ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
MAI THỊ YÊN THI
PHONG TRÀO ĐỒNG KHỞI
NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG THỪA THIÊN HUẾ
(NỬA SAU NĂM 1964 - ĐẦU NĂM 1965)
Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số: 60 22 03 13
LUẬN VĂN THẠC SĨ SỬ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. LÊ CUNG
Huế, năm 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả
nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng và
chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác
Tác giả luận văn
Mai Thị Yên Thi
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tốt khóa đào tạo Thạc sỹ (2016-2018), ngoài sự nỗ lực, cố gắng của
bản thân, tôi xin cám ơn sự quan tâm và giúp đỡ của quý thầy cô giáo khoa Lịch sử
trường Đại học Sư phạm Huế, cùng các cơ quan đơn vị: Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thừa
Thiên Huế, Chi cục Văn thư - Lưu trữ Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, Bảo Tàng
lịch sử Thừa Thiên Huế, Thư viện tổng hợp Thừa Thiên Huế, Trung tâm lưu trữ Quốc
gia II.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Lê Cung người đã tận
tình hướng dẫn tôi thực hiện và hoàn thành luận văn.
Xin cám ơn gia đình và tất cả bạn bè đã luôn hỗ trợ và động viên tôi trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Học viên thực hiện
Mai Thị Yên Thi
iii
MỤC LỤC
Trang phụ bìa................................................................................................................i
Lời cam đoan...............................................................................................................ii
Lời cảm ơn.................................................................................................................iii
Mục lục........................................................................................................................1
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................... 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 6
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 6
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ............................................................ 7
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................................ 7
7. Bố cục của luận văn ................................................................................................ 8
CHƯƠNG 1. NHỮNG NHÂN TỐ DẪN ĐẾN PHONG TRÀO ĐỒNG KHỞI
NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG THỪA THIÊN HUẾ (NỬA SAU NĂM 1964 ĐẦU NĂM 1965) ....................................................................................................... 9
1.1. KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ TRUYỀN
THỐNG ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG .................................................................. 9
1.1.1. Điều kiện tự nhiên..........................................................................................9
1.1.2. Điều kiện kinh tế – xã hội ............................................................................11
1.1.3. Truyền thống về đấu tranh cách mạng .........................................................13
1.2. ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA MỸ VÀ CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN ĐỐI VỚI
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ .................................................................................... 20
1.2.1. Về chính trị - quân sự ..................................................................................20
1.2.2. Về kinh tế - xã hội .......................................................................................25
1.2.3. Về văn hóa – giáo dục .................................................................................28
1.3. PHONG TRÀO CÁCH MẠNG THỪA THIÊN HUẾ TỪ NĂM 1954 ĐẾN
NỬA ĐẦU NĂM 1964............................................................................................. 29
CHƯƠNG 2. DIỄN BIẾN PHONG TRÀO ĐỒNG KHỞI NÔNG THÔN ĐỒNG
BẰNG THỪA THIÊN HUẾ (NỬA SAU NĂM 1964 - ĐẦU NĂM 1965) .......... 36
2.1. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG.......................................................................... 36
1
2.1.1. Chủ trương của Trung ương Đảng...............................................................36
2.1.2. Chủ trương Cục miền Nam ..........................................................................38
2.1.3. Chủ trương của Khu ủy V............................................................................39
2.1.4. Chủ trương của Tỉnh ủy Thừa Thiên ...........................................................42
2.2. DIỄN BIẾN ĐỒNG KHỞI NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG THỪA THIÊN
HUẾ (TỪ NGÀY 5/7/1964 ĐẾN 15/9/1964) .......................................................... 45
2.2.1. Huyện Phong Điền .......................................................................................45
2.2.2. Huyện Quảng Điền ......................................................................................48
2.2.3. Huyện Phú Vang ..........................................................................................50
2.2.4. Huyện Phú Lộc ............................................................................................52
2.2.5. Huyện Hương Thủy .....................................................................................54
2.2.6. Huyện Hương Trà ........................................................................................56
2.3. DIỄN BIẾN ĐỒNG KHỞI NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG THỪA THIÊN
HUẾ (TỪ 16/9/1964 ĐẾN THÁNG 3/1965) .......................................................... 59
2.3.1. Huyện Phong Điền .......................................................................................59
2.3.2. Huyện Quảng Điền ......................................................................................62
2.3.3. Huyện Phú Vang ..........................................................................................63
2.3.4. Huyện Phú Lộc ............................................................................................66
2.3.5. Huyện Hương Thủy .....................................................................................68
2.3.6. Huyện Hương Trà ........................................................................................71
2.4. CÔNG TÁC CỦNG CỐ VÀ XÂY DỰNG VÙNG GIẢI PHÓNG .............. 73
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM............... 80
3.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA PHONG TRÀO ................................................................. 80
3.1.1. Quy mô của phong trào................................................................................80
3.1.2. Hình thức và biện pháp đấu tranh của phong trào .......................................81
3.2. HẠN CHẾ ......................................................................................................... 82
3.3. Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA PHONG TRÀO ................................................... 83
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 94
PHỤ LỤC
2
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Phong trào Đồng Khởi 1959 – 1960 đã giáng đòn nặng nề vào chính sách thực
dân mới của Mĩ, làm lung lay tận gốc chính quyền Ngô Đình Diệm, đánh dấu bước
phát triển mới của cách mạng miền Nam chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế
tiến công. Trong tình hình này, đế quốc Mỹ đã triển khai chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt” ở miền Nam Việt Nam. Đảng Lao động Việt Nam chủ trương tiếp tục giữ vững
thế chiến lược tiến công, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, nổi dậy
trên cả ba vùng chiến lược, tiến công địch bằng cả ba mũi1.
Sau thất bại kế hoạch Staley - Taylor, Mỹ đã triển khai kế hoạch Johnson –
McNamara nhằm đẩy mạnh hơn nữa chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” tăng cường
viện trợ quân sự, ổn định chính quyền Sài Gòn, bình định miền Nam có trọng điểm
trong 2 năm (1964 - 1965). Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã đẩy cuộc kháng chiến của
nhân dân Việt Nam bước vào giai đoạn đầy thử thách khó khăn. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị diễn ra sôi nổi từ sau cuộc đảo
chính lật độ chế độ Ngô Đình Diệm (1/11/1963), nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế một
lần nữa đã tiến hành đồng khởi và giành thắng lợi ở nhiều vùng nông thôn và đồng
bằng (1964 - 1965), tạo thế và lực mới cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Phong trào Đồng khởi miền Nam nói chung là một trong những dấu ấn lịch sử
quan trọng, tạo bước ngoặc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975).
Tuy nhiên, trong khi phong trào Đồng khởi 1959 – 1960, hay đồng khởi ở miền núi
đã được tìm hiểu khá kĩ nhưng đồng khởi ở nông thôn đồng bằng nói chung và tỉnh
Thừa Thiên Huế nói riêng trong giai đoạn từ nửa sau năm 1964 – đầu năm 1965 lại
chưa được nghiên cứu đầy đủ. Một số khía cạnh của vấn đề tuy đã được thể hiện trong
các tạp chí, công trình chuyên khảo về phong trào Đồng khởi ở các tỉnh nói chung...
Song nhiều vấn đề nghiên cứu đặc biệt là từng địa phương chưa được làm sáng tỏ
như điều kiện bùng nổ, phương thức tiến hành, sắc thái thể hiện, tác dụng của phong
trào... Vì vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện phong trào Đồng khởi ở nông thôn
1
Ba mũi: đấu tranh chính trị, quân sự và binh vận.
3
đồng bằng tỉnh Thừa Thiên Huế (nửa sau năm 1964 - đầu năm 1965) là việc làm có
ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Về ý nghĩa khoa học, luận văn sẽ tái hiện một trong những bước ngoặt của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Thừa Thiên Huế là phong trào Đồng khởi nông
thôn đồng bằng từ nửa sau năm 1964 đến đầu năm 1965, góp phần làm sáng tỏ sự
năng động sáng tạo của Đảng bộ Tỉnh và các địa phương trong việc vận dụng đường
lối, chủ trương, chính sách của Trung ương, Khu ủy V. Bên cạnh đó cho chúng ta
thấy được tinh thần đấu tranh của lực lượng quần chúng nhân dân kiên cường, bất
khuất, tự lực, tự cường, chuyển tự bị động sang chủ động, ra sức tiến công địch giành
quyền làm chủ.
Về ý nghĩa thực tiễn, nghiên cứu phong trào Đồng khởi nông thôn đồng bằng
Thừa Thiên Huế 1964 - 1965 góp phần phục vụ cho công tác biên soạn lịch sử địa
phương, giúp người đọc có cái nhìn toàn diện về công cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước, giáo dục truyền thống yêu nước, nâng cao ý thức
đoàn kết dân tộc cho thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
giai đoạn hiện nay.
Với những ý nghĩa trên, tôi chọn vấn đề “Phong trào Đồng khởi nông thôn đồng
bằng Thừa Thiên Huế (nửa sau năm 1964 - đầu năm 1965)” làm luận văn Thạc sĩ
chuyên nhành Lịch sử Việt Nam.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Liên quan đến nội dung luận văn có một số công trình sau: BCH Đảng bộ Thừa
Thiên Huế (1995), Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế (1930 -1954), tập 2, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội; Trần Thị Thu Hương (2003), Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh
chống phá quốc sách ấp chiến lược của Mỹ - Ngụy ở Nam Việt Nam (1961 - 1965),
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội; Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (2005), Địa
chí Thừa Thiên Huế, tập 2, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế (2010), Lịch sử Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Thừa
Thiên Huế (1930 - 2010), NXB Thuận Hóa, Huế. Đây là các công trình tổng kết một
cách có hệ thống các vấn đề cơ bản của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên
4
chiến trường Thừa Thiên Huế, trong đó có phong trào Đồng khởi nông thôn đồng
bằng Thừa Thiên Huế (nửa sau năm 1964 – đầu năm 1965), cung cấp một số tư liệu
cần thiết để tôi hoàn thành luận văn. Tuy nhiên, phong trào Đồng khởi chỉ được đề
cập sơ lược.
Đặc biệt chuyên khảo của Lê Hồng Lĩnh (2006), “Cuộc Đồng khởi kỳ diệu ở
miền Nam Việt Nam”, NXB Đà Nẵng. Công trình này nghiên cứu khá toàn diện và có
hệ thống về phong trào Đồng khởi ở Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ. Tuy không đề
cập đến phong trào Đồng khởi nông thôn đồng bằng Thừa Thiên Huế (nửa sau năm
1964 – đầu năm 1965), nhưng đây là những nguồn tư liệu quý giá, gợi mở nhiều vấn
đề để tôi nghiên cứu đề tài.
Liên quan đến đề tài còn có một số công trình về lịch sử Đảng bộ các địa phương
trong tỉnh như: Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hương Thủy (1994), Lịch sử đấu
tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân huyện Hương Thủy, NXB Thuận Hóa,
Huế; Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quảng Điền (1995), Lịch sử Đảng bộ huyện
Quảng Điền, NXB Thuận Hóa, Huế; Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hương Trà
(1998), Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Trà (1937 - 1975), NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội; Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Phú Lộc (1998), Lịch sử Đảng bộ huyện Phú
Lộc (1930 - 1975), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội; Ban Chấp hành Đảng bộ huyện
Phong Điền (1999), Lịch sử Đảng bộ huyện Phong Điền (1930 - 1995), NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội; Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Phú Vang (1999), Đảng bộ
huyện Phú Vang 65 năm đấu tranh và xây dựng (1930 - 1995), NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội. Các công trình này ít nhiều đều có sự tái hiện quá trình đồng khởi cụ thể
của từng địa phương, đồng thời làm rõ vai trò của Đảng bộ các địa phương trong việc
đề ra chủ trương, biện pháp trong việc lãnh đạo nhân dân tiến hành đồng khởi.
Ngoài ra, còn có khóa tốt nghiệp “Phong trào Đồng khởi ở đồng bằng Trị Thiên giai đoạn 1964 - 1965” (2010), tác giả Lê Văn Huế, Đại học Sư phạm Huế;
“Phong trào Đồng khởi ở nông thôn đồng bằng Quảng Nam – Đà Nẵng trong kháng
chiến chống Mỹ giai đoạn 1964 - 1965” (2012), tác giả Nguyễn Thị Hoàng Vũ, Đại
học Sư phạm Huế và luận văn Thạc sĩ “Phong trào Đồng khởi ở nông thôn đồng bằng
Quảng Trị (1964 - 1965)” (2012), tác giả Viên Thị Trang, Đại học Sư phạm Huế; các
5
chuyện kể của các nhân chứng tại các địa phương đã cung cấp nhiều vấn đề thuộc
phạm vi đề tài.
Tuy nhiên, phong trào Đồng khởi nông thôn đồng bằng Thừa Thiên Huế (nửa
sau năm 1964 – đầu năm 1965) cho đến nay vẫn chưa có một công trình chuyên khảo
nào nghiên cứu, khảo sát một cách có hệ thống và toàn diện.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Phong trào Đồng khởi ở nông thôn đồng bằng tỉnh Thừa Thiên Huế (nửa sau
năm 1964 - đầu năm 1965).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Nghiên cứu phong trào diễn ra ở nông thôn đồng bằng tỉnh Thừa
Thiên Huế.
Về thời gian: Từ nửa sau năm 1964 đến đầu năm 1965. Cụ thể là từ 5/7/1964
ngày mở đầu phong trào Đồng khởi ở Thừa Thiên Huế đến tháng 3/1965 thời điểm
kết thúc phong trào Đồng khởi nông thôn đồng bằng Thừa Thiên Huế. Tuy nhiên,
trong quá trình thực hiện luận văn, để làm rõ một số nội dung, luận văn có thể mở
rộng thêm thời gian về phía trước hay phía sau mốc phân định trên.
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn khôi phục lại bức tranh về phong trào Đồng khởi ở nông thôn đồng
bằng tỉnh Thừa Thiên Huế (nửa sau năm 1964 - đầu năm 1965). Qua đó làm rõ một
số nét đặc thù; đồng thời khẳng định vị trí, tầm vóc của phong trào này đối với tiến
trình phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Thừa Thiên Huế.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau:
Làm rõ bối cảnh lịch sử, nhân tố dẫn đến phong trào Đồng khởi ở nông thôn
đồng bằng Thừa Thiên Huế từ nửa sau năm 1964 đến đầu năm 1965, tái hiện một
cách có hệ thống về diễn biến của phong trào, làm rõ nghệ thuật chỉ đạo và tổ chức
thực hiện Đồng khởi ở nông thôn đồng bằng Thừa Thiên Huế. Từ đó, rút ra các đặc
điểm, kết quả và ý nghĩa phong trào Đồng khởi ở Thừa Thiên Huế đối với cuộc kháng
6
chiến chống Mỹ, cứu nước; đồng thời đúc kết bài học kinh nghiệm cho công tác vận
động quần chúng trong giai đoạn hiện nay.
5. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Nguồn tài liệu
Để thực hiện luận văn, chúng tôi tiếp cận từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau gồm
các văn kiện Đảng từ Trung ương xuống tỉnh, thành phố, huyện, xã Thừa Thiên Huế;
một số công trình nghiên cứu lịch sử địa phương ở Thừa Thiên Huế đã được công bố;
các sách, báo, tạp chí đã xuất bản. Đây là nguồn tư liệu quan trọng vì ít nhiều đề cập
đến các sự kiện cơ bản liên quan đến nội dung luận văn.
Đặc biệt, tôi đã tập trung khai thác nguồn tài liệu tại Chi cục Văn thư - Lưu trữ
Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế; thư viện Tổng hợp tỉnh Thừa Thiên Huế;
Trung tâm lưu trữ Quốc gia II,... Các nguồn tài liệu này bao gồm những báo cáo, nghị
quyết, biên bản, chỉ thị, kiến nghị, công điện,... Đây là nguồn tư liệu chủ yếu để tôi
hoàn thành luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic; trình bày
nội dung từng vấn đề theo diễn tiến thời gian. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số
phương pháp khác như so sánh, phân tích, tổng hợp, phỏng vấn… nhằm đạt được kết
quả nghiên cứu cao nhất.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Một là, phản ánh một cách toàn diện, khách quan, có hệ thống về phong trào
Đồng khởi ở nông thôn đồng bằng tỉnh Thừa Thiên Huế (từ nửa sau năm 1964 đến
đầu năm 1965).
Hai là, rút ra đặc điểm, đánh giá một cách khách quan, khoa học về tác động và
tầm vóc của Đồng khởi ở nông thôn đồng bằng Thừa Thiên Huế (từ nửa sau năm
1964 đến đầu năm 1965) đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung
và Thừa Thiên Huế nói riêng.
Ba là, những bài học kinh nghiệm được đúc kết qua nghiên cứu vấn đề này có
thể kế thừa và phát triển trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
7
Bốn là, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ bổ sung nguồn tư liệu, góp phần
phục vụ công tác nghiên cứu, biên soạn và giảng dạy lịch sử địa phương ở các bậc
học trên địa bàn Thừa Thiên Huế. Thông qua đó, góp phần giáo dục truyền thống yêu
nước, nâng cao ý thức đoàn kết dân tộc cho thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu (6 trang), Kết luận (3 trang), Tài liệu tham khảo (7 trang)
và Phụ lục (20 trang), nội dung luận văn dài 82 trang gồm 3 chương:
Chương 1: Những nhân tố dẫn đến phong trào Đồng khởi ở nông thôn đồng
bằng tỉnh Thừa Thiên Huế (nửa sau năm 1964 - đầu năm 1965) (27 trang)
Chương 2: Diễn biến phong trào Đồng khởi ở nông thôn đồng bằng tỉnh Thừa
Thiên Huế (nửa sau năm 1964 - đầu năm 1965) (44 trang)
Chương 3: Một số nhận xét và bài học kinh nghiệm (11 trang)
8
CHƯƠNG 1
NHỮNG NHÂN TỐ DẪN ĐẾN PHONG TRÀO
ĐỒNG KHỞI NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG THỪA THIÊN HUẾ
(NỬA SAU NĂM 1964 - ĐẦU NĂM 1965)
1.1. KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ TRUYỀN
THỐNG ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý: Thừa Thiên - Huế là một tỉnh ven biển nằm ở vùng Bắc Trung Bộ
Việt Nam, diện tích tự nhiên là 5.053,99 km2 [89, tr. 11], nằm ở tọa độ địa lý từ 16
đến 16o8 vĩ độ Bắc và 107o8 đến 108o2 kinh độ Đông. Phía Đông giáp biển Đông với
chiều dài biển là 120 km , phía Tây giáp với nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào,
phía Bắc giáp tỉnh Quảng Trị, phía Nam giáp tỉnh Quảng Nam.
Thừa Thiên Huế cách Hà Nội 669 km và cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng
1000 km. Thừa Thiên Huế có biển Thuận An và cảng Chân Mây, cảng hàng không
Phú Bài nằm sát quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt chạy dọc theo tỉnh, phía tây có
cửa khẩu Hồng Vân – A Đớt (A Lưới). Đây là điều kiện rất thuận lợi để Thừa Thiên
Huế mở rộng hợp tác kinh tế trong khu vực, giao thương hàng hóa, vận tải quốc tế,
phát triển thương mại, du lịch, dịch vụ.
Địa hình: Vùng rừng núi chiếm khoảng 1/4 diện tích, vùng trung du chiếm
khoảng 1/2 diện tích, độ cao phần lớn dưới 500 m, có đặc điểm chủ yếu là đỉnh rộng,
sườn thoải và phần lớn là đồi bát úp, với chiều rộng vài trăm mét. Diện tích vùng
đồng bằng chiếm khoảng 1.400 km2. Dọc theo Quốc lộ I về phía Nam có các đèo
Phước Tượng, Phú Gia, Hải Vân.
Sông ngòi ở đây khá dày đặc, quan trọng nhất là sông Hương, sông Bồ, sông
Truồi, Lợi Nông… Đây là nguồn cung cấp phù sa và nước tưới hàng năm cho vùng
đồng bằng.
Khí hậu ở Thừa Thiên Huế mang tính chất chuyển tiếp từ á xích đới lên nội chí
tuyến gió mùa. Thời tiết chỉ lạnh khi gió mùa Đông Bắc tràn về và khô khi có ảnh
9
hưởng của gió Lào. Thời tiết lạnh là thời kỳ ẩm vì mùa mưa ở đây lệch về Thu Đông.
Sang mùa hạ tuy thời tiết khô nhưng thỉnh thoảng vẫn có mưa rào hoặc mưa giông.
Tài nguyên khoáng sản: Trên lãnh thổ Thừa Thiên Huế đã phát hiện được 120
mỏ, điểm khoáng sản với 25 loại khoáng sản, tài nguyên nước dưới đất, phân bố đều
khắp, trong đó chiếm tỷ trọng đáng kể và có giá trị kinh tế là các khoáng sản phi kim
loại và nhóm vật liệu xây dựng.
Địa giới hành chính: Thừa Thiên Huế xưa thuộc 2 Châu Ô, Lý mà vua Chămpa
(Chế Mân) cắt dâng cho Đại Việt vào năm 1306 để cưới công chúa Huyền Trân. Thời
nhà Trần, Nhà nước đã chia các đơn vị hành chính dưới trung ương thành 9 lộ, 4 phủ,
7 trấn. Thừa Thiên Huế thuộc Trấn Thuận Hóa. Thời vua Lê Thánh Tông, chia cả
nước thành 12 đạo thừa tuyên. Các đơn vị hành chính trực thuộc dưới cấp trung ương
là thừa tuyên được đổi thành xứ. Thừa Thiên Huế thuộc xứ Thuận Hóa (bao gồm:
Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế).
Đến thời chúa Nguyễn, Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong. Cuối năm 1788,
Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế ở núi Bân, chọn Phú Xuân làm kinh đô. Năm 1802,
sau khi lên ngôi, vua Gia Long chia cả nước thành 23 trấn và 4 dinh, Thừa Thiên Huế
ngày nay thuộc dinh Quảng Đức. Từ năm 1831-1832, Vua Minh Mạng lần đầu tiên
chia cả nước thành 31 đơn vị hành chính cấp tỉnh gồm 30 tỉnh và 01 phủ, Thừa Thiên
Huế ngày nay là phủ Thừa Thiên.
Thời Pháp thuộc, Thừa Thiên Huế thuộc Trung Kỳ. Từ 1945 - 1954, Thừa Thiên
Huế thuộc Trung Bộ. Sau hiệp định Genève, Thừa Thiên Huế thuộc chính quyền Việt
Nam Cộng hòa quản lý. Cuối năm 1961, các Quân khu được cải tổ thành các Vùng
chiến thuật. Quân khu 1 được cải tổ thành Vùng 1 chiến thuật, địa bàn của Vùng 1
được tổ chức thành các Khu chiến thuật: Khu 11 chiến thuật gồm 2 tỉnh Quảng Trị,
Thừa Thiên.
Sau khi đất nước thống nhất, năm 1976 theo quyết định của Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tỉnh Quảng Bình, khu vực Vĩnh Linh, Quảng
Trị và Thừa Thiên Huế được gộp thành tỉnh Bình Trị Thiên. Năm 1989, tỉnh Bình Trị
Thiên tách ra làm 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế như ngày nay.
Đến nay, toàn tỉnh gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 6 huyện: thành phố Huế, thị xã Hương
10
Trà, Hương Thủy và các huyện: Phong Điền, Quảng Điền, Phú Vang, Phú Lộc, Nam
Đông, A Lưới.
Điều kiện về địa lý tự nhiên của Thừa Thiên Huế có những thuận lợi và khó
khăn tác động rất lớn trong việc phát triển kinh tế, văn hóa. Đặc biệt Thừa Thiên Huế
là tỉnh tiếp nối hai đầu Nam – Bắc có ảnh hưởng đến các cuộc kháng chiến chống
chống ngoại xâm của nhân dân nơi đây nói riêng và cả nước nói chung.
1.1.2. Điều kiện kinh tế – xã hội
1.1.2.1. Điều kiện kinh tế
Nông nghiệp: Từ năm 1955, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đã thực hiện
“Cải cách điền địa” thực chất là thu lại và trả cho chủ cũ tất cả các vùng đất của địa
chủ mà Việt Minh đã tịch thu không bồi thường chia cho các tá điền, những vùng đất
bị bỏ lại mà nông dân địa phương đã chiếm, mua lại tất cả tài sản từng thuộc về người
Pháp. Những nông dân bị chính phủ thu hồi đất trả cho chủ cũ trở thành người không
có đất. Những mảnh đất này sau đó được chính phủ mua rồi bán lại cho nông dân.
Rất nhiều đất được bán hoặc cấp cho những người di cư từ miền Bắc thay vì nông
dân miền Nam. Ở Thừa Thiên Huế việc lấy đất lại hầu như 100 %.
Nằm trong vùng địch kiểm soát, Thừa Thiên Huế trở thành một tỉnh tiêu thụ,
sống phụ thuộc vào viện trợ Mỹ. Chiến tranh đã gây nên cảnh đốt phá, cày ủi san
bằng nông thôn, biến nhà cửa ruộng vườn thành những cánh đồng hoang hóa, ngập
cỏ dại lẫn nhiều mìn và mảnh bom đạn, tàn phá đê đập.
Nông dân có thể mua giống, phân bón, thuốc trừ sâu, thuê máy bơm thuốc tại
các cửa hàng đại lý bán lẻ của các hàng nhập khẩu được mở ngay trong xã, sau đó
phải thanh toán bằng tiền hoặc thóc.
Lâm nghiệp: Những tháng thiếu việc làm người dân thường đổ xô lên rừng đốn
cây, hạ gỗ, làm củi. Chính vì vậy dẫn đến những người thợ rừng tăng lên.
Phương thức khai thác thô sơ, chặt cây bằng thủ công, vận chuyển bằng sức trâu
hay sức người. Do đó, trong những năm 60 của thế kỷ trước hầu như rừng đã bị khai
thác và tàn phá bởi con người và chiến tranh, diện tích rừng ngày càng giảm. Cuộc
sống của người dân Thừa Thiên Huế lại thêm phần khó khăn.
11
Ngư nghiệp: Trong đánh bắt thủy hải sản, ngư dân đã biết tiếp thu tiến bộ khoa
học kĩ thuật như sử dụng ghe thuyền có gắn động cơ, dùng lưới bằng sợi nylon. Vì
vậy, mặc dù chiến tranh đang xảy ra nhưng sản lượng đánh bắt vẫn tiếp tục tăng. Tuy
nhiên, đời sống của ngư dân không được tăng lên mấy do phải làm công, làm thuê,
hoặc phải thuê ngư cụ, bị ăn chặn nhiều khâu nên thu nhập không cao. Sản lượng
đánh bắt thủy sản năm 1964 đạt 5.420 tấn [77, tr. 142] đến năm 1965 tăng lên 7.076
tấn [77, tr. 142]. Mặc dù sản lượng khai thác tăng nhưng nhìn chung ngư dân vẫn còn
đời sống bấp bênh, thiếu thốn.
Tiểu thủ công nghiệp - Công nghiệp: Các nhà máy sản xuất công nghiệp tuy có
hoạt động nhưng phần lớn phục vụ cho nhu cầu chiến tranh. Do hàng hóa sản xuất
công nghiệp có giá thành hạ đã làm cho hoạt động tiểu thủ công nghiệp không phát
triển được mấy.
Các ngành tiểu thủ công nghiệp truyền thống cũng bị mai một dần. Tuy nhiên
một số nghề nổi tiếng vẫn tồn tại và phát triển, như nghề đan lát ở Bao La; nghề gốm
ở Phước Tích; nghề dệt ở làng dệt Mỹ Lợi cũng rất nổi tiếng; các nghề chằm nón,
mộc, nề, đan lát cũng được duy trì. Một số nghề thủ công mỹ nghệ cũng có điều kiện
phát triển ở Huế như chạm ngà, khảm xà cừ, đồ gỗ, bịt vàng bạc...
Do chính quyền Sài Gòn tiến hành kế hoạch bình định, phá hoại mùa màng tài
sản của quần chúng, bao vây kinh tế, gây khó khăn cho nhân dân trong sản xuất, mua
bán vận tải... Tuy nhiên, nhân dân có trình độ chính trị khá, tin tưởng vào sự lãnh đạo
của Đảng. Cuối những năm 1964 – đầu năm 1965, vùng căn cứ của ta rộng lớn có sự
viện trợ kinh tế của miền Bắc nên có thể khắc phục một số khó khăn trước mắt. Các
tổ chức đoàn kết tương trợ sản xuất đang phát triển mạnh, giúp cho nông dân vào con
đường làm ăn tập thể, để tăng năng xuất lao động đảm bảo vừa sản xuất vừa phục vụ
cách mạng.
1.1.2.2. Điều kiện xã hội
Sau khi thay chân Pháp ở Việt Nam, Mỹ vội vàng đưa Ngô Đình Diệm ở nước
ngoài về làm Thủ tướng rồi làm Tổng thống, dựng lên ở miền Nam bộ máy chính
quyền độc tài phát xít.
12
Ngô Đình Diệm đã liên tục đưa ra những hoạt động chống phá cách mạng để
củng cố bộ máy chính quyền như cưỡng ép di cư, chính sách “Tố cộng”, “Cải cách
điền địa”, lập “Khu dinh điền”, lập “Ấp chiến lược”… Tất cả những điều đó đã có tác
động không nhỏ đến tình hình dân số của Tỉnh lúc này.
Tình hình dân cư có những biến động. Từ năm 1963, dân số Thừa Thiên Huế là
553.100 người [76, tr. 80] nhưng đến năm 1964 đã giảm xuống còn 461.900 người
[76, tr. 80] đến năm 1965 có tăng lên nhưng không đáng kể là 472.300 người [76, tr.
80]. Qua sự thay đổi về dân số cho ta thấy rằng đã có nhiều yếu tố tác động như tình
hình chính trị, xã hội, quân sự tại Thừa Thiên Huế có những biến động.
Nguyên nhân của việc giảm dân số do chết tự nhiên, hoặc do các chiến sĩ, bộ
đội phải tập kết ra Bắc theo điều khoản quy định của Hiệp định Genève hoặc do hậu
quả đánh phá của địch đối với các xã có phong trào kháng chiến đấu tranh mạnh....
Nguyên nhân của việc tăng là do sinh đẻ, do thủ đoạn chính trị chính quyền miền
Nam đã thực hiện chính sách cưỡng ép di cư những người công giáo từ Bắc vào Nam
và định cư tại Thừa Thiên Huế.
Từ điều kiện về kinh tế và xã hội cho ta thấy rằng nó đã có một tác động không
nhỏ đến ý thức của nhân dân, họ đã bị chèn ép, bị bóc lột nên đời sống của họ không
được cải thiện mà càng khó khăn hơn. Chính vì vậy, lòng căm thù giặc, muốn đất
nước được giải phóng, hòa bình, có cuộc sống khấm khá hơn đã thúc đẩy họ tham gia
đấu tranh với nhiều hình thức. Đây chính là điều kiện cần và đủ để dẫn đến một cuộc
đồng khởi ở Thừa Thiên Huế nửa sau năm 1964 – đầu năm 1965.
1.1.3. Truyền thống về đấu tranh cách mạng
Cũng như nhân dân cả nước, truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân
Huế đã được hình thành từ rất sớm.
1.1.3.1. Phong trào yêu nước trước năm 1930
Sau khi Chế Mân chết, công chúa Huyên Trân trở về Đại Việt, lấy cớ này các
vua kế vị Chế Mân đem quân đánh châu Thuận và châu Hóa, các vua Trần đã phải
nhiều lần cử quân đi đánh dẹp, đề ra nhiều đối sách như giao việc trấn giữ châu Hóa
cho các trọng thần hay hoàng thân. Năm 1377, với sự kiện vua Trần Duệ Tông tử trận
vì mắc mưu trá hàng của vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga, quân Chiêm Thành đã
13
chiếm châu Thuận, châu Hóa, châu Tân Bình và Nghệ An trong suốt 12 năm, cho đến
khi Chế Bông Nga bị quân Đại Việt bắn chết, quân Chiêm Thành tan vỡ, rút quân
khỏi vùng đất này. Năm 1418, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thanh Hóa),
nhân dân Thuận Hóa lại tiếp tục hưởng ứng cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm
lược.
Phong trào Tây Sơn sau khi chiếm được Quy Nhơn (Bình Định) đã tiếp tục tiến
quân ra Thuận Hóa. Ngày 20/6/1786, quân Tây Sơn đánh thành Phú Xuân. Nhân dân
vùng Thuận Hóa đã tham gia đội quân “áo vải cờ đào” để tiếp tục đấu tranh lật đổ
chính quyền phong kiến mục nát của chúa Nguyễn và chính quyền vua Lê – chúa
Trịnh, đập tan âm mưu xâm lược nhà Thanh.
Ngày 1/9/1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha nổ súng tấn công cửa biển Đà
Nẵng. Nhân dân Thừa Thiên và triều đình Huế tích cực chuẩn bị cùng nhân dân cả
nước kháng chiến chống Pháp. Tuy nhiên, về sau triều đình lại không còn đủ quyết
tâm, chống lại nhân dân để thỏa thuận thương lượng với Pháp. Ngay tại kinh đô Huế,
phái chủ chiến và dân chúng lên án thái độ đầu hàng của triều đình, mọi nơi cùng
nhau đoàn kết và chiêu mộ nhân dân để tự mình chống Pháp.
Dựa vào phong trào kháng chiến của nhân dân, phái chủ chiến đại diện là Tôn
Thất Thuyết mạnh tay hành động. Đêm mồng 4 rạng sáng 5/7/1885, Tôn Thất Thuyết
và lực lượng chủ chiến đã ra tay trước. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, song
do chuẩn bị vội vã, thiếu chu đáo nên sức chiến đấu của quân dân nhanh chóng tan
rã. Rạng sáng 5/7, quân Pháp phản công và tàn sát nhân dân vô cùng man rợ.
Sau sự kiện Kinh đô thất thủ ngày 23/5 năm Ất Dậu (5/7/1885), Tôn Thất Thuyết
hộ giá vua Hàm Nghi tới Sơn phòng Tân Sở Quảng Trị. Tại đây, ngày 2/6 năm Ất
Dậu (13/7/1885) vua Hàm Nghi đã hạ dụ Cần Vương kêu gọi nhân dân kháng Pháp.
Phong trào Cần Vương đã bùng nổ mạnh mẽ khắp Trung Kỳ và Bắc Kỳ kéo dài từ
1885 đến 1896.
Hưởng ứng dụ Cần Vương, tại Thừa Thiên, Đặng Huy Cát (8/1885) tập hợp
nghĩa sĩ của hai huyện Hương Trà, Quảng Điền ngăn chặn việc bắt lính của triều đình,
bắt giam phái viên của huyện Quảng Điền, tập kích vào huyện nha Quảng Điền. Do
lực lượng khởi nghĩa không nhiều lại thiếu kế hoạch cụ thể nên nhanh chóng thất bại.
14
Năm 1916, nhân dân hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của vua Duy Tân. Đến ngày
hành động nhưng kế hoạch bị lộ, vua Duy Tân bị Pháp bắt đi đày, Trần Cao Vân,
Thái Phiên bị thực dân Pháp hành hình. Phong trào đấu tranh của nhân dân trong tỉnh
tạm thời lắng xuống.
Năm 1925, Phan Bội Châu bị bắt ở Thượng Hải, thực dân Pháp đưa cụ về giam
tại Hỏa Lò, Hà Nội. Trên cả nước nói chung, Thừa Thiên Huế nói riêng đã bùng phát
phong trào đòi thả Phan Bội Châu. Trước áp lực mạnh mẽ của quần chúng, ngày
24/12/1925 bản án được hủy bỏ, chính quyền thực dân đưa cụ về giam lỏng ở Huế.
Ngày 24/3/1926 nhà chí sĩ Phan Chu Trinh qua đời tại Sài Gòn. Nhiều cuộc truy
điệu để tang Phan Chu Trinh được tổ chức ở Huế để tuyên truyền về lòng yêu nước
thu hút đông đảo nhân dân tham gia.
Phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân Thừa Thiên Huế tiếp tục phát
triển trong những năm 1926 - 1927, nổi bật là phong trào bãi khóa của trường Kỹ
nghệ Thực hành, trường Quốc Học.
Phong trào yêu nước còn diễn ra sôi nổi trên lĩnh vực báo chí và nghị trường.
Trong Viện Dân biểu Trung Kỳ đã có đại biểu của nhân dân: Huỳnh Thúc Kháng,
Nguyễn Đăng Quế...
1.1.3.2. Phong trào cách mạng từ năm 1930 đến năm 1945
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào ngày 3/2/1930. Tháng 4/1930, Tỉnh
Đảng bộ Thừa Thiên được thành lập do đồng chí Lê Viết Lượng làm Bí thư. Vừa ra
đời Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh trong phong trào cách mạng 1930 - 1931.
Phương hướng công tác trong giai đoạn này của Tỉnh Đảng bộ Thừa Thiên là:
tuyên truyền, giải thích sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân ý nghĩa của việc thành
lập Đảng Cộng sản Việt nam và Đảng bộ Tỉnh; tăng cường vận động, giác ngộ lý
tưởng cách mạng trong các tầng lớp nhân dân; phát động phong trào đấu tranh đòi
những quyền lợi thiết thực hàng ngày; kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1-5 bằng một
đợt hoạt động kéo dài trong 15 ngày (từ 22/4 đến 7/5/1930).
Trong bối cảnh phong trào cách mạng diễn ra sôi nổi trong cả nước mà đỉnh cao
là Xô Viết Nghệ - Tĩnh, trong các ngày 4, 12, 13, 16 và 28/9/1930, tại Thừa Thiên
Huế, Tỉnh uỷ đã mở một đợt tuyên truyền rộng rãi đưa tin về cuộc đấu tranh của nhân
15
dân Nghệ - Tĩnh, tố cáo hành động khủng bố dã man của thực dân Pháp. Truyền đơn
được rải khắp nơi trong nội thành Huế kêu gọi ủng hộ Nghệ - Tĩnh. Ngày 30/9/1930,
Tỉnh uỷ Thừa Thiên Huế vạch kế hoạch đẩy mạnh cuộc vận động “bênh vực Nghệ An
đỏ”.
Từ năm 1936 đến năm 1939, phong trào dân sinh, dân chủ diễn ra sôi nổi và
mạnh mẽ. Đảng bộ Tỉnh đã đẩy mạnh hoạt động xây dựng lại phong trào, tiến hành
cuộc vận động Đông Dương Đại hội, thu thập nguyện vọng của các tầng lớp nhân
dân gửi lên phái đoàn điều tra của chính phủ Pháp. Trong dịp Godart, phái viên của
chính phủ Pháp sang điều tra tình hình Đông Dương, các tổ chức Đảng ở Thừa Thiên
Huế đã mở cuộc tuyên truyền vận động, vạch kế hoạch đón Godart để đưa bản “dân
nguyện”.
Từ năm 1939 đến ngày Nhật đảo chính Pháp 9/3/1945, phong trào ở Huế từ đấu
tranh công khai chuyển sang hoạt động bí mật. Bởi thực dân Pháp phát xít hóa bộ
máy cai trị ở Đông Dương. Nhiều chiến sĩ cách mạng bị bắt và bị tra tấn dã man
nhưng vẫn chiến đấu rất dũng cảm. Đêm mồng 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp độc
chiếm Đông Dương. Ngày 19/3/1945, Viện Cơ Mật do Phạm Quỳnh đứng đầu xin từ
chức. Bảo Đại theo lệnh của Nhật thành lập nội các mới, ngày 17/4/1945, chính phủ
Trần Trọng Kim ra đời.
Ngày 23/5/1945, Hội nghị Cán bộ toàn tỉnh dưới sự chủ trì của Bí thư Tỉnh ủy
(Lâm thời) Nguyễn Sơn họp ở đầm Cầu Hai (Phú Lộc) đưa ra một số chủ trương: “Ra
sức chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng cùng cả nước khởi nghĩa giành chính quyền khi có
thời cơ; khẩn trương mở rộng khối đại đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh; phân biệt
giữa Việt gian thân Nhật và những người vì chưa hiểu mà tham gia các tổ chức Chính
phủ Trần Trọng Kim để có sự phân hóa và lôi kéo, vận động những người yêu nước
tham gia Việt Minh; xây dựng và phát triển tổ chức tự vệ, dùng những vũ khí tự tạo,
sẵn sàng bảo vệ sự nghiệp cách mạng” [75, tr. 318]
Sau hội nghị, các cán bộ trở về phụ trách các địa bàn được phân công và thực
hiện các chủ trương đã đề ra. Phong trào cách mạng trong toàn tỉnh từng bước đi lên
và phát triển. Tháng 7/1945, Thường vụ Việt Minh tỉnh triệu tập tại Ngoẹo Giàn Xay
(An Cựu) nhận định thời cơ cách mạng đang đến gần. Vì vậy, cần phải huy động toàn
16
dân nổi dậy giành chính quyền. Ngày 15/8/1945, Hội nghị Cán bộ toàn tỉnh tại nhà
ông Tô Huấn và bà Phan Thị Luận ở 46 Giáp Hạ (Phú Bình, Huế) chủ trương phát
động khởi nghĩa toàn tỉnh, quyết định chọn huyện Phú Lộc làm thí điểm để rút kinh
nghiệm. Phong trào của nhân dân với nhiều hình thức đấu tranh vũ trang, chính trị,
binh vận được đẩy mạnh làm bộ máy chính quyền bù nhìn bị tê liệt. Từ 18 đến ngày
22/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa các huyện phát động quần chúng giành chính quyền.
Thắng lợi ở Phong Điền và Phú Lộc đã tạo nhiều động lực, bàn đạp để 4 huyện còn
lại vùng lên mạnh mẽ. Ngày 23/8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở
Huế đã kết thúc thắng lợi.
16 giờ ngày 23/8/1945, tại Sân vận động Huế một cuộc mit-tinh lớn được tổ
chức. Thay mặt Ủy ban khởi nghĩa, Tố Hữu đã nêu rõ ý nghĩa, tầm vóc của cuộc khởi
nghĩa, tuyên bố từ nay chính quyền thuộc về tay nhân dân.
Chiều ngày 30/8/1945, lễ thoái vị của vua Bảo Đại đã được diễn ra tại Ngọ Môn
chấm dứt triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam. Nhân dân Thừa Thiên Huế từ
đây thực sự làm chủ được cuộc sống, làm chủ quê hương mình. Như vậy, dưới sự
lãnh đạo của Trung ương Đảng và Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế cuộc khởi nghĩa
giành chính quyền về tay nhân dân đã kết thúc thắng lợi.
1.1.3.3. Phong trào cách mạng từ năm 1945 đến năm 1954
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, cùng với nhân dân cả nước,
nhân dân Thừa Thiên Huế bắt tay xây dựng lại quê hương.
Chính quyền cách mạng vừa mới thành lập đã phải đối đầu với muôn vàn khó
khăn thử thách. Trong toàn tỉnh, nạn đói, nạn mù chữ, các tệ nạn xã hội còn phổ biến,
đời sống vô cùng thiếu thốn, lạc hậu. Ngay sau cách mạng tháng Tám năm 1945,
trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ (3/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nêu 3 chủ trương lớn: Diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm [75, tr.
331].
Trên mặt trận cứu đói, chính quyền cách mạng Thừa Thiên Huế cùng với Mặt
trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc vận động nhân dân hưởng ứng lời kêu gọi
của Hồ Chủ tịch. Phong trào quyên góp, tổ chức “Ngày đồng tâm”, “Hũ gạo cứu
17
đói”... được phát động mạnh mẽ, chính quyền cách mạng còn phát động phong trào
tăng gia sản xuất để giải quyết nạn đói tận gốc.
Đi đôi với công tác chống giặc đói là chống giặc dốt, từ tỉnh, huyện đến các làng
xã đều thành lập Ban Bình dân học vụ chuyên lo xoá mù chữ cho dân. Sau gần một
năm ở Thừa Thiên Huế đã có hàng vạn người thoát nạn mù chữ. Xã Phú Hương (nay
là Vinh Thanh) là xã thanh toán nạn mù chữ đầu tiên của huyện Phú Vang [75, tr.
333].
Để giải quyết những khó khăn của nền tài chính nước nhà, tại Thừa Thiên Huế,
nhân dân, công chức, bộ đội, công nhân... tích cực tham gia “Tuần lễ vàng”, “Tuần
lễ đồng”. Chỉ trên dưới một tuần lễ với sự nhiệt tình của quần chúng, thành phố Huế
đã thu được 945 lượng vàng, 6 huyện đóng góp trên 10kg vàng (1kg vàng = 26,66
lượng) [75, tr. 332].
Những thắng lợi đầu tiên trong việc chống giặc đói, giặc dốt, xây dựng nền tài
chính... trên toàn tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc củng cố hệ thống chính trị
của chế độ mới.
Ngày 19/12/1946, Thường vụ Tỉnh ủy đã họp phiên mở rộng, quán triệt chủ
trương đường lối kháng chiến của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch, đồng thời thông
qua kế hoạch tác chiến theo chủ trương của Xứ ủy Trung Bộ và Ủy ban Kháng chiến
Hành chính Trung Bộ.
Đúng 2 giờ 30 phút, ngày 20/12/1946, chiến dịch Huế mở màn. Quân dân ta đã
bao vây địch suốt 50 ngày đêm trong thành phố Huế. 50 ngày đêm quân và dân Thừa
Thiên Huế chiến đấu anh dũng, ngoan cường, thu và phá huỷ nhiều vũ khí, phương
tiện chiến tranh của chúng.
Đầu tháng 2/1947, cuộc kháng chiến của quân và dân ta gặp vô vàn khó khăn,
thử thách. Sau khi chiếm được Huế, thực dân Pháp nhanh chóng triển khai lực lượng
đánh chiếm những trọng điểm quan trọng, đánh rộng ra vùng ngoại ô, rồi tràn ra khắp
vùng đồng bằng các huyện Hương Thủy, Hương Trà, Phú Vang, Phú Lộc.
Ngày 24/3/1947, trung đoàn chủ lực Trần Cao Vân tổ chức đánh đồn Hộ Thành
thắng lợi, sau đó tiếp tục đột kích đồn Đất đỏ (29/3/1947). Các đội cảm tử quân của
hai huyện Hương Thủy và Phú Vang tấn công tập kích vào đồn Sư Lỗ giành thắng
18
lợi ngay giữa đồng bằng. Ngày 5/7/1947, lực lượng vũ trang Hương Thủy phối hợp
với tiểu đoàn 18 trung đoàn Trần Cao Vân phục kích quân Pháp đi càn ở Võ Xá, diệt
33 tên, bắt 16 tên, thu nhiều vũ khí.
Sang năm 1948, ngoài những trận đánh có quy mô khá lớn như trận tiến công
tiêu diệt đồn Mỹ Lợi (26/7/1948), đồn Hà Thành (8/7/1948), còn có những hoạt động
kháng chiến ở thành phố Huế do Đội Công an danh dự của tỉnh và Hội học sinh kháng
chiến Thuận Hóa tiến hành.
Những tháng đầu năm 1949, ta đã làm thất bại cuộc tiến công của 2.000 tên địch
có máy bay yểm hộ lên chiến khu Dương Hòa, tiến công bốt Vỹ Dạ (2/3), tiêu diệt
đồn Vân Trình (18/3), bẻ gãy trận càn lên vùng núi Khe Tre, Nam Đông (4/1949),
chiến thắng trận Hói Mít, Phú Lộc (12/1/1949). Qua tháng 5/1949, ta bắt đầu xây
dựng lực lượng quân sự cấp tiểu đoàn, trung đoàn để có thể đánh tiêu diệt với quy mô
lớn.
Trong năm 1950, bộ đội địa phương đã đánh 50 trận, tiêu diệt 92 tên địch. Mỗi
huyện có một đại đội bộ đội địa phương với tổng số 6 huyện là 931 chiến sĩ. Dân
quân du kích các xã có 16.224 người. Trong năm 1950, hai lực lượng này đã tiến
hành 468 trận phục kích, tiêu diệt 600 tên địch, giải tán 35 hội tề. Trên cả tỉnh có
2.000 thanh niên vào bộ đội [75, tr. 369].
Ngày 12/2/1951, tiêu diệt lô cốt An Gia; ngày 9/3/1951 ta đánh đồn Phổ Lại.
Vùng giáp ranh Thừa Thiên Huế và Quảng Trị được khai thông. Ngày 13/3/1951, 2
Trung đoàn 101 và 95 đánh bại cuộc hành quân càn quét quy mô lớn của địch tại
Thanh Hương - Mỹ Xuyên.
Ngày 6/2/1952, Thường vụ Tỉnh ủy ra chỉ thị vận động tòng quân và đẩy mạnh
du kích chiến. Trên đà thắng lợi, quân ta tiếp tục tiến công và tiêu diệt một loạt vị trí
địch ở các huyện Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang, Hương Thủy, Phú Lộc. Vùng
tự do của ba tỉnh Bình - Trị - Thiên nối liền nhau thành một dải dọc Trường Sơn và
dọc đường I, từ Phú Lộc ở phía Nam ra Phong Điền ở phía Bắc của tỉnh, nối liền cửa
ngõ Huế.
Trong cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 -1954, với thắng lợi của
chiến dịch Điện Biên Phủ (7/5/1954), dưới sự lãnh đạo Đảng bộ Thừa Thiên Huế,
19
quân và dân vẫn tiếp tục tổ chức các cuộc tiến công về quân sự và những đợt đấu
tranh chính trị góp phần vào thắng lợi chung của cả nước. Ngày 21/7/1954, Hiệp định
đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký kết tại Genève. Đến ngày 1/8/1954, địch buộc
phải ngừng bắn ở Thừa Thiên Huế [75, tr. 388]. Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã
chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược, đồng thời chấm dứt ách thống trị thực dân Pháp
trong gần một thế kỉ trên đất nước ta. Từ đây phong trào cách mạng của tỉnh Thừa
Thiên Huế bước sang một giai đoạn mới, cam go, ác liệt hơn khi đế quốc Mỹ đang
dần thay thế Pháp xâm lược nước ta.
1.2. ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA MỸ VÀ CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN ĐỐI VỚI
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
1.2.1. Về chính trị - quân sự
Sau Hiệp định Genève (1954), Đế quốc Mỹ ra sức thực hiện ý đồ đã vạch ra từ
trước nhằm độc chiếm miền Nam Việt Nam, tiến tới độc chiếm toàn Đông Dương.
Ngày 25-6-1954, Mỹ đã ép được Pháp đưa Ngô Đình Diệm thay Bửu Lộc lên làm
Thủ tướng Chính phủ bù nhìn miền Nam Việt Nam.
Ngô Đình Diệm sau khi lên cầm quyền đã thi hành một loạt chính sách phản
động, vi phạm các điều khoản trong Hiệp định Genève, tăng cường các lực lượng
quân sự, khủng bố trả thù cách mạng.
Huế được xem là trung tâm chính trị thứ hai ở miền Nam sau Sài Gòn, chính vì
vậy Ngô Đình Diệm đã thiết lập ở đây một bộ máy cai trị mạnh và cho thi hành các
chính sách thống trị tàn bạo để dập tắt ngọn lửa cách mạng. Huế là nơi đóng chính
quyền cấp miền như Tòa Đại biểu Chính phủ Trung Nguyên Trung Phần, Nha Cảnh
sát Quốc gia Trung Nguyên Trung Phần, Tòa Tổng lãnh sự Mỹ, Đội công tác đặc biệt
miền Trung, đảng Cần lao Nhân vị,... Ngoài ra có cả Ngô Đình Thục, anh ruột của
Ngô Đình Diệm giữ chức Tổng Giám mục địa phận Huế và Huế được cai trị dưới bàn
tay của lãnh chúa miền Trung Ngô Đình Cẩn.
Chính quyền Ngô Đình Diệm tăng cường lực lượng quân sự ở Nam Giao, Phú
Bài, Thuận An, Thừa Lưu, Tứ Hạ, Hòa Mỹ. Tháng 7/1954, Mỹ và chính quyền Ngô
Đình Diệm lập các Trung tâm cải huấn ở Thanh Tân (Phong Điền), Thành nội (Huế)
nhằm kiểm soát và kìm kẹp nhân dân.
20
Ngày 8/8/1954, đảng “Cần lao nhân vị” do Ngô Đình Nhu đứng đầu được thành
lập, lấy học thuyết “duy linh – nhân vị” làm hệ tư tưởng. Tuy nhiên, sự phản động về
tư tưởng, tàn bạo về mặt biện pháp khiến chủ nghĩa nhân vị của gia đình họ Ngô
không hợp lòng dân, gây thù địch với người dân Việt Nam.
Từ tháng 5/1955, chính quyền Ngô Đình Diệm bắt đầu chiến dịch “tố Cộng”,
chúng tập trung đánh phá các xã có phong trào kháng chiến mạnh ở Phong Điền, Phú
Vang, Hương Thủy, Hương Trà, Quảng Điền và Phú Lộc nhằm để tránh “bỏ sót” cán
bộ cộng sản.
Tại các lớp học “tố Cộng”, chúng ra sức nói xấu Đảng, xuyên tạc chủ trương,
chính sách của cách mạng, xé cờ Đảng... Đối với quần chúng ở các xã thôn, chính
quyền Sài Gòn tiến hành phân chia làm 3 loại để theo dõi và đưa vào các lớp học “tố
Cộng” với mức độ khác nhau. Loại A gồm những người vừa tham gia kháng chiến
và gia đình có con em đi tập kết, học ở quận 3 tháng. Loại B gồm những người có
cảm tình với cách mạng, học ở xã hoặc liên xã 1 tháng. Loại C gồm những gia đình
có người tham gia ngụy quân, ngụy quyền, học ở xã trong 10 ngày. Cho đến tháng
10/1958, chính quyền Sài Gòn đã mở 53.710 lớp học “tố Cộng” với 230.977 người
học, mở 314 lớp chỉnh huấn bắt 2.907 đảng viên học tập, có 3.658 cán bộ đảng viên
bị tố giác và bị bắt [75, tr. 392]. Chính sách “tố Cộng” của Mỹ - Diệm đã gây ra tình
trạng hết sức căng thẳng trong nhân dân.
Chính quyền Ngô Đình Diệm, với sự giúp đỡ và có sự chỉ đạo của Mỹ, ra sức
phá hoại Hiệp định Genève. Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm không ngoài mục
đích tách hẳn một phần lãnh thổ của Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào để lập ra một
quốc gia riêng biệt, thậm chí là một phần lãnh thổ của nước Mỹ. Được sự giúp đỡ của
đế quốc Mỹ, ngày 23/10/1955, Ngô Đình Diệm thực hiện “trưng cầu dân ý”, truất
phế Bảo Đại suy tôn Ngô Đình Diệm làm tổng thống. Trong những ngày này, mặc dù
Mỹ và Ngô Đình Diệm phải dùng cảnh sát lùng bắt đồng bào miền Nam đi bỏ phiếu
nhưng đồng bào đã tìm mọi cách để chống lại. Ở nhiều tỉnh, nhiều thành phố, nhiều
xã nhân dân phá cuộc bỏ phiếu. Sau đó, Ngô Đình Diệm đã không thi hành hiệp
thương tổng tuyển cử mà thực hiện bầu cử Quốc hội riêng rẽ vào ngày 4/3/1956. Đến
ngày 26/10/1956, ban hành hiến pháp, lấy chủ nghĩa “Nhân vị” làm chuẩn mực: “Xây
21
dựng dân chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cho toàn dân trong sự tôn trọng
nhân vị” [23, tr. 90]. Lập nền “Đệ nhất Cộng hòa” được Mỹ và các nước Đồng minh
của Mỹ công nhận là chính quyền hợp pháp.
Từ cuối năm 1957, Ngô Đình Nhu chủ trương phải có một đội quân thuần nhất,
Đảng Cần lao thành Đảng “Cần lao Thiên Chúa giáo”, thành phần chủ yếu là các tín
đồ Thiên Chúa giáo di cư, cha cố, công chức và sĩ quan cấp cao.
Ngày 17/5/1958, chính quyền Ngô Đình Diệm chia tỉnh Thừa Thiên Huế thành
9 quận, 3 tổng, 89 xã. Chính quyền Ngô Đình Diệm bắt dân rào ấp chiến lược, tiến
hành với ba giai đoạn: Giai đoạn 1: Lập ấp tại các vùng đã kiểm soát và kiểm soát
một nữa; Giai đoạn 2: Lập tại những vùng Hồng (vùng tranh chấp và giáp ranh); Giai
đoạn 3: Lập tại những vùng Đỏ (vùng căn cứ) kết hợp với càn quét [55, tr. 11]…
Thực chất đây là nhốt dân vào trong các trại giam trá hình. Chúng quy định giờ giấc,
phạm vi đi lại trong ấp và ra khỏi ấp rất nghiêm ngặt, nhất là các gia đình có cán bộ
đi tập kết, cán bộ nằm vùng thì chúng bắt bớ, đánh đập những người nộp nguyên vật
liệu chậm hoặc không đúng quy cách làm ấp. Bên cạnh đó, chính quyền Ngô Đình
Diệm còn đưa ra kế hoạch để đối phó Việt Cộng khi tấn công ấp, không những với
mục đích chặn đứng mọi tấn công của Việt Cộng mà chính quyền muốn bao vây tiêu
diệt lực lượng tấn công không cho rút lui hay tẩu thoát.
Để làm chỗ dựa cho chế độ mới, Ngô Đình Diệm đã bổ nhiệm những người
thuộc phe cánh giữ các chức vụ chủ chốt trong chính quyền theo chế độ “chỉ định”.
Hầu hết các xã trưởng2, thôn trưởng đều nằm trong tay người Cần lao Thiên Chúa
giáo. Đồng thời thành lập các tổ chức “Thanh niên Cộng hòa”, “Phụ nữ liên đới”,
“Nhân dân tự vệ đoàn”, “Liên gia tương trợ”, “Ngũ gia liên bảo” tại các địa phương.
Trong tỉnh Thừa Thiên Huế, chúng còn lập khu công giáo di cư như ở Lăng Cô (Giáo
xứ Loan Lý - huyện Phú Lộc). Tính đến năm 1962, tại Thừa Thiên Huế có “trên 5
tiểu đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn bảo an, 6 đại đội bảo an biệt lập, 2 đại đội biệt động
quân, khoảng 2 tiểu đoàn pháo binh” [55, tr. 4 - 5]. Bên cạnh đó, Ngô Đình Thục còn
tổ chức một lực lượng vũ trang riêng. Tờ Newsweek (New York) ngày 27/5/1963 cho
Trước năm 1963, ông Đoàn Quang Châu, người Công Giáo, làm xã trưởng Xuân Long, Hương Trà,
Thừa Thiên.
2
22