục giữa hai
tỉnh Savannakhet với Quảng Trị ngày càng được tăng cường. Tỉnh Quảng Trị đã cử
đoàn chuyên gia gồm 9 người sang giúp nhân dân tỉnh Savannakhet ổn định sản
xuất và đời sống [14]. Cũng trong giai đoạn này, tỉnh Quảng Trị đã giúp tỉnh của
Lào đưa hàng trăm học sinh, cán bộ ra miền Bắc học tập. Dù chưa thể đáp ứng được
yêu cầu về giáo dục - đào tạo, nhưng tỉnh Quảng Trị đã góp phần quan trọng giúp
Savannakhet của Lào kịp thời giải quyết tình trạng thiếu hụt cán bộ quản lý và cán
bộ chuyên môn cho vùng giải phóng.
Sự phối hợp chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên chiến trường cũng như sự
hợp tác, giúp đỡ về kinh tế, văn hóa - giáo dục của Quảng Trị giành cho
Savnanakhet của Lào trong những năm chiến tranh là sự tiếp nối truyền thống đoàn
21



×