Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Quan hệ an ninh quốc phòng giữa liên bang nga và việt nam giai đoạn 2001 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.44 KB, 55 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

BÙI THANH PHÙNG

QUAN HỆ AN NINH – QUỐC PHÒNG GIỮA LIÊN BANG NGA VÀ
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 - 2015

Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 60 22 03 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ SỬ HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. BÙI THỊ THẢO

Thừa Thiên Huế, năm 2016

i


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
và kết quả nghiên cứu trên nêu trong luận văn là trung thực, được các đồng tác
giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình
nào khác.

Thừa Thiên Huế, tháng 10 năm 2016
Tác giả luận văn


Bùi Thanh Phùng

ii


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu thực hiện đề tài:“Quan hệ an ninh –
quốc phòng giữa Liên bang Nga và Việt Nam giai đoạn 2001 - 2015”, tôi đã
hoàn thành luận văn dưới sự hướng dẫn trực tiếp của TS. Bùi Thị Thảo - Khoa
Lịch sử, Trường Đại học Sư Phạm Huế. Tôi đã được sự giúp đỡ tận tình của
các Thầy Cô giáo trong Tổ bộ môn Lịch sử thế giới và toàn thể các Thầy Cô
giáo của Khoa Sử, Trường Đại học Sư phạm và Trường Đại học Khoa học Đại học Huế. Ngoài ra, tôi còn nhận được sự giúp đỡ, ủng hộ nhiệt tình của
các Thầy Cô giáo trong Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau Đại học, Trung
tâm Thông tin Thư viện Trường Đại học Sư phạm Huế.
Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành nhất đến TS.
Bùi Thị Thảo về sự hướng dẫn tận tình và đầy tâm huyết trong suốt quá trình
tôi hoàn thành luận văn, đồng thời đã bổ sung cho tôi nhiều kiến thức chuyên
môn và kinh nghiệm quý báu trong nghiên cứu khoa học.
Tôi chân thành gửi lời cảm ơn đến các anh chị đồng nghiệp, bạn bè Lớp
Cao học Lịch sử Thế giới Khóa XXIII đã động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện
thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thừa Thiên Huế, tháng 10 năm 2016
Tác giả luận văn

Bùi Thanh Phùng

iii



MỤC LỤC
Phụ bìa.....................................................................................................................i
Lời cam đoan ........................................................................................................ ii
Lời cảm ơn ........................................................................................................... iii
Mục lục...................................................................................................................1
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt .......................................................................4
Danh mục các bảng................................................................................................5
Danh mục các sơ đồ, đồ thị ...................................................................................6
MỞ ĐẦU ...............................................................................................................7

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tình hình an ninh thế giới và khu vực châu Á - Thái Bình Dương,
Đông Nam Á ngày càng diễn biến phức tạp, chủ nghĩa khủng bố, xung đột sắc tộc,
tôn giáo và những thách thức an ninh mới đang ngày càng gia tăng, đe dọa trực
tiếp tới đời sống an ninh của không chỉ một quốc gia, một khu vực. Theo đó, hợp
tác an ninh – quốc phòng đã và đang trở thành nhu cầu tất yếu của mọi quốc gia,
dân tộc. Do vậy, nghiên cứu về quan hệ an ninh – quốc phòng giữa Liên bang Nga
và Việt Nam không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Hợp tác an ninh – quốc phòng là một trong những nội dung quan trọng hàng
đầu trong quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai quốc gia Liên Xô trước đây và
Liên bang Nga ngày nay với Việt Nam. Tuy cách xa nhau về vị trí địa lý, song hai
dân tộc đã thiết lập mối quan hệ lâu dài và vững chắc. Nhìn lại lịch sử, Liên Xô là
một trong những nước đầu tiên trên thế giới công nhận về mặt ngoại giao nền độc
lập của Việt Nam và trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam, Liên
Xô là một đồng minh quan trọng, đã ủng hộ và có nhiều giúp đỡ to lớn trong
nhiều lĩnh vực, góp phần quan trọng để đưa đến thắng lợi của nhân dân Việt Nam.

Từ sau khi hai nước thiết lập cơ chế quan hệ “Đối tác chiến lược” (2001),
hợp tác trên nhiều lĩnh vực không ngừng được chú trọng phát triển, trong đó, lĩnh
vực an ninh – quốc phòng là một nội dung đặc biệt quan trọng do Quân đội nhân
dân Việt Nam được trang bị vũ khí, kỹ thuật chủ yếu là từ Liên bang Xô – Viết
trước đây, nên đây là điều kiện hết sức thuận lợi để hai nước tiếp tục mở rộng,
nâng cao hiệu quả hợp tác trong lĩnh vực này.
Về mặt khoa học, mặc dù quan hệ Liên bang Nga – Việt Nam sau Chiến
tranh lạnh là một đề tài không mới, song nghiên cứu quan hệ hai nước trên lĩnh
vực an ninh – quốc phòng, nhất là trong giai đoạn đầu thế kỷ XXI, vẫn chưa được
chú ý đúng mức. Vì vậy, nghiên cứu quan hệ an ninh – quốc phòng giữa Liên
5


bang Nga và Việt Nam giai đoạn 2001 – 2015 sẽ góp phần cung cấp nguồn tài liệu
cập nhật về vấn đề này. Ngoài ra, đề tài còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc bởi qua
đây góp phần khẳng định sự hợp tác cũng như các thế mạnh của hai bên, và bước
đầu đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn để quan hệ hai nước
phát triển đi lên trong tương lai.
Trên thực tế, đã có một số công trình nghiên cứu về một khía cạnh và một
khoảng thời gian nhất định chứ chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách
toàn diện về mối quan hệ giữa hai nước trên lĩnh vực an ninh – quốc phòng giai
đoạn 2001-2015.
Xuất phát từ những lý do mang tính thực tiễn và khoa học trong nghiên cứu
lịch sử quan hệ, được sự đồng thuận của giảng viên hướng dẫn – TS Bùi Thị
Thảo, chúng tôi đã lựa chọn vấn đề “Quan hệ an ninh quốc phòng giữa Liên
Bang Nga và Việt Nam trong giai đoạn 2001-2015 làm đề tài cho luận văn Thạc sĩ
chuyên ngành Lịch sử thế giới.
2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Quan hệ Liên Xô - Việt Nam (1950 - 1991) và quan hệ Liên bang Nga -

Việt Nam hiện nay là một trong những mối quan hệ có truyền thống hợp tác đặc
biệt. Do đó, nghiên cứu mối quan hệ này từ lâu đã trở thành mối quan tâm của
không ít người, nhất là các nhà sử học, các nhà kinh tế, các nhà chính trị và ngoại
giao với nhiều công trình có quy mô, nội dung nghiên cứu đa dạng. Có thể điểm
qua một số công trình tiêu biểu viết về quan hệ Liên bang Nga - Việt Nam đã
được công bố dưới đây.
Nhóm các công trình nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Liên bang Nga và
quan hệ Liên bang Nga – Việt Nam nói chung.
Sách “Quan hệ Việt - Nga trong bối cảnh quốc tế mới” của tác giả Võ Đại
Lược – Lê Bộ Lĩnh, Nhà xuất bản Thế giới, 2005. Với công trình này, hai tác giả
đã đi sâu tìm hiểu, phân tích quan hệ giữa Việt Nam và Liên bang Nga trên nhiều
lĩnh vực dưới tác động của bối cảnh thế giới và khu vực sau Chiến tranh lạnh
6


nhưng tập trung nhất vẫn là lĩnh vực kinh tế. Ngoài ra, các tác giả cũng đã nêu ra
triển vọng và một số biện pháp thúc đẩy mối quan hệ trong thời gian kế tiếp.
Viết về quan hệ Nga – Việt theo lĩnh vực còn có tác phẩm “Quan hệ kinh tế
Việt Nam - Liên Bang Nga, hiện trạng và triển vọng” của tác giả Bùi Huy Khoát,
Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1995; “Thị trường Nga và các doanh
nghiệp Việt Nam” của cùng tác giả (Bùi Huy Khoát), Hà Nội, 1994. Cụm công
trình này đã tập trung nghiên cứu thực trạng quan hệ Việt – Nga trên lĩnh vực kinh
tế.
Ngoài ra, các đầu sách khác như “Hợp tác chiến lược Việt – Nga, những
quan điểm, thực trạng và triển vọng” của tác giả Vũ Đình Hòe, Nguyễn Hoàng
Giáp (2008); “Quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại Việt Nam hiện nay” của
các tác giả Trình Mưu, Nguyễn Hoàng Giáp (2007)... Các công trình nghiên cứu
này về cơ bản, phản ánh mối quan hệ hợp tác giữa Liên bang Nga và Việt Nam,

nhưng rất hạn chế đề cập đến quan hệ hợp tác giữa hai quốc gia trên lĩnh vực an
ninh - quốc phòng trong giai đoạn 2001- 2015.
Nhiều bài viết được công bố trên tạp chí Nghiên cứu châu Âu cũng phần
nào phản ánh quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga trên các lĩnh vực. Tiêu biểu là
công trình nghiên cứu “Triển vọng phát triển quan hệ hợp tác Việt Nam - Liên
Bang Nga, những nhân tố tác động” của TS. Nguyễn Hồng Nhung (số 3/2004).
Công trình này đã đề cập các nhân tố tác động đến sự phát triển quan hệ Việt –
Nga đồng thời cũng tập trung làm rõ các nhân tố kìm hãm sự phát triển quan hệ
Việt Nam - Liên Bang Nga trong thập niên đầu thế kỷ XXI.
Bài “Quan hệ song phương Việt - Nga: thực trạng và triển vọng” của Ths.
Phạm Quỳnh Hương (số 1/2010). Công trình đã cho thấy cơ sở pháp lý để phát
triển mối quan hệ thương mại trong giai đoạn mới và thực trạng của quan hệ
thương mại giữa hai nước. Cuối cùng, tác giả cũng đã nêu ra những triển vọng
phát triển mối quan hệ giữa hai nước trong lĩnh vực thương mại song phương.

7


Bên cạnh đó còn có “Tiềm năng hợp tác giữa Việt Nam và Liên bang Nga
là rất lớn và cần khai thác triệt để”, A. Tatarinop (số 2/2003)…
Ngoài ra còn có nhiều bài viết có nội dung liên quan được đăng trên các
báo, tạp chí như: Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, Tạp chí Nghiên cứu Châu Á Thái Bình Dương, các bài nghiên cứu trên các báo có uy tín như Nhân dân, Quân
đội nhân dân,…
Nhìn chung, các công trình tìm hiểu về mối quan hệ giữa hai nước có tương
đối nhiều, song chủ yếu nghiên cứu ở giai đoạn trước thế kỷ XXI và có tính chất
bao quát; đa số các công trình được tác giả tiếp cận chủ yếu nghiên cứu quan hệ
Liên bang Nga – Việt Nam trên lĩnh vực kinh tế và không nghiên cứu trực tiếp
trên lĩnh vực an ninh - quốc phòng.
Nhóm các công trình nghiên cứu có nội dung liên quan đến quan hệ Liên bang
Nga – Việt Nam trên lĩnh vực an ninh – quốc phòng:

Các bài viết như “Quan hệ hợp tác quốc phòng Việt - Nga hiện nay và triển
vọng” của Nguyễn Kim Lân trên tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 6/2006; bài
“Thực trạng và triển vọng quan hệ đối tác chiến lược Việt – Nga” của PGS.TS.
Vũ Dương Huân (VNH3.TB17.736, trên website của Viện Nghiên cứu chiến lược
Thành phố Hồ Chí Minh)... đều đã trình bày và nhận đinh về mối quan hệ hợp tác
quốc phòng giữa hai quốc gia nhưng không nằm trong phạm vi thời gian nghiên
cứu của Luận văn.
Đáng lưu ý là các tác phẩm của những nhà lãnh đaọ nước Nga, được xuất
bản thành sách trên cơ sở tập hợp các bài diễn văn, các Thông điệp Liên bang
hoặc các bài phát biểu tại lễ nhậm chức…của tổng thống có trình bày về định
hướng, giải pháp phát triển đất nước, trong đó có chính sách quốc phòng - an ninh
của nước Nga. Tiêu biểu trong số đó có tác phẩm “Nước Nga và thế giới đang
thay đổi” (2012) của Vladimia Putin, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia; tác phẩm
“Medvedev Nhikolai và Marina Svanhidze” (2009) của Dmitry Medveded (bản
dịch của Tạ Tường Vy). Tuy không phân tích quan hệ Nga – Việt trên lĩnh vực an
8


ninh - quốc phòng, song các tác phẩm này đã trình bày những định hướng chính
sách quốc phòng cơ bản của nước Nga, làm cơ sở để đi sâu nghiên cứu quan hệ
của cường quốc này với các đối tác, bao gồm Việt Nam trên lĩnh vực an ninh –
quốc phòng.
Mối quan hệ an ninh - quốc phòng giữa Liên bang Nga và Việt Nam cũng
được đề cập hoặc nghiên cứu ở mức độ nhất định trong một số Luận văn Thạc sỹ
như :


Quan hệ Nga – Việt dưới thời Tổng thống Dmitry Medvedev, An Thị
Ngọc Bích, Luận văn Thạc sỹ, 2012.




Quan hệ đối tác chiến lược Việt – Nga: Thực trạng và triển vọng, Bùi
Thị Thúy Nga, Luận văn Thạc sỹ, 2009.



Quan hệ Nga – Đông Nam Á đầu thế kỷ XXI, Nguyễn Thị Phương Hoa,
Luận văn Thạc sỹ, 2007.



Chính sách đối ngoại của Liên Bang Nga đối với khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương từ đầu thế kỷ XXI đến nay, Lê Đức Trung, Luận văn Thạc sỹ,
2014.



Chiến lược an ninh quốc phòng Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nguyễn
Thị Thanh Thùy, 2014.



Đối ngoại quốc phòng Việt Nam trong thời kỳ mới, Hoàng Thị Thêm,
Luận văn Thạc sỹ, 2014.
Tuy nhiên, các công trình kể trên vẫn chủ yếu tập trung nghiên cứu quan hệ

Nga – Việt một cách tổng thể hoặc nghiên cứu về chính sách an ninh - quốc phòng
của Việt Nam và chưa đi sâu phân tích quan hệ hai nước trên lĩnh vực an ninh quốc phòng, đặc biệt là trong giai đoạn luận văn nghiên cứu (2001 - 2015).
Như vậy, qua những công trình nghiên cứu và tài liệu tiếp cận được, chúng

tôi khẳng định rằng: Quan hệ an ninh - quốc phòng giữa Liên bang Nga và Việt
Nam giai đoạn 2001-2015 chưa được nghiên cứu có tính chất chuyên sâu, toàn
diện trong bất cứ công trình nghiên cứu khoa học chính thống nào. Do vậy, việc
9


tìm hiểu về mối quan hệ giữa hai quốc gia về lĩnh vực này trong những thập niên
đầu thế kỷ XXI là một vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa khoa học quan trọng và góp
phần thúc đẩy sự phát triển của mối quan hệ đối tác chiến lược giữa Liên bang
Nga và Việt Nam.
3.

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

3.1.

Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm trình bày và phân tích một cách hệ
thống về tiến trình và kết quả quan hệ an ninh – quốc phòng giữa Liên bang Nga
và Việt Nam giai đoạn 2001 – 2015. Từ đó, rút ra một số nhận xét, đánh giá và
đưa ra những dự báo bước đầu về xu hướng vận động của mối quan hệ an ninh –
quốc phòng giữa hai quốc gia trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện mục tiêu trên đây, chúng tôi tập trung giải quyết các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Trình bày và phân tích những cơ sở của quan hệ an ninh – quốc phòng giữa
Liên bang Nga và Việt Nam giai đoạn 2001 – 2015.
- Phân tích những nội dung chủ yếu trong quan hệ an ninh - quốc phòng Liên
bang Nga – Việt Nam giai đoạn 2001-2015.

- Rút ra một số nhận xét về quan hệ Nga – Việt trên lĩnh vực an ninh – quốc
phòng giai đoạn 2001 - 2015, đồng thời đưa ra dự báo bước đầu về xu
hướng phát triển của quan hệ hai nước trong thời gian tới
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là mối quan hệ Liên bang Nga - Việt Nam trên
lĩnh vực an ninh - quốc phòng giai đoạn 2001 - 2015
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Về mặt không gian: Luận văn tập trung tìm hiểu, nghiên cứu về hai chủ
thể là Liên bang Nga và Việt Nam đặt trong mối quan hệ của bối cảnh quốc tế và
10


tình hình khu vực châu Âu và châu Á – Thái Bình Dương giai đoạn 2001 – 2015
trên lĩnh vực an ninh - quốc phòng.
Về mặt thời gian: Luận văn tập trung khai thác và nghiên cứu mối quan hệ
an ninh – quốc phòng Liên bang Nga – Việt Nam trong khoảng thời gian từ 2001
đến 2015.
Năm 2001 là mốc thời gian đánh dấu quan hệ Liên bang Nga – Việt Nam
được nâng lên mức cao hơn khi hai nước ký Tuyên bố chung về quan hệ đối tác
chiến lược nhân chuyến thăm của Tổng thống V.Pu-tin, chuyến thăm Việt Nam
đầu tiên của một vị nguyên thủ quốc gia Nga.
Chúng tôi chọn năm 2015 làm mốc kết thúc thời gian nghiên cứu, bởi đây là
năm kỷ niệm 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (Liên bang Nga và Việt Nam),

mang lại một luồng sinh khí mới cho sự phát triển quan hệ song phương của hai
nước trong thời gian tới.
Tuy nghiên cứu trên khoảng thời gian nói trên nhưng để đảm bảo tính lịch
sử và tính lôgic, luận văn cũng dành một dung lượng nhất định để đề cập đến mối
quan hệ an ninh - quốc phòng Liên bang Nga - Việt Nam giai đoạn trước năm
2001 nhằm thấy được bước phát triển của mối quan hệ này trong gần hai thập niên
đầu thế kỷ XXI.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phƣơng pháp luận
Trong quá trình nghiên cứu, Luận văn quán triệt phương pháp luận nghiên
cứu về quan hệ hợp tác của hai Đảng, hai Nhà nước theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về quan hệ quốc tế.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Là đề tài nghiên cứu quan hệ quốc tế dước góc độ Sử học nên phương pháp
chủ đạo được tác giả sử dụng trong Luận văn là phương pháp lịch sử và phương
pháp logic cùng sự kết hợp giữa chúng. Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu,
11


tác giả đã kết hợp sử dụng các phương pháp khoa học liên ngành như phân tích,
tổng hợp, thống kê, dự báo khoa học..phù hợp với từng nội dung nghiên cứu.
6. Đóng góp của Luận văn
Ngày nay, mối quan hệ Liên bang Nga – Việt Nam đã phát triển cả về bề
rộng lẫn bề sâu. Do vậy, đề tài nghiên cứu mối quan hệ an - ninh quốc phòng giữa
hai nước không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
6.1. Đóng góp về mặt khoa học
Trên cơ sở hệ thống hóa các công trình đã nghiên cứu về quan hệ hợp tác
giữa hai quốc gia, kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần tái hiện một cách
có hệ thống bức tranh toàn cảnh của tiến trình quan hệ an ninh - quốc phòng giữa

Liên bang Nga và Việt Nam giai đoạn 2001 – 2015. Nghiên cứu vấn đề quan hệ
an ninh- quốc phòng song phương giai đoạn này và có sự so sánh với giai đoạn
trước, Luận văn sẽ tạo ra điểm mới, nhằm tăng tính khoa học của công trình
nghiên cứu quan hệ quốc tế nói chung, quan hệ an ninh - quốc phòng Liên Bang
Nga - Việt Nam nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Từ những kết quả đạt được, Luận văn bước đầu đưa ra những nhận xét,
đánh giá độc lập về những thành tựu và hạn chế ở cả hai phía, những vấn đề
đặt ra và giải pháp khắc phục nhằm góp phần đưa quan hệ Việt Nam - Liên
bang Nga phát triển theo chiều hướng đi lên .
- Luận văn cũng đưa ra những nhận định về triển vọng hợp tác và dự báo xu
thế vận động của mối quan hệ này trong những năm tới, góp phần cung cấp
những hàm ý xác đáng cho các nhà hoạch định chính sách. Bên cạnh đó,
đây là nguồn tài liệu tham khảo có ý nghĩa cho những bạn đọc quan tâm về
vấn đề này , đồng thời phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, nhất là những
vấn đề có liên quan đến an ninh – quốc phòng giữa Liên bang Nga và Việt
Nam đầu thế kỷ XXI.

12


7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của
Luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở của mối quan hệ an ninh – quốc phòng Liên bang Nga –
Việt Nam giai đoạn 2001- 2015.
Chương 2: Những nội dung chủ yếu trong quan hệ an ninh – quốc phòng
giữa Liên Bang Nga và Việt Nam giai đoạn 2001 - 2015.
Chương 3: Một số nhận xét về quan hệ an ninh - quốc phòng Liên bang Nga
- Việt Nam giai đoạn 2001 - 2015.

8. Nguồn tƣ liệu
Để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu của đề tài, chúng tôi khai thác và sử
dụng các nguồn tư liệu chủ yếu sau đây:
- Các tư liệu về chính sách đối ngoại và chính sách an ninh – quốc phòng của
Liên bang Nga và Việt Nam từ sau Chiến tranh lạnh đến nay, các Văn kiện
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Các tuyên bố chung, các bài phát biểu, các bản tuyên bố thể hiện đường lối
lãnh đạo của hai nước Liên bang Nga và Việt Nam, các tài liệu tham khảo
của Thông tấn xã Việt Nam, những hiệp định, các văn bản ký kết hợp tác
trên lĩnh vực an ninh - quốc phòng giữa hai quốc gia.
- Các sách chuyên khảo về lịch sử Liên bang Nga, lịch sử quan hệ quốc tế,
các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành có nội dung liên
quan trực tiếp đến đề tài.
- Một số luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ trong chừng mực nhất định có liên
quan đến đề tài.
- Các website chính thức của Chính phủ Liên Bang Nga, Chính phủ Việt
Nam và các Bộ, ban, ngành có liên quan của hai nước như: Bộ Ngoại giao,
Bộ Quốc phòng...
13


NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ MỐI QUAN HỆ AN NINH – QUỐC PHÒNG LIÊN BANG NGA –
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 – 2015
1.1.

Khái quát về quan hệ an ninh – quốc phòng Liên bang Nga – Việt Nam
giai đoạn 1991 – 2000.
Ngày 30/1/1950, Chính phủ Liên Xô đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt


Nam, trở thành một trong những nước đầu tiên trên thế giới công nhận về mặt
ngoại giao nền độc lập của Việt Nam, đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển
quan hệ mọi mặt giữa hai nước về sau này. Trong chiến tranh giải phóng dân tộc
của Việt Nam, Liên Xô đã ủng hộ, giúp đỡ rất to lớn cả về tinh thần và vật chất,
đặc biệt là lĩnh vực quốc phòng và vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự, góp phần
quan trọng để nhân dân Việt Nam chiến đấu và đánh thắng thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.
Từ năm 1991 trở đi, dưới tác động của bối cảnh thế giới sau Chiến tranh
lạnh và tình hình thực tiễn của Liên bang Nga sau khi Liên Xô tan rã (1991), Nga
theo đuổi chính sách đối ngoại mới với nhiều điều chỉnh. Theo đó, chính sách đối
ngoại của Liên Nga giai đoạn này (1991 – 2000) trải qua hai giai đoạn chủ yếu:
1991 – 1993 (với Định hướng Đối ngoại Đại Tây Dương) và 1994 – 2000 (với
Định hướng Đối ngoại Cân bằng Đông – Tây). Do vậy, quan hệ giữa Nga với Việt
Nam cũng bị tác động trực tiếp, sâu sắc.
Từ 1991 – 1993: chính sách đối với Việt Nam bị “bỏ ngỏ”, quan hệ Nga –
Việt rơi vào tình trạng “đóng băng” [B.Thảo, tr.240]. Theo đó, trên lĩnh vực an
ninh – quốc phòng, Nga “xúc tiến giảm sự hiện diện quân sự tại Việt Nam, rút các
lực lượng quân sự, đội ngũ chuyên gia kỹ thuật trên nhiều lĩnh vực về nước. Định
hướng đối ngoại hướng Tây và sự suy yếu đáng kể sức mạnh quân sự khiến Nga

14


quyết định triệt thoái hầu như toàn bộ lực lượng quân sự tại vịnh Cam Ranh”
[B.Thảo, tr.242].
Từ 1994 - 2000: xuất phát từ chính sách đối ngoại mới, nước Nga chú trọng
hơn trong quan hệ với nước nước phương Đông. Trong quan hệ với Việt Nam,
Nga xác định lại cơ sở quan hệ mới . Tháng 6-1994, trong chuyến thăm Liên bang
Nga của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, hai nước đã nhất trí thống qua “Hiệp ước về

những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ hữu nghị giưa Liên bang Nga và Việt
Nam” làm cơ sở pháp lý cho quan hệ hai nước. Theo đó, Nga và Việt Nam nối lại
các liên kết đã bị bỏ dỡ trước đó. Lĩnh vực an ninh – quốc phòng cũng được hai
nước thúc đẩy.
Trên cơ sở khẳng định sẽ tiếp tục phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác
giữa Việt Nam và Nga, coi đó là một yếu tố không thể tách rời của nền an ninh, ổn
định và sự tiến bộ ở Đông Nam Á, Nga và Việt Nam đều nhất trí đặc biệt coi trọng
sự phối hợp hành động có hiệu quả trong khuôn khổ cuộc đối thoại của Nga với
các nước ASEAN, mà Việt Nam là điều phối viên (1998). Trong Tuyên bố chung
của hai nước nhân chuyến thăm của Chủ tịch nước Trần Đức Lương đến Nga (258-1998), sau cuộc hội đàm với Tổng thống Liên bang Nga B.N. En-xin tại Mátxcơ-va, Nga và Việt Nam đã thảo luận cụ thể về tình hình và triển vọng của việc
tiếp tục phát triển quan hệ song phương, cũng như các vấn đề quốc tế quan trọng,
và đã được sự nhất trí ý kiến rộng lớn. Trong đó, hợp tác trên lĩnh vực an ninh –
quốc phòng được nêu rõ: “Phát triển các mối quan hệ trong lĩnh vực kỹ thuật quân
sự. Trong lĩnh vực này hai bên hành động triệt để tuân theo các cam kết quốc tế,
thúc đẩy việc duy trì an ninh và ổn định toàn cầu Sự hợp tác kỹ thuật - quân sự
giữa Việt Nam và Nga không nhằm chống lại các nước thứ ba không phá vỡ cán
cân lực lượng ở khu vực” [Nhân dân, ngày 26-8-1998, tr. 7].
Mặc dù có chuyển biến tích cực so với giai đoạn 1991 – 1993 nhưng quan hệ
an ninh – quốc phòng giữa Liên bang Nga giai đoạn 1991 – 2000, nhất là từ năm
1994 vẫn còn hạn chế và tập trung trên một số lĩnh vực giới hạn, chưa thật sự phát
15


triển. Dù vậy, kết quả này cũng đặt cơ sở nền tảng cho mối quan hệ phát triển
mạnh mẽ hơn ở giai đoạn sau.
1.2.

Bối cảnh quốc tế và tình hình khu vực châu Ấu, châu Á – Thái bình
Dƣơng đầu thế kỷ XXI
Những năm cuối thế kỷ XX, cục diện thế giới chuyển từ hai cực sang thế


đa cực mang đặc điểm mới – đó là quá độ hòa bình, không trải qua chiến tranh
nhưng lại diễn ra trong tình trạng biến động bất trắc với các cuộc xung đột cục bộ.
Các quốc gia vừa hợp tác vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau. Tình hình thế giới có
những tác động tích cực nhưng cũng có không ít khó khăn cản trở đến quan hệ
hợp tác của các nước trong đó có quan hệ giữa Việt Nam và Liên bang Nga.
Thứ nhất: Quá trình toàn cầu hóa – quốc tế hóa diễn ra mạnh mẽ trở thành
xu thế khách quan bao trùm, lôi cuốn các nước vừa thúc đẩy hợp tác vừa làm tăng
sức ép cạnh tranh và tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế.
Toàn cầu hóa là sự tiến hóa dẫn đến trạng thái hợp nhất trên nền tảng của
những đa dạng về văn hóa, tôn giáo, dân tộc…, của những cách biệt về kinh tế
giữa các quốc gia và thậm chí là những hình thái xã hội khác nhau với vật dẫn là
sự chuyên môn hóa và phân công lao động ngày càng sâu sắc đến từng khâu nhỏ
nhất của quá trình sản xuất.
Xu hướng toàn cầu phản ánh bản chất của nền kinh tế thị trường. Toàn thế
giới đều gia nhập một nền kinh tế, một cơ chế kinh tế duy nhất, cùng xây dựng
một chính sách kinh tế hướng ngoại và hội nhập quốc tế. Toàn cầu hóa mà trước
hết là toàn cầu hóa kinh tế thế giới là hệ quả của quá trình hội nhập thường xuyên
của tất cả các nền kinh tế lớn nhỏ theo những luật chơi chung được các quốc gia
thừa nhận. Sự vận động của các dòng hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ kết nối
thành mạng toàn cầu đang làm cho nền kinh tế phụ thuộc chặt chẽ vào nhau, quy
định và chi phối lẫn nhau dưới tác động cùng lúc của nhiều chủ thể điều tiết: quốc
gia, khu vực, quốc tế và các tập đoàn xuyên quốc gia toàn cầu.
16


Xu thế toàn cầu hóa đã thể hiện nổi bật sự phát triển mạnh mẽ của các
định chế toàn cầu như WTO, WB, IMF, Liên hợp quốc… Toàn cầu hóa là một xu
thế khách quan lôi cuốn nhiều nước tham gia, “ xu thế này đang bị một số nước và
các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn,

vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh”.
Toàn cầu hóa là bước phát triển tích cực trong đời sống nhân loại. Nó tạo cơ
hội cho các quốc gia có thể rút ngắn khoảng cách phát triển, tăng cường sự hiểu
biết, tôn trọng lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc, các nền văn hóa khác nhau.
Toàn cầu hóa giúp các nước phát triển mở rộng thị trường sang các nước khác.
Ngược lại các nước đang phát triển tranh thủ được những điều kiện thuận lợi, tiếp
cận với khoa học kỹ thuật tiên tiến và áp dụng vào sự nghiệp phát triển đất nước,
đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao vị thế của mình trên
trường quốc tế.
Thứ hai: Chiến tranh lạnh kết thúc, chấm dứt thời kỳ chạy đua vũ trang giữa
hai phe đối lập, chuyển từ thế giới hai cực sang đa cực với một siêu cường là Mỹ.
Thế giới đang chuyển mạnh từ chạy đua quyết liệt về quân sự, tranh giành
những khoảng trống quyền lực sang cạnh tranh về kinh tế, chiếm lĩnh thị
trường.Với trật tự này, xu hướng hợp tác là chính bên cạnh vẫn có sự đấu tranh
kiềm chế lẫn nhau. Tính chất đối đầu còn tồn tại song không mang tính phổ biến
như trước. Trật tự thế giới đa cực đòi hỏi các quốc gia phải có chính sách ngoại
giao phù hợp- đa phương hóa, da dạng hóa; Tham gia vào các tổ chức quốc tế, coi
trọng sự hợp tác với tất cả các trung tâm, khu vực và các quốc gia trong cộng đồng
quốc tế.
Thứ ba: Cuộc cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục phát triển ở trình độ
cao (công nghệ thông tin) với đặc trưng là tin học hóa đã tác động đến sự phát
triển của loài người trên nhiều khía cạnh. Thế giới đang chuyển sang kỷ nguyên
kinh tế tri thức và văn minh hậu công nghiệp. Khoa học kỹ thuật có vai trò lớn và
17


quan hệ chặt chẽ với thông tin trong quá trình vận động của tư bản xuyên quốc
gia.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ tạo ra cơ sở hạ tầng mới cho nền kinh
tế toàn cầu. Đó không chỉ là sự phát triển các cơ sở hạ tầng truyền thống ở trình độ

cao mà quan trọng hơn là sự xuất hiện cơ sở hạ tầng vô hình làm giảm chi phí giao
dịch, thu hẹp khoảng cách giữa người sản xuất và người tiêu dùng cũng như
khoảng cách giữa các quốc gia góp phần phát triển kinh tế, giao lưu văn hóa và
chính trị toàn cầu.
Kết cấu kinh tế thay đổi theo hướng gia tăng khu vực dịch vụ, nâng cao tầm
quan trọng của công nghệ cao cũng như đóng góp của khoa học kỹ thuật trong
tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt cuộc cách mạng khoa học công nghệ càng làm gia
tăng xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa về kinh tế, làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các quốc gia và quan hệ quốc tế được mở rộng dưới nhiều hình thức với
sự tham của nhiều chủ thể. Có thể thấy bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, áp dụng
thành tựu khoa học kỹ thuật mới để phát triển đất nước là nhu cầu bức thiết .
Như vậy: Cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới tạo ra diện mạo, đặc
trưng của thế giới thúc đẩy quá trình hợp tác giữa các quốc gia nhằm hình thành
nền kinh tế tri thức trên phạm vi toàn cầu.
Thứ tư: Hòa bình hợp tác cùng phát triển là xu thế tác động mạnh mẽ đến
quan hệ quốc tế. Trải qua hai cuộc đại chiến thế giới tất cả các nước đều nhận thấy
sự nguy hiểm của việc bùng nổ chiến tranh, không thể đưa đất nước phát triển
trong điều kiện chiến tranh. Hòa bình, hợp tác cùng phát triển là con đường duy
nhất để phát triển toàn diện và mang lại lợi ích to lớn cho các quốc gia. Do đó các
quốc gia trong cộng đồng quốc tế không còn thanh toán nhau bằng vũ khí, chiến
tranh mà đã tích cực hợp tác hòa bình.Quan hệ quốc tế ngày càng chịu sự chi phối
của xu hướng hòa bình, hợp tác cùng phát triển. Thế giới chuyển từ đối đầu sang

18


đối thoại, giữa các cường quốc lớn hàng đầu thế giới đã điều chỉnh chính sách đối
ngoại theo hướng cân bằng, ổn định.
Thứ năm: Kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục phát triển trở thành nền kinh
tế năng động. Trước những thay đổi của tình hình thế giới, các nước đều phải điều

chỉnh chiến lược phát triển, ưu tiên tập trung phát triển kinh tế bởi kinh tế là thước
đo, là nhân tố quyết định đến vị thế của mỗi nước trên trường quốc tế. Toàn cầu
hóa kinh tế, hợp tác kinh tế là cơ sở để hình thành liên kết về chính trị, văn hóa
giáo dục. Như Đảng ta đã xác định ngoại giao phải tăng cường hơn nữa công tác
phục vụ kinh tế, phục vụ kinh tế xã hội cần được coi trọng bởi đó là một trong
những nội dung được ưu tiên của hoạt động đối ngoại.
Trong những năm cuối thế kỷ XX, hàng loạt các tổ chức liên kết kinh tế khu
vực đã ra đời như APEC (11/1989), NAFTA (12/1992), AFTA (1/1992)… Dưới
tác động của toàn cầu hóa, nền kinh tế tri thức hình thành với đặc trưng: tri thức
trở thành nội dung chủ yếu của sản xuất, phân phối và tiêu dùng; các ngành thông
tin như dịch vụ, tính toán trở thành ngành chủ đạo. Nền kinh tế thông tin lấy thị
trường toàn cầu làm địa bàn chính. Các thị trường tài chính thế giới và những
luồng thông tin lan truyền đến các thực thể kinh tế thông qua dao dộng của giá cả,
tỷ giá.
Nền kinh tế thế giới chịu tác động của làn sóng công nghệ thông tin, công
nghệ sinh học. Nhiều phương thức kinh doanh quản lý mới xuất hiện, nền kinh tế
thị trường tràn ngập ở các châu lục. Để thích ứng với làn sóng tự do hóa kinh tế
các quốc gia phải liên kết giao lưu, học hỏi lẫn nhau nhằm thúc đẩy kinh tế phát
triển theo hướng hiện đại, hòa cùng sân chơi với các nước trong quan hệ quốc tế.
Điều này khiến quan hệ quốc tế nhất là trong lĩnh vực kinh tế ngày càng phát triển
theo chiều sâu.
Thứ sáu: Các nước lớn có sự điều chỉnh theo hướng xây dựng quan hệ bạn
bè chiến lược, ổn định lâu dài. Thay vì xung đột đối đầu, các nước đã tìm kiếm
19


biện biện pháp và xu hướng phát triển thông qua đối thoại, thỏa hiệp tránh xung
đột. Thế giới đang “tồn tại song song giữa hợp tác và cạnh tranh, giữa mâu thuẫn
và hài hòa, tiếp xúc và kiềm chế cùng giúp nhau phát triển kinh tế chính trị, quân
sự, văn hóa giáo dục và chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế”.

Tiêu biểu như quan hệ Trung – Mỹ và Nga - Mỹ. Quan hệ giữa Trung Quốc
và Mỹ đổi từ “tăng thêm tín nhiệm, giảm bớt phiền phức, phát triển hợp tác,
không đối đầu” thành “tăng cường hiểu biết, mở rộng nhận thức chung, phát triển
hợp tác cùng tạo ra tương lai”. Giữa Nga và Mỹ, hai nước đã hợp tác cùng nhau
trên nhiều lĩnh vực. Trước sự nghiêm trọng của chủ nghĩa khủng bố quốc tế, tuy
còn những bất đồng nhưng Nga đã tham gia chống khủng bố do Mỹ phát động, trở
thành đồng minh tin cậy của Mỹ trong chiến tranh Ápganyxtan. Nga cũng nhượng
bộ với Mỹ trong một số vấn đề liên quan đến hệ thống phòng thủ chống tên lửa (
ký năm 1972).
Nhìn chung trong bối cảnh quốc tế hiện nay, các nước dù lớn hay nhỏ đều
ra sức mở rộng quan hệ quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội, không
câu nệ với những ai có khả năng hợp tác hiệu quả trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ
quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ lẫn nhau, cùng giúp nhau phát triển.
Bên cạnh những mặt thuận lợi, bối cảnh quốc tế cũng tạo ra một số khó khăn, thử
thách to lớn.
Thứ nhất: Quá trình toàn cầu hóa kinh tế bên cạnh tạo ra cơ hội phát triển
còn chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, khó khăn cho các nước nhất là các
nước đang phát triển. Toàn cầu hóa là một cuộc đấu tranh dân tộc gay gắt cho một
thế giới hòa bình, bình đẳng, thoát khỏi sự áp đặt của các thế lực tư bản quốc tế.
Các nước tư bản, các công ty tư bản xuyên quốc gia nắm trong tay những nguồn
lực vật chất hùng mạnh như vốn, kỹ thuật, chất xám và chi phối mạnh mẽ toàn thế
giới.

20


Trong điều kiện hiện nay, toàn cầu hóa đang diễn ra với ưu thế dẫn đầu của
chủ nghĩa tư bản, là xu hướng bành trướng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra
toàn cầu. Bởi vậy nó tạo ra tính tiêu cực phản văn hóa, là quá trình toàn cầu hóa
giá trị của các nước tư bản phương Tây.

Đặc trưng nổi bật của toàn cầu hóa là các công ty xuyên quốc gia và đa
quốc gia ngày càng phát triển trở thành chủ thể kinh doanh trên thị trường quốc tế.
Nhưng cả Nga và Việt Nam có rất ít các công ty đa và xuyên quốc gia. Trong khi
đó những công ty xuyên quốc gia nước ngoài hiện đang hoạt động tại Nga và Việt
Nam lại nhằm vào thị trường trong nước đó chứ chưa chú ý đến thị trường phía
đối tác. Chừng nào chưa có các công ty xuyên, đa quốc gia chú ý phát triển quan
hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước thì chừng đó quan hệ giữa hai nước trên
lĩnh vực này khó có thể phát triển như mong muốn được.
Hiện nay các đối tác chính mà Việt Nam và Liên bang Nga đều nhằm tới đó
là Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc. Tuy nhiên các đối tác này sẽ chỉ mở cửa thị
trường của họ cho Nga khi Nga cũng phải mở của thị trường của mình. Đó là điều
Nga khó chấp nhận do vậy Nga sẽ phải đi đường vòng, mở của thị trường các
nước khác để đi vào thị trường các đối tác chính trong đó Việt Nam là một tiêu
điểm.
Thứ hai: Thế giới đang đứng trước những vấn đề nóng bỏng mang tính toàn
cầu. Không một quốc gia nào có thể một mình giải quyết được, đòi hỏi tất cả các
nước phải cùng đoàn kết, phối hợp giải quyết như vấn đề ô nhiễm môi trường,
dịch bệnh, bùng nổ dân số…nhất là sự xuất hiện của các tội phạm xuyên quốc gia,
khủng bố.
Thứ ba: Thế giới ngày nay vẫn tồn tại những mâu thuẫn lớn. Nổi bật và
xuyên suốt thời đại là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Trong
xu thế toàn cầu, các nước xã hội chủ nghĩa đã có quan hệ rộng rãi với các nước tư
bản. Những tồn tại được thể hiện dưới dạng vừa hợp tác vừa đấu tranh trên nhiều
21


phương diện. Các thế lực tư bản vẫn có âm mưu thủ tiêu các nước xã hội do đó
phải ý thức sâu sắc điều này, không được mơ hồ, mất cảnh giác trước các thế lực
thù địch. Bên cạnh đó các hoạt động khủng bố, tranh chấp về biên giới lãnh thổ,
các xung đột dân tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ ly khai vẫn còn tồn tại

với tính chất ngày càng phức tạp.
Thứ tư: Cuộc cách mạng khoa học công nghệ nâng cao đời sống xã hội
song cũng làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau, khoảng cách phân hóa giàu nghèo,
tình trạng thất nghiệp, tệ nạn xã hội, suy thoái đạo đức, phẩm chất, lối sống khiến
các mâu thuẫn vốn có trở nên gay gắt.
Tóm lại, các xu thế chính trong cục diện thế giới tác động qua lại trong mối
quan hệ tùy thuộc lẫn nhau, vừa có tính độc lập tương đối vừa mang tính nhân
quả. Bối cảnh quốc tế tạo ra nhiều cơ hội nhưng cũng không ít khó khăn trong
quan hệ quốc tế. Hội nhập quốc tế và khu vực trở thành nhu cầu phát triển của các
quốc gia. Chiều hướng phát triển đó đặt ra yêu cầu thúc đẩy hợp tác hợp tác quốc
tế nói chung và hợp tác Việt Nam - Liên bang Nga nói riêng. Tận dụng cơ hội và
hạn chế thách thức, khó khăn là điều cần thiết để đưa quan hệ hai nước phát triển
lên tầm cao mới.
Cùng với đó, khu vực châu Á –Thái Bình Dương đã và đang là khu vực phát
triển năng động, có hiệu quả, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao tạo ra tiềm lực kinh tế
ngày càng mạnh. Sức mạnh của các nước trong khu vực không ngừng tăng lên
làm xuất hiện “thời kỳ châu Á”.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính (1997-1998), với nguồn tài nguyên phong
phú, có điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài, các nước trong khu vực đã nhanh
chóng lấy lại thế cân bằng. Tốc độ tăng trưởng không ngừng tăng lên. GDP năm
2001 đạt 4.2%, sau 2 năm đã tăng lên 6%. Trong khi đó, theo báo cáo của Ngân
hàng phát triển châu Á (ADB), GDP trung bình của thế giới là 4.6%. Mức tăng
trưởng của khu vực đạt từ - 7.1% (1998) đã bắt đầu phát triển năng động trở lại,
22


đạt mức tăng trưởng từ 0.5 - 6%. Trong những năm đầu thế kỷ XXI, khi thế giới
gặp nhiều khó khăn bởi sự tác động của cuộc chiến tranh Iraq nhưng kinh tế các
nước nước châu Á vẫn đạt mức tăng trưởng cao như Trung Quốc đạt 8.5%,
ASEAN đạt 4.5% (2003).

Với tốc độ tăng trưởng cao tạo cơ sở cho việc tăng cường hợp tác an ninh,
duy trì thế ổn định tương đối của các quốc gia, là động lực thúc đẩy quan hệ hợp
tác trong khu vực mạnh mẽ hơn. Điều đó chứng tỏ nhận định của Đảng ta rằng:
“Khu vực châu Á -Thái Bình Dương đang phát triển năng động và tiếp tục phát
triển với tốc độ cao” là đúng đắn.
Cơ cấu kinh tế trong khu vực tiếp tục chuyển sang hướng phát triển các
ngành gắn với nền kinh tế tri thức. Làn sóng chuyển đổi kinh tế từ việc ưu tiên đẩy
mạnh các ngành ở nông nghiệp, công nghiệp sang khu vực dịch vụ. Nền kinh tế tri
thức dựa trên những yếu tố đầu vào như chi tiêu cho nghiên cứu, phát triển các
ngành công nghệ thông tin được coi là chìa khóa của sự tăng nhanh năng suất lao
động đã thay thế cho các yếu tố đầu vào như tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao
động chi phí thấp…
Quan hệ giữa các nước lớn trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nhất là
Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga có nhiều thay đổi. Quan hệ giữa Hồng Kông và
Trung Quốc tuy có phát triển nhưng không ổn định trong khi quan hệ giữa Hồng
Kông và các nước Đông Bắc Á như Hàn Quốc, Nhật Bản được tăng cường. Trong
khi đó, quan hệ đối tác chiến lược giữa Nga và Trung Quốc ngày càng được tăng
cường và trở thành trụ cột trong khối hợp tác Thượng Hải. Điều này được thể hiện
qua cuộc tập trận chung “Sứ mệnh hòa bình năm 2005” trong khuôn khổ “Tổ chức
hợp tác Thượng Hải”; Tổng thống V.Putin thăm Trung Quốc; Chủ tịch Hồ Cẩm
Đào thăm Nga; hai nước lấy năm 2006 là năm Nga ở Trung Quốc, năm 2007 là
năm Trung Quốc ở Nga; buôn bán hai chiều đạt 30 tỷ USD (2005) và dự kiến đạt

23


60 tỷ vào năm 2010. Những hoạt động phong phú, đa dạng, dồn dập đó đã đưa
quan hệ Nga – Trung lên đỉnh điểm.
Các nước luôn kiềm chế lẫn nhau không để cho một nước nào vươn lên làm bá
chủ khu vực đồng thời hợp tác với nhau để giải quyết vấn đề chung vì lợi ích của

mỗi nước trong khu vực. Điều đó không cho phép họ xung đột lẫn nhau, hạn chế
chúng trong phạm vi nhỏ nhất có thể được, ngăn cản không cho mở rộng xung đột
thành chiến tranh khu vực.
Từ những năm cuối thế kỷ XX, một đặc trưng nổi bật của khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương là hội nhập kinh tế khu vực gia tăng với sự hoạt động mạnh mẽ
của các tổ chức kinh tế NAFTA, AFTA, APEC cùng những hiệp định tự do
thương mại song phương đặc biệt là của Mỹ hay xu hướng hình thành cộng đồng
kinh tế Đông Á và hội nhập giữa các quốc gia Đông Á, giữa ASEAN …Đặc trưng
này đã đặt ra cho mọi quốc gia những lựa chọn tham gia hội nhập kinh tế quốc tế
ở cả 3 cấp: toàn cầu hóa với WTO, khu vực với các khối mậu dịch tự do và song
phương với một số nước.
Các khối trong khu vực đã đạt được những thỏa thuận tăng cường liên kết tạo
ra nhiều cấp độ song phương, đa phương khu vực và toàn cầu. Việc thành lập các
khu vực thương mại trở thành động lực thúc đẩy sự hợp tác của các nước trong
khu vực nhằm “Tạo ra sự ổn định, an ninh và thịnh vượng cho người dân trong
cộng đồng”.
Bên cạnh những thuận lợi vừa nêu ở trên, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương
còn gặp phải một số khó khăn. Tuy là khu vực có khả năng phát triển năng động
nhưng “vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định”. Đây là nơi gặp gỡ, giao lưu
của nhiều nền văn hóa, là nơi tập trung nhiều điểm nóng và dễ xảy ra xung đột
không thể giải quyết một sớm một chiều như tranh chấp ảnh hưởng quyền lực,
biên giới lãnh thổ, nạn khủng bố, xung đột sắc tộc, sự phân hoá giàu nghèo đe dọa
đến an ninh khu vực. Tất cả đều xuất phát từ lý do tính thống nhất của khu vực
24


còn yếu, thiếu một cơ chế an ninh chặt chẽ là khó khăn lớn trong việc giải quyết
các mâu thuẫn,xung đột. Điều này đã tác động không nhỏ đến quan hệ giữa các
nước trong khu vực những năm đầu thế kỷ XXI.
Sự thay đổi vị thế và khả năng cạnh tranh kinh tế của Mỹ, Nhật Bản, Trung

Quốc trong khu vực cũng là vấn đề cản trở sự phát triển quan hệ hợp tác giữa các
nước. Bởi vị thế và chính sách của một số nước lớn đóng vai trò quan trọng trong
hợp tác kinh tế ở khu vực.Vị thế và chính sách khu vực của Mỹ, Nhật Bản có
những biến đổi, đáng quan tâm là sự lớn mạnh của Trung Quốc.
Với Nhật Bản: Do sức ép của Trung Quốc, Nhật Bản đã ưu tiên chuyển hướng
đầu tư vào Trung Quốc để tận dụng lợi thế trước mắt và lâu dài khiến sự chú ý của
các nhà đầu tư Nhật Bản đối với ASEAN bị giảm sút. Đồng thời với sự nổi dậy
của Trung Quốc, một sự phân công mới trong khu vực sẽ hình thành thay thế cho
mô hình truyền thống: Nhật Bản- NIC- ASEAN-Trung Quốc và trong hệ thống đó
Trung Quốc dần tiến vào vị trí trung tâm cùng Nhật Bản. Với Mỹ: Mỹ và Nhật
Bản đang cạnh tranh nhau để giành ưu đãi về thương mại của các nước trong khu
vực. Do vậy bất kỳ một hợp tác kinh tế khu vực nào muốn loại Mỹ ra ngoài đều
gặp khó khăn. Đó là một trở ngại đối với hợp tác về chiều sâu của khu vực Châu
Á - Thái Bình Dương.
Trong khi đó Trung Quốc phát triển trở thành một cực tăng trưởng quan trọng
không chỉ đối với Châu Á mà còn đối với cả thế giới. Nhất là sau khi trở thành
thành viên của WTO (2001). Trung Quốc trở thành đối thủ cạnh tranh rất mạnh
của các nước ASEAN. Sự gia tăng các dòng đầu tư và quan hệ buôn bán của
Trung Quốc với khu vực sẽ gây nên một số xáo động và “các nước láng giềng
phản ứng như thế nào đối với lời cảnh báo này, sẽ quyết định xem họ có thành
công trong một trật tự mới hay không, một trật tự mà Châu Á sẽ ngày càng tập
trung quanh Trung Quốc”.

25


×