MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Bước vào thế kỷ XXI, nhân loại đã xác định là “Thế kỷ của đại dương”. Trong
sự phát triển toàn diện và mạnh mẽ của thế giới, trước hết tại các quốc gia có biển và
hướng ra biển, hơn một thập niên qua đã chứng minh rất sinh động và đầy thuyết phục
nhận định nói trên.
Đối với Việt Nam, Đảng ta đã có chủ trương chiến lược và tổ chức phát triển
mạnh mẽ kinh tế vùng biển và kinh tế biển, đảo bắt đầu từ những năm 90 của thế kỷ
XX. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6-1996) đã xác định:
Vùng biển và ven biển là địa bàn chiến lược về kinh tế và an ninh, quốc phòng,
có nhiều lợi thế phát triển và là cửa mở lớn của cả nước để đẩy mạnh giao lưu quốc
tế, thu hút đầu tư nước ngoài. Khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế của vùng biển, ven
biển, kết hợp với an ninh, quốc phòng, tạo thế và lực để phát triển kinh tế - xã hội, bảo
vệ và làm chủ vùng biển của Tổ quốc [11].
Đến các Đại hội IX, X, XI, XII Đảng ta tiếp tục thực hiện chủ trương nhất quán
về chiến lược kinh tế biển, đảo. Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương 4 (khóa X), ngày 92-2007, Ban Chấp hành Trương ương đã ra Nghị quyết số 09/NQ-TW về “Chiến lược
Biển Việt Nam đến 2020”, trong đó đã xác định:
Phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo
đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan
trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho đất nước giàu mạnh.
Xây dựng và phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học - công nghệ,
tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, làm cho đất nước giàu mạnh từ biển, bảo vệ
môi trường biển [6].
Quán triệt và vận dụng chủ trương của Đảng vào thực tế địa phương, Tỉnh ủy
Quảng Trị đã đề nghị Bộ Chính trị, Chính phủ cho thành lập đơn vị hành chính cấp
huyện đối với đảo Cồn Cỏ. Trải qua một quá trình chuẩn tích cực, ngày 01-10-2004,
Thủ tướng Chính phủ đã ra Nghị định số 174/2004/NĐ-CP về việc thành lập huyện
đảo Cồn Cỏ thuộc tỉnh Quảng Trị với diện tích tự nhiên 220ha và 400 nhân khẩu. Sau
14 năm thành lập, xây dựng và phát triển, từ một hòn đảo tiền tiêu - thuần túy về quân
sự, đảo Cồn Cỏ đã trở thành một đảo dân sự với 500 nhân khẩu, trong đó có 17 hộ dân,
với tổ chức bộ máy Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể chính trị gồm 40 cán
1
bộ, công chức, viên chức. 14 năm chưa phải là dài đối với tầm vóc của một huyện trực
thuộc tỉnh, nhưng đó cũng là một chặng đường quan trọng trong lộ trình phát triển của
huyện đảo Cồn Cỏ - là điểm khởi đầu của một tương lai đầy triển vọng.
14 năm với 3 nhiệm kỳ đại hội Đảng bộ huyện, từ những mục tiêu, giải pháp
phù hợp cùng với quyết tâm cao trong lãnh đạo, chỉ đạo, nền kinh tế - xã hội, quốc
phòng - an ninh của huyện đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Kinh tế có sự tăng
trưởng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ngày
càng được tăng cường; văn hoá - xã hội có nhiều tiến bộ. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật đã
được đầu tư với các công trình quan trọng như: công trình cấp phát điện Diezen, hệ
thống nước sinh hoạt tập trung, âu cảng cá, phương tiện đi lại, trụ sở các cơ quan đơn
vị, trung tâm y tế quân dân y… Các hoạt động văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao,
giáo dục, y tế ngày càng phát triển, đời sống vật chất, tinh thần của người dân ngày
càng được nâng lên. Quốc phòng - an ninh tiếp tục được đảm bảo và ngày càng được
củng cố vững chắc. Các công trình quân sự được quan tâm đầu tư hiện đại, đáp ứng
được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Tình hình an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội luôn được giữ vững, huyện đảo Cồn Cỏ là địa bàn không có tội phạm hình
sự và tệ nạn xã hội.
Bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình kinh tế - xã hội và quốc phòng - an
ninh của huyện đảo Cồn Cỏ vẫn còn nhiều khó khăn, yếu kém. Cơ sở hạ tầng đầu tư
chưa được đồng bộ, xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế
vẫn còn chậm và chưa thật vững chắc, chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn còn chậm, chưa
tương xứng với tiềm năng của huyện. Công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
được triển khai chậm, quản lý quy hoạch chưa tốt; đầu tư kết cấu hạ tầng phục vụ sản
xuất còn hạn chế; công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên - môi trường hiệu quả không
cao. Các hoạt động khoa học, công nghệ, văn hoá - thông tin, giáo dục - đào tạo, thể
dục - thể thao, y tế còn nhiều bất cập.
Đánh giá kết quả kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của huyện đảo Cồn Cỏ
từ năm 2004 đến năm 2015 là một việc làm thiết thực và có ý nghĩa khoa học, thực
tiễn sâu sắc. Kết quả của đề tài sẽ góp phần làm rõ ưu điểm, khuyết điểm, đúc rút được
những kinh nghiệm để góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc
phòng - an ninh huyện đảo Cồn Cỏ tốt hơn trong các giai đoạn tiếp theo. Qua đó, cũng
góp phần khẳng định tính đúng đắn về chiến lược Biển Việt Nam; tính biện chứng
2
trong việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo quốc phòng - an ninh. Đồng
thời, kết quả nghiên cứu cũng là nguồn tư liệu quan trọng, có hệ thống, phục vụ cho
công tác lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng
- an ninh ở huyện đảo Cồn Cỏ.
Với những ý nghĩa trên, tôi chọn đề tài “Phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo
quốc phòng - an ninh ở huyện đảo Cồn Cỏ, tỉnh Quảng Trị (2004 - 2015)” làm đề tài
luận văn thạc sĩ sử học.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Liên quan đến đề tài có một số công trình sau:
Về các công trình lịch sử, có bộ Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Trị của Ban chấp
hành Đảng bộ tỉnh Quảng Trị gồm 3 tập, được xuất bản vào các năm 1996 (tập 1), năm
1999 (tập 2), 2000 (tập 3); cuốn Anh hùng lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Trị của
Thường vụ Đảng ủy Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Trị; cuốn Lịch sử Đảng bộ Vĩnh
Linh (1930 - 1975) của Ban Thường vụ Huyện ủy Vĩnh Linh; Lịch sử Đảng bộ xã Vĩnh
Quang (1930 - 1975) của Ban Thường vụ Đảng ủy xã Vĩnh Quang, đã đi sâu đề cập
đến truyền thống đấu tranh anh hùng của quân và dân Quảng Trị trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ; vai trò và những đóng góp của lực lượng vũ trang
Quảng Trị trong đó có lực lượng vũ trang đảo Cồn Cỏ trong những năm Mỹ đánh phá
miền Bắc xã hội chủ nghĩa từ năm 1964 đến năm 1972; tinh thần đoàn kết, kiến thiết
xây dựng quê hương khi hòa bình lập lại; những thành tựu của Quảng Trị trong những
năm đổi mới.
Viết về đảo Cồn Cỏ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ có tác phẩm “Họ sống và
chiến đấu” của nhà văn Nguyễn Khải. Tác phẩm đã mang đậm hơi thở cuộc sống,
chiến đấu, những tấm gương anh dũng của cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang đảo
Cồn Cỏ trong những năm tháng chiến đấu bảo vệ đảo Cồn Cỏ.
Tuyển tập thơ, văn “Cồn Cỏ xưa sau” của nhiều tác giả trong Câu lạc bộ
Đường 9 - Quảng Trị, gồm chủ yếu là bút ký, ký sự, hồi ký, mẫu chuyện, thơ và truyện
ngắn đã được xuất bản thành sách, in ấn trên các báo, tạp chí văn nghệ trong nước, viết
về truyền thống anh dũng của đảo trong kháng chiến chống Mỹ và tiềm năng, lợi thế
cũng như kỳ vọng về một đảo Cồn Cỏ phát triển phồn thịnh trong tương lai.
Với cuốn “Đảo Cồn Cỏ anh hùng”, Nguyễn Hằng Thanh đã viết về truyền
thống anh hùng của đảo và thời kỳ xây dựng đảo thanh niên Cồn Cỏ.
3
Về lực lượng vũ trang đảo Côn Cỏ, có hai cuốn biên niên sử được Ban Thường
vụ Huyện ủy đảo Cồn Cỏ biên soạn năm 2009 và 2014, đã thống kê các sự kiện lịch sử
và hệ thống ảnh theo các thời kỳ, phản ánh quá trình chiến đấu bảo vệ đảo, những
chiến công xuất sắc trong chiến đấu, những tấm gương tiêu biểu, sự quan tâm của
Đảng, Bác Hồ, quân và dân miền Bắc, Khu ủy Vĩnh Linh đối với đảo Cồn Cỏ.
Tất cả những công trình trên chỉ mới đề cập truyền thống của tỉnh Quảng Trị,
của huyện Vĩnh Linh, xã Vĩnh Quang, đảo Cồn Cỏ, chưa có công nào đề cập đến sự
phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng - an ninh từ năm 2004 đến năm
2015 ở huyện đảo Cồn Cỏ một cách có hệ thống. Tuy vậy, những công trình trên là
những tài liệu tham khảo quan trọng để tôi tham khảo, triển khai thực hiện đề tài luận
văn.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Sự phát triển của kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng - an ninh của huyện
đảo Cồn Cỏ từ năm 2004 đến năm 2015.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Huyện đảo Cồn Cỏ.
- Về thời gian: Từ năm 2004 đến năm 2015.
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1. Mục đích nghiên cứu: Tái hiện một cách có hệ thống về quá trình phát
triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng - an ninh của huyện đảo Cồn Cỏ qua hai
giai đoạn 2004 - 2010 và 2011 - 2015, qua đó nhận thức đúng đắn những thành tựu và
những hạn chế, đúc rút được những bài học kinh nghiệm góp phần vào quá trình lãnh
đạo, chỉ đạo xây dựng và phát huyện đảo Cồn Cỏ trong các giai đoạn tiếp theo.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích các nhân tố tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo
quốc phòng - an ninh ở huyện đảo Cồn Cỏ.
- Tái hiện bức tranh phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng - an ninh
của huyện đảo Cồn Cỏ, từ đó làm rõ những thành tựu ban đầu, chỉ ra hạn chế, bất cập
về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng - an ninh.
4
- Đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân của ưu khuyết điểm, từ
đó rút ra những bài học kinh nghiệm, góp phần phát triển huyện đảo Cồn Cỏ trong thời
gian tới.
5. NGUỒN TƢ LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Nguồn tƣ liệu
- Các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương Đảng, Chính phủ, Quân khu IV, Tỉnh
ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị.
- Các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc trong thời kỳ đổi mới, các văn kiện Đại
hội Đảng bộ tỉnh Quảng Trị, Đại hội Đảng bộ huyện đảo Cồn Cỏ; các nghị quyết, chỉ
thị, kết luận, chương trình hành động của Huyện ủy. Các báo cáo của Ủy ban nhân dân
huyện về tình hình kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh hàng năm. Các báo cáo
của các phòng, ban thuộc Tỉnh ủy Quảng Trị, Huyện ủy Cồn Cỏ, các ngành liên quan
về kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh, nguồn tài liệu của Cục Thống kê tỉnh
Quảng Trị và Phòng Kinh tế - xã hội huyện.
- Các sách đã xuất bản, các bài viết nghiên cứu về tình hình đổi mới liên quan
đến những vấn đề kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh đăng trên các tạp chí ở
trung ương và địa phương.
- Thông tin từ các nhân chứng nguyên là lãnh đạo, cán bộ huyện đảo Cồn Cỏ.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử và phương
pháp logic là chủ yếu. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp như
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh và phương pháp liên ngành (điền dã, thống
kê, quan sát, phỏng vấn nhân chứng lịch sử) nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể của
luận văn.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Thứ nhất: Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên, có hệ thống về tình hình
phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng - an ninh của huyện đảo Cồn Cỏ từ
2004 đến 2015.
Thứ hai: Luận văn góp phần khẳng định những đóng góp của Đảng bộ, chính
quyền và quân dân huyện đảo Cồn Cỏ trong tham gia phát triển kinh tế - xã hội và bảo
vệ chủ quyền biên giới quốc gia.
5
Thứ ba: Luận văn là tài liệu tham khảo đối với việc nghiên cứu lịch sử Đảng bộ
tỉnh Quảng Trị thời kỳ đổi mới, cũng là nguồn tham khảo trong việc tìm hiểu về biển
đảo Việt Nam.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng - an ninh ở huyện
đảo Cồn Cỏ (2004 - 2010).
Chương 2: Phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng - an ninh ở huyện
đảo Cồn Cỏ (2011 - 2015).
Chương 3. Một số nhận xét và bài học kinh nghiệm.
6
Chƣơng 1
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
VÀ ĐẢM BẢO QUỐC PHÒNG - AN NINH
Ở HUYỆN ĐẢO CỒN CỎ (2004 - 2010)
1.1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
VÀ ĐẢM BẢO QUỐC PHÒNG - AN NINH CỦA HUYỆN ĐẢO CỒN CỎ
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
- Về vị trí địa lí, diện tích, địa hình, địa chất
Đảo Cồn Cỏ là hòn đảo độc lập nằm trên vùng biển tỉnh Quảng Trị, cách đất
liền từ 13 đến 17 hải lý; nhìn từ trên cao xuống đảo có hình dáng như một con Rùa
biển. Đảo Cồn Cỏ có tọa độ địa lý 17008′15″- 17001′05″ vĩ độ Bắc, 107019′50″107020′40″ kinh độ Đông. Đảo nằm án ngữ ở cửa ngõ phía Nam vịnh Bắc Bộ, là điểm
để phân định đường cơ sở (điểm A11) nên đảo có ý nghĩa chiến lược trọng yếu trong
mối quan hệ kinh tế - lãnh thổ và quốc phòng - an ninh không chỉ đối với tỉnh Quảng
Trị, khu vực Bắc Trung Bộ mà còn cả phạm vi quốc gia.
Với diện tích 2,2 km², đảo Cồn Cỏ cách đất liền điểm gần nhất là mũi Lài thuộc
xã Vĩnh Thạch, huyện Vĩnh Linh 13 hải lý, cách Cửa Tùng 15 hải lý và cách cảng Cửa
Việt 17 hải lý. Với vị trí địa lý không quá xa bờ, đảo Cồn Cỏ là một trong những đảo
được xếp vào hệ thống đảo tiền tiêu trên vùng biển Việt Nam, trên đảo có thể lập
những căn cứ kiểm soát vùng biển, vùng trời quốc gia, kiểm tra hoạt động của các tàu
thuyền, bảo đảm an ninh - quốc phòng, xây dựng kinh tế, bảo vệ chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia cả trên đất liền, vùng trời lãnh hải trên biển; mặt khác, đảo Cồn
Cỏ còn có lợi thế trong phát triển ngành kinh tế dịch vụ hậu cần nghề cá, du lịch và
giao thông đường biển của tỉnh Quảng Trị.
Đảo Cồn Cỏ có những dạng địa hình khá phong phú:
- Địa hình dải thềm biển: Có bề mặt khá bằng phẳng, với độ cao từ 4,0-7,0m.
Tại khu vực này đã được xây dựng một số công trình, bao gồm các công trình phục vụ
an ninh quốc phòng, làng thanh niên, công trình công cộng.
- Địa hình dốc thoải, tương đối bằng: Đây là địa hình cơ bản của đảo, độ dốc từ
3%-7%, độ cao so với mực nước biển tại khu vực này từ 5,0m-20,0m. Dạng địa hình
này thuận lợi cho công tác xây dựng, bố trí các khu dân cư, công trình phục vụ kinh tế,
đời sống.
7
- Địa hình đồi thấp: Gồm khu vực đồi 37m (Khu Đài tưởng niệm), là dải đồi yên
ngựa với điểm cao nhất là 37m, độ dốc sườn đồi 17%-70%. Những khu vực của dạng
địa hình này dễ bị rửa trôi, xói mòn nhất trên đảo, do vậy cần đặc biệt chú trọng tới độ
che phủ của thảm rừng. Khu vực đồi 63 có thể khai thác du lịch sinh thái, thăm dấu vết
của miệng núi lửa.
- Địa hình bãi biển: Đây là dạng địa hình rất hạn chế, chiều rộng của bãi thường
không quá 20m, được cấu tạo bởi vụn san hô, đá cục xen lẫn đá tảng. Phân bố của các
bãi này tập trung chủ yếu ở bến Hà Đông, bến Nghè và bến Tranh (phía Đông, Đông Nam và Nam của đảo). Tại những bãi này có thể đầu tư, cải tạo và khai thác dịch vụ
du lịch, tắm biển.
Bên cạnh những dạng địa hình nói trên, ở đảo còn có dạng địa hình bờ mài mòn
khá phổ biến quanh đảo (bao gồm các bờ mài mòn trên trầm tích vụn bở, trên đá gốc
neogen và trên lớp đá bazan). Những bờ mài mòn này có thể coi như chứng tích kiến
tạo của tự nhiên, góp phần làm phong phú thêm cảnh quan của đảo và tạo sức hút cho
hoạt động du lịch sinh thái, nghiên cứu khoa học thổ nhưỡng.
Ngoài ra, cảnh quan tự nhiên xung quanh đảo rất đẹp, những bờ mài mòn xung
quanh đảo là chứng tích kiến tạo của tự nhiên, góp phần làm phong phú thêm cảnh
quan của đảo và tạo sức hút cho hoạt động du lịch sinh thái cũng như nghiên cứu khoa
học địa chất.
Về địa chất: Đảo Cồn Cỏ được cấu tạo chủ yếu bởi đá bazan, chỉ một phần nhỏ
diện tích của đảo được phủ bởi lớp mỏng các trầm tích vụn san hô. Đảo Cồn Cỏ là đảo
được tạo thành chủ yếu do kết quả của sự phun trào núi lửa, đại bộ phận diện tích đảo
được bao phủ bởi bazan. Đảo Cồn Cỏ có địa hình dạng vòm thoải, một số khu vực địa
hình rất có giá trị đối với du lịch sinh thái. Tại vị trí miệng núi lửa trước đây có diện
tích hẹp (khoảng 0,5ha) nằm ở độ cao trên 63m. Trên bề mặt phân bố khá nhiều đá
bazan dạng bọt, có thể trở thành sản phẩm du lịch. Bề mặt sườn núi lửa có độ dốc 2030%, phân bố xung quanh miệng núi lửa. Bề mặt vòm và rìa vòm núi lửa chiếm diện
tích lớn nhất trên đảo. Trên bề mặt nghiêng thoải này, vỏ phong hóa tạo đất nâu đỏ có
bề dày lớn hơn các khu vực khác, đây là khu vực cần bảo tồn và khôi phục lớp phủ
thực vật, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch biển đảo.
Trên đảo tồn tại hai bậc thềm biển: Thềm mài mòn tích tụ cao 6-8m, lộ trơ đá
bazan hoặc phủ lớp vụn san hô; thềm tích tụ cao 3-4m, cấu tạo bởi cát sạn có thành
8
phần từ vỏ sinh vật. Các thềm biển này có thể được sử dụng làm mặt bằng tốt để xây
dựng cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch. Bề mặt nền mài mòn hiện đại và vách mài mòn
phân bố khá rộng sát mép nước. Chúng tạo nên các cảnh quan độc đáo cho du lịch và
còn là điều kiện để tham quan khoa học, tìm hiểu cấu trúc của trầm tích núi lửa và lịch
sử hình thành vùng đất này. Trên đảo còn gặp các bãi tảng cuội lớn trên nền mài mòn,
những bãi biển hẹp tại các cung bờ lõm ở phía Đông, Đông Nam và Nam của đảo rộng
khoảng 20-40m, nghiêng thoải. Một số bãi biển cấu tạo bởi đá vụn san hô, trên bãi
biển phân bố nhiều tảng lăn đá bazan. Những bãi biển này nếu được đầu tư, tôn tạo sẽ
phục vụ tốt cho hoạt động du lịch - nghỉ dưỡng.
- Về khí hậu
Đảo Cồn Cỏ chịu ảnh hưởng của chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa, tuy nhiên do
ảnh hưởng của chế độ khí hậu đại dương nên những đặc điểm khí hậu ở đây mang sắc
thái ôn hòa hơn.
+ Nhiệt: Nền nhiệt bình quân trong năm là 25,50C; cao hơn chút ít so với thành
phố Đông Hà (24,80C), tuy nhiên biên độ chênh lệch giữa nhiệt độ tối cao và tối thấp
là không lớn 4,60C (28,20C so với 23,60C), trong khi ở thành phố Đông Hà biên độ
chênh lệch này là 6,80C (28,70C so với 21,90C). Đây là yếu tố thuận lợi cho sự phát
triển của cây trồng, đặc biệt đối với các loại cây ngắn ngày có thể sản xuất nhiều vụ
trong năm. Diện tích dành cho nông nghiệp không lớn, nếu khai thác lợi thế về chế độ
nhiệt, trên đảo có thể tăng hệ số sử dụng đất nhiều lần với cơ cấu các cây trồng có thời
gian sinh trưởng ngắn như rau, đậu thực phẩm... phục vụ cho nhu cầu tại chỗ.
+ Lượng mưa: Lượng mưa bình quân trong năm khá cao với 2.169,5mm. Số
tháng có lượng mưa trên 100mm được rải trong 9 tháng (trong khi chế độ mưa này của
thành phố Đông Hà là 6 tháng). Lượng mưa tập trung cao nhất từ tháng 8 đến tháng 01
năm sau chiếm (73,6% tháng lượng mưa cả năm), các tháng có lượng mưa bình quân
lớn nhất là tháng 9, 10, 11, 12 (tháng 9 lượng mưa trung bình đạt trên dưới 500 mm).
Với lượng mưa khá dồi dào và kéo dài hơn vùng đồng bằng Quảng Trị, nếu xây dựng
các công trình hứng nước, trữ nước thì đảo sẽ có được nguồn nước quan trọng cho sinh
hoạt và sản xuất trong mùa khô, góp phần khắc phục tình trạng nước ngầm kém phong
phú trên đảo.
+ Bốc hơi: Ở đảo Cồn Cỏ lượng bốc hơi thấp, tổng lượng bốc hơi bình quân
trong năm xấp xỉ 964,1mm, chỉ bằng 44,4 % lượng mưa. Tuy nhiên, có thời kỳ lượng
9
bốc hơi cao hơn lượng mưa (các tháng 6, 7, 8), đây là thời gian khô hạn trên đảo, trong
đó tháng 7 lượng bốc hơi vượt lượng mưa tới 1,8 lần.
+ Độ ẩm: Với chế độ mưa và bốc hơi nói trên, độ ẩm không khí của đảo được
cải thiện đáng kể, bình quân trong năm là 85%. Chế độ ẩm ở đảo Cồn Cỏ tương đối
thuận lợi để kéo dài thời gian canh tác cây ngắn ngày, kết hợp nền nhiệt cao sẽ cho
phép nâng cao hệ số sử dụng đất trong trồng trọt. Đây cũng là yếu tố giảm thiểu thời
kỳ khô hạn trên đảo để cây lâu năm và thảm thực vật phục hồi, phát triển. Trong năm
có tới 4 tháng, từ tháng 01 đến tháng 4 độ ẩm đạt 90% trở lên.
+ Gió: Đảo Cồn Cỏ chịu ảnh hưởng thường xuyên của gió biển khá mạnh. Tốc
độ gió trung bình trong năm đạt tới 3,9m/s, lớn hơn gió của Côn Đảo (2,6m/s) và Phú
Quốc (2,9m/s). Tốc độ gió nhỏ nhất là 2,7m/s (tháng 4, tháng 5), gió mạnh nhất là vào
tháng 1, tháng 10 đến 12 (4,6 - 5,3m/s). Đặc biệt trong cơn dông, bão tốc độ gió lên tới
16m/s (tốc độ cực đại có thể lên tới 38m/s (1984), lớn hơn những đảo khác, kể cả
Trường Sa (34m/s).
Các hướng gió chính là Đông Bắc, Tây Bắc, Tây - Tây Bắc, Bắc và gió Tây
Nam (chỉ hiện xuất vào tháng 6 và tháng 8). Với chế độ gió ở đảo như vậy nên việc
quy hoạch, bố trí các khu dân cư và các công trình có chiều cao trên đảo cần được thực
hiện hợp lý để đảm bảo tránh ảnh hưởng do gió. Tuy nhiên, chế độ gió trên đảo cũng
tạo yếu tố thuận lợi để có thể khai thác chuyển thành điện năng (điện gió).
Đảo Cồn Cỏ còn có những đặc điểm riêng về thời tiết, cụ thể như:
+ Bão: Đảo Cồn Cỏ chịu ảnh hưởng chung của chế độ bão miền Trung, là nơi
phải hứng chịu nhiều cơn bão của biển Đông thời gian từ tháng 9 đến tháng 12 (trung
bình có 0,3-1,7 cơn/tháng, riêng trong tháng 9 ở khu vực Bắc Trung Bộ có 1,5
cơn/tháng). Mùa bão thường trùng với thời kỳ mưa lớn tập trung và kèm theo gió
mạnh. Với chế độ bão trong khu vực, vị trí của đảo Cồn Cỏ càng đặc biệt quan trọng vì
có thể trở thành nơi trú đậu an toàn tránh gió bão cho tàu thuyền trên biển.
+ Sương mù và giông: Sương mù quanh đảo thường xảy ra tháng 12 cuối năm
này đến tháng 4 năm sau, trung bình mỗi năm có từ 22 đến 24 ngày có sương mù, mỗi
tháng có từ 1 đến 4 ngày.
+ Giông: Giông xuất hiện thường xuyên quanh biển đảo Cồn Cỏ, trung bình có
4 - 6 ngày giông/tháng. Các tháng 12 và 01 không thấy xuất hiện giông.
10
+ Mây và nắng: Lượng mây tổng quan toàn năm và các tháng ở đảo Cồn Cỏ đều
thấp hơn vùng duyên hải (trung bình năm là 7,4-10 bầu trời). Lượng mây có ảnh
hưởng lớn tới số giờ nắng trong năm. Số giờ nắng đạt hơn 1.900 giờ/năm và số ngày
nắng trong năm đạt trên 200 ngày, đây là yếu tố thuận lợi cho việc chuyển thành điện
năng.
+ Thủy triều: Đảo Cồn Cỏ nằm trong khu vực biển có chế độ bán nhật triều
không đều và có mức thủy triều không lớn. Mực triều trung bình là 0,76m; lúc triều
cường có thể tới 0,9 - 1,2m và triều kiệt có thể xuống 0,3 - 0,6m. Thời kỳ nước triều
mạnh từ tháng 9 đến hết tháng 01 năm sau, mạnh nhất là tháng 10 - 11 (lúc triều cực
đại có thể tới 1,4m). Thời kỳ triều nhỏ nhất rơi vào các tháng 5, 6, 7, vào giai đoạn này
lúc cường nhất chưa tới 1,0m và ròng nhất có thể xuống 0,1m.
+ Sóng: Sóng ở đảo Cồn Cỏ khá lớn và có 3 hướng thịnh hành: 1/ Từ tháng 9
đến tháng 3 năm sau, hướng sóng thịnh hành là Đông - Bắc, độ cao trung bình 0,9m,
vào các tháng 10 - 12 độ cao trung bình của sóng tới 1,20m, cao nhất có thể tới 33,5m. 2/ Các tháng 4 - 6, sóng thịnh hành theo hướng Đông Nam. 3/ Các tháng 7 - 8
sóng thịnh hành theo hướng Tây - Nam, độ cao trung bình của sóng là 0,7m, cao nhất
có thể tới 3-3,5m. Trong giông, bão sóng ở vùng biển đảo Cồn Cỏ rất lớn, độ cao tới 67m, đặc biệt thời điểm cực đại trong bão (tháng 9-1979) lên tới 9,0m.
+ Nước biển: Nhiệt độ trung bình trong năm của nước biển quanh đảo cao hơn
nhiệt độ trên đảo 25,90C so với 25,50C. Vào mùa hè (tháng 4 - 8) nhiệt độ trung bình
của nước biển thấp hơn nhiệt độ không khí trên đảo (27,40C so với 28,10C). Do mang
tính biển khơi, không chịu ảnh hưởng của các cửa sông nên nước biển ở đảo Cồn Cỏ
trong và có độ mặn ít biến đổi theo mùa. Giữa mùa mưa và mùa khô chỉ chênh lệch
chút ít (giữa cực đại và cực tiểu chỉ chênh lệch nhau khoảng 3,10-00). Độ mặn bình
quân trong năm của nước ở vùng biển quanh đảo Cồn Cỏ đạt 31,30-00, cao hơn vùng
biển ven bờ Cửa Việt và Cửa Tùng.
+ Dòng chảy: Vùng biển đảo Cồn Cỏ nằm trong khu vực có dòng chảy tương
đối mạnh và hướng dòng chảy thay đổi theo mùa. Trong các tháng từ tháng 6 đến
tháng 8 hướng chảy Đông Nam - Tây Bắc, tốc độ trung bình là 0,6 hải lý/giờ. Những
tháng còn lại dòng chảy có hướng Tây Bắc - Đông Nam với tốc độ trung bình 0,5 hải
lý/giờ.
11
Những đặc trưng về chế độ hải văn ở đảo Cồn Cỏ có liên quan mật thiết tới hoạt
động đánh bắt, nuôi trồng hải sản cũng như bố trí các công trình ven biển và các hoạt
động kinh tế, đời sống khác của đảo như giao thông biển, khả năng cập cảng của tàu
thuyền, tổ chức mùa du lịch.
Tóm lại, chế độ khí hậu, thời tiết của đảo cơ bản thuận lợi cho sự phát triển kinh
tế - xã hội. Chế độ nhiệt, số giờ nắng, tốc độ gió còn là nguồn năng lượng dồi dào nếu
được đầu tư khai thác để sản xuất điện cho đảo. Bên cạnh đó, một số yếu tố bất thuận
lợi cho phát triển kinh tế - xã hội đó là đảo Cồn Cỏ có thời kỳ khô hạn, gió và bão với
cường độ mạnh, lượng mưa lớn, tập trung, dễ gây rửa trôi, xói mòn đất... nên cần có
những giải pháp phù hợp nhằm hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực của thiên
tai cho phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh trên đảo.
- Về tài nguyên
+ Tài nguyên đất
Huyện đảo Cồn Cỏ có tổng diện tích đất tự nhiên là 220ha. Trong đó, đất ở
38,7ha, chiếm 17,6%; đất công cộng 7,33ha, chiếm 3,33%; đất cây xanh 10,11ha,
chiếm 4,6%; đất dịch vụ 3,58ha, chiếm 1,62%; đất xây dựng khách sạn 6,49ha, chiếm
2,95%; đất quân sự 6,99ha, chiếm 3,17%; đất rừng nguyên sinh 146,8ha, chiếm
66,73%. Đất trên địa bàn huyện gồm các loại sau:
Đất nâu tím trên đá bazan (nâu tím trên đá macma bazơ - Ft): Phân bố tập trung
trên miệng vòm núi lửa (khu đồi 63). Đất có độ dốc lớn (từ 200 trở lên), tầng dày 70 100cm, đất có phản ứng chua. Hàm lượng mùn cao (3,73%), hàm lượng các chất NPK
tổng số thuộc loại trung bình. Loại đất này có diện tích 8,60ha, chủ yếu thích hợp để
phát triển rừng.
Đất nâu đỏ phát triển trên đá bazan (nâu đỏ trên đá macma bazơ và trung tính):
Đây là loại đất phân bố khắp trên đảo (chiếm gần 73,66% diện tích đất của đảo). Đa số
phần đất có độ dốc dưới 150 và tầng dày trung bình hoặc mỏng, bề mặt có nhiều đá,
thậm chí một số khu vực còn có đá khối. Đất khá màu mỡ, thích hợp để bố trí các công
trình xây dựng, khu dân cư, phát triển rừng và những khu vực có tầng dày trên 50cm
có thể dành một phần để khai thác đưa vào canh tác các cây trồng nông nghiệp.
Đất đỏ vàng phát triển trên đá bazan (đất nâu đỏ vàng trên đá macma bazơ và
trung tính - Fd): Phân bố tập trung khu vực đài Tưởng niệm ở Đông Nam đảo. Đất
12
tương đối dốc (từ 150 trở lên), đất chua, nghèo mùn, lượng NPK ở mức trung bình.
Loại đất này có diện tích 10,50ha, thích hợp cho phát triển rừng.
Đất cát biển: Phân bố thành giải hẹp ven bờ phía Đông và Đông Nam của đảo,
thành phần chủ yếu là cát và vụn san hô, sò, ốc... Ở một số điểm (khu vực gần bến Hà
Đông) có thể khai thác làm bãi tắm với quy mô nhỏ.
Đất cát vụn vỏ sinh vật biển: Phân bố khá rộng phía Đông đảo, nằm phía trong
dải đất cát biển. Loại đất này được hình thành do tích tụ từ xác của động vật biển như
san hô, vỏ sò, ốc...
Đánh giá chung về tài nguyên đất của đảo Cồn Cỏ:
- Đảo có chất lượng đất về cơ bản thích hợp để hình thành một hệ sinh thái lâm nông nghiệp đa dạng, tạo sinh cảnh thuận lợi cho các hoạt động kinh tế. Đây là yếu tố
có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với môi trường sống của một hải đảo trong điều
kiện bốn bề là biển khơi bao bọc.
- Đảo có trên 64% diện tích đất có tầng dày trên 50cm và gần 76% mặt bằng đất
của đảo có độ dốc dưới 150 thuận lợi cho việc bố trí các khu dân cư, công trình phục
vụ kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên tài nguyên đất trên đảo cũng có những hạn chế nhất định, đó là:
- Một số khu vực tình trạng đá lẫn cao, trong đó có những khu có thể bố trí dân
cư. Do vậy, khi khai thác sử dụng phải tốn kinh phí đầu tư xây dựng cao để thu dọn.
- Ở những khu vực độ dốc trên 150 cần chú trọng các giải pháp bảo vệ đất chống
xói mòn, rửa trôi.
+ Tài nguyên nước
Nước ở đảo Cồn Cỏ chủ yếu là nước mặt và nước ngầm.
Nước mặt: Cồn Cỏ có địa hình dạng vòm thoải, cao gần trung tâm và thấp dần
ra xung quanh nên dẫu có mùa mưa kéo dài tới 7 tháng, lượng mưa khá cao nhưng đảo
hầu như không có khả năng giữ nước để hình thành dòng chảy. Khi mưa, hầu như toàn
bộ lượng nước trên đảo chảy xuống biển và quá trình chảy tràn chiếm ưu thế. Do vậy,
trên đảo hoàn toàn không có các dòng chảy, kể cả với loại hình khe suối khô mà chỉ
gặp một số mảng trũng (dạng máng khô).
Lượng nước thu nhận trên bề mặt khoảng 5 triệu m3/năm với lớp phủ thực vật
khá phong phú, tuy nhiên tầng phong hóa trên đảo không lớn, địa hình không tạo nên
lưu vực chứa nước nên lượng nước bổ sung cho nguồn nước dưới đất hàng năm không
13
quá 40% (khoảng 2 triệu m3/năm). Với đặc thù đã nêu, quá trình tuần hoàn nước ở mặt
đảo hầu như kết thúc nhanh sau mỗi trận mưa. Do vậy, nguồn nước mặt tự nhiên trên
đảo là khan hiếm về mùa khô; nên cần quan tâm hơn các giải pháp thu gom nước mặt
bằng cách xây dựng các hồ chứa nước tập trung và nội bộ các công trình trên đảo.
Nước ngầm: Số liệu khảo sát, thiết kế hệ thống dự trữ và cấp nước sinh hoạt từ
nguồn nước ngầm và nước mưa trên đảo Cồn Cỏ do Trường Đại học Mỏ địa chất thực
hiện đã xác định tiềm năng trữ lượng nước ngọt trên đảo chỉ tập trung 1/4 đảo về phía
Nam, còn lại nước dưới đất bị nhiễm mặn và thay đổi theo mùa, thủy triều.
Do trữ lượng nước ngầm hạn chế không có khă năng đáp ứng về nguồn nước và
để đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững, ở huyện đảo cần sử dụng từ nguồn nước
mưa cho việc phát triển kinh tế - xã hội.
+ Tài nguyên rừng
Rừng trồng: Được phát triển từ năm 1995 theo Chương trình 327. Những năm
đầu do trồng vào thời kỳ khô hạn lại có gió lớn nên tỷ lệ cây sống thấp. Diện tích rừng
tái sinh phát triển tốt như cây phi lao vừa có tác dụng phòng hộ vừa tạo thêm cảnh
quan quanh đảo.
Rừng tự nhiên: Trước đây, thảm rừng tự nhiên trên đảo là nguyên sinh nhiệt đới
giàu trữ lượng. Tuy nhiên, trong chiến tranh chống Mỹ thảm rừng này đã bị tàn phá
nặng và hiện nay chủ yếu là rừng thứ sinh hồi phục sau chiến tranh. Do vậy, trữ lượng
chủ yếu là các loài thân gỗ vừa và nhỏ, nhưng các loài cây này lại phân bố rải rác với
mật độ thưa thớt.
Rừng thứ sinh: Rừng thứ sinh cây lá rộng thường xanh nhiệt đới ẩm trên đất
bazan. Kiểu rừng này phân bố trên đất xám đen hình thành từ đá bazan dạng bọt, có
cấu trúc 3 tầng: Tầng tán rừng cao 8 - 20m, che phủ khá kín với các loài ưu thế như
Mù u, Bàng, Bàng vuông, Ngái, Đại phong tử; tầng cây bụi cao 2 - 8m, gồm các loài
phổ biến như Móc, Mây, Đa lá to, Xay hẹp, Chỏi, máu chó, trôm Nam bộ, Tam thụ
hùng Poilan, Đỏm lá nhỏ; tầng cỏ, cao dưới 2m, che phủ thưa có các loài như ráy Ấn
Độ, Riềng lưỡi ngắn, Bôn. Loại rừng cây lá rộng thường xanh này với 3 tầng cây và
dây leo làm cho đảo Cồn Cỏ thực sự là một hòn đảo xanh. Riêng rừng thứ sinh trên đất
cát vụn san hô chỉ còn sót lại ở phía Đông Bắc đảo và một cụm nhỏ ở Bến Nghè, Đông
Nam đảo. Rừng thứ sinh trên đất cát vụn san hô có cấu trúc đơn giản, thành phần loài
và số lượng loài ít hơn, độ cao của tầng cây gỗ cũng thấp hơn so với rừng trên đất đen.
14
Rừng gồm tầng cây gỗ cao 5 - 8m với các loài như vông nem, keo lông chim, mã rạng,
bàng, làm bòng, vọng cách, mù u. Tầng cây bụi cao dưới 5m, ưu thế dứa dại; một số
loài khác có số cá thể kháng nhiều như nhàu, hoạt hương 3 lá, sếu, bồng bồng lá hẹp.
Với diện tích trên 146ha, rừng ở đảo Cồn Cỏ có vị trí quan trọng - là lá phổi cho
sự sống của đảo Cồn Cỏ.
+ Tài nguyên biển
Đảo Cồn Cỏ có nguồn lợi sinh vật biển phong phú và đa dạng về chủng loại từ
các loài cá đến các loài nhuyễn thể, giáp xác, san hô, rong biển... Tổng trữ lượng hải
sản của vùng biển Cồn Cỏ khoảng 60.000 tấn/năm, trong đó khả năng khai thác
khoảng 12.000 tấn/năm, với cơ cấu: Cá tầng nổi như (trích, nục) khoảng 30 - 40% sản
lượng; cá tầng giữa và gần đáy (thu, ngừ, dé, chỉ vàng) khoảng 10 - 15% sản lượng; cá
tầng đáy (hồng, mối...) chiếm khoảng 25% sản lượng.
Bên cạnh đó, các loài rong biển với 48 loài có giá trị kinh tế cao, dùng làm
nguyên liệu chế biến Agar, Alginate, Carrgeenan, Iot, KCL..., làm thuốc chữa bệnh,
thực phẩm, thức ăn gia súc và làm phân bón. Tính đa dạng sinh học của các loài rong
biển ở đảo Cồn Cỏ còn được thể hiện ở việc có 2 loài được phát hiện lần đầu tiên ở
Việt Nam và một số loài là nguồn gen quý có giá trị kinh tế như rong đại Codium,
rong guột Caulerpa, rong câu Gracilria, rong mỏ Sargassum,...
Với vị trí của Cồn Cỏ, tài nguyên biển (cả biển khơi lẫn vùng biển ven bờ) là cơ
sở quan trọng đảm bảo cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện; đồng thời
cũng đòi hỏi cần có những chính sách, giải pháp kinh tế, kỹ thuật đồng bộ để tổ chức
khai thác, phát huy một cách hợp lý, hiệu quả và bền vững nguồn tài nguyên giàu tiềm
năng, đa dạng, phong phú mà rất nhạy cảm cả về kinh tế lẫn môi trường, sinh thái này.
1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Bước sang thế kỷ XXI, trước bối cảnh nguồn tài nguyên thiên nhiên trên đất liền
ngày càng cạn kiệt, nên “vươn ra biển” đã trở thành xu thế chủ đạo của các quốc gia có
biển; thậm chí, một số quốc gia không có biển cũng đang tìm mọi cách để tiếp cận với
biển, nhằm thúc đẩy sự phát triển của mình. Đối với nước ta, vùng biển, đảo không chỉ
là một bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, mà cùng với đất liền,
còn tạo ra môi trường sinh tồn, phát triển đời đời của dân tộc Việt Nam. Vì thế, đã từ
lâu, hướng ra biển, kết hợp phát triển kinh tế với bảo vệ chủ quyền biển, đảo được
Đảng, Nhà nước hết sức coi trọng. Nhận thức rõ điều đó, Hội nghị Trung ương 4 (khóa
15
X) về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” đã xác định các quan điểm về định
hướng phát triển Chiến lược biển của đất nước, với nội dung cụ thể là:
- Nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, trên cơ sở
phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu
phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm
nhìn dài hạn.
- Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an
ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường, kết hợp giữa phát triển vùng biển, ven
biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Khai thác mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường biển
trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa, phát huy đầy đủ và có hiệu quả các nguồn
lực bên trong; tranh thủ hợp tác quốc tế, thu hút mạnh các nguồn lực bên ngoài theo
nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Quan điểm trên của Đảng thể hiện rõ tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt, mang tính
chiến lược, mục tiêu cần đạt được và các phương thức chủ yếu nhằm thực hiện thắng
lợi “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”. Trong đó, việc khai thác, phát huy các
nguồn lực (cả trong và ngoài nước); kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế biển với
bảo đảm quốc phòng - an ninh; thực hiện bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ gắn với gìn giữ môi trường hòa bình để phát triển bền vững
trên các vùng biển, đảo giữ vai trò hết sức quan trọng. Đặc biệt, trong tình hình hiện
nay, nguy cơ mất ổn định an ninh ở Biển Đông nói chung, các vùng biển, đảo nước ta
nói riêng có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp, khó lường, thì các quan điểm
chỉ đạo nói trên của Đảng càng có ý nghĩa quan trọng. Điều đó đòi hỏi chúng ta cần
tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc các quan điểm chỉ đạo của Đảng về định
hướng phát triển “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” bằng nhiều kế hoạch,
chương trình hành động thiết thực, đặc biệt là việc thành lập và xây dựng các huyện
đảo phát triển sẽ góp phần đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ
biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc
gia trên các vùng biển, đảo và thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc.
Từ điều kiện tự nhiên như trên đã phân tích cho chúng ta thấy đảo Cồn Cỏ có
một tiềm năng rất lớn về kinh tế. Với một diện tích 9.000km2 và với một trữ lượng
16
đánh bắt hải sản khoảng 60.000 tấn/năm, đảo Cồn Cỏ sẽ là nơi cung cấp các sản phẩm
củ ngành thủy sản, dịch vụ hậu cần nghề cá cho các tỉnh miền Trung và cả nước. Đồng
thời, đảo Cồn Cỏ nằm gần các tuyến giao thông biển quốc gia - quốc tế như: Hải
Phòng - TP. Hồ Chí Minh - Singapore; Hải Phòng - Manila; Hải Phòng - Đà Nẵng; Đà
Nẵng - Bến Thuỷ; Hải Phòng - Vladivostoc (Nga)... Do đó, vị trí của đảo Cồn Cỏ trực
tiếp góp phần đảm bảo và thúc đẩy hoạt động lưu thông của các tuyến giao thông
đường biển quan trọng này.
Bên cạnh việc có tiềm lực trong phát riển các ngành kinh tế biển nêu trên, đảo
Cồn Có còn có một tiềm lực lớn trong phát triển du lịch biển, du lịch về nguồn. Quảng
Trị nằm trên tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây (EWEC) với vị trí đầu cầu về phía
Việt Nam. Khi các tuyến đường bộ được nâng cấp và hoàn thiện lượng khách sẽ tăng
thì đây sẽ là cơ hội cho Quảng Trị nói chung và đảo Cồn Cỏ nói riêng trong việc đón
các đoàn khách. Với thế chiến lược đó, Quảng Trị có vị trí quan trọng trong kế hoạch
phát triển của EWEC vì: Quảng Trị là điểm cầu nối trong việc tập kết trung chuyển
giao thương hai luồng hàng hóa Đông - Tây và Bắc - Nam; là điểm hẹn, điểm kết nối,
trung chuyển cho các tuyến du lịch lớn; có nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên và tài
nguyên du lịch nhân văn đa dạng, độc đáo. Trong đó đảo Cồn Cỏ chiếm một vị trí
quan trọng cho phát triển kinh tế biển đảo. Đồng thời, khi Khu kinh tế Đông Nam
được thành lập và đầu tư phát triển sẽ tạo cơ hội lớn cho huyện đạo Cồn Cỏ trong việc
kết nối hành lang kinh tế Đông - Tây với các nước khác thông qua biển Đông.
Như vậy, đảo Cồn Cỏ hội tụ đầy đủ các yếu tố tiềm lực của một nền kinh tế tổng
hợp biển đảo (du lịch - thủy sản - thương mại - dịch vụ) kết hợp với nhiệm vụ đảm bảo
quốc phòng - an ninh.
Trong lịch sử, cuộc đấu tranh của các lực lượng vũ trang đảo Cồn Cỏ thời kỳ cả
nước kháng chiến chống Mỹ đã nổi bật lên những kỳ công.
Sau Hiệp định Geneva, đảo Cồn Cỏ đã trở thành mục tiêu hủy diệt của đế quốc
Mỹ và chính quyền Sài Gòn, vì nếu chiếm được đảo Cồn Cỏ thì chúng sẽ dễ dàng
khống chế từ Đèo Ngang đến Cửa Việt, từ đó sẽ cắt đứt được con đường tiếp tế biển
của ta từ miền Bắc vào miền Nam và đặc biệt dùng đảo Cồn Cỏ làm bàn đạp tiến tới
xâm lược Vĩnh Linh và nam Quân khu 4. Bên cạnh là tiền đồn miền Bắc xã hội chủ
nghĩa, án ngữ cửa ngõ nam Vịnh Bắc Bộ, với nhiệm vụ chống chiến tranh chia cắt
miền Trung bằng đường biển, là hướng phòng thủ chủ yếu của tỉnh Quảng Trị từ
17
hướng Đông, thì đảo Cồn Cỏ còn có vị trí quan trọng là một trong hai điểm của cả
nước được lấy mốc phân giới Vịnh Bắc Bộ. Với vị trí chiến lược như vậy nên đảo Cồn
Cỏ đã có một truyền thống đấu tranh tiêu biểu trong lịch sử của cuộc kháng chiến
chống Mỹ của dân tộc ta.
Mùa thu năm 1959, trước âm mưu của đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn lăm
le chiếm đảo, chấp hành mệnh lệnh của Tư lệnh và Chính uỷ E270 thuộc đặc Khu
Vĩnh Linh, ngày 8-8-1959, Đại đội 6, Tiểu đoàn 2BB, Trung đoàn 270 được vinh dự
giao nhiệm vụ bảo vệ đảo do Thiếu uý Dương Đức Thiện chỉ huy vượt sóng gió ra đảo
với 16 chiếc thuyền buồm và 2 tàu quân sự; đúng 8h Đại đội đã có mặt tại đảo và cắm
lá cờ đỏ sao vàng khẳng định chủ quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của Tổ quốc
Việt Nam.
Ngày 10-8-1959, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã cho quân ra chiếm đóng đảo
Cồn Cỏ. Tuy nhiêm âm mưu đó đã thất bại.
Từ năm 1965, khi đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc
bằng không quân, đảo Cồn Cỏ đã trở thành một mục tiêu hủy diệt của chúng. Và cũng
từ đó đảo Cồn Cỏ đã đi vào lịch sử của dân tộc, trở thành biểu tượng sáng ngời của
chủ nghĩa anh hùng cách mang, là chiến hạm không bao giờ chìm trên Biển Đông. Với
một ý chí quật cường, lực lượng vũ trang đảo Cồn Cỏ đã lập nên những kỳ tích trong
cuộc chiến đấu không cân sức giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Trong 1.500 ngày đêm
đối mặt với quân thù đã diễn ra trên 1.000 trận đánh lớn nhỏ; đặc biệt từ năm 1964 đến
năm 1968 đế quốc Mỹ đã ném xuống đảo 12.970 quả bom các loại, bình quân một cán
bộ, chiến sỹ phải hứng chịu 11,5 tấn bom đạn, mỗi ha đất phải hứng chịu 681 tấn bom
đạn. Nhưng với tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ không để mất đảo”, hàng ngàn tấn vũ
khí, kể cả pháo 85mm, cao xạ 14,5mm, lương thực, vật dụng… đã được đơn vị C22
vận tải thuộc Trung đoàn 270 và cán bộ, nhân dân Vĩnh Linh, đặc biệt là nhân dân 4
xã: Vĩnh Quang, Vĩnh Thái, Vĩnh Giang, Vĩnh Thạch chuyển từ đất liền ra đảo, đảm
bảo cho các chiến sỹ đảo Cồn Cỏ sống và chiến đấu. Lực lượng vũ trang đảo Cồn Cỏ
đã chiến đấu kiên cường và chiến thắng vẻ vang; 48 máy bay đã bị bắn cháy, 17 tàu
chiến của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã bốc cháy và bị chìm xuống biển sâu.
Ghi nhận và biểu dương tinh thần anh dũng, sự hy sinh cao cả của lực lượng vũ
trang đảo Cồn Cỏ, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước đã có nhiều phần thưởng
18
cao quý; nhân dân cả nước hướng về đảo với một tình cảm ruột thịt đặc biệt, thiêng
liêng.
Ngày 12-4-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư khen ngợi thành tích của đảo,
trong đó đặc biệt là việc lần đầu tiên bắn rơi máy bay B57 đầu tiên ở chiến trường
miền Bắc. Thư của Chủ tịch nước viết: “Vừa qua các chú đã chiến đấu liên tục và rất
dũng cảm, đã bắn rơi nhiều máy bay và đánh đuổi tàu biệt kích Mỹ. Các chú đã xứng
đáng với truyền thống anh dũng của quân và dân ta. Các chú cần phải luôn luôn nâng
cao cảnh giác đoàn kết chặt chẽ, khó khăn không nản, thắng không kiêu, quyết tâm
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Ngày 24-4-1965, Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã khen ngợi và tặng cờ: “Cồn Cỏ anh hùng, đoàn kết chiến đấu,
kiên cường giữ vững từng tấc đất của Tổ quốc”.
Ngày 29-4-1965, đảo vui mừng đón nhận 300 lá thư từ đất liền gửi về với những
tình cảm sâu sắc, xúc động; tất cả đều chung một tinh thần: “Cồn Cỏ là đảo anh
hùng”.
Ngày 13-5-1965, đảo Cồn Cỏ vui mừng, nhộn nhịp đón đoàn đại biểu từ đất liền
ra thăm, trong đoàn có cả người trên 60 tuổi. Đoàn đã mang tặng đảo nhiều thực phẩm
và đặc biệt là hàng trăm bức thư từ Vĩnh Linh đến Hà Nội chứa chan ân tình của đất
liền đối với những người lính đảo.
Ngày 01-01-1967, đảo Cồn Cỏ được Đảng và Nhà nước phong tặng Danh hiệu
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. “Cồn Cỏ đã kiên cường, dũng cảm, mưu trí,
đánh tan 800 cuộc tiến công của máy bay, bắn cháy 2 tàu chiến Mỹ, bắn rơi 32 máy
bay, bảo vệ tầng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, luôn luôn vững vàng tin tưởng, tổ
chức tốt đời sống”. Đó là lời khẳng định trong bản tuyên dương thành tích của đảo
Cồn Cỏ anh hùng.
Cùng với vinh dự của tập thể, 04 cá nhân tiêu biểu xuất sắc của đảo cũng được
phong tặng Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, đó là: Thái Văn A (sinh
năm 1942, quê quán Thôn Liên Xá, xã Trung Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình,
nhập ngũ năm 1962, quân hàm Thượng sỹ, quan trắc viên); Nguyễn Nhật Minh (sinh
năm 1940, quê quán xã Trung Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, quân hàm
Trung sỹ, Khẩu đội trưởng súng cao xạ 14,5ly); Cao Văn Khang (sinh năm 1944, quê
quán xã Hoàng Khánh, huyện Hoàng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ tháng 4-1963,
19
lính công binh, khi tuyên dương anh hùng chức vụ là Trung đội phó bộ binh); Lê Văn
Ban (sinh năm 1938, quê quán xã Vĩnh Giang, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, tham
gia dân quân năm 1959, tham gia đội thuyền tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ và lập nhiều thành
tích, khi tuyên dương là Trung đội trưởng dân quân thôn Tùng Luật, xã Vĩnh Giang).
Đón Xuân 1967, lực lượng vũ trang đảo vui mừng và xúc động được Bác Hồ
tặng ảnh chân dung và dòng chữ: “Chúc các cháu giành nhiều thắng lợi”; phía dưới,
góc trái ảnh Bác viết: “Xuân 1967” và ký tên “Bác Hồ”.
Ngày 5-6-1968, đảo Cồn Cỏ anh hùng được Bác Hồ gửi thư khen ngợi (lần thứ
hai): “Bác rất vui lòng thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ khen ngợi cán bộ,
chiến sỹ đảo Cồn Cỏ chiến đấu dũng cảm, mưu trí, trong một ngày 31-5-1968 đã bắn
rơi 4 máy bay Mỹ. Cồn Cỏ xứng đáng là đảo anh hùng…”. Cuối thư khen Bác Hồ còn
tái bút tặng hai câu thơ:
“Cồn Cỏ nở đầy hoa thắng trận,
Đánh cho tan xác giặc Huê Kỳ”.
Ngày 20-10-1968, lần thứ ba Bác Hồ gửi thư khen cán bộ, chiến sỹ đảo Cồn Cỏ:
“Bác được báo cáo rằng: Ngày 16 tháng 10 năm 1968, các chú đã chiến đấu dũng
cảm, mưu trí, lập công vẻ vang chỉ trong vòng một giờ, liên tiếp bắn rơi ba máy bay
giặc Mỹ.
Bác vui lòng thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ khen ngợi chiến sỹ và
cán bộ đảo Cồn Cỏ anh hùng.
Các chú luôn nâng cao cảnh giác, chiến đấu thật giỏi, lập nhiều chiến công
xuất sắc hơn nữa; cùng với quân và dân cả nước quyết đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ
xâm lược”.
Ngày 18-6-1969, đồng chí Cao Tất Đắc, sinh năm 1944, quê quán xã Hoàng
Đồng, huyện Hoàng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ tháng 4-1965 được phong tặng
Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Ngày 11-01-1973, đồng chí Bùi
Hạnh, sinh năm 1920, quê quán thị xã Nha Trang (nay thành phố Nha Trang), tỉnh
Khánh Hòa, nhập ngũ tháng 6-1946, bác sỹ quân y được phong tặng Danh hiệu Anh
hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Sau ngày thống nhất đất nước, lực lượng thanh niên xung phong đã đóng vai trò
to lớn trong việc xây dựng và phát triển đảo.
20
Ngày 21-01-2002, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị ra Quyết định số
105/2002/QĐ-UB về việc thành lập Tổng đội Thanh niên xung phong xây dựng Đảo
Thanh niên Cồn Cỏ; là đơn vị sự nghiệp kinh tế trực thuộc Tỉnh đoàn Quảng Trị, có
nhiệm vụ tổ chức, tập hợp thanh niên, hộ gia đình trẻ ra đảo lập nghiệp và khai thác
tiềm năng của đảo, đặc biệt là khai thác ngư trường khu vực và xây dựng đảo thành
trung tâm dịch vụ hậu cần cho đánh bắt hải sản xa bờ; tham gia thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ quốc phòng trên đảo. Nhằm thực hiện hoàn thành nhiệm vụ được giao, Ban
Thường vụ Tỉnh đoàn Quảng Trị, Ban Chỉ huy Tổng đội Thanh niên xung phong xây
dựng Đảo Thanh niên Cồn Cỏ đã tuyển chọn được 43 thanh niên tham gia vào lực
lượng thanh niên xung phong.
Ngày 9-3-2002, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị phối hợp với Trung ương
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức lễ khởi công xây dựng Đảo Thanh
niên Cồn Cỏ. Dự lễ khởi công có Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm, cùng các bộ,
ngành Trung ương, Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Bộ Tư lệnh
Quân khu IV, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị Nguyễn Minh Kỳ, cùng các
đồng chí lãnh đạo tỉnh, các sở, ban, ngành, Huyện ủy Vĩnh Linh, Huyện đoàn Vĩnh
Linh, đại diện các xã Vĩnh Giang, Vĩnh Quang, Vĩnh Thạch. Đây là sự kiện có ý nghĩa
hết sức quan trọng đặt nền móng cho việc thành lập huyện đảo Cồn Cỏ sau này.
Sau khi đi vào hoạt động, Tổng đội thanh niên xung phong xây dựng Đảo Thanh
niên Cồn Cỏ đã bắt tay ngay vào việc tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng trên đảo. Theo
lời kể của ông Nguyễn Quang Thánh - Nguyên là đội trưởng quản lý lực lượng - Phó
Trưởng Ban xây dựng Đảng huyện đảo Cồn Cỏ cho biết: Những ngày đầu tiên thực sự
là rất vất vả, tuy nhiên với tinh thành của tuổi trẻ, sau khi ổn định nơi ăn chốn ở, Tổng
đội đã triển khai nhiệm vụ cụ thể cho từng đội sản xuất. Công trình xây dựng 15 căn
hộ là công trình đầu tiên mà lực lượng thah niên xung phong trực tiếp thi công. Sau đó
là Nhà Chỉ huy Tổng đội, bếp ăn tập thể, công trình đường giao thông quanh đảo.
Ngoài ra, Tổng đội còn thành lập 03 tổ đánh bắt hải sản.
Trải qua 5 năm hoạt động, Tổng đội Thanh niên xung phong xây dựng Đảo
Thanh niên Cồn Cỏ đã có đóng góp quan trọng trong xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật,
tạo sức sống mới cho một hòn đảo tiền tiêu. Ngày 22-10-2007, thực hiện chủ trương
của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh đoàn đã tổ chức bàn giao toàn bộ
21
lực lượng thanh niên xung phong và cơ sở vật chất, trang thiết bị của Tổng đội Thanh
niên xung phong xây dựng Đảo Thanh niên Cồn Cỏ cho huyện đảo Cồn Cỏ.
1.1.3. Chủ trƣơng của Đảng về việc thành lập huyện đảo Cồn Cỏ
Ngày 22-11-1996, tại buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh Quảng Trị, Thủ tướng
Chính phủ Võ Văn Kiệt đã chỉ đạo tỉnh Quảng Trị tiến hành khảo sát và xúc tiến thành
lập huyện đảo Cồn Cỏ. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng, tỉnh Quảng Trị đã tiến
hành triển khai các công việc lớn nhằm xúc tiến triển khai như: tổ chức thăm dò nước
ngọt trên đảo; lập dự án xây dựng cảng cá và khu dịch vụ hậu cần nghề cá; cử các đoàn
cán bộ khảo sát mô hình huyện đảo Bạch Long Vĩ - Hải Phòng, đảo Cô Tô - Quảng
Ninh để rút kinh nghiệm trong chỉ đạo quản lý và điều hành khi đưa người dân ra đảo.
Ngày 9-5-1998, phiên họp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã thống nhất đề nghị
Bộ Chính trị cho thành lập đơn vị hành chính tại đảo Cồn Cỏ. Trên cơ sở đó, ngày 145-1998, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị đã có Công văn số 143/TT-TU về việc xin
thành lập huyện đảo Cồn Cỏ gửi Bộ Chính trị với nội dung:
Để tạo điền kiện cho công tác ngoại giao và xây dựng Đảo Cồn Cỏ tương xứng
với vị trí chiến lược của nó, phục vụ tích cực công tác an ninh - quốc phòng, Thường
vụ Tỉnh ủy Quảng Trị kính đề nghị Thường vụ Bộ Chính trị chấp thuận cho thành lập
huyện đảo có quy mô đặc thù với dân số 40 đến 50 hộ; 100 - 120 khẩu (chưa tính lực
lượng vũ trang) [7, tr. 1].
Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị còn dự kiến trong năm 1998 sẽ hoàn thành
công việc thành lập để dầu năm 1999 huyện đảo Cồn Cỏ đi vào hoạt động.
Trước đó, ngày 11-5-1998, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị đã có Công văn số
335/CV-UB gửi Thủ tướng Chính phủ xin thành lập huyện đảo.
Ngày 26-5-1998, Văn phòng Chính phủ đã có Công văn số 1999/VPCP-NC của
phúc đáp Công văn số 335/CV-UB, ngày 11-5-1998 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng
Trị thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ với nội dung cụ thể là: Đối với đảo Cồn
Cỏ trước mắt Quảng Trị cần đưa dân ra đảo trồng rừng, đánh bắt hải sản, khi đủ điều
kiện Chính phủ sẽ đề nghị Bộ Chính trị xem xét.
Ngày 31-7-2001, Văn phòng Chính phủ có Công văn số 3374/CV-VPCP thông
báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ đồng ý xây dựng đảo Cồn Cỏ thành “Đảo Thanh
niên” và giao cho Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh phối hợp với
Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị và các bộ, ngành liên quan xây dựng dự án.
22
Ngày 25-6-2003, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị đã ra Quyết định số
1189/QĐ-UB về việc thành lập Ban Chỉ đạo thành lập đơn vị hành chính tại đảo Cồn
Cỏ với 14 thành viên do ông Nguyễn Minh Kỳ làm Trưởng Ban chỉ đạo. Ban Chỉ đạo
đã tích cực triển khai nhiệm vụ, tổ chức khảo sát, học tập kinh nghiệm mô hình huyện
đảo Bạch Long Vĩ, huyện đảo Cô Tô, xây dựng đề án, tổ chức hội thảo lấy ý kiến các
bộ, ngành làm cơ sở trình Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Trị xem xét.
Ngày 30-7-2003, tại kỳ họp thứ 10 Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Trị, sau khi
xem xét Tờ trình và Đề án xin thành lập huyện đảo Cồn Cỏ, đã thông qua Nghị quyết
số 10c/2003/NQ-HĐ về việc thông qua đề án, tờ trình thành lập huyện đảo Cồn Cỏ
thuộc tỉnh Quảng Trị trên cơ sở tách đảo Cồn Cỏ thuộc xã Vĩnh Quang, huyện Vĩnh
Linh, với tên gọi là huyện đảo Cồn Cỏ, có diện tích là 4km2, có toạ độ địa lý 17010′ vĩ
tuyến Bắc, từ 107019′50″- 107020′40″ kinh tuyến Đông, nằm trên đường cơ sở của
vùng biển Việt Nam, cách đất liền từ 15 - 17 hải lý (cách điểm Mũi Lay 13 hải lý, Cửa
Tùng 15 hải lý và Cửa Việt 17 hải lý). Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Trị giao cho Ủy
ban nhân dân tỉnh Quảng Trị cùng các ngành chức năng hoàn chỉnh hồ sơ trình Chính
phủ phê duyệt.
Với mục tiêu là xây dựng đảo Cồn Cỏ trở thành một đơn vị hành chính cấp
huyện phát triển toàn diện về kinh tế - xã hội, kết hợp với an ninh - quốc phòng; với cơ
cấu kinh tế thủy sản - du lịch - dịch vụ, trong đó thủy sản là chủ đạo, Đề án thành lập
huyện đảo Cồn Cỏ xác định phương hướng phát triển cụ thể là:
- Đối với phát triển kinh tế thủy sản: Phát triển đồng bộ cả đánh bắt, nuôi trồng,
chế biến và dịch vụ hậu cần nghề cá. Hình thức sản xuất chủ yếu là liên doanh liên kết.
Về đánh bắt khai thác, sử dụng các tàu hiện có đồng thời từng bước phát triển các đội
tàu đánh bắt xa bờ, công suất 45 - 110 CV có đủ trang thiết bị đồng bộ, có khả năng
đánh bắt xa bờ dài ngày. Về nuôi trồng hải sản, nghiên cứu áp dụng hình thức nuôi
theo cụm lồng các loại tôm cá, hải sản có giá trị xuất khẩu cao. Về chế biến chủ yếu là
sơ chế và bảo quản với quy mô nhỏ làm vệ tinh cho nhà máy chế biến thủy sản ở trong
bờ; tổ chức dịch vụ hậu cần nghề cá như cung cấp nhiên liệu, đá lạnh, muối… tập
trung khai thác tốt khu dịch vụ hậu cần nghề cá đã được xây dựng.
+ Đối với phát triển lâm nông nghiệp: Phát triển lâm nông nghiệp theo hướng
vườn rừng, vườn nhà kết hợp, bảo vệ vốn rừng hiện có, trồng rừng phù hợp với quỹ
đất của đảo. Khai thác tiềm năng đất đai hiện có để trồng một số loại cây, rau quả thực
23
phẩm như rau xanh, đu đủ, bí đỏ… Chăn nuôi với quy mô hợp lý các loại gia súc như
bò, dê, chăn nuôi theo mô hình gia đình chủ yếu là lợn, gà… nhằm phục vụ một phần
thực phẩm tên đảo. Trồng rừng phòng hộ để cải thiện môi trường sinh thái; nghiên cứu
để xây dựng một khu bảo tồn thiên nhiên động thực vật, sinh vật biển đa dạng đặc
trưng của đảo phục vụ du lịch sinh thái.
+ Đối với phát triển du lịch: Hướng phát triển du lịch đảo Cồn Cỏ bằng loại
hình du lịch tham quan biển đảo, du lịch nghiên cứu sinh thái biển - đảo - thể thao; kết
hợp tham quan di tích lịch sử. Hình thành tour du lịch biển trong tam giác Cửa Tùng Cửa Việt - Cồn Cỏ; kết hợp dự án du lịch hành lang đông - tây, thu hút khách các nước
Lào, Đông bắc Thái Lan. Từng bước đầu tư hệ thống khách sạn, nhà nghỉ, tàu du
lịch… phù hợp với quá trình phát triển của đảo.
+ Phát triển văn hóa - xã hội: Trên cơ sở hình thành đơn vị hành chính và quy
mô dân cư từng giai đoạn để phát triển các lĩnh vực văn hóa - xã hội. Tập trung chủ
yếu ổn định đời sống, giải quyết việc làm, chăm sóc y tế, phát triển giáo dục, các sinh
hoạt văn hóa tại đảo.
+ Đối với xây dựng và củng cố quốc phòng - an ninh: Xây dựng đảo Cồn Cỏ
thực sự là đảo tiền tiêu của Tổ quốc, góp phần bảo vệ lãnh thổ quốc gia trên Biển
Đông; đồng thời là cửa ngõ quan trọng của Quảng Trị, của Việt Nam và vùng Đông
Nam Á. Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên đảo phải gắn với quốc phòng - an
ninh, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng lực lượng vũ trang và bán vũ trang đủ
mạnh để bảo vệ biên giới quốc gia trên biển, bảo vệ Tổ quốc và đồng thời bảo vệ an
sinh xã hội trên đảo, trên biển của nhân dân.
Ngày 01-10-2004, Thủ tướng Chính phủ đã ra Nghị định số 174/NĐ-CP về việc
thành lập huyện đảo Cồn Cỏ thuộc tỉnh Quảng Trị “với diện tích là 220ha diện tích tự
nhiên và 400 nhân khẩu; địa giới hành chính huyện đảo Cồn Cỏ: Đông, Tây, Nam,
Bắc giáp Biển Đông” [31].
Sau khi có Nghị định của Chính phủ về thành lập huyện đảo Cồn Cỏ, tỉnh
Quảng Trị đã tích cực chuẩn bị tổ chức bộ máy, cán bộ, phê duyệt kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh huyện đảo, chuẩn bị các điều kiện đảm
bảo để tổ chức lễ công bố Nghị định thành lập huyện đảo Cồn Cỏ.
Ngày 18-5-2005, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị đã long trọng tổ chức lễ công
bố quyết định thành lập huyện đảo Cồn Cỏ, đơn vị hành chính cấp huyện thứ 10 trực
24
thuộc tỉnh. Đây là sự kiện chính trị quan trọng đánh dấu sự khởi đầu cho một thời kỳ
phát triển mới của đảo Cồn Cỏ anh hùng.
1.2. XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ ĐẢM BẢO QUỐC
PHÒNG - AN NINH Ở HUYỆN ĐẢO CỒN CỎ TỪ 2004 ĐẾN 2010
1.2.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh Quảng Trị
Sau 5 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2005; gần 20
năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và có
ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi cơ bản và toàn diện nền kinh tế, tạo ra thế và lực mới,
mạnh mẽ hơn, uy tín quốc tế của Việt Nam tăng lên so với trước đây. Ngày 18-4-2006,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam đã diễn ra tại thủ đô Hà
Nội trong bối cảnh trong nước và thế giới có nhiều thuận lợi, khó khăn thách thức đan
xen.
Trên thế giới, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo; việc
toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế lúc này đang được đẩy nhanh; đầu tư, lưu
chuyển hàng hóa, dịch vụ, lao động và vốn vay ngày càng được mở rộng. Cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tiếp
tục phát triển mạnh theo chiều sâu, hơn lúc nào hết nó tác động rộng lớn đến cơ cấu và
phát triển của kinh tế thế giới, mở ra triển vọng mới cho mỗi nền kinh tế tham gia phân
công lao động toàn cầu. Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương thời kỳ này tiếp tục phát
triển năng động, hợp tác khu vực ngày càng mở rộng, tạo thêm điều kiện phát triển cho
mỗi quốc gia.
Tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực lúc này vẫn chứa đựng nhiều yếu tố
phức tạp và khó lường; diễn ra các tranh chấp, xung đột cục bộ, cùng với hoạt động
khủng bố quốc tế, sự cạnh tranh quyết liệt vì lợi ích kinh tế và tìm cách áp đặt các rào
cản trong thương mại với các nước nghèo và đang phát triển.
Ở trong nước, Việt Nam có được những thành quả to lớn và bài học kinh
nghiệm quý báu của 20 năm đổi mới. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá nhanh. Thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng bước đầu. Tiềm lực
kinh tế, cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng trưởng đáng kể; văn hóa - xã hội có bước
tiến bộ trên nhiều mặt; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện; xóa
đói giảm nghèo đạt được kết quả nổi bật. Chính trị - xã hội ổn định; độc lập, chủ
25