MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 3
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 4
3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu................................................ 8
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................... 9
5. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 9
6. Bố cục của luận văn .................................................................................... 10
CHƯƠNG 1. PHỤ NỮ THỪA THIÊN HUẾ TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC TỪ THÁNG 3/1965 ĐẾN TRƯỚC NGÀY
31/1/1968 ...................................................................................................................11
1.1. Khái quát về truyền thống yêu nước và cách mạng của phụ nữ Thừa
Thiên Huế trước năm 1965 ............................................................................. 11
1.1.1. Giai đoạn trước năm 1930 ..................................................................... 12
1.1.2. Giai đoạn 1930 - 1945 ........................................................................... 15
1.1.3. Giai đoạn 1945 - 1954 ........................................................................... 17
1.1.4. Giai đoạn 1954 - 1964 ........................................................................... 19
1.2. Phụ nữ Thừa Thiên Huế trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ
tháng 3/1965 đến trước ngày 31/1/1968 ......................................................... 24
1.2.1. Chính sách của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở Thừa Thiên Huế từ tháng
3/1965 đến trước ngày 31/1/1968 ................................................................... 24
1.2.2. Chủ trương của Đảng ............................................................................ 29
1.2.3. Phong trào đấu tranh của phụ nữ Thừa Thiên Huế từ 1965 đến trước
ngày 31/1/1968 ................................................................................................ 34
1.2.3.1. Trên mặt trận chính trị........................................................................ 34
1.2.3.2. Trên mặt trận quân sự ........................................................................ 38
1.2.3.3. Trên mặt trận binh vận ....................................................................... 42
CHƯƠNG 2. PHỤ NỮ THỪA THIÊN HUẾ TRONG CUỘC TỔNG TIẾN
CÔNG VÀ NỔI DẬY NĂM 1968 ..........................................................................47
2.1. Chủ trương của Đảng trong việc mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm
1968 ................................................................................................................. 47
1
2.1.1. Chủ trương của Trung ương Đảng ........................................................ 47
2.1.2. Chủ trương của Khu ủy Trị Thiên - Huế và Tỉnh ủy Thừa Thiên ........ 49
2.2. Phụ nữ Thừa Thiên Huế tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm
1968 ................................................................................................................. 52
2.2.1. Tham gia công tác chuẩn bị .................................................................. 52
2.2.2. Tham gia phục vụ kháng chiến ............................................................. 55
2.2.3. Tham gia đấu tranh chính trị, binh vận ................................................. 57
2.2.4. Tham gia đấu tranh vũ trang ................................................................. 61
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA
PHỤ NỮ THỪA THIÊN HUẾ TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG
MỸ, CỨU NƯỚC GIAI ĐOẠN 1965 -1968 ..........................................................66
3.1. Đặc điểm .................................................................................................. 66
3.1.1. Tính chất của phong trào ....................................................................... 66
3.1.2. Quy mô rộng lớn của phong trào .......................................................... 68
3.1.3. Sự liên tục và quyết liệt của phong trào ................................................ 69
3.1.4. Sự đa dạng và phong phú về các hình thức và biện pháp đấu tranh của
phong trào ........................................................................................................ 70
3.2. Ý nghĩa ..................................................................................................... 72
3.2.1. Phong trào biểu lộ tinh thần dũng cảm vô song, khả năng to lớn cũng
như tài tổ chức, chỉ huy, bản lĩnh đấu tranh kiên cường của phụ nữ Thừa
Thiên Huế ........................................................................................................ 72
3.2.2. Phong trào góp phần vào sự phát triển của phong trào cách mạng Thừa
Thiên Huế và cách mạng miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
......................................................................................................................... 74
3.2.3. Phong trào góp phần để lại bài học kinh nghiệm cho cách mạng miền
Nam và cách mạng Việt Nam ......................................................................... 76
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
PHỤ LỤC .................................................................................................................82
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................88
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình lịch sử hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc
Việt Nam, phụ nữ bao giờ cũng là lực lượng quan trọng, đóng góp to lớn vào những
chiến công vĩ đại của dân tộc. Chị em có mặt trên tất cả các trận tuyến, từ lao động
sản xuất, xây dựng đất nước cho đến chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc. Vai trò, vị trí của
người phụ nữ ngày càng được khẳng định và tôn vinh.
Sinh ra và lớn lên trên một vùng đất có khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp cùng
với hoàn cảnh lịch sử đặc biệt và có chiều sâu văn hóa đặc thù, phụ nữ Thừa Thiên
Huế có những đặc tính, phong cách đặc sắc đáng quý: điềm đạm, nhân ái, đoàn kết,
cần cù, sáng tạo và cũng rất đỗi kiên trung… Những đức tính, phong thái đó của
phụ nữ Thừa Thiên Huế qua nhiều thế hệ đã tạo nên bản sắc văn hóa, truyền thống
yêu nước và cách mạng trong suốt chiều dài lịch sử xây dựng, bảo vệ quê hương,
đất nước, kháng chiến chống thực dân Pháp và những năm tháng đầu chống Mỹ
xâm lược.
Trong những năm 1965 - 1968, đế quốc Mỹ đem quân viễn chinh ồ ạt vào nước
ta, chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, cả đất nước đứng trước
thử thách vô cùng hiểm nghèo. Chính trong giờ phút nguy nan ấy, cùng với nhân
dân cả nước, phụ nữ Thừa Thiên Huế đã phát huy truyền thống yêu nước và cách
mạng, tham gia sôi nổi phong trào đấu tranh quyết liệt chống Mỹ và chính quyền
tay sai. Đặc biệt trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968, phụ nữ là
lực lượng quan trọng, vừa trực tiếp chiến đấu vừa đảm nhận công tác hậu cần, phục
vụ nuôi dưỡng, tiếp tế lương thực, thực phẩm, đạn dược,… cho các đơn vị bộ đội,
lực lượng vũ trang. Các mẹ các chị còn có vai trò to lớn trong đấu tranh chính trị,
đấu tranh binh vận, tổ chức lực lượng nổi dậy phối hợp với bộ đội, tham gia xây
dựng chính quyền, mặt trận và đoàn thể giải phóng ở các địa phương.
Do đó, việc nghiên cứu phong trào đấu tranh của phụ nữ Thừa Thiên Huế trong
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965 - 1968 có ý nghĩa hết sức thiết
thực.
3
Về ý nghĩa khoa học, đề tài góp phần làm rõ những hoạt động không biết mệt
mỏi của các tầng lớp phụ nữ Thừa Thiên Huế trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước giai đoạn 1965 - 1968, đặc biệt là làm rõ vai trò của phụ nữ trong việc góp
phần làm thất bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
Về ý nghĩa thực tiễn, đề tài góp phần cung cấp thêm nguồn tư liệu về phong
trào đấu tranh của phụ nữ nói riêng và nhân dân Thừa Thiên Huế nói chung trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cho các nhà sử học khi nghiên cứu về Huế;
làm tư liệu cho việc giảng dạy lịch sử địa phương ở các trường trung học trên địa
bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Qua đó, góp phần giáo dục thế hệ trẻ phát huy truyền
thống yêu nước và cách mạng quý báu của quê hương Thừa Thiên Huế giàu đẹp,
hào hùng với những người chị, người mẹ thân thương, kiên cường; giúp thế hệ trẻ
nhận thức được vai trò của bản thân đối với sự nghiệp xây dựng quê hương, đất
nước trong giai đoạn đổi mới và hội nhập hiện nay.
Với ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài “Phụ nữ Thừa Thiên Huế trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965 - 1968” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến và phong trào đấu
tranh chống Mỹ của nhân dân Thừa Thiên Huế
Trước hết phải kể đến các tác phẩm như: Bộ Quốc phòng Viện Lịch sử Quân sự
Việt Nam (1999), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), Tập IV,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Trần Văn Giàu (1968), Miền Nam giữ vững thành
đồng, Tập IV, V, Nhà xuất bản (NXB) Khoa học Xã hội, Hà Nội; Trần Bá Đệ (Chủ
biên), Lê Cung (2010), Giáo trình Lịch sử Việt Nam, Tâp VII, Từ 1954 đến 1975,
NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội,… Trong các tác phẩm này, vấn đề phụ nữ trong
phong trào đấu tranh dân tộc được đề cập đến trong sự phát triển chung của cách
mạng miền Nam với một số sự kiện và tấm gương tiêu biểu qua thực tiễn đấu tranh
cách mạng.
Liên quan đến đề tài còn có một số công trình như các tác phẩm của tác giả Lê
Cung: Cuộc đấu tranh chính trị ở các đô thị miền Nam trong kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước (1954-1975), NXB Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội, 1993; Về phong
trào đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), NXB Tổng hợp
4
Thành phố Hồ Chí Minh, 2015, “Phong trào đấu tranh đô thị miền Nam năm 1966”,
Tạp chí Lịch sử Quân sự, số 6/2006; Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam
(1964-1968), NXB Thuận Hóa, Huế, 2014. Ngoài ra còn có tác phẩm Pháp nạn 66
của sư Thích Nữ Diệu Không (1966). Trong các tác phẩm này, các tác giả đã nghiên
cứu khá toàn diện về âm mưu, thủ đoạn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, chủ
trương của Đảng, trình bày được một số phong trào đấu tranh và cá nhân tiêu biểu
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam nói chung và
phụ nữ nói riêng, cung cấp thêm nhiều tư liệu quan trọng liên quan đến luận văn.
Ở Thừa Thiên Huế, việc nghiên cứu về lịch sử địa phương cũng được quan tâm,
trong đó có nhiều công trình, đề tài, sách chuyên khảo liên quan đến luận văn như
Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thừa Thiên Huế (1995), Thừa Thiên Huế kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Ban Chấp hành
Đảng bộ Thừa Thiên Huế (1995), Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế, Tập II (1954 1975), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Thành Đoàn Huế (1989), Những sự kiện
lịch sử trong phong trào đấu tranh đô thị của thanh niên, sinh viên, học sinh Huế
(1954 - 1975), Huế; Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (2005), Địa chí Thừa
Thiên Huế, phần Lịch sử, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội; Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế
(2008), Lịch sử công tác tuyên giáo của đảng bộ Thừa Thiên Huế (1930 - 2005),
NXB Thuận Hóa, Huế; Bô ̣ Tư lê ̣nh Quân khu 4 Đảng ủy - Bô ̣ chỉ huy quân sự tin
̉ h
Thừa Thiên Huế (2005), Những trận đánh trong kháng chiế n chố ng Pháp và chố ng
Mỹ trên đi ̣a bàn tỉnh Thừa Thiên Huế 1945-1975, NXB Chin
́ h tri ̣quố c gia, Hà Nội;
Ngô Kha (Chủ biên), Thừa Thiên Huế kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 1975), NXB Thuận Hóa, Huế, v.v..…
Tuy chưa đề cập một cách cụ thể về phong trào đấu tranh của phụ nữ Thừa
Thiên Huế trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965 - 1968 nhưng
những tác phẩm trên đã khái quát được hoạt động cũng như đóng góp của phụ nữ
Thừa Thiên Huế trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975) làm cơ sở để
tác giả hoàn thành luận văn
2.2. Nhóm các công trình đề cập trực tiếp đến phong trào đấu tranh của phụ
nữ Thừa Thiên Huế trong kháng chiến chống Mỹ
5
Vấn đề phụ nữ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nói chung và phụ
nữ Thừa Thiên Huế trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965 - 1968
nói riêng được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu về phụ nữ như:
Lê Thị Nhâm Tuyết (1973), Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội đã trình bày quá trình tham gia và những đóng góp to lớn của phụ
nữ Việt Nam trên các lĩnh vực quản lý xã hội, lao động sản xuất và chiến đấu từ
thời nguyên thủy đến năm 1968. Về vai trò to lớn của phụ nữ Việt Nam trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, tác giả khẳng định: “Cùng với đồng bào chiến sĩ miền Nam,
những người phụ nữ ấy, bằng quyết tâm của mình, ngay từ đầu đã góp phần giải
quyết và làm sáng tỏ một vấn đề hết sức quan trọng đối với cách mạng Việt Nam.
Đó là đối với Mỹ, không những cần phải đánh chúng, mà còn có thể đánh chúng,
hơn nữa đánh thắng được chúng” [88, tr.291].
Nguyễn Thị Thập (1981), Lịch sử phụ nữ Việt Nam (2 tập), NXB Phụ nữ, Hà
Nội là công trình nghiên cứu tập thể do bà Nguyễn Thị Thập làm chủ biên đã tập
hợp được nhiều tư liệu về phong trào phụ nữ qua các thời kỳ. Với công trình này tác
giả đã khái quát phong trào đấu tranh của phụ nữ Việt Nam từ những năm đầu khi
thực dân Pháp xâm lược đến Đại thắng mùa xuân 1975.
Trọng Nghĩa (1967), Phụ nữ miền Nam Việt Nam bất khuất, tập VI, NXB Phụ
nữ, Hà Nội cũng đã trình bày được những tấm gương phụ nữ tiêu biểu trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ của dân tộc.
Tổ Sử phụ nữ Nam Bộ - Bảo tàng phụ nữ Nam Bộ (2006), Lịch sử phụ nữ Nam
Bộ kháng chiến, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội đã cung cấp thêm nhiều tư liệu
nghiên cứu và giúp người đọc hiểu sâu hơn về phong trào phụ nữ Nam Bộ kháng
chiến - Đội quân tóc dài trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, do chính các mẹ, các dì
của Tổ Sử Phụ nữ Nam Bộ - những nhân chứng của lịch sử trực tiếp biên soạn.
Bên cạnh đó, Hội Khoa học Lịch sử Tỉnh Thừa Thiên Huế (2011), Phụ nữ Việt
Nam trong di sản văn hoá dân tộc, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội đã
đánh giá vị trí, vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử dân tộc, khẳng định
những giá trị to lớn mà phụ nữ Việt Nam đã góp phần tạo dựng di sản văn hóa dân
tộc.
6
Nghiên cứu về vấn đề này cũng có một số công trình nghiên cứu khác như: luận
án Tiến sĩ của Vũ Thị Thúy Hiền - Phụ nữ miền Nam trong cuộc đấu tranh chính trị
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), hay khóa luận tốt nghiệp
Phụ nữ Nam Bộ đấu tranh trên lĩnh vực chính trị - quân sự giai đoạn 1965 - 1968
của Tưởng Thái Hoàng…
Có thể thấy rằng việc nghiên cứu về phụ nữ ở khía cạnh những đóng góp cho
lịch sử dân tộc là khá nhiều nhưng phần lớn là ở phạm vi vùng miền hoặc cả nước.
Phong trào phụ nữ ở từng địa phương riêng lẻ chưa được các nhà nghiên cứu lưu
tâm tới cho nên còn nhiều khoảng trống ở lĩnh vực này, phong trào phụ nữ ở Thừa
Thiên Huế cũng không phải là ngoại lệ.
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu về phong trào đấu tranh của phụ nữ
trên địa bàn Thừa Thiên Huế phải kể đến Hội Liên hiệp phụ nữ Thừa Thiên Huế
(2011), Lịch sử phụ nữ Thừa Thiên Huế (1930-2010), NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội. Cuốn sách được biên soạn một cách có hệ thống những chặng đường mà phụ
nữ và Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Thừa Thiên - Huế đã trải qua, phản ánh cụ thể quá
trình xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước của các tầng lớp phụ nữ trong tỉnh,
tập trung vào thời kỳ 1930-2010. Nhất là trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu
nước “dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hội Liên hiệp Phụ nữ Thừa Thiên Huế, biết
bao tấm gương phụ nữ Thừa Thiên Huế anh dũng kiên trung đã vượt qua những thử
thách, ngày càng trưởng thành và phát huy sức mạnh của mình để góp phần to lớn
làm nên chiến thắng lịch sử” [41, tr.233]. Hay luận văn Thạc sĩ của Võ Trần Ngọc
Minh, Phụ nữ Thừa Thiên Huế trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 –
1975) (Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế, 2016) cũng đã góp phần trình bày
được những đóng góp của phụ nữ Thừa Thiên Huế trong suốt 21 năm kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước.
Ngoài ra có thể kể đến các bài báo trên các tạp chí nghiên cứu như: “Vai trò
của phụ nữ Thừa Thiên Huế trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 1975)”, Tạp chí Khoa học Đại học Huế, Tập 102, số 3/2015; “Người phụ nữ Huế
trong văn hóa dân tộc”, Tạp chí Sông Hương, số 254 (tháng 4/2010); “Phụ nữ Huế
và mùa Xuân tổ ng tiế n công”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, số 193, Tháng 1/2008.
Ngoài ra còn có các bài nghiên cứu trên các website, như: “Người con gái anh dũng
7
kiên
cường
trong
những
ngày
đầu
Xuân
68
-
Mậu
Thân”
(); Những bóng hồng trong cuộc Tổng
tiến
công
và
nổi
dậy
mùa
xuân
Mậu
Thân
1968”
(), “Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân
1968 - Bài cuối: Sáng mãi chiến công của 11 cô gái sông Hương”
( />Nhìn chung, tất cả các công trình trên ở những mức độ khác nhau đều đề cập
đến phong trào đấu tranh của phụ nữ Thừa Thiên Huế, trong đó có cuộc đấu tranh
của phụ nữ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965 - 1968, cung cấp
khá nhiều tư liệu cần thiết, quan trọng và góp phần đáng kể để tác giả có thể hoàn
thành đề tài này.
3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phụ nữ Thừa Thiên Huế trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965 - 1968.
Nhiệm vụ của luận văn là trên cơ sở thu thập tài liệu làm rõ những hoạt động
đấu tranh của phụ nữ Thừa Thiên Huế trong giai đoạn 1965 - 1968 trên các mặt trận
chính trị, quân sự, binh vận,…; sự liên hệ của phong trào phụ nữ với phong trào đấu
tranh của các giai cấp, tầng lớp nhân dân khác. Từ đó, rút ra đặc điểm và những
đóng góp của phụ nữ Thừa Thiên Huế giai đoạn 1965 - 1968 đối với cách mạng
Thừa Thiên Huế nói riêng và cách mạng miền Nam nói chung.
Về phạm vi không gian, luận văn nghiên cứu phong trào đấu tranh của phụ nữ
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965 - 1968 trên địa bàn
Thừa Thiên Huế.
Về phạm vi thời gian, luận văn tập trung vào giai đoạn 1965 - 1968, cụ thể là từ
khi Mỹ đưa quân viễn chinh vào miền Nam, chuyển sang thực hiện chiến lược
“Chiến tranh cục bộ” (tháng 3/1965) đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân
1968 (1/1968). Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, khi cần thiết, luận văn có thể
mở rộng thời gian về phía trước để làm rõ nội dung của đề tài.
8
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tư liệu để thực hiện đề tài chủ yếu là tài liệu thành văn như các văn kiện
của Đảng ở Trung ương và địa phương, một số công trình của các nhà nghiên cứu
sử học, tài liệu của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và Thành Đoàn Huế, những bài viết
được đăng trên Tạp chí Quân sự, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Thông báo Khoa học
và các Tạp chí chuyên ngày khác, đặc biệt là khai thác những tài liệu gốc ở Chi cục
Văn thư và Lưu trữ tỉnh Thừa Thiên Huế.
Bên cạnh đó, tôi còn gặp gỡ một số nhân chứng từng tham gia hoạt động trong
phong trào đấu tranh của phụ nữ Thừa Thiên Huế giai đoạn 1965 - 1968.
Về phương pháp nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp luận sử học mácxit
kết hợp với phương pháp logic, trình bày nội dung từng vấn đề theo diễn tiến thời
gian. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp điều tra, so sánh, đối chiếu để rút
ra những kết luận khoa học chính xác.
5. Đóng góp của luận văn
Một là, đề tài là một công trình nghiên cứu có hệ thống, tương đối đầy đủ về
phong trào đấu tranh của phụ nữ Thừa Thiên Huế trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965 - 1968, góp phần minh chứng cho truyền thống yêu
nước và cách mạng hào hùng của nhân dân Thừa Thiên Huế nói chung và phụ nữ
Thừa Thiên Huế nói riêng.
Hai là, thông qua việc nghiên cứu các hoạt động đấu tranh tiêu biểu, hình thức
đấu tranh, cũng như đặc điểm và ý nghĩa của phong trào, đề tài đã góp phần làm rõ
vai trò của phụ nữ Thừa Thiên Huế trong cuộc đấu tranh chống Mỹ và chính quyền
Sài Gòn giai đoạn 1965 - 1968 vì độc lập, tự do.
Ba là, đề tài cung cấp một số tư liệu để các nhà nghiên cứu lịch sử tham khảo,
bổ sung, góp phần làm phong phú hơn nguồn sử liệu của lịch sử Việt Nam, nhất là
lịch sử Việt Nam thời hiện đại, đồng thời cũng là nguồn tư liệu cho việc nghiên cứu
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Thừa Thiên Huế.
Bốn là, đề tài còn là tài liệu quan trọng trong việc phục vụ giảng dạy lịch sử địa
phương ở Huế góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng cho các thế hệ
sinh viên, học sinh, qua đó, giúp các em nhận thức sâu sắc về vai trò và sứ mệnh
của mình đối với quê hương, đất nước.
9
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu (8 trang), kết luận (3 trang), phụ lục (6 trang). tài liệu tham
khảo (8 trang), mục lục (2 trang), luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Phụ nữ Thừa Thiên Huế trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước từ tháng 3/1965 đến trước ngày 31/1/1968 (35 trang)
- Chương 2: Phụ nữ Thừa Thiên Huế trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm
1968 (19 trang)
- Chương 3: Đặc điểm và ý nghĩa phong trào đấu tranh của phụ nữ Thừa Thiên
Huế trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965 – 1968 (13 trang)
10
CHƯƠNG 1
PHỤ NỮ THỪA THIÊN HUẾ TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC TỪ THÁNG 3/1965 ĐẾN TRƯỚC
NGÀY 31/1/1968
1.1. Khái quát về truyền thống yêu nước và cách mạng của phụ nữ Thừa
Thiên Huế trước năm 1965
Về địa lý tự nhiên, tỉnh Thừa Thiên Huế nằm ở duyên hải miền Trung Việt
Nam với tọa độ địa lý từ 15059’30” - 16044’30” vĩ Bắc và 107000’56” - 108012’57”
kinh Đông, cách Hà Nội 657 km về phía Bắc và thành phố Hồ Chí Minh 1.084 km
về phía Nam.
Theo tư liệu cổ, Thừa Thiên Huế từng là nơi cư trú của con người từ thời tiền
sử, cách ngày nay khoảng từ 3.500 đến 5.000 năm. Trong lịch sử, Thừa Thiên Huế
là nơi giao thoa nhiều nền văn hóa, chủ yếu là văn hóa người Việt với văn hóa của
người Chăm và văn hóa của một số dân tộc anh em ở phương Nam. Vào thời Trần,
năm 1301, vua Trần Nhân Tông vân du Chăm-pa và hứa gả công chúa Huyền Trân
cho vua Chế Mân, đổi lại Đại Việt được châu Ô và châu Rí (Lý). Năm 1306, vua
Trần Anh Tông cử phái đoàn đưa công chúa Huyền Trân sang làm dâu Chăm-pa,
tiếp nhận đất đai và đổi châu Ô thành châu Thuận và châu Rí thành châu Hóa cùng
thuộc phủ Lâm Bình, chọn người bản thổ, đặt chức quan cai trị, cấp ruộng đất và
miễn tô thuế ba năm cho nhân dân [90, tr. 47-48]. Thừa Thiên Huế thuộc châu Hóa,
cư dân mới cũ cùng sinh tụ, lập thành làng xã. Từ đó, vùng đất Thuận Hóa nhanh
chóng trở thành vị trí xung yếu trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước của
dân tộc qua các thời kỳ.
Đến thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, sau khi tạo dựng được một tiềm lực đủ
mạnh để có thể đối đầu với họ Trịnh, ông quyết định dời dinh vào Phúc An (làng
Phước Yên, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên Huế), đến thời chúa
Nguyễn Phúc Lan dời vào phủ Kim Long (nay không còn dấu tích gì). Năm 1687,
chúa Nguyễn Phúc Thái quyết định dời sang phủ Phú Xuân (tức là kinh thành Huế
ngày nay) [90, tr.87].
11
Cuối năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế ở núi Bân, lấy hiệu là Quang
Trung, tiến quân ra Bắc tiêu diệt quân Thanh xâm lược, giải phóng Thăng Long,
Phú Xuân trở thành kinh đô của nước Đại Việt.
Năm 1802, sau khi đánh bại Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, lấy hiệu là Gia
Long, lập ra nhà Nguyễn, tiếp tục chọn Phú Xuân làm kinh đô.
Thời thuộc Pháp, Huế là một trong những trung tâm chính trị quan trọng của
chính quyền thực dân, phong kiến. Trong thời kỳ miền Nam còn nằm trong sự
thống trị, kìm kẹp của Mỹ và chính quyền Sài Gòn (1954 - 1975), Huế được xem là
trung tâm chính trị của miền Nam sau Sài Gòn. Chính những giá trị đặc thù về văn
hóa, lịch sử đã tạo nên cốt cách con người ở đây với những phẩm chất cao quý. Nét
đặc thù đó thể hiện rõ nhất ở chính người phụ nữ Huế với những đức tính dịu dàng,
kín đáo mà sâu lắng, chung thủy với chồng con, lo toan gánh vác mọi việc trong nhà
nhưng đồng thời cũng rất đỗi yêu quê hương, đất nước và hết sức kiên cường trước
mọi thế lực cường quyền. Đặc biệt trước họa ngoại xâm, chị em sẵn sàng đứng ra
gánh vác những phần việc để cùng chồng con và xã hội thực hiện nhiệm vụ cao cả
“giặc tới nhà đàn bà cũng đánh”.
1.1.1. Giai đoạn trước năm 1930
Từ đầu thế kỷ XIV đến những năm 20 của thế kỷ XX, dưới chế độ phong kiến
và sau đó là thực dân nửa phong kiến, phụ nữ Thuận Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên
Huế đã sớm khẳng định vai trò quan trọng của mình trong xây dựng xóm làng, quê
hương cũng như trong chống giặc ngoại xâm. Những thế hệ phụ nữ từ các vùng đất
phía Bắc vào Hóa Châu trong thế kỷ XIV đã đổ mồ hôi và công sức cùng bà con
khai phá ruộng đồng, lập nên 40 làng ấp trong 7 huyện (Trà Kệ, Lợi Bồng, Sạ Lệnh,
Tư Dung, Bồ Đài, Bồ Lãng và Thế Vinh) [90, tr.49]. Khi giặc Minh xâm lược, nhân
dân Hóa Châu đã tích cực hưởng ứng khởi nghĩa Lam Sơn, giải phóng quê hương
và đánh đuổi kẻ thù xâm lược ra khỏi bờ cõi. Từ năm 1558, khi Nguyễn Hoàng vào
trấn giữ vùng đất Thuận Hóa, có biết bao phụ nữ đã giã từ quê hương, theo chồng
con vào đây để khai phá vùng đất đang còn hoang sơ để lập nên những làng quê trù
phú ở vùng đất mới. Vào thế kỷ XVIII, khi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra, phụ nữ
Phú Xuân đã động viên con em mình tham gia nghĩa quân, đóng góp lương thực,
thực phẩm cho đoàn quân áo vải cờ đào. Theo đoàn quân của anh hùng Nguyễn Huệ
12
- Quang Trung có nhiều nữ tướng vốn xuất thân từ vùng đất Thuận Hóa, tiêu biểu là
bà Lê Thị Vi (quê ở làng La Chữ, huyện Hương Trà) [34, tr.10].
Giữa thế kỷ XIX, đất nước đứng trước nạn xâm lăng của thực dân Pháp. Triều
đình nhà Nguyễn tuy rất cố gắng nhưng đã bất lực trước nhiệm vụ bảo vệ non sông,
xã tắc. Đất nước bị kẻ thù thôn tính từng bước. Người phụ nữ Huế từ những ngày
đầu quân và dân ta kháng chiến chống giặc Pháp tại mặt trận Đà Nẵng, sau đó là
miền Đông và miền Tây Nam Bộ, đã không ngừng động viên chồng con tham gia
các đội nghĩa binh đánh giặc.
Sau khi phái chủ chiến tiến hành cuộc phản công kinh thành Huế (5/7/1885)
nhưng không thành công, thay mặt vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết đã ra chiếu
Cần Vương, kêu gọi nhân dân giúp vua cứu nước. Chứng kiến cảnh những hành
động dã man của thực dân Pháp, lại được lời hiệu triệu của chiếu Cần Vương, chị
em phụ nữ đã vùng lên mạnh mẽ. Từ những người con gái trong hoàng tộc đến các
chị các mẹ ở các làng xã đều đã có những việc làm hưởng ứng chiếu Cần Vương
Đầu thế kỷ XX, khi các nhà yêu nước khởi xướng phong trào Đông Du và
phong trào Duy tân, phụ nữ Thừa Thiên Huế đã nhiệt liệt hưởng ứng, tiêu biểu là
liệt nữ Lê Thị Đàn, làng Thế Lại Thượng (nay thuộc xã Hương Vinh, thị xã Hương
Trà). Bà tham gia phong trào Duy tân, phụ trách liên lạc và có những đóng góp to
lớn cho phong trào. Khi bị địch bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ, dù bị cực hình tra tấn,
bà vẫn giữ một lòng kiên trung với đất nước. Cụ Phan Bội Châu đã đặt tên cho bà là
Ấu Triệu (Bà Triệu nhỏ) [34, tr.11].
Năm 1916, khi vua Duy Tân cùng Thái Phiên và Trần Cao Vân lên kế hoạch
khởi nghĩa, cùng với nhân dân trong tỉnh, chị em phụ nữ đã hăng hái hưởng ứng. Kế
hoạch bị lộ, vua Duy Tân phải rời bỏ Kinh thành. Nhà vua đã được bà Nguyễn Thị
Vinh, quê ở Phú Vang dũng cảm chèo thuyền đưa về trú tại nhà ông Mai Xuân Trí ở
thôn Hà Trung [41, tr.29].
Vào những năm 20 của thế kỷ XX, khi phong trào yêu nước diễn ra ở Huế, chị
em phụ nữ ở thành thị, nhất là giới học sinh, trí thức và tiểu thương ở chợ Đông Ba
đã hăng hái hưởng ứng. Trường Nữ sinh Đồng Khánh là nơi tập trung nhiều chị em
có trình độ học vấn cao, hằng ngày làm việc với nhiều giáo viên người Pháp vốn
mang tư tưởng khinh rẻ người bản xứ, đã trở thành nơi dễ bùng phát sự phản kháng
13
đối với chủ nghĩa thực dân. Được xây dựng năm 1917, trường Đồng Khánh là ngôi
trường nữ đầu tiên và duy nhất dành cho nữ sinh 13 tỉnh Trung Kỳ thời bấy giờ đến
học. Người Pháp lập ra trường Đồng Khánh để đào tạo nhân tài nữ làm công bộc
cho chính quyền bảo hộ. Nhưng những nữ sinh Việt Nam vào học trường Đồng
Khánh, nhờ được tiếp xúc với văn minh văn hóa phương Tây, văn học cách mạng
Pháp, phần nào đã ảnh hưởng và khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự trọng vốn có
trong lòng người Việt Nam. Chính những tư tưởng tiến bộ, nhân đạo của cách mạng
tư sản Pháp sau khi được các nữ sinh tiếp nhận đã nhanh chóng lan tỏa ra bên ngoài
qua sự truyền miệng và chuyển sách báo, tài liệu cho nhau đọc. Nổi bật trong giai
đoạn này là cuộc đấu tranh đòi trả tự do cho Phan Bội Châu và tổ chức lễ truy điệu
Phan Châu Trinh, được giới trí thức, học sinh, công nhân và cả chị em phụ nữ Huế
tích cực hưởng ứng. Ngày 1/12/1925, thay mặt cho giáo viên và nữ sinh Đồng
Khánh, cô giáo Trần Thị Như Mân và Hoàng Thị Vệ đã thảo bức điện tín gửi Toàn
quyền Varren ở Hà Nội, yêu cầu ân xá cho Phan Bội Châu. Qua năm sau, cụ Phan
Châu Trinh mất (24/3/1926). Khi lễ truy điệu cụ được tổ chức ở Huế, đích thân cụ
Phan Bội Châu đã đứng ra làm chủ tế và bà Đạm Phương1 đọc điếu văn [41, tr.36].
Ngày 15/6/1926, tổ chức “Nữ công học Hội” ra đời, do bà Đạm Phương làm
Hội trưởng, bà Trần Thị Như Mân làm Tổng thư ký. Hội là nơi tập hợp chị em có tư
tưởng tiên tiến, là “cái đoàn thể hội giới của bạn quần thoa, gây cho bạn quần thoa
một cái tinh thần tự lập bằng các nghề nghiệp của mình trong phạm vi đạo đức tri
thức Đông phương và Tây phương hòa hợp, sau hết là kết một sợi dây đoàn thể để
bênh vực quyền lợi cho nhau” [34, tr. 13]. Nữ công học Hội ra đời, với tổ chức chặt
chẽ đã báo hiệu một sự chuyển biến tích cực của chị em phụ nữ trong quá trình
tham gia phong trào yêu nước. Chị em tham gia Hội nữ công đã trở thành nhân tố
tích cực, là hạt nhân của phong trào phụ nữ Thừa Thiên Huế.
Phong trào yêu nước ở Thừa Thiên Huế có những bước phát triển sau đó do quá
trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là trong tầng lớp trí thức, học sinh.
Tháng 4/1927, diễn ra phong trào bãi khóa ở các trường Quốc Học, Đồng Khánh.
Bằng hiểu biết của mình thông qua sách báo và các tài liệu được bí mật đưa vào,
Đạm Phương (1881 – 1947) tên thật là Tôn Công nữ Đồng Canh. Bà là cháu nội vua Minh Mạng, con gái
của Hoằng Hóa Quận Vương Miên Triện.
1
14
phong trào đấu tranh của nữ sinh Đồng Khánh ngày càng gây được tiếng vang lớn,
có sức lan tỏa ra bên ngoài.
Các tổ chức tiền thân của Đảng ở Huế ra đời đã nhanh chóng thu hút sự chú ý
của các mẹ, các chị. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên sau khi được thành lập
(6/1925) đã tìm cách phát triển lực lượng trong cả nước. Tháng 7/1927, Tỉnh bộ
Thanh niên lâm thời ở Huế được thành lập, do Nguyễn Đức Tịnh làm Bí thư. Tham
gia tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên có các chị Tôn Nữ Thị Chút,
Phạm Thị Xinh, Nguyễn Thị Lụt, Nguyễn Thị Sen, Nguyễn Thị Lài. Ngoài ra vào
giữa năm 1927, tổ chức Tân Việt Cách mạng Đảng ở Huế cũng được hình thành,
trong đó có nhiều nữ đảng viên như chị Nguyễn Thị Lý, Trần Thị Như Mân [34, tr.
13].
1.1.2. Giai đoạn 1930 - 1945
Thực hiện chủ trương về việc thống nhất các tổ chức cộng sản, tháng 4/1930,
việc hợp nhất và thành lập tỉnh Đảng bộ Thừa Thiên đã được tiến hành dưới sự chủ
trì của đồng chí Nguyễn Phong Sắc, Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ. Hội nghị thông qua
phương hướng hoạt động và bầu ra Ban chấp hành gồm 7 ủy viên, trong đó có 2 ủy
viên nữ là Nguyễn Thị Lụt phụ trách phụ vận và Phạm Thị Xinh phụ trách giao
thông liên lạc [41, tr.49].
Giữa năm 1930, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Hội phụ nữ phản đế Huế
được thành lập do chị Nguyễn Thị Lụt làm Chủ tịch. Theo tinh thần của Nghị quyết
Trung ương Đảng về “Phụ nữ vận động”, Hội Phụ nữ phản đế Huế xác định nhiệm
vụ trước mắt là vận động đông đảo chị em tham gia vào các phong trào đấu tranh
chống áp bức, đòi cải thiện đời sống. Một số phụ nữ ưu tú được lựa chọn kết nạp
vào Đảng. Chị em đã tích cực tham gia cuộc đấu tranh chống địa chủ ở Phú Lộc,
chống khủng bố trắng, ủng hộ đồng bào Nghệ - Tĩnh.
Trong những năm 1936 - 1939, phụ nữ Thừa Thiên Huế tiếp tục hòa vào dòng
thác đấu tranh đòi dân sinh dân chủ của nhân dân trong tỉnh, nổi bật là sự kiện đón
Godart (26/2/1937) để đưa bản dân nguyện, vận động để những người tiến bộ tranh
cử vào Viện Dân biểu Trung Kỳ, tham gia vào các Hội Ái hữu, Hội Tương tế, Hội
Truyền bá chữ quốc ngữ,…
15
Tháng 9/1940, phát xít Nhật tràn vào Đông Dương và thực dân Pháp đã cấu kết
với phát xít Nhật cùng thống trị nhân dân ta. Cuộc sống của nhân dân ta càng trở
nên cơ cực vì lâm vào cảnh “một cổ hai tròng”. Trước sự chuyển biến mau lẹ của
tình hình thế giới và trong nước, Đảng chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến
lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Đặc biệt tại Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương tháng 5/1941, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc,
Đảng đề ra chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh để tăng cường hơn nữa khối
đại đoàn kết dân tộc, chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho cuộc Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền. Tháng 6/1941, Đoàn Phụ nữ cứu quốc ra đời với khẩu hiệu
“Đoàn kết các tầng lớp phụ nữ Việt Nam yêu nước đánh đổ phát xít Nhật - Pháp,
giải phóng Tổ quốc, giải phóng phụ nữ” [41, tr.74]. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
Đoàn Phụ nữ cứu quốc đã vận động các tầng lớp phụ nữ gia nhập Mặt trận Việt
Minh, gia nhập các đoàn thể cứu quốc đánh Pháp, đuổi Nhật, xây dựng và bảo vệ cơ
sở cách mạng.
Ở Thừa Thiên Huế, do mất liên lạc với Trung ương Đảng và Xứ ủy Trung Kỳ,
tổ chức Đảng địa phương đến cuối năm 1941 vẫn chưa tiếp thu được Nghị quyết 8
của Trung ương (5/1941). Đến tháng 7/1942, đồng chí Nguyễn Chí Thanh, sau khi
vượt ngục Buôn Ma Thuột trở về (2/1942), mới triệu tập Hội nghị cán bộ Đảng tại
Vĩnh Tu (Quảng Điền) để phổ biến Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8. Tuy nhiên,
phải đến ngày 23/5/1945, tại Hội nghị Cán bộ toàn tỉnh, Ban Chấp hành Việt Minh
tỉnh mới chính thức được bầu ra, gồm 13 đồng chí [87, tr. 317-318].
Ngày 9/3/1945, phát xít Nhật đảo chính, hất cẳng Pháp, độc chiếm Đông
Dương và dựng lên Chính phủ Trần Trọng Kim. Nhằm xoa dịu phong trào đấu
tranh, chúng đã thả tự do cho nhiều tù chính trị. Một số chị là cán bộ chủ chốt của
phong trào phụ nữ tỉnh được ra khỏi nhà lao đã tìm cách liên lạc với tổ chức. Được
bố trí, giao nhiệm vụ mới, các chị đã nhanh chóng bắt liên lạc với một số phụ nữ
nòng cốt từng tham gia cách mạng ở giai đoạn trước để gấp rút thành lập Ban vận
động phụ nữ cứu quốc Huế. Tháng 5/1945, Ban vận động Phụ nữ Cứu quốc Huế
được thành lập với các chị Đào Thị Đính (Trưởng ban), Ngô Thị Chính, Võ Thị
Thể, Nguyễn Thị Lý và Nguyễn Khoa Bội Lan. Nhiệm vụ trước mắt cần phải tập
trung của Ban là gấp rút tuyên truyền các chủ trương của Mặt trận Việt Minh, vạch
16
trần tội ác của phát xít Nhật, kêu gọi chị em đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc,
giải phóng phụ nữ, vận động góp tiền ủng hộ Việt Minh mua sắm vũ khí chuẩn bị
khởi nghĩa, tham gia trực tiếp hoặc giúp các đội tự vệ đang âm thầm tập luyện.
Tháng 7/1945, chị em phụ nữ Huế đã tham gia cuộc mít-tinh tại ngã ba sông
Đào (Phú Bình, Huế). Tại đây, đại diện P hụ nữ Cứu quốc đã diễn thuyết kêu gọi
nhân dân tham gia hoạt động theo chương trình của Tổng bộ Việt Minh. Cuộc míttinh đã trở thành cuộc diễu hành thị uy qua các đường phố chính ở Huế trong bối
cảnh quân phát xít Nhật đang còn hung hăng, chưa chịu đầu hàng Đồng Minh.
Trung tuần tháng 8/1945, khắp nơi trong tỉnh, phụ nữ cùng các tầng lớp nhân
dân khẩn trương chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền. Chị em nhận
được chỉ thị bí mật về việc may cờ, biểu ngữ, chuẩn bị vũ khí sẵn sàng chờ lệnh. Từ
ngày 17 - 22/8/1945, cùng với nam giới, chị em phụ nữ đã có mặt trong các đoàn
biểu tình kéo đến các làng, tịch thu đồng triện của lý trưởng, dự mít-tinh thành lập
chính quyền cách mạng. Đặc biệt, chị Nguyễn Thị Lý đã thuyết phục chồng mình là
Tri huyện Hương Thủy Võ Thọ nộp ấn tín cho Việt Minh [41, tr.81].
Ngày 23/8/1945, hòa cùng không khí đấu tranh sục sôi của nhân dân trong tỉnh,
chị em phụ nữ đã tập trung tại sân vận động Tự Do Huế tham gia cuộc mít-tinh lịch
sử giành chính quyền. Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Thừa Thiên tuyên bố chính
quyền cách mạng từ nay về tay nhân dân.
1.1.3. Giai đoạn 1945 - 1954
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công đã mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử
dân tộc Việt Nam, đưa cả dân tộc bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do. Tuy nhiên
ngay sau ngày cách mạng mới thành công, phụ nữ Thừa Thiên Huế cùng nhân dân
trong tỉnh và nhân dân cả nước đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn bởi giặc
đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Thừa Thiên Huế bước vào cuộc chiến đấu mới để bảo vệ thành quả cách
mạng và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân. Hội Phụ nữ cứu quốc tỉnh Thừa Thiên
Huế được thành lập, chính thức ra mắt ngày 2/9/1945. Hội có Ban chấp hành do bà
Trần Thị Như Mân (vợ Đào Duy Anh) làm Hội trưởng. Hội đã tập hợp, giác ngộ và
tổ chức chị em phụ nữ trong toàn tỉnh đấu tranh cách mạng. Bản thân chị em vừa
hăng hái tham gia các phong trào, vừa động viên tạo điều kiện để chồng con cùng
17
nhân dân toàn tỉnh thực hiện tốt nhiệm vụ công dân của một nước độc lập. Đặc biệt
trong cuộc vận động “Tuần lễ đồng”, “Tuần lễ vàng” tại thành phố Huế, bà Nam
Phương (vợ cố vấn Vĩnh Thụy) đã cùng Hội Phụ nữ cứu quốc thành phố và các tổ
chức xã hội khác vận động được nhiều gia đình giàu có ở thành phố và trong hoàng
tộc đóng góp vàng bạc, của cải cho Qũy Độc lập. Nhiều người đã ủng hộ hoa tai,
nhẫn cưới và những kỷ vật thiêng liêng khác cho cách mạng. Chỉ trong vòng một
tuần lễ (từ ngày 17 đến ngày 24/9/1945), riêng thành phố Huế đã thu được 945
lượng vàng và 6 huyện góp trên 10 kg vàng, thiết thực giúp vào việc khắc phục sự
eo hẹp của nền tài chính đất nước, trước mắt dùng để mua sắm và chế tạo vũ khí,
phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến [90, tr.332].
Khi cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ chính thức nổ ra (ngày 23/9/1945),
nhân dân Thừa Thiên Huế đã động viên con em mình vào Nam chiến đấu. Phong
trào “Nam tiến” diễn ra rầm rộ, sôi nổi. Các mẹ, các chị ở thành phố thành lập các
quán cơm “Nhân dân” phục vụ các đoàn quân Nam tiến. Hội phụ nữ, đoàn thanh
niên tổ chức các cuộc đón tiếp, tiễn đưa đầy cảm động. Tất cả đã thể hiện tinh thần
chiến đấu để bảo vệ từng tấc đất phía Nam của Tổ quốc.
Đáp lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 2 giờ 30
phút sáng ngày 20/12/1946, cuộc kháng chiến chống Pháp ở Huế bùng nổ. Phối hợp
với bộ đội, tự vệ thành phố trong đó có các tầng lớp phụ nữ đã đồng loạt tấn công
vào các cơ quan đầu não của thực dân Pháp ở Huế như Tòa Khâm sứ, Khách sạn
Morin, trường Thiên Hựu2, v.v… Tuy nhiên, do tương quan lực lượng quá chênh
lệch nên sau 50 ngày đêm bao vây quân Pháp trong thành phố, đến đầu tháng
2/1947, lực lượng cách mạng rút ra ngoài thành phố để tiến hành kháng chiến lâu
dài. Đi vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống giặc ngoại xâm sau ngày quê hương
bị tạm chiếm, phụ nữ Thừa Thiên Huế đã vượt qua bao gian khổ bởi địch họa và
thiên tai để cùng cả nước làm nên chiến thắng cuối cùng. Hoạt động phối hợp với
chiến trường chính ngoài các cuộc tiến công quân sự còn có các cuộc đấu tranh
chính trị của quần chúng. Ở nhiều xã, huyện, bà con tiếp tục đấu tranh trực diện với
kẻ địch, chống bắt lính, đòi chồng con trở về. Đặc biệt ở thành phố Huế, cùng với
phong trào đấu tranh hợp pháp của thanh niên, học sinh, các cuộc đấu tranh của
. Nay là trường Đại học Khoa học Huế.
2
18
công nhân nhà máy đèn, sở Bưu điện, chị em tiểu thương chợ Đông Ba,… đã diễn
ra liên tục. Chị em tiểu thương chợ Đông Ba thành lập Hội tương tế, bí mật quyên
góp tiền, lương thực, thuốc men gửi lên chiến khu. Thị ủy Huế cùng Mặt trận Liên
Việt đã “huy động 2000 người biểu tình trong đó số đông là phụ nữ kéo đến đồn
Mang Cá đòi trả chồng con và đã giải phóng được hàng trăm thanh niên trong số
1800 thanh niên bị chúng bắt đi lính” [31, tr.23]. Ngày 17/6/1954, cùng với học
sinh, lính ngụy, các chị em tiểu thương tham gia biểu tình với các khẩu hiệu đòi hòa
bình, đòi chồng con đi lính trở về, ủng hộ lập trường của Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa tại Hội nghị Genève.
Ngày 21/7/1954, Hiệp định Genève về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký
kết. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta kết thúc thắng lợi,
trong đó có sự đóng góp xứng đáng của Đảng bộ, nhân dân Thừa Thiên Huế nói
chung, các tầng lớp phụ nữ Thừa Thiên Huế nói riêng. Như lời của bà Lê Thị
Xuyến, đại biểu Ủy ban nhân dân Trung Bộ phát biểu tại Đại hội đại biểu phụ nữ
cứu quốc tỉnh Thừa Thiên Huế (9/9/1945): “Con gái chúng ta mà người ta vẫn mỉa
mai là “ăn xó, mó niêu” từ đây đã có thể đàng hoàng với bạn trai gánh vác chung
sức quốc gia xã hội. Cũng như bạn trai, chúng ta có tất cả quyền hạn, tất cả bổn
phận của người công dân Việt Nam định đoạt số phận của cả giống nòi. Nước Việt
Nam này còn hay mất, mạnh hay yếu, giàu hay nghèo, bạn gái chúng ta phải chịu
nửa phần trách nhiệm”[41, tr.419], cho thấy phụ nữ Thừa Thiên Huế đã nhận thức
và hành động vì dân vì nước, anh hùng, bất khuất trong kháng chiến chống thực dân
Pháp.
1.1.4. Giai đoạn 1954 - 1964
Hiệp định Genève được ký kết, các nước buộc phải công nhận độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương. Nhưng với mưu
đồ có sẵn từ trước, Mỹ đã nhanh chóng thay chân Pháp, biến miền Nam Việt Nam
thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Với tầm quan trọng chiến lược về vị trí địa lý và
đặc điểm lịch sử, văn hóa - xã hội, Thừa Thiên Huế đã trở thành một địa bàn mà Mỹ
và chính quyền Sài Gòn “quan tâm đặc biệt” trong chính sách thống trị thực dân
mới. Phát huy truyền thống cách mạng vốn có, phụ nữ Thừa Thiên Huế tiếp tục
cùng nhân dân toàn tỉnh đấu tranh chống Mỹ và chính quyền tay sai, đòi độc lập tự
19
do cho dân tộc. Phong trào đấu tranh của phụ nữ thời kỳ này tập trung vào những
nội dung cơ bản sau:
Một là, phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Genève, đòi dân sinh,
dân chủ. Trước sự chuyển biến của tình hình, quán triệt Nghị quyết Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương lần thứ sáu (khóa II), từ sau tháng 7/1954, Tỉnh ủy chủ
trương phát động quần chúng đấu tranh chính trị, tổ chức các phong trào chào mừng
hòa bình, khẩn trương chuẩn bị lực lượng vũ trang đi tập kết. Thực hiện chủ trương
của Tỉnh ủy, phụ nữ Thừa Thiên Huế cùng với các tầng lớp nhân dân đã dấy lên
một phong trào đấu tranh chính trị sôi nổi, rộng khắp.
Ở Huế, mờ sáng ngày 1/8/1954, đông đảo phụ nữ cùng với nhân dân các vùng
lân cận đã hòa trong dòng người đổ về Phu Văn Lâu để tổ chức mít tinh mừng hòa
bình. Các chị em tiểu thương chợ Đông Ba đã thả hàng nghìn chim bồ câu bày tỏ sự
phấn chấn và khát vọng hòa bình của mình; hàng nghìn văn bản Hiệp định được in
và phổ biến trong thành phố và các huyện. Trong tháng 8/1954, từ thành phố Huế
cho đến các quận, xã, nhiều cuộc biểu tình của chị em đã diễn ra để tuyên truyền
Hiệp định. Ngày 23/8/1954, phụ nữ ở nội thành Huế đã khéo léo băng qua các vùng
địch kiểm soát để đến thôn Sơn Quả (Phong Điền) dự mít-tinh và tiễn đưa chồng
con, người thân lên đường đi tập kết [41, tr. 154-155]. Đặc biệt, trong ngày
25/8/1954, đông đảo nhân dân Thừa Thiên Huế, đa số là phụ nữ đã kéo đến nhà lao
Tòa Khâm biểu tình đòi trả chồng, con em họ về với gia đình. Mặc dầu chính quyền
Ngô Đình Diệm huy động lực lượng cảnh sát đến đàn áp, nhưng nhân dân tỏ thái độ
hết sức kiên quyết, không chịu lùi bước. Ngày 1/5/1955, 3 vạn người với đông đảo
phụ nữ từ các quận kéo đến Huế tham gia biểu tình tại Phu Văn Lâu kỷ niệm Ngày
quốc tế Lao động. Đoàn biểu tình đã giương cao khẩu hiệu: “Phải đắp đập Thuận
An ngăn mặn cho dân tăng gia sản xuất” cùng với nhiều khẩu hiệu khác đòi quyền
dân sinh, dân chủ, chống khủng bố, đòi thiết lập quan hệ Bắc – Nam.
Khi Ngô Đình Diệm tổ chức trưng cầu ý dân phế truất Bảo Đại để thâu tóm
quyền lực (23/10/1955), phụ nữ cùng với nhân dân đấu tranh phản đối, nhiều nơi đã
đốt, vứt thùng phiếu, tổ chức mít-tinh vạch trần bộ mặt bán nước của chúng, đòi tự
do, dân chủ, kết hợp đòi giải quyết nạn đói, đòi thả những người bị bắt. Ở Phú Vang
20
và Phú Lộc, phụ nữ tham gia rải truyền đơn với khẩu hiệu “Đả đảo Ngô Đình Diệm
độc tài và ngoan cố!”, “Phản đối trưng cầu dân ý!” [41, tr.157].
Hai là, phong trào đấu tranh chống chính sách “tố cộng” của Mỹ và chính
quyền Ngô Đình Diệm. Sau khi về cơ bản ổn định được chính quyền thống trị,
chính quyền Sài Gòn ở Thừa Thiên Huế, dưới sự chỉ đạo của Ngô Đình Cẩn đã thi
hành chính sách “tố cộng” ở cả nông thôn và thành thị rất ác liệt nhằm tiêu diệt
mầm mống cách mạng. Chính sách khủng bố của địch khiến nhiều đảng viên, cán
bộ bị bắt bớ, phong trào cách mạng gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng
phải rút vào hoạt động bí mật. Các mẹ, các chị vẫn âm thầm nuôi giấu, cưu mang
cán bộ cách mạng. Trong cuộc đấu tranh quyết liệt chống chính sách “tố cộng”, đã
xuất hiện biết bao tấm gương bất khuất của phụ nữ, như mẹ Song ở Lộc Trì (Phú
Lộc), mẹ Bàng ở Dương Hòa (Hương Thủy) đã biến nhà của mình trở thành nơi ở
và hoạt động của cán bộ Tỉnh ủy Thừa Thiên. Chị Lê Thị Vịt ở Mỹ Thủy (Hương
Thủy), chị Thái Thị Thiu ở Phong Sơn (Phong Điền) dù bị địch bắt và dùng mọi cực
hình tra tấn nhưng vẫn bất khuất không chịu khai một lời, một lòng đi theo Đảng và
cách mạng [41, tr.160 - 161].
Ba là, tham gia phong trào Đồng khởi ở miền núi 1960. Tháng 1/1959, Hội
nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết chỉ rõ: “con đường
phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính
quyền về tay nhân dân. Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì
con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của
quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị
của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền các mạng nhân dân”. Thực hiện
Nghị quyết, tháng 10/1960, Tỉnh ủy chủ trương phát động đồng khởi miền núi,
giành chính quyền về tay nhân dân, qua đó góp phần phát triển đường giao thông
chiến lược và xây dựng miền núi thành căn cứ địa vững chắc của tỉnh. Đêm
18/10/1960, đội du kích xã Phong Lâm (A Lưới) bí mật về Khe Tranh vận động
nhân dân nổi dậy giành chính quyền. Phối hợp với trận đánh của du kích vào trụ sở
xã Hương Lâm, bắt gọn một trung đội địch, chị em phụ nữ cùng với hơn 2.000 đồng
bào nơi đây đã tổ chức mít-tinh, tuyên bố chính quyền về tay nhân dân. Ngày
20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, đánh
21
dấu bước trưởng thành của cách mạng miền Nam. Ngày 21/4/1961, Ban Chấp hành
Mặt trận Đoàn kết dân tộc miền Tây Thừa Thiên Huế (thành lập tháng 10/1959)
chuyển thành Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng Thừa Thiên Huế [41, tr.164-165].
Từ miền núi, một số cán bộ, đảng viên đã về Huế và các huyện đồng bằng để móc
nối, xây dựng cơ sở cách mạng. Ở Huế, thông qua mạng lưới liên lạc viên mà nòng
cốt là chị em phụ nữ (Nguyễn Thị Đường, Chế Thị Thơm, chị Diêu, chị Vừng, chị
Sứ,…) đã nhen nhóm lại phong trào đồng bằng, bước đầu tạo thế và lực cho cách
mạng.
Bốn là, tham gia phong trào Phật giáo năm 1963, chống chính sách đàn áp
Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Trong những năm 1961 - 1965, đế
quốc Mỹ thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” mà xương sống của nó là
“quốc sách ấp chiến lược” với sự phối hợp chặt chẽ các mặt quân sự, chính trị, kinh
tế và tâm lý hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng. Cuộc đấu tranh chống chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt” diễn ra quyết liệt, tiêu biểu là phong trào Phật giáo năm
1963.
Xuất phát từ chính sách kỳ thị Phật giáo hết sức nặng nề của chính quyền Ngô
Đình Diệm mà đỉnh cao là việc triệt hạ cờ Phật giáo vào dịp lễ Phật đản năm 1963,
phong trào đấu tranh của tăng ni, Phật tử và đồng bào các giới đã bùng nổ và nhanh
chóng lan rộng khắp các đô thị miền Nam, trong đó, phụ nữ Thừa Thiên Huế là một
lực lượng tham gia đông đảo. Sáng ngày 8/5/1963, rất đông phụ nữ tham gia cuộc
rước Phật từ chùa Diệu Đế lên chùa Từ Đàm. Đoàn rước đã trương cao các khẩu
hiểu: “Yêu cầu Chính phủ thi hành chính sách bình đẳng tôn giá”, “Đả đảo những
kẻ chống lại tôn giáo, “Phản đối chính sách bất công gian ác”… Đến tối, chị em
phụ nữ cùng quần chúng bao vây Đài phát thanh Huế đòi giải quyết những yêu
sách. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã huy động xe tăng và binh lính tiến hành đàn
áp, làm 8 Phật tử thiệt mạng, trong đó có 6 nữ Phật tử và nhiều người khác bị
thương [10, 48-51]. Liên tiếp sau đó, hàng loạt cuộc biểu tình, mít-tinh của chị em
tiểu thương, nữ sinh, nữ Phật tử đòi chính quyền Ngô Đình Diệm thi hành chính
sách bình đẳng tôn giáo, ủng hộ Tuyên ngôn ngày 10/5/1963 của giới lãnh đạo Phật
giáo đã diễn ra khắp Thừa Thiên Huế. Chị em đã giương cao nhiều biểu ngữ: “Đả
đảo hành động sát nhân, vu khống; Hãy giết chúng tôi đi; Máu đã chảy, chúng tôi
22
sẵn sàng đổ máu,…” [10, tr.52]. Ngày 30/5/1963, nhiều phụ nữ đấu tranh bằng hình
thức tuyệt thực. Sáng ngày 3/6/1963, 500 sinh viên với sự có mặt của nhiều nữ sinh
biểu tình phản đối Ngô Đình Diệm. Phong trào đấu tranh của đồng bào Phật giáo ở
Huế năm 1963 đã tạo tiếng vang lớn và gây ra phản ứng dây chuyền rộng lớn đối
với phong trào đô thị miền Nam, đưa đến việc chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật
đổ (1/11/1963).
Năm là, tham gia phong trào Đồng khởi ở nông thôn, đồng bằng. Trên đà
phát triển của cuộc kháng chiến, Tỉnh ủy đã họp (2/1964) và quyết định phát động
một đợt đồng khởi nông thôn, đồng bằng. Từ cuối năm 1964 đến đầu năm 1965,
trong phong trào đồng khởi diễn ra ở nhiều nơi trong tỉnh, phụ nữ là lực lượng nòng
cốt phối hợp với bộ đội và các đội công tác vũ trang nổi dậy tiến công phá ấp chiến
lược của địch, thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng ở cơ sở và chính quyền tự
quản của nhân dân. Đặc biệt, tháng 12/1964, hàng ngàn chị em trong “đội quân tóc
dài” ở các xã Phong Hòa, Phong Bình, Phong Chương, Phong An, Phong Sơn,
Phong Thu đã bao vây quận lỵ Phong Điền tại Phò Trạch để phản đối việc địch càn
quét, chống bắn pháo vào làng, chống bắt bớ, đánh đập người dân vô tội và đòi tự
do làm ăn, buôn bán. Cuộc đấu tranh kéo dài suốt 8 ngày làm tắc nghẽn tuyến giao
thông Huế - Quảng Trị. Đây là cuộc đấu tranh có quy mô lớn, có sự hỗ trợ của lực
lượng vũ trang, có sự chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy Đảng và đã giành được thắng
lợi to lớn. Viên Quận trưởng Phong Điền đứng ra xin lỗi và ký giấy cam kết thực
hiện những yêu sách của nhân dân [41, tr.174]. Cuộc đồng khởi ở nông thôn đã hỗ
trợ cho phong trào đấu tranh của quần chúng ở thành phố. Trong tháng 8/1964, ở
Huế liên tiếp diễn ra phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, nổi bật là cuộc
hội thảo của sinh viên Huế với sự tham gia của đông đảo nữ sinh viên tại giảng
đường C (Khách sạn Morin ngày nay) vào ngày 21/8/1964, đòi xóa bỏ “Hiến
chương Vũng Tàu” của Nguyễn Khánh, được chị em tiểu thương các chợ Đông Ba,
Bến Ngự, An Cựu bãi thị hưởng ứng.
Thắng lợi của phong trào đồng khởi đã đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của
cách mạng, làm thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch ở Thừa Thiên Huế,
trong đó “đội quân tóc dài” đã đảm nhiệm xuất sắc vai trò của lực lượng xung kích
trong đấu tranh chính trị, binh vận, hỗ trợ cho đấu tranh vũ trang, góp phần tích cực
23
vào phong trào đấu tranh bằng ba mũi giáp công của quân và dân Thừa Thiên Huế,
làm thất bại “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.
1.2. Phụ nữ Thừa Thiên Huế trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
từ tháng 3/1965 đến trước ngày 31/1/1968
1.2.1. Chính sách của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở Thừa Thiên Huế từ
tháng 3/1965 đến trước ngày 31/1/1968
Đầu năm 1965, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” mà Mỹ tiến hành ở miền
Nam Việt Nam đứng trước nguy cơ bị thất bại hoàn toàn. Để cứu vãn tình hình, Nhà
Trắng quyết định thay chiến lược“Chiến tranh đặc biệt” bằng chiến lược “Chiến
tranh cục bộ”. Trong chính sách thống trị chung trên toàn miền Nam, Thừa Thiên
Huế được Mỹ và Thiệu – Kỳ xem là một điểm “nóng”, nơi mà phong trào đô thị
diễn ra hết sức sôi nổi. Chính vì vậy, ngay khi triển khai chiến lược “Chiến tranh
cục bộ”, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã thi hành nhiều chính sách trên tất cả các
lĩnh vực để ổn định tình hình ở Thừa Thiên Huế, đàn áp phong trào đấu tranh của
nhân dân, trong đó có phong trào đấu tranh của phụ nữ Thừa Thiên Huế.
1.2.1.1. Trên lĩnh vực quân sự
Biết rõ vị trí chiến lược quan trọng của Thừa Thiên Huế nên sau khi đổ quân
vào Đà Nẵng (3/1965), Mỹ đã đưa một tiểu đoàn ra đóng ở Phú Bài. Đây là căn cứ
đóng quân đầu tiên của quân viễn chinh Mỹ ở Thừa Thiên - Huế để triển khai chiến
lược “Chiến tranh cục bộ” gần vĩ tuyến 17. Mặt khác, cuối năm 1965 đầu năm
1966, Mỹ tăng cường lực lượng, cơ sở vật chất, phương tiện chiến tranh cho Phú
Bài và một số căn cứ khác như Đồng Lâm, An Lỗ,…[90, tr.438]. Như vậy, Huế
được bảo vệ vòng ngoài với nhiều căn cứ quân sự ở phía Nam và phía Bắc. Đồng
thời, Mỹ cũng cho quân viễn chinh hành quân càn quét để hỗ trợ quân đội Sài Gòn
bình định vùng nông thôn. Trong năm 1965, quân Mỹ và quân đội Sài Gòn đã tiến
hành ở Thừa Thiên Huế trên 30 cuộc hành quân đánh phá và trên 500 cuộc càn quét
của các lực lượng bình định, bảo an, dân vệ [59, tr.176].
Bên cạnh đó, Mỹ và Thiệu - Kỳ còn tìm mọi cách để đè bẹp phong trào cách
mạng của nhân dân Thừa Thiên Huế nói chung và phụ nữ nói riêng với nhiều biện
pháp như tăng cường gián điệp, mật vụ với hàng nghìn tên, đặc biệt là CIA đến Huế
núp dưới danh nghĩa là nhân viên cứu trợ xã hội, nhân viên các hiệp hội, phóng
24
viên; mở chiến dịch tâm lý chiến tấn công “Việt Cộng” về mọi mặt; củng cố liên
gia để lành mạnh hóa địa phương; kiểm kê các gia đình có thân nhân theo Việt
Cộng, v.v… Hàng ngày, “chúng tung bọn mật vụ đi lang thang dọc phố, chợ, bến
xe dò la những hoạt động của ta. Chúng cũng đã phát hiện ra một số tổ hoạt động
của Phật giáo, ly khai, nơi làm báo Sinh viên Quật khởi” [72, tr. 5].
Đến tháng 9/1966, tức sau sự kiện “Bàn Phật xuống đường”, các hoạt động
quân sự của địch được tiến hành ráo riết hơn nhằm lùng bắt những phần tử tích cực
trong phong trào đấu tranh ở thành phố và đánh phá cơ sở cách mạng của ta nhằm
khủng bố tinh thần của nhân dân, tạo tình thế ổn định giả tạo bên ngoài để lừa bịp
nhân dân thành phố đi bỏ phiếu trong ngày bầu cử Quốc hội lập hiến (11/9).
Không những thế, Mỹ và Thiệu - Kỳ còn điều một số đơn vị lính dù, lính thủy
đánh bộ và cảnh sát dã chiến trong lực lượng dự bị chiến lược từ Sài Gòn ra, tăng
cường các hoạt động kiểm soát, vây ráp, bắt bớ trong thành phố. Cụ thể là “đưa một
tiểu đoàn đóng từ Nam Giao về An Cựu, 20 cảnh sát dã chiến chốt ở Phu Văn Lâu,
một tiểu đoàn đóng Xuân Hòa và Bãi Dâu, đưa thêm 100 sĩ quan trường Thủ Đức
ra Huế hoạt động” [62, tr. 1]. Bên cạnh đó, địch “tăng cường kiểm soát các cầu
bằng cách tăng thêm lính gác, tăng ánh sáng vào ban đêm, rải lính đi tuần tiểu ở
các đường phố lớn vào ban đêm như Trần Hưng Đạo, Phan Bội Châu, Gia Hội,…
lùng ráp để bắt thanh niên đi lính, bắt lực lượng đối lập, bắt cán bộ và cơ sở của ta,
tăng giờ thiết quân luật để ngăn chặn các hoạt động của ta vào ban đêm (trước từ
12 giờ đêm đến 5 giờ sáng, nay bắt đầu từ 9 giờ đêm)” [61, tr. 3].
Đồng thời, trước sức mạnh của phong trào đô thị Huế, Mỹ và Thiệu - Kỳ tăng
cường xây dựng hệ thống phòng ngự trong thành phố, chiếm đóng khách sạn Thuận
Hóa, khách sạn Hương Giang; đẩy mạnh càn quét vùng ngoại ô; lập “vành đai
trắng” quanh đô thị và lôi kéo những phần tử lưng chừng, phản động làm hậu thuẫn
để lừa bịp nhân dân.
Sang năm 1967, để thực hiện âm mưu bình định có trọng điểm vùng ngoại ô
thành phố và muốn biến Huế cùng với vùng ngoại ô thành hậu cứ, đặc biệt là sau
những chiến thắng của ta ở La Vang, Tứ Hạ, Long Thọ và Dưỡng Mong, Mỹ và
Thiệu Kỳ tăng cường bố phòng thành phố bằng cách tăng quân với lực lượng gồm
biệt kích Mỹ, cảnh sát dã chiến, chi đoàn thiết giáp M113 và M118; đồng thời, tăng
25