Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Phong trào chống phá ấp chiến lược ở khánh hòa (1961 – 1965)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (940 KB, 98 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

ĐẶNG THỊ LONG

PHONG TRÀO CHỐNG PHÁ ẤP CHIẾN LƢỢC
Ở KHÁNH HÒA (1961-1965)
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60220313

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS. TS. TRƢƠNG CÔNG HUỲNH KỲ

Huế, năm 2018

i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu
ghi trong luận văn là trung thực, được các đồng tác
giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố
trong bất kỳ một công trình nào khác.

TÁC GIẢ

ii



LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Lãnh đạo
trường ĐHSP Huế, Khoa Lịch sử, Phòng Sau Đại học, Giảng viên trong và ngoài
nhà trường đã nhiệt tình giảng dạy, hướng dẫn, tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS. Trương Công
Huỳnh Kỳ, người thầy, người hướng dẫn khoa học đã tận tâm giúp đỡ và động viên
tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn với những kiến thức sâu
rộng, kinh nghiệm quý báu.
Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn:
-

Lãnh đạo Trung tâm Lưu trữ Lịch sử tỉnh Khánh Hòa; Bộ phận liên quan
công tác Lưu trữ Lịch sử Tỉnh.

-

Ban giám hiệu trường THPT chuyên Lê Quý Đôn Khánh Hòa

-

Tập thể tổ Xã hội trường THPT chuyên Lê Quý Đôn Khánh Hòa

-

Lãnh đạo Bảo tàng Lịch sử và Thư Viện Tỉnh Khánh Hòa

-


Tập thể lớp Cao học Lịch sử K25 Trường ĐHSP Huế

-

Gia đình bạn bè và đồng nghiệp,…

Đã động viên khích lệ, đóng góp ý kiến, cung cấp tài liệu, tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho tôi trong suốt qua trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn luận văn sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót, tác giả kính mong nhận được sự góp ý, chỉ dẫn quý báu của hội
đồng khoa học, các thầy giáo, cô giáo và đồng nghiệp để tác giả tiếp tục hoàn thiện
luận văn của mình, góp phần vào sự phát triển của ngành giáo dục và đào tạo./.
Huế, Tháng 10 năm 2018
Tác giả

iii


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa………………………………………………………………………...i
Lời cam đoan…...…………………………………………………………………...ii
Lời cảm ơn………………………………………………………………………….iii
MỤC LỤC…………………………………………………………………………...1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT…………………………………………………4
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………….5
1.Lí do chọn đề tài…………………………………………………………………...5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề………………………………………………………..6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………………..7
3.1. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………………....7

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu…………………………………………………………...8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………………………...8
4.1. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………………..8
4.2. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………………..8
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu……………………………………....8
5.1. Nguồn tài liệu…………………………………………………………………...9
5.2. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………..9
6. Những đóng góp của luận văn…………………………………………………....9
7. Bố cục luận văn…………………………………………………………………...9
NỘI DUNG……………………………………………………………………….....11
Chƣơng 1. PHONG TRÀO CHỐNG, PHÁ ẤP CHIẾN LƢỢC Ở KHÁNH
HÒA TỪ 1961 ĐẾN 1963………………………………………………………...11
1.1.Những nhân tố tác động đến phong trào chống, phá ấp chiến lược ở
Khánh Hòa……….………………………………………………………………11
1.1.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế, xã hội………………………………………..11
1.1.1.1.Điều kiện tự nhiên và kinh tế ……………………………………………...11
1.1.1.2.Điều kiện xã hội và dân cư…………………………………………………12
1.1.2. Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Khánh Hòa…………...13

1


1.1.3 Phong trào đấu tranh chống Mĩ và chính quyền Sài Gòn ở Khánh Hòa từ
1954 đến 1960……………………………………………………………………..15
1.2. Sự thiết lập ấp chiến lược của Mĩ và chính quyền Sài Gòn ở Khánh Hòa…………19
1.2.1. Quá trình triển khai ấp chiến lược ở Khánh Hòa………………………………...19
1.2.1.1. Khái quát về ấp chiến lược……………………………………………………19
1.2.1.2. Mỹ và chính quyền Sài Gòn triển khai ấp chiến lược ở Khánh Hòa……...22
1.3. Chủ trương của Đảng các cấp về chống, phá ấp chiến lược từ 1961-1963…....25
1.3.1. Chủ trương của Trung ương Đảng về đấu tranh chống phá Ấp chiến lược……...25

1.3.2. Chủ trương của Trung ương Cục miền Nam, Khu ủy khu VI về chống,
phá ấp chiến lược………………………………………………………………….27
1.3.3. Chủ trương của Tỉnh ủy Khánh Hòa về chống, phá ấp chiến lược……………....31
1.4. Sự chuẩn bị lực lượng về mọi mặt…………………………………………….31
1.5. Đấu tranh chống, phá ấp chiến lược ở Khánh Hòa từ 1961 đến 1963………..32
1.5.1. Phong trào chống dồn dân lập ấp chiến lược Khánh Hòa từ 1961 đến 1963..33
1.5.2. Phong trào phá ấp chiến lược ở Khánh Hòa từ 1961 đến 1963…………………36
Tiểu kết chương 1 …………………………………………………………………..43
Chƣơng 2. PHONG TRÀO CHỐNG, PHÁ ẤP TÂN SINH Ở KHÁNH HÒA
TỪ 1964 ĐẾN 1965……………………………………………………………….45
2.1. Sự thay đổi từ ấp chiến lược thành ấp tân sinh của Mĩ và chính quyền Sài
Gòn ở Khánh Hòa từ 1964 đến 1965………………………………………………45
2.2. Chủ trương của Đảng trong việc chống phá ấp tân sinh của Mĩ và chính
quyền Sài Gòn từ 1964 đến 1965…………..………………………………………49
2.2.1. Chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Trung ương Cục
miền Nam………………..…………………………………………………………49
2.2.2. Chủ trương của Khu ủy Khu V.……………………………………………..51
2.2.3.Chủ trương của Tỉnhh ủy Khánh Hòa……………………………………….51
2.3. Quá trình đấu tranh chống, phá ấp tân sinh ở Khánh Hòa từ 1964 đến 1965...52
2.3.1. Phong trào chống dồn dân, lập tân sinh ở Khánh Hòa năm 1964…………..52

2


2.3.2. Đồng khởi phá ấp tân sinh làm chủ vùng nông thôn đồng bằng Khánh Hòa
cuối 1964 đến nửa đầu năm 1965 …………………………………………………55
Tiểu kết chương 2………………………………………………………………….63
Chƣơng 3. ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA VÀ BÀI HỌC VỀ PHONG TRÀO
CHỐNG, PHÁ ẤP CHIẾN LƢỢC Ở KHÁNH HÒA TỪ 1961 ĐẾN 1965…...64
3.1. Đặc điểm của phong trào chống, phá ấp chiến lược ở Khánh Hòa từ

1961 – 1965………………………………………………………………………64
3.1.1. Diễn ra quyết liệt ngay từ đầu, liên tục và đồng loạt giữa các đị phương
với nhiều hình thức đấu tranh………………………..……………………………64
3.1.2. Phong trào chống phá ấp chiến lược ở nông thôn đồng bằng có sự phối
hợp chặt chẽ giữa với phong trào miền núi và phong trào đô thị…………………67
3.1.3. Có sự phối hợp của các lực lượng bên ngoài và bên trong nhưng chủ yếu
là lực lượng tại chỗ………..………………………………………………………69
3.2. Ý nghĩa của phong trào chống, phá ấp chiến lược ở Khánh Hòa từ 1961
đến 1965…………………...………………………………………………………73
3.2.1. Góp phần đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ và chính
quyền Sài Gòn ở Khánh Hòa………………………………………………………73
3.2.2. Góp phần giải phóng được một bộ phận nông thôn đồng bằng và nhiều
vùng, nhất là miền núi trở thành vùng làm chủ của lực lượng cách mạng..……….75
3.2.3. Khẳng định đường lối đấu tranh của Đảng là đúng, củng cố niềm tin và
tinh thần cho nhân dân trong cuộc đấu tranh cách mạng………………….………76
3.3. Bài học kinh nghiệm của phong trào chống, phá ấp chiến lược ở Khánh
Hòa từ 1961 đến 1965………………..……………………………………………79
3.3.1. Phải vận dụng phương châm “2 chân 3 mũi” trong đấu tranh………………79
3.3.2. Phải dựa vào dân, coi trọng dân, lấy dân làm gốc…………………………..84
Tiểu kết chương 3………………………………………………………………….86
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………88
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………..90
PHỤ LỤC

3


DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

TT

1
2
3
4
5
6
7
8

Viết tắt
ACL
ATS
BCH TW
CQSG
CTĐB
QĐSG
TWCMN
VNCH

Viết đầy đủ
Ấp chiến lược
Ấp tân sinh
Bộ Chính trị Trung ương Đảng
Chính quyền Sài Gòn
Chiến tranh đặc biệt
Quân đội Sài Gòn
Trung ương Cục miền Nam
ViệT nam Cộng Hòa

4



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Phong trào Đồng Khởi 1959-1960 của nhân dân miền Nam, đã đẩy Mĩ và
chính quyền Sài Gòn (CQSG) rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Để cứu
vãn chế độ thực dân mới ở miền Nam, Mĩ thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt” (1961-1965). Đây là một loại hình chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mĩ
nhằm bình định miền Nam trong vòng 18 tháng. Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”
(CTĐB) được tiến hành bằng quân đội Sài gòn(QĐSG) là chủ yếu với vũ khí, kĩ
thuật và phương tiện chiến tranh Mĩ, cùng hệ thống cố vấn Mĩ chỉ huy. Thủ đoạn
của chiến lược CTĐB là sử dụng chiến thuật “trực thăng vận, thiết xa vận”, mở các
cuộc hành quân càn quét để bình định, đồng thời tiến hành dồn dân, lập “ấp chiến
lược” (ACL) được xem là quốc sách, là xương sống của chiến lược CTĐB. Mục
đích của Mĩ và CQSG trong việc lập ACL là nhằm tách lực lượng cách mạng ra
khỏi nhân dân để tiêu diệt. Đây là một trong những thủ đoạn Mĩ tiến hành hầu như
trong suốt thời kỳ từ 1961 đến 1975 ở miền Nam. Vì vậy, việc chống, phá ACL
thành công sẽ là yếu tố quyết định làm phá sản chiến lược CTĐB của Mĩ.
Khánh Hòa là một trong những địa bàn được Mĩ và CQSG quan tâm xây
dựng hệ thống ACL tương đối lớn, với tổng số 281 ấp, gồm nhiều loại hình khác
nhau. Việc thiết lập ACL ở đây cũng có những nét riêng. Mỹ và CQSG chủ trương
chia làm 3 vùng để lập ACL, nhưng chúng chỉ tạm thời thực hiện được ở vùng giáp
ranh núi và vùng chúng kiểm soát. Âm mưu của địch là tạo một vành đai trắng ở
vùng ven núi nhằm ngăn cách giữa đồng bằng với vùng căn cứ cách mạng. Chúng
tiến hành trước nhất ở những thôn, xã có phong trào kháng chiến mạnh, có vị trí
tiếp giáp với vùng rừng núi căn cứ của ta. Mỗi vùng chúng xây dựng một số ấp kiểu
mẫu rồi lan dần ra các địa phương khác. Vì vậy, cuộc đấu tranh phá ACL ở đây
cũng cũng diễn ra sôi nổi và có những nét đặc thù trong mối tương quan với phong
trào chống, phá ACL ở miền Nam Trung Bộ, góp phần làm thất bại chiến lược
CTĐB của Mĩ trên toàn miền Nam.

Đối với giới sử học trong và ngoài nước, vấn đề chống phá ACL đã được
quan tâm nghiên cứu với nhiều thành tựu đáng trân trọng trên các phương diện tổng

5


thể, từ âm mưu thủ đoạn của Mỹ, CQSG đến chủ trương của Đảng các cấp, diễn
biến, đặc điểm, vị trí, ý nghĩa, bài học kinh nghiệm của phong trào chống phá ACL.
Trong thành quả chung đó, phong trào chống, phá ACL ở Khánh Hòa trong CTĐB
của Mĩ đã được đề cập trong một số công trình lịch sử ở trung ương và địa phương
nhưng còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ như:
1. Những nhân tố tác động đến phong trào chống, phá ACL ở Khánh Hòa từ
1961 đến 1965
2. Những nét nổi bật về diễn biến qua các giai đoạn của phong trào chống,
phá ACL ở Khánh Hòa từ 1961 đến 1965.
3. Đặc điểm và ý nghĩa của phong trào này đối với cuộc kháng chiến chống
Mĩ cứu nước ở Khánh Hòa, khu vực Nam Trung Bộ và miền Nam Việt nam.
4. Từ trong quá khứ có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm gì cho hiện tại.
Vì vậy, nghiên cứu vấn đề này sẽ có ý nghĩa khoa học và thực tiễn trên nhiều mặt:
Về khoa học: sẽ góp phần nâng cao nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về
“Phong trào chống, phá ACL ở Khánh Hòa (1961 – 1965)”. Đặc biệt là các khía
cạnh chưa nghiên cứu sâu như đặc điểm, bài học kinh nghiệm cũng như ý nghĩa
của phong trào đấu tranh chống, phá ACL ở Khánh Hòa trong cuộc đấu tranh chống
chiến lược CTĐB của quân dân miền Nam thời kì chống Mĩ.
Kết quả nghiên cứu vấn đề này sẽ góp phần vào kết quả nghiên cứu phong
trào chống, phá ACL ở miền Nam, đồng thời làm rõ hơn lịch sử địa phương Khánh
Hòa giai đoạn 1961-1965.
Về thực tiễn: đề tài này góp phần nâng cao lòng yêu nước cách mạng của nhân
dân Khánh Hòa, làm rõ vai trò của nhân dân Khánh Hòa đã cùng với nhân dân miền
Nam đánh bại chiến lược CTĐB, tạo ra nguồn dữ liệu để nghiên cứu biên soạn tài

liệu, giáo trình lịch sử hiện đại phục vụ cho việc giảng ở các cấp học tại địa phương.
Từ những lí do trên, chúng tôi quyết định chọn vấn đề “Phong trào chống,
phá ấp chiến lược ở Khánh Hòa (1961 – 1965)” để làm luận văn Thạc sĩ chuyên
ngành Lịch sử Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đã có một số công trình liên quan đến đề tài như:

6


- Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về đấu tranh chống, phá ACL ở miền
Nam 1961-1965 như:
+ Nguyễn Công Thục “Phong trào đấu tranh chống phá ấp chiến lược của
Mĩ - Ngụy ở miền Nam Việt Nam (1963 - 1964)”.
+ Trần Thị Thu Hương“Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống phá quốc sách
ấp chiến lược của Mĩ Ngụy ở miền Nam Việt nam 1961-1965”.
Cả hai công trình này đã đi sâu nghiên cứu về phong trào chống phá ACL
trên toàn miền Nam; trong đó, có đề cập đến phong trào chống phá ACL ở Khánh
Hòa (1961-1965) dưới dạng khái quát.
- Thứ hai, các công trình nghiên cứu lịch sử địa phương có đề cập đến phong
trào chống, phá ACL ở Khánh Hòa (1961-1965) như:
+ Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa (2001), Lịch sử Đảng bộ Đảng
Cộng sản Việt Nam tỉnh Khánh Hòa (1930-1975), Nxb Chính trị Quốc gia chi
nhánh Nha Trang.
+ Ủy ban Nhân dân tỉnh Khánh Hòa(2003), Địa chí Khánh Hòa, Nxb Chính
trị Quốc gia
+ Hồ Hải Hưng, (2013), Đấu tranh chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”
của Mĩ và Việt Nam Cộng hòa (1961 - 1965), Tạp chí Lịch sử Quân sự số 258.
Những công trình trên trình bày về phong trào đấu tranh chống chiến lược
CTĐB của của Mĩ và CQSG ở Khánh Hòa trong giai đoạn 1961 - 1965, trong đó có

đề cập đến phong trào chống, phá ACL ở địa phương này.
Tuy có nhiều công trình đề cập đến phong trào đấu tranh chống, phá ACL ở
Khánh Hòa giai đoạn 1961 - 1965 song chỉ mới nghiên cứu một cách khái quát chưa
đi sâu vào cụ thể của phong trào diễn ra ở từng vùng, từng địa phương trên địa bàn
tỉnh Khánh Hòa. Mặt khác các công trình chưa đánh giá về đặc điểm, ý nghĩa cũng
như bài học của phong trào đối với tiến trình phát triển của lịch sử Khánh Hòa nói
riêng, miền Nam nói chung thời chống Mỹ. Luận văn “Phong trào chống, phá ấp
chiến lược ở Khánh Hòa (1961 - 1965)” sẽ góp phần giải quyết những yêu cầu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

7


Tái hiện một cách đầy đủ, có hệ thống về phong trào đấu tranh chống, phá
ACL ở Khánh Hòa từ 1961 đến 1965. Từ đó, nêu lên những đặc điểm, ý nghĩa và
bài học mà phong trào này để lại cho lịch sử dân tộc và địa phương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên, luận văn cần giải quyết được những nhiệm
vụ sau:
- Tiến hành tổng quan các công trình nghiên cứu và tài liệu nghiên cứu liên
quan đến đề tài để xác định mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
- Phân tích các điều kiện lịch sử tác động đến phong trào đấu tranh chống,
phá ACL ở Khánh Hòa từ 1961 đến 1965.
- Trình bày quá trình phát triển của phong trào đấu tranh chống, phá ACL ở
Khánh Hòa qua các giai đoạn: 1961-1963 và 1964-1965. Qua đó làm rõ phương
thức tiến hành, lực lượng tham gia và địa bàn đấu tranh.
- Phân tích về đặc điểm, đánh giá ý nghĩa và rút ra bài học của phong trào
chống, phá ACL ở Khánh Hòa trong thời kì chống chiến lược CTĐB của Mĩ và
CQSG ở miền Nam Việt Nam.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Phong trào chống, phá ACL ở Khánh Hòa từ 1961 đến 1965.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: tỉnh Khánh Hòa.
- Về thời gian: từ 1961 đến 1965.
- Nội dung: đề cập đến các điều kiện lịch sử, diễn biến, phương thức, lực
lượng, kết quả, đặc điểm, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm từ phong trào.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
Luận văn này được hình thành trên cơ sở của nhiều nguồn tài liệu bao gồm:
- Các tài liệu văn kiện của cách mạng và CQSG hiện đang lưu trữ tại Trung
tâm Lưu trữ Quốc gia II; Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III; Trung tâm Lưu trữ Quốc
gia IV; Trung tâm Lưu trữ của UBND tỉnh Khánh Hòa; Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh

8


Khánh Hòa; Văn phỏng Tỉnh ủy Khánh Hòa; Bảo tàng Khánh Hòa; Phòng Lưu trữ
của Ban Tuyên giáo tỉnh Khánh Hòa; Thư viện tỉnh Khánh Hòa…
- Các công trình nghiên cứu của các tập thể, cá nhân đã được xuất bản, công
bố trên các tạp chí khoa học, hội thảo khoa học liên quan đến phong trào đấu tranh
chống phá ACL ở Khánh Hòa.
- Các hồi ký và lời kể của một số đồng chí lão thành cách mạng, nhân chứng
lịch sử từng hoạt động ở địa bàn Khánh Hòa trong giai đoạn 1961 - 1965.
- Tư liệu, hình ảnh thu thập từ khảo sát thực địa có liên quan đến đề tài.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ và có hệ thống những vấn đề cần giải quyết trên cơ sở tài liệu đã
có, chúng tôi vận dụng phương pháp luận sử học Mác-xit và tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam; sử dụng phương pháp lịch sử nhằm dựng lại

một cách có hệ thống về diễn biến của phong trào, kết hợp với phương pháp logic, đối
chiếu so sánh, phân tích để có cái nhìn tổng quát về bản chất, đặc điểm, ý nghĩa của
phong trào; thêm vào đó là phương pháp điền dã để thu thập tư liệu từ những di tích
lịch sử, nhân chứng…
6. Những đóng góp của luận văn
Sau khi hoàn thành, luận văn có những đóng góp sau:
- Khôi phục tương đối đầy đủ và hệ thống về “Phong trào chống, phá ấp
chiến lược ở Khánh Hòa (1961 – 1965)”.
- Phân tích làm rõ sự kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận trong
cuộc đấu tranh chống, phá ACL ở Khánh Hòa.
- Nêu rõ được đặc điểm, khẳng định ý nghĩa, bài học của phong trào chống,
phá ACL ở Khánh Hòa đặt trong mối quan hệ so sánh với các địa phương trên cùng
khu vực Nam Trung Bộ.
- Bổ sung nguồn tư liệu vào việc tìm hiểu, nghiên cứu, giảng dạy lịch sử địa
phương Khánh Hòa.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung đề tài
được kết cấu làm 3 chương:

9


Chương 1: Phong trào chống, phá “ấp chiến lược” ở Khánh Hòa từ 1961
đến 1963
Chương 2: Phong trào chống, phá “ấp tân sinh” ở Khánh Hòa từ 1964 đến 1965.
Chương 3: Đặc điểm, ý nghĩa và bài học của phong trào chống, phá ấp chiến
lược ở Khánh Hòa trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước.

10



NỘI DUNG
Chƣơng 1
PHONG TRÀO CHỐNG, PHÁ ẤP CHIẾN LƢỢC Ở KHÁNH HÒA
TỪ 1961 ĐẾN 1963
1.1. Những nhân tố tác động đến phong trào chống, phá ấp chiến lƣợc ở
Khánh Hòa
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội
1.1.1.1.Điều kiện tự nhiên và kinh tế
Khánh Hòa là một tỉnh ở miền duyên hải Nam Trung Bộ, nằm giữa vĩ tuyến
12 và 13, trong vòng cung Bắc - Nam của dải Trường Sơn. Phía Bắc giáp tỉnh Phú
Yên, phía Nam giáp Ninh Thuận, phía Tây giáp 2 tỉnh Đắc Lắc và Lâm Đồng, phía
Đông giáp biển Đông. Diện tích đất liền: 4.693 km2 cùng với vùng biển, đảo rộng
lớn (chưa kể diện tích của huyện đảo Trường Sa). Địa bàn tỉnh nằm trên trục giao
thông quốc lộ 1 và tuyến đường sắt Bắc - Nam, là cửa ngõ của Tây Nguyên xuống
đồng bằng qua quốc lộ 26, có nhiều cảng biển quan trọng, đặc biệt là cảng Cam
Ranh - một trong ba cảng biển có điều kiện thiên nhiên nổi tiếng trên thế giới về
mặt rộng, độ sâu và kín gió. Trong tỉnh còn có đường hàng không nằm trong hành
lang bay của đường bay nội địa Bắc - Nam. Địa hình tỉnh Khánh Hòa hẹp và thon ở
hai đầu ranh giới, 2 vùng đồng bằng rộng nhất là Diên Khánh và Ninh Hòa. Đất
nông nghiệp tương đối phì nhiêu, có điều kiện thuận lợi cho sản xuất các loại cây
lương thực, cây công nghiệp và cây ăn trái có giá trị.
Bờ biển tỉnh Khánh Hòa kéo dài từ mũi Đại Lãnh tới cuối vịnh Cam Ranh và
có độ dài khoảng 385 km (tính theo mép nước) với nhiều bán đảo và hàng trăm đảo
lớn, nhỏ, xa gần nằm rải rác trên biển. Đặc biệt huyện đảo Trường Sa là nơi có vị trí
kinh tế, an ninh quốc phòng quan trọng của cả nước. Ngoài ra biển Khánh Hòa là
một trong những vùng biển có tài nguyên phong phú ở nước ta, có nhiều loại hải
đặc sản như: tôm, mực, các loại cá... đặc biệt là Yến sào, một loại đặc sản qúy hiếm,
được coi là “vàng trắng”, có giá trị xuất khẩu rất cao.
Núi rừng Khánh Hòa chiếm 3/4 diện tích toàn tỉnh, phần lớn độ cao chỉ trên

dưới 1000m, gắn với dải Trường Sơn, là phần cuối phía cực Nam nên địa hình núi

11


khá đa dạng, nhiều cảnh quan đẹp và gắn liền với nhiều truyền thuyết dân gian. Ở
hai huyện miền núi phía Tây tỉnh là Khánh Sơn, Khánh Vĩnh, núi rừng chiếm hầu
hết diện tích, có nhiều núi cao hiểm trở, tập trung ở dọc theo ranh giới giáp với Lâm
Đồng. Những dãy núi cao này làm bình phong che chắn không cho gió Tây - Nam
khô nóng tràn xuống vùng đồng bằng Diên Khánh - Nha Trang, tạo cho vùng này có
khí hậu quanh năm mát mẻ.
Sông ngòi ở Khánh Hòa không lớn nhưng mật độ sông suối khá dày. Toàn
tỉnh có khoảng trên 40 con sông, trong đó có hai sông chính là sông Cái Nha Trang
(sông Cù) dài 75 km và sông Cái Ninh Hòa (sông Dinh) dài 49 km. Khánh Hòa chịu
ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa nhưng khô ráo ôn hòa, quanh năm nắng ấm,
thường chỉ có 2 mùa rõ rệt: mùa khô kéo dài từ 8 đến 9 tháng và mùa mưa ngắn chỉ
từ 3 đến 4 tháng. Nhiệt độ trung bình hàng năm thường trên dưới 26 0C, các tháng
cuối năm và đầu năm hơi lạnh nhưng không rét buốt, mùa hè ít bị ảnh hưởng gió
Tây. Lượng mưa cũng tương đối ít, trung bình năm từ 1.200 đến 1.800 mm.
Với các điều kiện thiên nhiên ưu đãi nói trên, Khánh Hòa là vùng đất có
nhiều thuận lợi để phát triển nền kinh tế hàng hóa, dịch vụ du lịch, cũng như xây
dựng và củng cố an ninh và quốc phòng. Đây là cửa ngõ của Tây Nguyên, là cơ sở
hậu cần để khai thác kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền biển. Vì vậy, Mĩ và chính
quyền Sài Gòn siết chặt quản lý đô thị, ra sức bình định vùng nông thôn và rừng núi
Khánh Hòa nhằm kiểm soát vùng đất quan trọng này. Trong những năm chống Mĩ,
Đảng bộ Khánh Hòa đã tổ chức xây dựng nhiều khu căn cứ địa cách mạng, như căn
cứ địa Đá Bàn (Ninh Hòa), Căn cứ địa Tô Hạp (Khánh Sơn), căn cứ địa Đồng Bò
(Nha Trang)…đã hợp thành một hệ thống căn cứ địa ở Khánh Hòa, là trung tâm chỉ
đạo cách mạng của tỉnh trong những năm tháng chống Mĩ đầy khó khăn gian khổ.
1.1.1.2. Điều kiện xã hội, dân cƣ

Dưới thời Ngô Đình Diệm, Khánh Hòa thuộc Trung nguyên Trung phần. Từ
năm 1957, Khánh Hòa có 6 quận: Vạn Ninh, Ninh Hòa, Khánh Dương, Vĩnh
Xương, Diên Khánh và Cam Lâm. Khánh Hòa thuộc Khu chiến thuật 23 của Vùng
II chiến thuật, do Sư đoàn 23 phụ trách.

12


Về phía cách mạng, theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, lực lượng cách mạng tập kết
ra Bắc nhưng ta vẫn giữ lại một số cán bộ, hình thành Tỉnh ủy bí mật hoạt động ở
miền núi phía Tây Khánh Hòa do đồng chí Lê Thanh Liêm làm Bí thư Tỉnh ủy. [65,
tr. 1]
Khánh Hòa là địa bàn cư trú của nhiều cộng đồng dân tộc khác nhau như
người Kinh, Chăm, Ragglai, Êđê… trong đó đa số là người Kinh, chiếm tỉ lệ dân cư
đông nhất, sống chủ yếu ở đồng bằng và đô thị. Các dân tộc thiểu số khác chủ yếu
sống ở các xã thuộc những huyện miền núi Khánh Sơn, Khánh Vĩnh và một số xã ở
huyện Ninh Hòa. Đồng bào dân tộc thiểu số trong đó có người Chăm, đa số làm
nông nghiệp trồng lúa nước, đồ gốm và dệt vải sợi bông, sống tập trung trong các
làng Chăm, Ragglai. Đồng bào các dân tộc miền núi Khánh Hòa có truyền thống
yêu nước, yêu chuộng tự do, có nguyện vọng thống nhất đất nước. Khi CQSG thực
hiện ACL đã dùng vũ lực đàn áp dã man, đốt phá hết nhà cửa nhằm dồn đồng bào
dân tộc về các khu tập trung nên họ không thể chấp nhận được, vì vậy phong trào
chống phá ACL ở Khánh Hòa (1961-1965) có sự đóng góp rất lớn của đồng bào
Chăm, Ragglai.
Mỗi tộc người có địa vực cư trú, ngôn ngữ riêng, phong tục tập quán, nề nếp
sinh hoạt mang những đặc điểm của tổ tiên mình và có những nét đặc thù khác
nhau. Tuy nhiên khi có giặc ngoại xâm thì họ đã không sợ gian khổ, đoàn kết yêu
thương đùm bọc lẫn nhau, có ý chí tự lực tự cường và tinh thần yêu quê hương đất
nước, do đó khi Mĩ - Diệm ra sức đàn áp đốt phá nhà cửa của nhân dân nhằm thực thực
quốc sách ACL đã vấp phải sự chống đối mạnh mẽ của nhân dân Khánh Hòa, vì vậy

khi Đảng bộ các cấp ra lời kêu gọi nhân dân đứng lên chống phá ACL thì họ đã tham
gia đấu tranh quyết liệt, góp phần làm thất bại chiến CTĐB của Mĩ ở miền Nam.
1.1.2. Truyền thống yêu nƣớc và cách mạng của nhân dân Khánh Hòa
Khánh Hòa có truyền thống yêu nước từ lâu đời. Trước khi trở thành một bộ
phận máu thịt của nước Việt Nam, từ thế kỷ XVII trở về trước, vùng đất Khánh Hòa
thuộc vương quốc Champa. Năm 1653, Khánh Hòa là một bộ phận của Đàng Trong
thời chúa Nguyễn. Nhân dân Khánh Hòa đã cùng với cả dân tộc vừa xây dựng cuộc
sống, vừa liên tục đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược.

13


Khi thực dân Pháp xâm lược Gia Định (2/1859), nhân dân Khánh Hòa đã
theo lệnh triều đình tòng quân vào Nam Kỳ đánh Pháp. Phong trào yêu nước của
nhân dân phát triển mạnh mẽ nhất vào năm 1885, sau khi Tôn Thất Thuyết nhân
danh vua Hàm Nghi phát động phong trào Cần Vương, kêu gọi cả nước đứng lên
chống Pháp. Hưởng ứng dụ Cần Vương, ở Khánh Hòa, Đề đốc Trịnh Phong, Trần
Đường, Nguyễn Khanh, Tú Học cùng nhiều sĩ phu yêu nước khác đã khởi xướng
phong trào hưởng ứng dụ Cần Vương. Phong trào đã lôi cuốn đông đảo nhân dân
tham gia, tổ chức nhiều trận đánh, gây cho Pháp những tổn thất.
Sang đầu thế kỉ XX, Khánh Hòa cũng là nơi hưởng ứng phong trào Duy Tân
do các chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp khởi
xướng. Truyền thống yêu nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân Khánh Hòa
đến với chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Từ năm 1926 – 1929, các tổ chức Tân Việt Cách
mạng Đảng, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã thành lập các cơ sở đảng tại
đây và đã có nhiều đóng góp trong việc tuyên truyền tinh thần yêu nước, tư tưởng
cách mạng cho học sinh, trí thức, viên chức Khánh Hòa.
Cùng với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ Khánh Hòa đã
được thành lập vào ngày 24/2/1930. Từ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, quần
chúng nhân dân đã được tập hợp dưới một ngọn cờ, tạo nên sức mạnh để đương đầu

với kẻ thù của họ là bọn thực dân và phong kiến. Ngay sau khi thành lập, hưởng ứng
lời hiệu triệu của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa đã lãnh đạo
cuộc biểu tình ủng hộ phong trào Xô viết - Nghệ Tĩnh với hơn 1000 người tham gia
tại huyện Tân Định (thị xã Ninh Hòa ngày nay) vào ngày 16/7/1930. Trong giai đoạn
1936-1939, nhân dân Khánh Hòa đã đứng lên đấu tranh đòi tự do dân chủ.
Đến tháng 8/1945, Đảng bộ tỉnh Khánh Hoa đã kịp thời nắm thời cơ, lãnh
đạo nhân dân trong tỉnh đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Khánh
Hòa đã giành được chính quyền cùng ngày với thủ đô Hà Nội 19/8/1945. Độc lập
chưa được bao lâu thì thực dân Pháp, có sự giúp sức của quân Anh, và sự ủng hộ
của Mỹ đã trở lại xâm lược nước ta. Tháng 10/1945, sau khi đánh chiếm các tỉnh
Nam Bộ, Pháp đã đưa quân mở rộng chiến tranh ra vùng Nam Trung Bộ mà mục
tiêu đầu tiên là Nha Trang – Khánh Hòa. Một lần nữa, Đảng bộ và nhân dân Khánh

14


Hòa lại đứng lên tiến hành cuộc chiến đấu bao vây giam chân địch trong suốt 101
ngày đêm (23/10/1945 – 01/02/1946), tạo điều kiện cho quân và dân toàn tỉnh và cả
Nam Trung Bộ chuẩn bị cuộc kháng chiến lâu dài.
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, là một tỉnh bị tạm chiếm, nhân dân
Khánh Hòa dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh đã vượt lên mọi khó khăn, thực hiện
quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng, góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng
chiến chống Pháp, giải phóng quê hương.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi là nền tảng để nhân dân
Khánh Hòa cùng với nhân dân Miền Nam tiếp tục cuộc chiến đấu chống Mĩ và
chính quyền tay sai trong suốt 21 năm (1954-1975), là cuộc kháng chiến lâu dài
nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.
1.1.3. Phong trào đấu tranh chống Mĩ và chính quyền Sài Gòn ở Khánh
Hòa từ 1954 đến 1960
Chiến dịch lich sử Điện Biên Phủ (1954) thắng lợi, buộc Pháp phải kí Hiệp

định Giơ-ne-vơ (1954) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Theo Hiệp định, nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền, lấy vĩ tuyến 17 (dọc
theo sông Hiền Lương (Bến Hải) - Quảng Trị) làm ranh giới quân sự tạm thời, miền
Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam do Chính phủ Quốc gia Việt Nam kiểm soát.
Theo quy định Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954), đến tháng 7/1956, hai miền sẽ tiến
hành tổng tuyển cử tự do để thống nhất đất nước. Lợi dụng sự chia cắt tạm thời, Mĩ
đã đẩy thực dân Pháp ra khỏi miền Nam và dựng lên chính quyền tay sai nhằm thiết
lập chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Ngày 7/7/1955, chính phủ mới
thành lập do Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng ở miền
Nam Việt Nam. Ngày 4/3/1956, Ngô Đình Diệm tổ chức bầu cử để chọn ra Quốc
hội đầu tiên của VNCH nhằm hợp thức hóa chính quyền, gạt bỏ Quốc trưởng Bảo
Đại và chính thức lên làm Tổng thống. Ngày 26/10/1956, Ngô Đình Diệm chính
thức công bố hiến pháp mới của VNCH.
Sau khi tiếp quản Khánh Hòa, CQSG tiến hành thiết lập bộ máy chính quyền
ở đây. Ở cấp tỉnh, thành lập Tòa Thị chính và các ty; ở các huyện đồng bằng thành

15


lập các quận, các huyện miền núi thành lập các Nha hành chính. Dưới quận có cấp
khu, dưới khu là xã, trong thôn lập các tổ liên gia để quản lí chặt chẽ người dân.
Bên canh bộ máy quản lý hành chính các cấp, CQSG còn xây dựng các tổ
chức đoàn thể chính trị phản động như “Đảng Cần lao Nhân vị”, “Phong trào Cách
mạng Quốc gia”, “Tập đoàn Công dân vụ”, “Thanh niên Cộng hòa”, “ Phụ nữ Liên
đới”, “Ủy ban tố Cộng” do Đảng Cần lao Nhân vị nắm giữ, chi phối.
Giữa năm 1955, Mĩ - Diệm chính thức phát động chiến dịch “tố Cộng” trên
toàn miền Nam, “truy tróc cho hết cộng sản”, các tổ chức Đảng ở Nam Trung bộ bị
tổn thất nặng nề. Trong những năm 1957-1959, chính quyền Mĩ Diêm tăng cường
khủng bố đàn áp, đặt Đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, ban hành Luật 10/59
gây nhiều đau thương cho đồng bào miền Nam trong đó có Khánh Hòa.

Trước hành động của Mĩ, Bộ Chính trị ban hành nghị quyết vào tháng
9/1954, vạch ra nhiệm vụ của Đảng là:
Lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh thực hiện Hiệp định đình chiến,
củng cố hòa bình, thực hiện tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, thực hiện
thống nhất và tranh thủ độc lập. Đồng thời phải lãnh đạo nhân dân đấu
tranh chống lại những hành động khủng bố, đàn áp, phá cơ sở, bắt bớ cán
bộ ta và quần chúng cách mạng. Chống những hành động tiến công của
địch giữ lấy quyền lợi quần chúng đã giành được trong trong thời kỳ kháng
chiến, nhất là những vùng căn cứ địa và vùng du kích của ta. [15, tr 308]
Khẩu hiệu chung của miền Nam lúc này là “Việt Nam hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ”, thực hiện chính sách mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi để
tranh thủ ảnh hưởng và tạo sự đồng tình rộng lớn buộc CQSG phải tuân theo Hiệp
định đình chiến, phải thừa nhận quyền tự do dân chủ của nhân dân trong một mức
độ nào đó, phải tiến hành Tổng tuyển cử để thống nhất nước nhà. Quan điểm chỉ
đạo của Đảng ta trong thời kỳ này chủ yếu là đấu tranh chính trị.
Ở Khánh Hòa từ chỗ đấu tranh vũ trang, nay chuyển sang đấu tranh chính trị
là một vấn đề mới mẻ, phức tạp đòi hỏi Tỉnh ủy Khánh Hòa phải có những sắp xếp
bố trí lại lực lượng lãnh đạo từ tỉnh đến cơ sở, phải có sự thay đổi về phương châm
phương thức đấu tranh. Tháng 8/1954, trong hội nghị tại Đá Bàn, bàn về lực lượng

16


ở lại và lực lượng tập kết ra Bắc, số cán bộ ở lại đã thành lập Tỉnh ủy bí mật do
đồng chí Lê Thanh Liêm làm Bí thư, Mai Xuân Cống là Phó Bí thư, đồng thời chọn
một số cán bộ lãnh đạo vững vàng được tôi luyện và trải qua thử thách trong kháng
chiến chống Pháp được phân công hình thành bộ máy lãnh đạo và tổ chức lực lượng
đấu tranh trong từng huyện, xã. Cán bộ được phân công trở về làng làm nhiệm vụ
giải thích tuyên truyền cho nhân dân hiểu rõ về ý nghĩa thắng lợi của Hiệp định
Giơ-ne-vơ 1954.

Do đế quốc Mỹ phá hoại, đã qua tháng 7-1956, nhưng không có tổng tuyển
cử thống nhất nước nhà. Từ năm 1957 đến năm 1959, Mĩ và chính quyền Ngô Đình
thực hiện “quốc sách tố Cộng” với quy mô lớn và ác liệt hơn các năm trước. Mũi
nhọn của giai đoạn này là chĩa vào toàn thể nhân dân yêu nước, đồng thời tiêu diệt
các tổ chức của Đảng và cán bộ hoạt động bí mật. Chúng ra sức phát triển các đạo
giáo, xây dựng mới nhiều nhà thờ đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành, khuyến khích
nhân dân theo đạo, đặc biệt phát triển đạo Tin Lành lên miền núi. Hầu hết số cán bộ
sống hợp pháp đều bị địch khống chế, một số co vào thế thủ, một số nằm im hoặc
chạy giạt đi nơi khác.. Rất nhiều cán bộ và những người kháng chiến bị địch bắt,
giết, tra tấn dã man và đày ải trong các nhà tù Côn Đảo, Chí Hòa, Tân Hiệp, Nha
Trang v.v... Trong chuyến tàu chở tù nhân lưu đày Côn Đảo rời cảng Nha Trang
ngày 30-4-1957, có 80 đồng chí cán bộ, đảng viên Cộng sản ở tỉnh Khánh Hòa.
Tháng 3-1958, Khu ủy V và Tỉnh ủy Khánh Hòa đã chọn địa bàn Khánh Sơn để
xây dựng thành căn cứ địa cách mạng, làm chỗ dựa để mở rộng phong trào cách mạng
và bàn đạp chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Mùa thu năm 1958, Khu ủy V ra nghị
quyết về xây dựng căn cứ địa miền núi bao gồm miền Tây các tỉnh đồng bằng (trong đó
có Khánh Hòa) và Tây Nguyên, bước đầu xây dựng lực lượng vũ trang với nhiệm vụ
bảo vệ căn cứ, bảo vệ cán bộ.
Chấp hành sự chỉ đạo của Khu ủy, của Liên tỉnh 3 và dựa theo tinh thần bản
"Đề cương về đường lối cách mạng miền Nam" của đồng chí Lê Duẩn, Tỉnh ủy chủ
trương lo xây dựng và củng cố căn cứ, lực lượng tự vệ võ trang, đẩy mạnh công tác
vận động đồng bào miền núi, chuẩn bị mọi mặt, tiến tới phá các khu tập trung. Đồng
thời, ở đồng bằng ta cũng có những biện pháp hoạt động mạnh hơn. Tỉnh ủy tập hợp

17


một số cán bộ đặc công trước đây hình thành hai tổ vũ trang: Một tổ phía Nam, một
tổ ở phía Bắc, với phương châm hoạt động "Có miếng không có tiếng, diệt một ngã
mười", tấn công tiêu diệt bọn ác ôn khét tiếng, nhưng phải che dấu bằng những tình

huống hợp pháp, khiến cho địch không có cớ khủng bố làm vỡ cơ sở. Tổ võ trang
này hoạt động ở địa bàn Diên Khánh, Vĩnh Xương tổ chức diệt tên Bùi Nà, đại diện
xã Vĩnh Phương vào ngày 4-1-1959. Bùi Nà có mâu thuẫn với cánh Lê Công Mộ,
một tên tay sai đắc lực của địch, nên sau khi Bùi Nà bị giết, ngón đòn dư luận quật
sang Lê Công Mộ, hắn bị bỏ tù. Vụ trừ gian này có ảnh hưởng lớn, đồng bào bàn
tán xôn xao, cùng một lúc loại trừ được hai tên ác ôn ở địa phương, nhưng cơ sở
không bị vỡ mà còn phát triển thêm. Tiếp đó, đội vũ trang ở phía Bắc diệt Trần Đức
Ty, một tên ác ôn khét tiếng ở Bằng Phước, xã Ninh Phú, huyện Ninh Hòa. Đầu
năm 1959, một tiểu đội du kích mật xã Ba Cụm do đồng chí Sen chỉ huy, cải trang
làm lính bảo an ngụy quận Cam Lâm đột nhập nhà riêng bắt xử tội tên Mang Xiêm,
tổng đoàn trưởng ác ôn khét tiếng.
Những vụ diệt ác, xử đúng người, đúng tội là những cú đánh trúng đích, gây
ảnh hưởng rất lớn trong nhân dân. Quần chúng phấn khởi, tin tưởng vào cách mạng.
Tuy nhiên sau những vụ diệt ác đó, Mỹ - Diệm dùng đến bạo lực phát xít một cách
điên cuồng, đặt quần chúng trước hai con đường: hoặc khuất phục chúng, hoặc
quyết tử chống lại. Lúc này con đường duy nhất để thực hiện nhiệm vụ giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc là: dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản
cách mạng, khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
Trước tình hình đó, Nghị quyết lần thứ 15 BCHTW Đảng khóa II (mở rộng)
tháng 1-1959, đã đánh dấu một sự chuyển hướng quan trọng về đường lối và
phương pháp cách mạng đối với miền Nam. Nghị quyết chỉ rõ: "Cách mạng Việt
Nam ở miền Nam nói chung không thể đi ra ngoài quy luật chung của nước thuộc
địa và nửa thuộc địa từ trước tới nay, cho nên con đường phát triển cơ bản của cách
mạng Việt Nam ở miền Nam là dùng bạo lực". Cụ thể là: "Lấy sức mạnh của quần
chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực
lượng vũ trang để đánh đổ chính quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng
lên chính quyền cách mạng của nhân dân". [16, tr 82]

18



Đầu 1959, theo chủ trương của Nghị quyết 15 BCHTW Đảng, đã có hàng
loạt cuộc đấu tranh mang tính bạo lực của quần chúng nổ ra ở các địa phương, tiêu
biểu là từ ngày 7/2 đến tháng 4/1959, Huyện ủy Bác Ái (Ninh Thuận) phối hợp với
nhân dân phía Nam huyện miền núi Khánh Sơn (Khánh Hòa) phá banh khu tập
trung Bà Râu và Tầm Ngân, mở ra khả năng cùng với các huyện miền núi Khánh
Hòa hình thành vùng căn cứ cách mạng. Sau thắng lợi này, khu căn cứ Ái Vĩnh Sơn
được thành lập, làm chỗ dựa vững chắc cho sự chỉ đạo của Liên tỉnh, đảm bảo hành
lang chiến lược Bắc- Nam, làm bàn đạp vững chắc cho phong trào đồng bằng.
1.2. Sự thiết lập ấp chiến lược của Mĩ và chính quyền Sài Gòn ở Khánh Hòa
1.2.1. Quá trình triển khai ấp chiến lƣợc ở Khánh Hòa
1.2.1.1. Khái quát về ấp chiến lược
Sau phong trào Đồng khởi 1959-1960, phong trào cách mạng miền Nam lớn
mạnh làm cho chế độ Sài Gòn đứng trước nguy cơ sụp đổ. Để đối phó, đầu năm
1961, Mĩ thực hiện chiến lược CTĐB (1961-1965), trong đó gom dân lập “ấp chiến
đấu” sau đổi thành ACL là quốc sách. Âm mưu chủ yếu của Mĩ và CQSG trong
việc lập ACL là “tách dân ra khỏi cộng sản, tát cạn nước trong đó có con cá du
kích…. Với chính sách ấp chiến lược thực hiện tốt thì chẳng cần gì đi tìm những
trận đánh trên bộ nữa” [46, tr.172]. Quan niệm của Giáo sư Sử học Randy Roberts
nhận xét: "Cái gọi là Chương trình Ấp Chiến lược thực chất là lùa nông dân Việt
Nam ra khỏi làng quê tổ tiên của họ và nhốt họ trong những khu đất rào quanh
chắc chắn giống như một nhà tù hơn là các cộng đồng thật sự" [78] Mặt trận Dân
tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thì cho rằng:
ACL là nội dung cơ bản, là "xương sống" của chiến lược CTĐB, là biện
pháp chủ yếu để tiến hành cuộc chiến tranh tổng lực, trong đó hành quân
càn quét, đánh phá, triệt hạ làng mạc, dồn dân, chiếm đóng, làm dân bị
kìm kẹp nhằm "tát nước bắt cá", cô lập lực lượng vũ trang cách mạng để
họ không thể dựa vào dân, nhằm thực hiện ý đồ tiêu diệt lực lượng quân
Giảiphóng.[78]
Trong khi đó CQSG thì xác định:


19


ACL là một ấp được tổ chức thực chu đáo về mọi phương diện nhằm mục
đích thực hiện cuộc cách mạng nhân vi cộng đồng, đồng tiến tại thôn xã.
Nói một cách rõ rệt hơn, ACL là một đơn vị chiến đấu của Quốc gia
chống ba thứ giặc: cộng sản; chia rẽ; chậm tiến. ACL chính là một
phương thức hữu hiệu nhất để ngăn chặn và tiêu diệt ba thứ giặc kể trên.
Vậy xây dựng ACL là nhiệm vụ chính của nhân dân. Tư tưởng của chúng
ta phải là tư tưởng quyết chiến quyết thắng. Tư tưởng đó bắt nguồn từ
lòng tin vững chắc vào đường lối cách mạng của dân tộc. ACL là một
trong những phương pháp để thực hiện cuộc cách mạng đó, nên chúng ta
nhất đinh xây dựng cho kỳ được ACL… từ đó chúng ta sẽ xây được xã
chiến lược, khu chiến lược [47, tr. 2-3-7]
Nói về quốc sách ACL của chính quyền Ngô Đình Diệm, Phật giáo xem như
là “những chiếc nơm sắt lớn và chắc, chụp xuống tất cả tư tưởng, nhất là tín
ngưỡng của dân tộc Việt nam” [49, tr. 2]. Để thực hiện chiến lược này, Mĩ - Diệm
tiến hành thực hiện kế hoạch Staley-Taylor gồm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: trong vòng 18 tháng (từ giữa 1961 đến cuối 1962) cơ bản bình
định xong miền Nam bằng cách dồn dân vào sống tập trung trong 16.000ACL để
tiêu diệt các cơ sở cách mạng ở nông thôn; phát triển QĐSG gồm quân chính quy,
bảo an, dân vệ, đồng thời tăng cường lực lượng yểm trợ Mĩ nhằm tiêu diệt lực
lượng vũ trang cách mạng miền Nam, tăng cường kiểm soát biên giới, vùng biển,
đẩy mạnh các hoạt động tình báo, gián điệp, biệt kích… chống phá miền Bắc để hỗ
trợ cho việc bình định miền Nam.
Giai đoạn 2: trong năm 1963, tập trung khôi phục kinh tế, hoàn tất chương
trình bình định, tiếp tục tăng cường quân Sài Gòn, đẩy mạnh chống phá miền Bắc.
Giai đoạn 3: trong hai năm (1964-1965) hoàn thành các mục tiêu của chiến
tranh đặc biệt, chuyển sang phát triển kinh tế.

Để triển khai chương trình ACL, ngày 3-2-1962, Ngô Đình Diệm kí Sắc lệnh
số 11-TTP lập Ủy ban liên bộ đặc trách ACL. Ngày 17-4-1961, Quốc hội VNCH đã
biểu quyết nâng chương trình ACL lên hàng “quốc sách” với mục đích giành giật
nông dân và địa bàn nông thôn với phía cách mạng, phá tận gốc rễ các cơ sở của

20


chiến tranh du kích để hoàn thành kế hoạch bình định miền Nam trong vòng 18
tháng. Mĩ và chính quyền Ngô Đình Diệm xem năm 1962 là năm ACL.
Ủy ban liên bộ đặc trách ACL do Ngô Đình Nhu đứng đầu và các ủy viên. Ở
mỗi tỉnh có một “Ủy ban xây dựng ACL” do Tỉnh trưởng làm Chủ tịch, Phó Tỉnh
trưởng phụ trách nội an, Chỉ huy trưởng bảo an và dân vệ làm Phó chủ tịch, các
Trưởng ty làm ủy viên. Mỗi ACL có một ban trị sự đứng đầu là những ấp trưởng, ấp
phó và lược lượng an ninh chiến đấu, cảnh sát, mật vụ. CQSG chia nhân dân ra làm
3 loại để kiểm tra, giám sát: “loại 1: là gia đình cách mạng hay có cảm tình với
cách mạng để theo dõi, bắt bớ,đàn áp nếu có hiện tượng liên hệ với cách mạng; loại
2: là những gia đình lưng chừng dễ mua chuộc, lôi kéo, dụ dỗ, ly gián; loại 3: là
những hộ gia đình có công với chính quyền Sài Gòn, chúng có chính sách ưu đãi và
sử dụng họ để theo dõi, khống chế nhân dân trong ấp” [9, tr.14]
Trong kế hoạch lập ACL, Mĩ và CQSG chia làm 3 vùng khác nhau để dồn
dân lập ACL: Vùng A: có CQSG kiểm soát chắc chắn; vùng B: là vùng CQSG nắm
được ưu thế về quyền kiểm soát nhưng Việt cộng cũng có thể xuất hiện tại đây và
thế trận giằng co giữa CQSG với Việt Cộng; vùng C: là vùng do Việt cộng nắm ưu
thế , các hoạt động về hành chính và dân sự bị Việt Cộng khống chế.
Để tăng cường khả năng chỉ huy và tập hợp mọi lực lượng để thực hiện
chương trình ACL, Mỹ - CQSG quyết định thay đổi cơ cấu tổ chức chiến trường từ
hình thức quân khu sang hình thức vùng chiến thuật. Do địa thế, địa hình và tình
hình an ninh, tình hình quân sự, CQSG ra sắc lệnh số (98-QP ngày 13 tháng 4 năm
1961) phân chia miền Nam ra 3 vùng chiến thuật và một Biệt khu Thủ đô, gồm:

Vùng I chiến thuật: thành lập tháng 6/1957, từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi do Quân
đoàn 1 phụ trách; Vùng II chiến thuật: thành lập tháng 10/1957, gồm toàn bộ cao
nguyên miền Trung và vùng duyên hải Nam Trung Bộ do Quân đoàn 2 phụ trách;
vùng III chiến thuật: thành lập tháng 3/1959, gồm các tỉnh Nam Bộ do Quân đoàn
III phụ trách. Sài Gòn được tổ chức thành Biệt khu Thủ đô. Mỗi vùng chiến thuật
được chia thành các Khu chiến thuật (gồm nhiều tỉnh), mỗi khu Khu chiến thuật
chia thành các Tiểu khu (cấp tỉnh), mỗi Tiểu khu chia thành các Chi khu (cấp quận,
huyện), mỗi Chi khu chia thành các Phân chi khu (cấp xã). Chính cách chia địa bàn

21


dân cư gắn với phân bố lực lượng đã tạo cơ sở tập trung sức mạnh về mọi mặt cho
việc thực hiện chương trình ACL, mà khởi đầu là những địa bàn trọng điểm.
1.2.1.2. Mỹ và chính quyền Sài Gòn triển khai ấp chiến lược ở Khánh Hòa
Đến đầu năm 1961, hoạt động vũ trang ở Khánh Hòa diễn ra trên khắp các địa
bàn nông thôn và miền núi trong tỉnh, đe dọa sự tồn tại của CQSG ở tỉnh này. Do
vậy, Mỹ và CQSG ra sức đẩy mạnh âm mưu gom dân, rào làng, lập ACL. Năm 1961,
Mĩ và CQSG dự định xây dựng 295 ấp ở Khánh Hòa, nhưng do sự phát triển mạnh
của phong trào cách mạng ở miền núi nên năm 1962 điều chỉnh xuống còn 281 ACL:
Trước đây, tỉnh tôi dự định sẽ thành lập 295ACL, trong số 326 ấp, nhưng
những ngày gần đây, vì tình hình an ninh đòi hỏi, Việt Cộng đã cố bao
vây hăm dọa số ấp Thượng ở lẻ tẻ thuộc quận Khánh Dương, nên thỏa
mãn sự yêu cầu của đa số thổ dân, tỉnh tôi đã cho di chuyển 17 buôn về
vùng an ninh gần quận lỵ để tiện bảo vệ. 17 buôn này sẽ về định cư ở 3
địa điểm, và 3 nơi đó sau đây sẽ biến thành ACL. Như vậy, Khánh Hòa sẽ
thành lập tất cả là 295 ấp -17 ấp di chuyển + 3 ấp mới = 281 ấp. Số ấp
này sẽ được phân loại như sau: Loại A (hoàn toàn an ninh) 81 ấp; loại B
(tương đối an ninh) 135 ấp; loại C (kém an ninh) 65 ấp. [45]
Trong kế hoạch, CQSG chủ trương chia thành 3 vùng để lập ACL, nhưng chỉ

tạm thời thực hiện được ở vùng giáp ranh núi và vùng kiểm soát. Nhằm tạo nên một
vành đai ở vùng ven núi ngăn cách giữa đồng bằng với vùng căn cứ cách mạng,
CQSG tiến hành trước hết ở những thôn xã có phong trào kháng chiến mạnh, có vị trí
tiếp giáp với vùng rừng núi căn cứ cách mạng như Ninh Hòa tiếp giáp với căn cứ Đá
Bàn; Diên Khánh, Cam Lâm gần với căn cứ Tô Hạp. Mỗi vùng, CQSG xây dựng một
số ấp kiểu mẫu rồi lan dần ra các địa phương khác. Chúng xây dựng theo mô hình: 1
sông một núi, có nơi 2 sông hai núi. Có nghĩa là 1 đường hào và 1 vòng rào hoặc 2
đường hào và 2 hàng rào kết song song với nhau chạy dọc xung quanh ấp. Rào cao
trung bình 2 mét, hào sâu trung bình 1,5 mét, rộng 2,5 mét trở lên. Dưới hào và mép
hào bên trong đều cắm chông. Đồng thời còn có chông bàn di động bằng sắt để hàng
đêm đặt vào những đoạn rào cần thiết. Mỗi ấp có cổng ra vào, ở mỗi cổng có bót
kiểm soát, có chòi canh cao khoảng 3-4 mét, có đặt máy điện thoại nối về trụ sở ấp,

22


×