Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Phát kiến địa lý của anh thế kỷ XV XVIII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.15 MB, 107 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả
nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực, đƣợc các đồng tác giả cho phép sử dụng
và chƣa từng đƣợc công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.

Đỗ Kim Anh

1


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 5
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI............................................................................................ 5
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ ........................................................................ 7
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI ................................. 9
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ........................................................ 9
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................................ 9
6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI .................................................................................... 10
7. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI .......................................................................................... 10
B. PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................... 11
Chƣơng 1
BỐI CẢNH LỊCH SỬ PHÁT KIẾN ĐỊA LÝ CỦA ANH THẾ KỶ XV XVIII.......................................................................................................................... 11
1.1 Tình hình nƣớc Anh sau cuộc chiến tranh 100 năm với Pháp ............................ 11
1.1.1. Cuộc chiến tranh 100 năm với Pháp (1337 – 1453) ........................................ 11
1.1.2. Cuộc nội chiến Hai bông hồng ......................................................................... 13
1.1.3. Ảnh hưởng của hai cuộc chiến tranh và nước Anh cuối thời trung cổ ............ 14
1.2. Sự phát triển kinh tế theo hƣớng tƣ bản chủ nghĩa và những vấn đề nội tại.... 16
1.2.1. Sự phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa .......................................... 16
1.2.2. Giải quyết được những vấn đề nội tại trong nước ........................................... 17
1.3.


Những con đƣờng sang phƣơng Đông bị tắt nghẽn ........................................ 19

1.4.

Ham muốn vàng, hƣơng liệu, gia vị… ............................................................ 20

1.5.

Cạnh tranh thƣơng mại với các nƣớc Tây Âu ở phƣơng Đông ....................... 20

Chƣơng 2
CÁC CUỘC PHÁT KIẾN ĐỊA LÝ TIÊU BIỂU CỦA ANH THẾ KỶ XV –
XVIII.......................................................................................................................... 24
2.1.

Các cuộc phát kiến địa lý của Anh ở châu Mỹ............................................... 24

2.1.1. John Cabot (1450-1500) .................................................................................. 24
2.1.2. Chuyến đi của Sebastian Cabot ....................................................................... 29
2.1.3. Chuyến đi của Sir Francis Drake ..................................................................... 31
2


2.1.4. Cuộc phát kiến của John Davis ........................................................................ 37
2.1.5. Cuộc phát kiến của Henry Hudson .................................................................. 41
2.1.6. Cuộc phát kiến của Martin Frobisher .............................................................. 47
2.1.7. Cuộc phát kiến của Walter Raleigh.................................................................. 54
2.2.

Các cuộc phát kiến địa lý của Anh ở Nam Thái Bình Dƣơng....................... 58


2.2.1. Cuộc phát kiến của James Cook ...................................................................... 59
2.2.2. Cuộc phát kiến của Matthew Flinders ............................................................. 68
2.2.3 Cuộc thám hiểm của George Bass ................................................................... 71
2.2.4. Cuộc thám hiểm của Authur Phillip ................................................................ 75
Chƣơng 3
NHẬN XÉT VỀ PHÁT KIẾN ĐỊA LÝ CỦA NƢỚC ANH THẾ KỶ XV XVIII.......................................................................................................................... 79
3.1. NGUYÊN NHÂN ANH CHẬM TRỄ TRONG PHONG TRÀO PHÁT KIẾN
ĐỊA LÝ Ở TÂY ÂU VÀO CUỐI THẾ KỶ XV ĐẾN THẾ KỶ XVI ....................... 79
3.2. ĐẶC ĐIỂM ......................................................................................................... 81
3.3 HỆ QUẢ CỦA CÁC CUỘ PHÁT KIẾN ĐỊA LÝ ĐỐI VỚI NƢỚC ANH VÀ
THẾ GIỚI ................................................................................................................... 83
3.3.1. Đối với nƣớc Anh ............................................................................................. 83
3.3.2. Đối với thế giới................................................................................................. 86
C. KẾT LUẬN ........................................................................................................... 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 93
PHỤ LỤC ................................................................................................................... 99

3


4


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trƣớc cuối thế kỷ XV, thƣơng nhân và những nhà hàng hải châu Âu về cơ bản chỉ

hoạt động chung quanh các miền bờ biển quanh châu Âu và nhất là ở Địa Trung Hải.
Nhƣng từ cuối thế kỷ XV đến thế kỷ XVI trở đi, các cuộc thám hiểm vƣợt đại dƣơng
của ngƣời châu Âu nhằm mục đich tìm ra con đƣờng biển sang phƣơng Đông liên tục
đƣợc thực hiện. Sự phát triển nhanh chóng của lực lƣợng sản xuất và nền kinh tế
hàng hóa đã làm cho nhu cầu về hƣơng liệu, vàng bạc, thị trƣờng ngày một tăng.
Nhƣng từ giữa thế kỉ XV, con đƣờng giao lƣu buôn bán qua Tây Á và Địa Trung Hải
lại do ngƣời Ả-rập độc chiếm nên vấn đề cấp thiết đang đƣợc đặt ra là phải tìm ra con
đƣờng thƣơng mại giữa phƣơng Tây và phƣơng Đông. Vào thời điểm đó, những tiền
đế cần thiết cho các cuộc phát kiến địa lí đã xuất hiện ở nhiều nƣớc Tây Âu mà trƣớc
hết là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.
Thời kỳ này, các nhà hàng hải hiểu biết nhiều về đại dƣơng, có quan niệm đúng
đắn về hình dạng Trái Đất. Ngƣời ta đã vẽ đƣợc nhiểu bản đồ, hải đồ ghi rõ các vùng
đất, các hòn đảo có cƣ dân. Máy đo góc thiên văn, la bàn đƣợc sử dụng trong việc
định hƣớng giữa đại dƣơng bao la. Kĩ thuật đóng tàu có những tiến bộ mới, đóng
đƣợc tàu có bánh lái và hệ thống buồm lớn nhƣ loại tàu Caraven đã thúc đẩy hành
trình khám phá diễn ra có hiệu quả và Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha là những nƣớc đi
đầu trong việc tìm kiếm những vùng đất mới, sở dĩ nhƣ vậy bởi vì sự phát triển của
chế độ phong kiến trung ƣơng tập quyền ở hai nƣớc này đồng thời nhận đƣợc sự ủng
hộ của giáo hội La Mã – tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công cuộc khám phá.
Trong suốt Thời đại Khám phá (Discovery Age) vào thế kỷ XV và XVI, Tây Ban
Nha và Bồ Đào Nha là hai quốc gia châu Âu đi tiên phong trong phong trào thám
hiểm thế giới, khám phá ra những miền đất mới và trong quá trình đó họ đã thiết lập
các đế quốc hải ngoại lớn. Trong lịch sử nhân loại chúng ta đƣợc biết đến ba cuộc đại
phát kiến đó là: Cuộc thám hiểm tìm ra châu Mỹ (1492) của C. Colomb; cuộc thám
hiểm đƣờng biển vòng quanh châu Phi tới Ấn Độ (1497 - 1498) của Vasco Da Gama
và cuộc thám hiểm đi vòng quanh thế giới (1519 - 1522) của F.Magellan. Nhờ các
cuộc phát kiến địa lý nói trên mà lúc bây giờ con ngƣời gần nhƣ đã biết đến hầu hết
5



các lục địa, đồng thời Phát kiến địa lí đã mở ra một trang mới trong tiến trình phát
triển của lịch sử loài ngƣời. Nó đã khẳng định Trái Đất hình cầu, mở ra những con
đƣờng mới những vùng đất mới, những dân tộc mới, những kiến thức mới, tăng
cƣờng giao lƣu văn hoá giữa các châu lục. Thị trƣờng thế giới đƣợc mở rộng, hàng
hải quốc tế phát triển. Đồng thời, nó cũng thúc đẩy quá trình khủng hoảng, tan rã của
quan hệ phong kiến và sự ra đời của chủ nghĩa tƣ bản ở châu Âu.
Cạnh tranh với sự giàu có, thịnh vƣợng vô cùng lớn mà hai đế quốc thực dân này
giành đƣợc, các nƣớc Anh, Pháp và Hà Lan bắt đầu tiến hành các cuộc phát kiến địa
lý của riêng mình, thiết lập các thuộc địa và các mạng lƣới mậu dịch của họ tại châu
Mỹ và châu Á. Do bị chậm trễ trong công cuộc Phát kiến địa lý nên Anh sau khi
thoát khỏi hậu quả của Chiến tranh 100 năm với Pháp và giải quyết xong những vấn
đề nội tại trong cuộc chiến tranh “Hai bông hồng”, Anh đã tăng cƣờng thêm lực
lƣợng khám phá các khu vực trên thế giới theo hƣớng đi lên phía Bắc và đi xuống
phía Nam và cuối cùng cũng tìm đƣợc cho mình những vùng đất, hình thành đƣợc
các thuộc địa rộng lớn ở nhiều châu lục trên thế giới. Một loạt cuộc chiến với Pháp
và Hà Lan trong thế kỷ XVII và XVIII đã giúp Anh trở thành một cƣờng quốc chi
phối thống trị tại Bắc Mỹ và Ấn Độ, đúng thật vậy, nếu nhƣ chúng ta nhìn tổng thể
thành quả mà nƣớc Anh xây dựng một đề chế thuộc địa với tên gọi “đất nƣớc mặt
trời không bao giờ lặn” vào thế kỷ XX, sau một thời kỳ cách mạng tƣ sản và cách
mạng công nghiệp, ta sẽ thấy đƣợc tác động của thời kỳ phát kiến địa lý đối với nƣớc
Anh cũng nhƣ đối với tiến trình của lịch sử thế giới.
Nhƣng nếu tìm trong các sách giáo trình, các sách về phát kiến địa lý, khóa luận,
luận văn thì đề tài về phát kiến địa lý của nƣớc Anh là rất mờ nhạt, chủ yếu là những
dòng giới thiệu qua, sơ sài nhƣ vậy sẽ không làm nổi bật lên đƣợc bức tranh của thời
kì “phát kiến địa lý” thế giới, đó chính là lý do tôi chọn đề tài “Phát kiến địa lý của
Anh thế kỷ XV - XVIII” để làm đề tài luận văn cao học lịch sử thế giới. Nghiên cứu
đề tài này sẽ góp phần làm sáng tỏ toàn diện các cuộc phát kiến địa lý vĩ đại trong
lịch sử thế giới mà phƣơng Tây thƣờng gọi là “Kỷ nguyên khám phá” (Discovery
Age) bởi vì trong các giáo trình Lịch sử thế giới ở Việt Nam cũng nhƣ sách giáo
khoa lịch sử Trung học phổ thông không đề cập đến các phát kiến địa lý của Anh,


6


bên cạnh đó luận văn còn có ý nghĩa nhƣ một tài liệu tham khảo bổ ích khi nghiên
cứu và giảng dạy phần phát kiến địa lý nói chung cũng nhƣ hoàn thiện thêm những
kiến thức về phát kiến địa lý của nƣớc Anh đóng góp với dòng chảy đó.
2.

LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Việc nghiên cứu phát kiến địa lý đƣợc đề cập nhiều trong các tài liệu nƣớc ngoài
cũng nhƣ trong nƣớc nhƣng chủ yếu là các cuộc phát kiến địa lý của Bồ Đào Nha và
Tây Ban Nha còn phát kiến địa lý của Anh hoàn toàn mờ nhạt, nên để thực hiện đề
tài chủ yếu tiếp xúc với các nguồn tài liệu thông sử và hoàn toàn mới.
Tác giả Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Văn Ánh trong tác phẩm “Lịch sử thế giới
Trung Đại” của Nhà xuất bản Giáo dục (2002) đã khẳng định tầm quan trọng của các
cuộc phát kiến địa lý đến xã hội châu Âu lúc bấy giờ, nhƣng lại chỉ dừng lại ở các
cuộc phát kiến địa lý của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.
Trong tác phẩm “Lƣợc sử nƣớc Anh” của tác giả Bùi Đức Mãn đã đề cập đến
những tiến bộ hàng hải của nƣớc Anh, khiến sau này Anh chiếm ƣu thế trong việc
thiết lập thuộc địa, cũng nhƣ đề cập đến những cuộc phát kiến tiêu biểu nhƣ James
Cook, nhƣng chỉ mởi ở mức độ nêu tên của các cuộc phát kiến địa lý tiêu biểu mà
chƣa đi sâu tìm hiểu, phân tích các cuộc phát kiến, cũng nhƣ không thấy đƣợc tầm
quan trọng thành quả của các cuộc phát kiến địa lý này đối với nƣớc Anh cũng nhƣ
lịch sử thế giới.
Trong tác phẩm “Các nước Nam Thái Bình Dương” do Vũ Dƣơng Ninh chủ biên
đã khái quát phần nào tầm quan trọng của các nƣớc ở khu vực này nhƣng không đề
cập gì đến các cuộc phát kiến địa lý của Anh nhằm khám phá vùng biển bí ẩn này.
Trong hai thế kỷ XVI và XVII ngƣời Tây Ban Nha đã nhận định Thái Bình Dƣơng

là một Mare clausum (nghĩa đen: biển kín), với chỉ duy nhất một lối vào từ Đại Tây
Dƣơng đƣợc biết đến đó là eo biển Magellan. Thời điểm đó eo biển này đặt dƣới sự
tuần tra của các hạm đội đƣợc cử đến để ngăn chặn sự xâm nhập của các con tàu
không phải Tây Ban Nha. Các nhà thám hiểm châu Âu đã liên tục tìm con đƣờng
xâm nhập vùng “biển kín” đó, trong đó phải kể đến Anh.

7


Vào những năm cuối của thế kỷ XV, hầu hết Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã
thống nhất chia sẻ quyền lợi của mình trên bản đồ thế giới. Bồ Đào Nha và Tây Ban
Nha với lợi thế ngƣời đi đầu chiếm đƣợc nhiều lợi ích đã cùng nhau kí hòa ƣớc
Caetera lấy một đƣờng kinh tuyến tƣởng tƣợng dụa trên bán đảo Azones – “một
quyết định chia đôi thế giới”, đẩy các nƣớc châu Âu khác vào tình trạng “bế tắc”,
buộc phải tìm con đƣờng khác, lúc ấy, các vùng đất “bí ẩn” Nam Thái Bình Dƣơng
trở thành vùng đất đầy hứa hẹn, khi chƣa có sự phân chia ảnh hƣởng.
Nhƣng nếu tìm trong các sách giáo trình, các sách về phát kiến địa lý, khóa luận,
luận văn thì đề tài về phát kiến địa lý của nƣớc Anh là rất mờ nhạt, chủ yếu là những
dòng giới thiệu qua, sơ sài nhƣ vậy sẽ không làm nổi bật lên đƣợc bức tranh của thời
kì “phát kiến địa lý” thế giới, đó chính là lý do tôi chọn đề tài này để hoàn thiện thêm
những kiến thức về phát kiến địa lý của nƣớc Anh đóng góp với dòng chảy đó.
Trên thế giới, ở các nƣớc châu Âu và đặc biệt là ở Anh đã có nhiều tác phẩm đề
cập đến quá trình phát kiến địa lý của Anh ở khu vực Nam Thái Bình Dƣơng, có thể
kể đến là các công trình nhƣ “An Illustrated History of Britain” (Tạm dịch: Một bức
tranh lịch sử nƣớc Anh)của David McDowall (2006) đã trình bày tổng quan Lịch sử
nƣớc Anh từ thời lập quốc đến thế kỷ XX trong đó phải kể đến thời đại khám phá của
Anh để ta thấy đƣợc tầm quan trọng của các cuộc phát kiến địa lý ở khu vực Thái
Bình Dƣơng thế kỷ XVIII.
Một số công trình nghiên cứu chuyên khảo nhƣ tác phẩm “James Cook – his early
life and the endeavour voyage” (James Cook – cuộc đời và chuyến đi cuối cùng). Tác

phẩm chủ yếu đề cập đến hành trình khám phá của James Cook mà chủ yếu là ở khu
vực Nam Thái Bình Dƣơng.
Hay tác phẩm “The Life of Captain Matthew Flinders R.N” (Tạm dịch: Cuộc đời
của thuyền trƣởng Matthew Flinders) đã có đề cập đến hành trình khám phá của
Matthew Fliders ở khu vực Thái Bình Dƣơng.
Vì thế, theo chúng tôi việc nghiên cứu “Phát kiến địa lý của Anh thế kỷ XV XVIII” là cần thiết và cần phải đƣợc nghiên cứu một cách toàn diện mang tính hệ
thống. Nếu làm đƣợc điều có ý nghĩa này, không những góp phần dựng lại đƣợc “bức

8


tranh” về thời đại khám phá trên thế giới mà còn giúp ta hiểu sâu sắc hơn về nƣớc
Anh trong thời đại khám phá.
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

3.

3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là phát kiến địa lý của Anh thế kỷ XV - XVIII
3.2.Phạm vi nghiên cứu
-

Về thời gian: đề tài nghiên cứu các cuộc phát kiến đia lý của nƣớc Anh từ thế

kỷ XV (1497) đến thế kỷ XVIII.
-

Về không gian: đề tài nghiên cứu các cuộc phát kiến địa lý của nƣớc Anh ở

châu Mỹ và Nam Thái Bình Dƣơng.

4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
4.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trình bày một cách khách quan, khoa học về các
cuộc phát kiến địa lý của nƣớc Anh thế kỷ XV– XVIII.
4.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện những mục đích trên, đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
-

Trình bày những nhân tố thúc đẩy nƣớc Anh thực hiện các cuộc phát kiến địa

-

Trình bày các cuộc phát kiến địa lý của nƣớc Anh thế kỷ XV - XVIII

-

Rút ra một số nhận xét về nội dung nghiên cứu

lý.

5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn này đƣợc thực hiện trên cơ sở quán triệt nguyên lý của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và tƣ tƣởng của Đảng Cộng sản Việt Nam về nghiên
cứu lịch sử, cụ thể là trong nghiên cứu lịch sử trung đại, cận đại.
Sau đó, tôi sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu chuyên ngành là phƣơng pháp lịch
sử và phƣơng pháp logic. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu tôi còn sử dụng các


9


phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ sau: sƣu tầm, tổng hợp, phân tích, so sánh và hệ
thống hóa vấn đề, từ đó, giải quyết những nhiệm vụ đặt ra.
6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Ở mức độ nhất định, đề tài góp phần phác thảo những nét cơ bản về phát kiến địa
lý của Anh thế kỷ trong tổng thể các cuộc phát kiến địa lý trên thế giới. Qua kết quả
nghiên cứu này, giúp ta có những nhận xét cơ bản về công lao của nƣớc Anh trong
công cuộc tìm ra các vùng đất mới.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng một số tài liệu tham khảo về lịch sử
nƣớc Anh.
7. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung đề tài đƣợc
trình bày trong ba chƣơng:
Chƣơng 1: Bối cảnh lịch sử Phát kiến địa lý của Anh vào thế kỷ XV - XVIII
Chƣơng 2: Các cuộc phát kiến địa lý tiêu biểu của Anh thế kỷ XV - XVIII
Chƣơng 3: Nhận xét

10


B. PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
BỐI CẢNH LỊCH SỬ PHÁT KIẾN ĐỊA LÝ CỦA ANH THẾ KỶ XV - XVIII
Bƣớc vào giai đoạn đầu của thời kỳ Trung Đại, nƣớc Anh tuy vẫn tồn tại những
mâu thuẫn xã hội nhƣng nhìn chung vẫn đạt đƣợc những thành tựu đáng kể về mặt
kinh tế, nhƣng bƣớc sang thế kỷ XIV, tình hình ngày càng trở nên khó khăn hơn đặc
biệt vào thế kỷ XV, nƣớc Anh liên tục đƣơng đầu với những cuộc chiến tranh với
nƣớc ngoài cũng nhƣ nội bộ trong nƣớc khiến chế độ phong kiến suy yếu. Lúc bấy

giờ, việc phát hiện ra châu lục mới đã thể hiện đƣợc khát vọng của con ngƣời chinh
phục tự nhiên. Nƣớc Anh thời kỳ này đã xuất hiện những yếu tố thúc đẩy phát kiến
địa lý, trong chƣơng 1 này chủ yếu trình bày bối cảnh lịch sử thúc đẩy Anh thực hiện
các cuộc thám hiểm đem lại nguồn lợi to lớn cho nƣớc Anh.
1.1 Tình hình nƣớc Anh sau cuộc chiến tranh 100 năm với Pháp
1.1.1

Cuộc chiến tranh 100 năm với Pháp (1337 – 1453)

Sự kiện tác động trực tiếp đến lịch sử nƣớc Anh trong thời kỳ này phải kể đến
cuộc chiến tranh 100 năm với Pháp kéo dài từ năm 1337 đến năm 1453.
Vua Pháp Philip IV mất năm 1314 có ba ngƣời con trai lần lƣợt nối ngôi, đến năm
1328, vị hoàng tử cuối cùng (vua Charles) mất, không ngƣời nối dõi, ngôi vua Pháp
đã đƣợc truyền cho ngƣời cháu họ là Philipe de Valois (vua Philippe VI).
Vua Anh lúc này là Edward III, nhân danh là cháu ngoại của vua Philippe le Bel
đòi ngôi vua Pháp, nhƣng lúc này ngƣời Pháp đã tôn Philippe VI làm vua. Lúc đầu,
Edward III có vẻ chấp nhận chuyện đó, nhƣng đến năm 1337, ông cƣơng quyết đòi
ngôi vua và tự xƣng là vua nƣớc Pháp.
Từ trƣớc, Scotland và Pháp vốn là đồng minh với nhau và sự chinh phạt của
Edward I đối với Scotland đã làm cho vua Pháp khó chịu. Chính vua Philippe lại
muốn chiếm đóng hai xứ Guyenne và Aquitaine, lãnh thổ của Anh nằm trên đất
Pháp, cho nên sẵn sàng gây hấn với Anh. Thêm nữa, những thợ dệt xứ Flanders lại
liên kết chặt chẽ với Anh về việc buôn bán len dạ, khiến Anh vả Flanders là bạn hàng

11


buôn bán với nhau, gắn bó với nhau về thƣơng mại và Fladers trở thành đồng minh
của Anh trên lục địa châu Âu.
Do đó, mâu thuẫn giữa Anh và Pháp ngày càng sâu sắc và chiến tranh không thể

nào tránh khỏi.
Ban đầu, với lợi thế lực lƣợng Anh đã nhanh chóng giành thắng lợi liên tiếp,
nhƣng càng về sau trong khi Pháp vƣợt qua những khủng hoảng, hồi phục và hƣng
thịnh dần thì Anh tình hình ngày càng trở nên khó khăn hơn, tình hình chính trị rối
ren, mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc.
Năm 1377, vua Edward III mất, Hoàng thân Richard II (cháu nội của Edward III)
đƣợc tôn vƣơng nhƣng lúc này nhà vua mới có 10 tuổi khiến cho cuộc chiến tranh
giành vƣơng quyền vẫn diễn ra ngấm ngầm càng khiến tình hình chính trị luôn trong
tình trạng mất ổn định. Trong 11 năm đầu ở ngôi, Richard II cai trị một cách khéo léo
nhƣng về sau nhà vua lại sa vào những sai lầm nghiêm trọng: Richard II triệt bớt thế
lực của những đại quý tộc khiến tầng lớp này dần dần rời xa nhà vua, nhân dân ngày
càng mất niềm tin vào vị vua này kể từ khi ông ra tay đàn áp cuộc nổi dậy của nông
dân năm 1381. Nhân tình hình ngày càng trở nên phức tạp hơn, Henry của dòng họ
Lancaster đứng đầu phe chống đối nhà vua, dựa vào uy thế của Nghị viên buộc
Richard II thoát vị. Henry lên ngôi, vƣơng hiệu là Henry IV, Henry IV lên ngôi nhờ
sự giúp đỡ của Nghị viên, Giáo hội và giới đại quý tộc.
Năm 1413 Henry IV từ trần, thái tử lên ngôi vƣơng hiệu là Henry V – là một nhà
vua trẻ tuổi rất cƣơng nghị và sáng suốt. Ông giải quyết những vấn đề chính trị và tổ
chức lại quân đội, nhờ vậy, quân Anh giành đƣợc nhiều chiến thắng trên đất Pháp.
Nhƣng trớ trêu thay, sau khi kí hiệp ƣớc Troyes (1420) đƣợc kí kết, hai năm sau
Henry V mất trong tình hình này, sự xuất hiện của Jeanne d’Arc khiến tình thế trên
chiến trƣờng thay đổi có lợi cho Pháp. Sau chiến thắng Oleans, quân Pháp nhanh
chóng xây dựng đƣợc sức mạnh tinh thần, niềm tin, quân Anh liên tục thất bại.
Charles VII chiếm lại đƣợc xứ Normandy, đánh tan quân tiếp viện Anh. Thừa thắng
quân Pháp chiếm xứ Guyenne vốn thuộc Anh từ ba thế kỷ trƣớc. Chiến thắng
Castillon của Pháp đánh bại quân Anh để thu hồi thành phố Bordeaux là chiến thắng

12



cuối cùng để kết thúc cuộc chiến tranh 100 năm. Nƣớc Pháp đã mở rộng thêm bờ cõi,
ngƣời Anh chỉ còn trên đất Pháp thành phố Calais.
Cuộc chiến tranh 100 năm với Pháp đã làm cho Anh mất nhiều lãnh thổ trên lục
địa, nhƣng chiến tranh đã làm nảy nở tinh thần quốc gia dân tộc, các dân tộc khác
nhau trong nƣớc phải đoàn kết trở thành một khối đƣơng đầu với cuộc chiến tranh.
Cuộc chiến tranh 100 năm đối với nƣớc Anh đã ảnh hƣởng nghiêm trọng đến tình
hình chính trị. Sau khi kết thúc chiến tranh, nƣớc Anh bị thiệt hại lớn về vật chất: hầu
hết các lãnh thổ thuộc Anh nằm trên đất Pháp đều bị Pháp thôn tính, nhƣng đổi lại
nƣớc Anh đã thoát khỏi nền quân chủ đã suy yếu xây dựng nên triều đại Tudor –
triều đại phát triển rực rỡ nhất của chế độ phong kiến nƣớc Anh
. Sự kết thúc chiến tranh 100 năm với thất bại thuộc về nƣớc Anh đã dập tắt giấc
mộng thành lập một đế quốc Anh trên lục địa châu Âu.
1.1.2

Cuộc nội chiến Hai bông hồng

Nhiều thất bại liên tiếp của quân Anh trên đất Pháp từ sau năm 1428 khiến cho
nền quân chủ Anh mất nhiều uy tín và quyền lực. Thêm nữa, những rối loạn và nội
chiến khiến cho vƣơng quyền mỡi ngày một thêm suy yếu.
Vua Henry VI mắc bệnh tâm thần lại không có con nối dõi, hai đại gia đình hậu
duệ của vua Edward III rất có thế lực đều có ý dòm ngó ngôi báu. Nhà Lancaster lấy
bông hồng đỏ làm biểu tƣợng có công tƣớc Somerset còn nhà York có công tƣớc
Richard lấy hoa hồng trắng làm biểu tƣợng. Cuộc tranh giành quyền lực diễn ra kéo
dài 15 năm, tàn bạo và đẫm máu, cả hai bên đều có nhiều thƣơng vong. Khi hai kẻ
đứng đầu hai nhà đều bị sát hại thì vua Henry VI sinh đƣợc một hoàng tử, mặc dù
vậy con cháu của hai nhà vẫn tiếp tục tranh chấp và gây ra những cuộc xung đột
tƣơng tàn, càng ngày càng khốc liệt, dẫn đến nội chiến. Năm 1461, nhà Lancaster lức
bấy giờ đang đƣợc vua sủng ái, bị bại trận ở Towton, vua Henry VI bị bắt cầm tù và
ngƣời đứng đầu nhà York, công tƣớc Beaufort lên ngôi, vƣơng hiệu Edward IV dƣới
sự giúp đỡ tận tình của bá tƣớc Warwick.

Là một ngƣời giảo hoạt, nhanh nhạy trong chính trị, một thời gian sau khi lên cầm
quyền Edward IV đã gây ra căm thù với nhiều ngƣời, kể cả những ngƣời trƣớc kia đã

13


hết lòng ủng hộ ông nhƣ bá tƣớc Warwick. Để trả thù bá tƣớc Warwick quay sang
ủng hộ nhà Lancaster và làm thủ lĩnh tấn công vua Edward IV, đƣa vua Henry VI trở
lại ngôi vua.
Năm 1471, nhà York phản công, bá tƣớc Warwick tử trận, Henry VI lại bị giam
cầm sau đó bị giết chết. Edward IV trở lại ngôi vua và bắt đầu xây dựng quyền lợi
của dòng họ, ông mất năm 1483. Con trai lớn của Edward IV lên nối ngôi khi mới 13
tuổi lấy vƣơng hiệu là Edward V, tình trạng tranh giành quyền lực lại diễn ra, trong
đó nổi lên Richard – chú của nhà vua – với những hành động tàn ác của mình đã gây
nên căm phẫn trong xã hội và nhiều cuộc nổi dậy nhằm lật đổ Richard III. Một trong
những thủ lĩnh chống lại Richard là Henry Tudor, công tƣớc xứ Richmond, ngƣời
lãnh tụ cuối cùng của nhà Lancaster. Đƣợc sự ủng hộ của xứ Wales và nhất là sự
giúp đỡ hết lòng của nhà đại quý tộc Lancashire là Stanley, Henry Tudor đè bẹp lực
lƣợng của Richard III và giành chiến thắng.
Henry Tudor lên ngôi lấy vƣơng hiệu là Henry VII, ông cƣới công chúa Elizabeth
– con gái của Edward IV làm vợ. Cuộc hôn phối của ngƣời hậu duệ cuối cùng của
nhà Lancaster với ngƣời hậu duệ cuối cùng của nhà York đã chấm dứt các mối hận
thù truyền kiếp của hai nhà và chấm dứt cuộc nội chiến tƣơng tàn sau bao nhiêu năm
loạn lạc, đầy rẫy những sự tàn bạo, phản trắc, thù hận và chết chóc.
1.1.3

Ảnh hưởng của hai cuộc chiến tranh và nước Anh cuối thời trung

cổ
Những ảnh hƣởng của cuộc Chiến tranh Trăm năm ở Anh cũng đƣa ra một số câu

hỏi về mức độ của chính quyền hoàng gia. Giống nhƣ ngƣời Pháp, ngƣời Anh đã trải
qua một cuộc nổi loạn nghiêm trọng chống lại nhà vua trong một khoảng thời gian
tiếp sau cái chết của Edward III khi ngƣời cháu trai của ông vẫn chƣa đến tuổi trƣởng
thành. Đƣợc gọi là phong trào Nông dân nổi dậy hay còn là cuộc nổi dậy của Wat
Tyler, cuộc nổi dậy năm 1381 đã cho thấy một số lƣợng lên đến 100.000 nông dân
tiến vào London để phản đối việc nộp thuế quá cao để tài trợ cho chiến tranh và nỗ
lực của giới quý tộc để bần cùng hoá thân phận của ngƣời nông dân Anh. Đám đông
đã sát hại các quan chức chính phủ và ngƣời thu thuế và đốt cháy nhà của họ. Nhà
vua trẻ-Richard II, gặp những ngƣời nông dân ở bên ngoài lâu đài của mình, xoa dịu
14


sự bạo lực của họ bằng cách hứa hẹn sẽ đáp ứng nhu cầu của họ. Đồng thời, các điệp
viên của nhà vua đã giết chết Wat Tyler, một nhà lãnh đạo chủ chốt của cuộc nổi dậy
và Richard II đã đuổi những ngƣời nông dân trở lại nhà của họ ở vùng nông thôn.
Tuy nhiên, sau khi họ về nhà ông này đã không giữ lời hứa của mình và vẫn giữ mức
thuế cao.
Đối với cuộc chiến tranh 100 năm, ban đầu thành công của các chiến dịch mang
lại sự giàu có cho bản thân giới quý tộc và triều đình Anh. Khi chiến tranh tiếp diễn,
chi phí để bảo vệ và duy trì vùng chiếm đóng tỏ ra quá nặng nề và Hoàng gia Anh về
cơ bản bị phá sản, ngƣợc lại sự giàu có làm cho nƣớc Pháp liên tục tập hợp lại đƣợc
các quý tộc và quân đội của họ. Khi triều đình Anh bắt đầu có một cách tiếp cận hợp
lý hơn đối với nƣớc Pháp, nhiều quý tộc ngƣời Anh đã đang nắm giữ các vùng đất tại
lục địa châu Âu và đã bị bỏ rơi trong quá trình này liền đã bị vỡ ảo tƣởng với Hoàng
gia Anh. Những bất đồng này đã trở thành một trong những yếu tố chính góp phần
vào Cuộc chiến của Hoa Hồng.
Vào cuối cuộc chiến, nƣớc Anh đã phải quay lại quốc đảo, ngoại trừ Calais. Hoàn
toàn ở rìa của châu Âu, tƣơng lai của nó dƣờng nhƣ là rất tối tăm. Tuy nhiên, việc
châu Âu khám phá ra Tân thế giới ở bên ngoài ranh giới phía tây của bờ biển Đại
Tây Dƣơng vào năm 1492 có nghĩa là quốc gia trên biển cả nhƣ nƣớc Anh đã rất phù

hợp để tận dụng cơ hội mới cho nền thƣơng mại và phiêu lƣu vùng chinh phục những
vùng đất mới.
Cuộc chiến tranh 100 năm với Pháp vừa yên thì cuộc chiến tranh Hai Bông Hồng
diễn ra. Sự cai trị hà khắc của nhà York đã tiêu hủy các quyền tự do của dân chúng.
Nghị viện không đƣợc triệu tập từ năm 1477 cho đến năm 1482, giới quý tộc chán
nản, quần chúng chán nản kết hợp cùng với những yếu tố khác đã tạo điểu kiện cho
sự thiết lập nền quân chủ chuyên chính sau này. Cuộc chiến cũng làm suy giảm
nghiêm trọng ảnh hƣởng của Anh trên đất Pháp. Sau khi chiến tranh kết thúc, Anh
mất tất cả những vùng đất giành đƣợc trên đất Pháp trong cuộc Chiến tranh Trăm
năm, ngoài vùng Calais dần rơi vào tay Mary I. Mặc dù sau này các nhà cai trị Anh
có nỗ lực đƣa quân vào châu Âu lục địa, họ không bao giờ còn làm chủ các vùng
lãnh thổ nữa. Tại châu Âu lục địa, hai đối thủ của nhau, nhà Burgundy và nƣớc Pháp,
15


cũng lợi dụng tình hình chia rẽ ở Anh để ủng hộ khi thì phe này, khi thì phe kia để
chế ngự đối thủ cũng nhƣ ngăn chặn một nƣớc Anh thống nhất, hùng mạnh có thể đe
dọa họ.
1.2. Sự phát triển kinh tế theo hƣớng tƣ bản chủ nghĩa và những vấn đề nội
tại
1.2.1. Sự phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha sau các cuộc phát kiến địa lý nhanh chóng trở nên
giàu có vì những nguồn lợi từ những vùng đất mới mang lại, họ biến Hà Lan – bá
chủ thƣơng mại hàng hải một thời trở thành thuộc địa của Bồ Đào Nha, còn Anh trở
thành một đất nƣớc đang trên đà phát triển của tƣ bản chủ nghĩa thiếu nguyên liệu,
thị trƣờng buộc phải tìm con đƣờng phát triển mới, đồng thời kìm hãm đƣợc sự vƣơn
lên của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.
-

Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp


Trong thời gian này nƣớc Anh vẫn còn là một nƣớc nông nghiệp, quan hệ sản xuất
phong kiến thống trị lâu đời trong nông thôn. Ruộng đất là tài sản của địa chủ, nông
dân chỉ cày cấy và nộp tô theo kỳ hạn và mức quy định vĩnh viễn. Tuy nhiên, một
đặc điểm lớn của sự phát triển kinh tế là quan hệ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa đã đạt
đƣợc những thành tựu to lớn trong việc thâm nhập vào nông nghiệp, làm cho nông
thôn Anh sớm gắn với thị trƣờng trong vả ngoài nƣớc. Do sự phát triển của quan hệ
tƣ bản chủ nghĩa và những cuộc khởi nghĩa mạnh mẽ của nông dân, chế độ nông nô
bị thủ tiêu vào cuối thế kỷ XIV, nền nông nghiệp Anh có nhiều biến đổi to lớn, đó là
sự chuyển biến trong sản xuất. Do sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của công nghiệp
len dạ nên nhu cầu về lông cừu tăng lên, giá lông cừu tăng vọt và nghề nuôi cừu trở
nên đặc biệt có lợi. Một bộ phận địa chủ do không thỏa mãn với số thu nhập địa tô cố
định, mặt khác lại thấy nghề nuôi cừu lại có lợi lớn nên chuyển hƣớng kinh doanh.
Địa chủ đuổi nông dân ra khỏi ruộng đất đang cày cấy, rào ruộng đất đó và một phần
ruộng đất của công xã thành những trang viên rộng lớn rồi thuê nhân công trồng cỏ
nuôi cừu. Những ngƣời nông dân bị mất tƣ liệu sản xuất phải lang thang phiêu bạt,
cuộc sống vô cùng khó khăn – hiện tƣợng “cừu ăn thịt ngƣời” – đây là quá trình tích
lũy tƣ bản nguyên thủy, cũng là nguyên do thúc đẩy Anh phát kiến địa lý. Việc “rào
16


đất cƣớp ruộng” đã tạo nên một hiện tƣợng trên khắp nƣớc Anh là hàng vạn nông
dân không nhà cửa, không phƣơng tiện sinh sống, phải lang thang trở thành một gánh
nặng cho nền kinh tế cũng nhƣ xã hội nƣớc Anh, để giải quyết tình trạng này họ buộc
phải tìm một con đƣờng mới để giải quyết nguồn nhân công dƣ thừa cũng nhƣ tìm thị
trƣờng tiêu thụ cho sản phẩm len dạ đó chính là những vùng đất rộng lớn mà phát
kiến địa lý mang lại.
-

Sự phát triển công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa


Từ thế kỷ XVI, các ngành công thƣơng nghiệp đã phát triển mạnh ở Anh, các phát
minh kỹ thuật đƣợc áp dụng. Tính chất tƣ bản chủ nghĩa thể hiện rõ trong việc tổ
chức lao động. Công nghiệp len dạ phát triển nhất là ở vùng Tây Nam. Từ thế kỷ
XVI, tổ chức sản xuất len dạ đã có tính chất tƣ bản chủ nghĩa, len dạ của Anh sản
xuất ngày càng nhiều không những cung cấp cho nhu cầu trong nƣớc mà còn xuất
khẩu sang các nƣớc khác.
Các ngành khai thác quặng, đóng tàu, sản xuất đồ gốm và kim khí cũng đạt đƣợc
nhiều thành tựu to lớn.
Thƣơng nghiệp Anh cũng đạt đƣợc nhiều thành tựu to lớn. Thị trƣờng dân tộc
đƣợc hình thành. Hàng hải Anh trở thành ngành thế mạnh của Anh, tạo ra nhiều yếu
tố cách mạng trong lòng xã hội Anh, khiến Anh trở thành nƣớc có thế mạnh lớn trên
mặt biển với đội ngũ hải quân chất lƣợng cũng nhƣ tàu chiến to lớn – là những điều
kiện quan trọng trong con đƣờng tìm kiếm những vùng đất mới.
1.2.2. Giải quyết được những vấn đề nội tại trong nước
Việc giải quyết ổn thỏa những vấn đề nội tại trong nƣớc cũng là yếu tố thúc đẩy
Anh tham gia vào quá trình tìm kiếm ra những vùng đất mới, cạnh tranh với các nƣớc
tƣ bản khác.
-

Mâu thuẫn tôn giáo

Henry chƣa bao giờ chính thức bác bỏ thần học Công giáo, nhƣng từ năm 1534,
nhà vua tự nhận mình là nhà lãnh đạo tối cao của giáo hội tại Anh. Quyết định này,
kết hợp với những động thái kế tiếp nhau, dần dà hình thành nên một giáo hội tách
rời khỏi Rô-ma, Giáo hội Anh. Henry và các cố vấn của ông cảm thấy rằng Giáo
17


hoàng, trong các vấn đề thế tục, đang hành động nhƣ là một vƣơng quyền Ý, do đó

làm lu mờ vai trò lãnh đạo tôn giáo của ông. Vì quyền lợi quốc gia, Henry ngày càng
cảm thấy khó chấp nhận khi những vấn đề nội chính quan trọng của nƣớc Anh đều
đƣợc quyết định bởi ngƣời Ý. Sự kiện hủy hôn với Catherine là một thí dụ điển hình
nhƣng chính nó không phải là nguyên nhân của sự việc.
Cuộc cải cách giáo hội do Henry tiến hành khởi phát từ những nguyên nhân phức
tạp hơn chứ không chỉ đơn thuần là khao khát của nhà vua muốn có vợ mới và có
con trai để kế vị. Henry khẳng định rằng cuộc hôn nhân đầu tiên chƣa bao giờ là hợp
lệ, nhƣng việc hủy hôn chỉ là một trong những nhân tố khiến Henry muốn cải cách
giáo hội. Từ năm 1532-1537, Henry ban hành một loạt đạo luật liên quan đến mối
quan hệ giữa nhà vua với Giáo hoàng, và về cơ cấu tổ chức của Giáo hội Anh. Trong
giai đoạn này, Henry giải thể các tu viện và những điện thờ hành hƣơng nhƣ là một
phần trong nỗ lực cải cách giáo hội. Nhà vua luôn thủ giữ vai trò chủ chốt trong việc
ra quyết sách về tôn giáo; chính sách này, đƣợc ông kiên trì theo đuổi, có thể đƣợc
miêu tả chính xác nhất là đi theo đƣờng lối trung dung.
Sự xích mích giữa Henry VIII và Tòa thánh La Mã bắt đầu từ việc Giáo hoàng bác
bỏ, không cho phép nhà vua ly dị vợ. Henry VIII bất bình, tự xƣng là Giáo hoàng của
Anh giáo và tách Giáo hội Anh quốc ra khỏi quyền hạn của Giáo hoàng La Mã. Hành
động này mang lại cho nhà vua một mối lợi lớn: nhà vua đƣợc giàu thêm nhờ tịch thu
của cải của những tu viện trƣớc đây vốn thuộc về Giáo hội La Mã. Ông còn nhận
đƣợc sự ủng hộ mạnh mẽ của giới thƣơng nhân giàu có đang tăng dần số lƣợng. Điều
này tạo điều kiên thuận lợi cho công cuộc phát kiến địa lý, khi vào thời gian trƣớc
nƣớc Anh ngập tràn trong khung cảnh tối tăm, kinh tế khó khăn, xã hội bất ổn định.
-

Chinh phục Ireland trở thành thuộc địa của mình

Cuộc xâm lƣợc của Norman vào cuối thế kỷ 12 đã đánh dấu sự khởi đầu của hơn
800 năm cai trị trực tiếp của Anh và sau đó là sự tham gia của Anh vào công việc
trực tiếp của Ireland. Năm 1177 Hoàng tử John Lackland đã đƣợc phong làm
cho Chúa của Ireland bởi cha của ông Henry II của Anh tại Hội đồng Oxford .

Nƣớc Anh đã không cố khẳng định toàn quyền kiểm soát hòn đảo này cho đến khi
cuộc nổi dậy của Bá tƣớc Kildare đe dọa quyền bá chủ của ngƣời Anh. Henry VIII
18


tuyên bố mình là Vua Ireland và cũng cố gắng thực hiện cải cách, nỗ lực để chinh
phục hoặc đồng hóa các lãnh chúa Ailen vào Vƣơng quốc Ireland cung cấp động lực
ban đầu cho một loạt các chiến dịch quân sự Ailen giữa 1534 và 1603.
Đế quốc Anh năm 1897 là một cƣờng quốc công nghiệp và hàng hải trong thế kỷ
19, Vƣơng quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland thƣờng đƣợc gắn liền với danh hiệu
quốc gia góp phần "hình thành nên thế giới hiện đại", khi đóng vai trò quan trọng
hàng đầu trong việc phát triển các tƣ tƣởng về sở hữu, chủ nghĩa tƣ bản và dân chủ
nghị viện phƣơng Tây cũng nhƣ có những đóng góp to lớn trong văn học, nghệ thuật,
khoa học và công nghệ. Ở thời cực thịnh, Đế quốc Anh trải dài trên hơn một phần tƣ
bề mặt Trái Đất và chiếm một phần ba dân số thế giới, biến nó trở thành đế chế lớn
nhất trong lịch sử.
1.3. Những con đƣờng sang phƣơng Đông bị tắt nghẽn
Trƣớc thế kỷ XV, thƣơng nhân và những nhà hàng hải châu Âu về cơ bản chỉ hoạt
động chung quanh các miền bờ biển quanh châu Âu và nhất là ở Địa Trung Hải.
Nhƣng từ sau thế kỷ XV trở đi, ngƣời châu Âu đã tiến hành nhiều cuộc thám hiểm
vƣợt đại dƣơng với mục đích tìm con đƣờng sang phƣơng Đông. Trong quá trình
phát triển của sức sản xuất trong thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến sang chủ nghĩa
tƣ bản, nguy cơ bế tắc trong việc buôn bán trực tiếp với phƣơng Đông. Trƣớc đó,
phong kiến châu Âu vốn đã tiêu thụ một khối lƣợng lớn hàng xa xỉ mang từ phƣơng
Đông sang. Nhƣng từ cuối thế kỷ XV, đối với châu Âu, hàng hóa phƣơng Đông trở
nên khan hiếm, giá cả cao vọt do các con đƣờng truyền thống với phƣơng Đông bị
tắc nghẽn. Để giải quyết tính trạng đó bắt buộc phải tìm ra con đƣờng mới, đi đầu là
Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha sau những nỗ lực miệt mài cà Bồ Đào Nha và Tây Ban
Nha đều thống nhất khai thác thuộc địa mới bằng hiệp ƣớc Tordesillas (1494) là sự
dàn xếp của Giáo hoàng, chia những vùng đất mới đƣợc thám hiểm bên ngoài châu

Âu cho hai nƣớc này theo một đƣờng kinh tuyến chạy dọc phía Đông Brazil hiện
nay. Ban đầu, hiệp ƣớc này mang lại lợi ích cho Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha trong
việc khai thác lục địa mới, còn đối với Anh là nƣớc đi sau trong phát kiến địa lý, lúc
bấy giờ, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha dƣờng nhƣ đã chiếm đƣợc những vùng đất
màu mỡ ở “tân thế giới”, nƣớc Anh không còn con đƣờng nào khác phải tìm ra con
19


đƣờng mới là phải tìm kiếm một tuyến đƣờng phía Bắc đến châu Á sau khi con
đƣờng đi qua Trung, Nam Mĩ và đi xuống châu Phi bị ngƣời Tây Ban Nha và Bồ Đào
Nha độc chiếm.
1.4. Ham muốn vàng, hƣơng liệu, gia vị…
Cũng giống nhƣ các nƣớc khác trên thế giới khi tham gia vào việc tìm kiếm những
vùng đất mới đều mong muốn kiếm cho mình những khoản lợi nhất là vàng. Theo
cách nhìn nhận của ngƣời châu Âu lúc bấy giờ, phƣơng Đông – nhất là Ấn Độ là một
xứ sở không chỉ giàu về hƣơng liệu, gia vị, tơ lụa, mà còn là một vùng đất giàu có về
vàng. Vàng và gia vị là ƣớc vọng của ngƣời châu Âu mong thu lƣợm đƣợc. Do đó, ý
định trƣớc tiên mà tất cả những ngƣời tham gia thám hiểm là tìm cho bằng đƣợc
vàng. Nhƣng mặc khác lúc này ở châu Âu thực sự cần vàng để phát triển nền kinh tế.
Tƣ bản đã bắt đầu hình thức tiền tệ dƣới các vỏ bọc bằng vàng. “Cơn khát vàng” xôn
xao lúc bấy giờ phản ánh những mâu thuẫn chủ yếu và yêu cầu phát triển hơn nữa
quan hệ hàng hóa tiền tệ ở Tây Âu.
Việc C. Columbus tìm ra châu Mỹ - “tân thế giới” đã giải tỏa đƣợc những bí bách
lúc bấy giờ châu Âu Mọi vấn đề khó khăn của châu Âu lúc bấy giờ đã đƣợc giải
quyết. Vấn đề dân số ngày càng tăng không còn đáng lo ngại; nguồn nguyên vật liệu,
khoáng sản giàu có của châu Mỹ cũng khiến nền kinh tế châu Âu thay đổi lớn.
Cũng nhƣ các nƣớc châu Âu khác đối với Anh thì châu Mỹ trở thành mục tiêu
khai thác để phục vụ cho quá trình tƣ bản trong nƣớc.
1.5. Cạnh tranh thƣơng mại với các nƣớc Tây Âu ở phƣơng Đông
Trong thƣơng mại và mậu dịch hàng hải, đã hình thành nhiều công ty thƣơng mại

với vốn lớn, phƣơng tiện dồi dào, quy mô buôn bán rộng lớn xuyên đại dƣơng, xuyên
châu lục. Từ thế kỷ XVII, các công ty thƣơng mại ngày càng có vai trò to lớn trong
các cuộc cạnh tranh thị trƣờng và xâm chiếm thuộc địa trên thế giới. Vào cuối thế kỷ
XVI đầu thế kỷ XVII, Anh cùng Hà Lan nổi lên nhƣ một đế quốc trẻ trong cuộc
chiến tranh giành ảnh hƣởng trên mặt biển cũng nhƣ thuộc địa ở lục địa mới, thách
thức sự độc quyền thƣơng mại mậu dịch của Bồ Đào Nha ở phƣơng Đông, hình
thành các công ty tƣ nhân tiêu biểu phải kể đến Công ty Đông Ấn Anh (1600) nhằm

20


khai thác những lợi ích mậu dịch ở quần đảo Đông Ấn cùng với công ty Đông Ấn Hà
Lan hình thành nên mạng lƣới mậu dịch tại Ấn Độ, cạnh tranh trực tiếp với Bồ Đào
Nha, bên cạnh đó cũng diễn ra sự cạnh tranh giữa Anh và Hà Lan. Sau đó, Anh và
Hà Lan đã đạt đƣợc thỏa thuận trong thƣơng mại tại quần đảo Đông Ấn, theo đó,
việc buôn bán gia vị thuộc về Hà Lan còn Anh nắm trong tay nền công nghiệp dệt
của Ấn Độ. Điều này đã mang lại lợi ích to lớn cho công ty Đông Ấn Anh đồng thời
xác lập ảnh hƣởng của Anh ở Ấn Độ nói riêng và phƣơng Đông nói chung.
Sau khi đánh bại Hà Lan để giành lấy quyền buôn bán trên mặt biển, bƣớc vào thế
kỷ XVIII, nƣớc Anh thực hiện một chính sách có hệ thống nhằm khuyến trƣơng
thƣơng mại và hệ thống thuộc địa. Trong khi đó, ở châu Âu lục địa, nƣớc Pháp đang
muốn chiếm lấy vị trí số 1 của Anh với những vùng thuộc địa rộng lớn ở châu Mỹ và
vƣơn đến tận Ấn Độ. Thậm chí, đến giữa thế kỷ XVIII, Pháp trở thành mối đe dọa
cƣớp lấy bá quyền trên biển của Anh, buộc Anh phải có kế hoạch đối phó, củng cố
quyền lợi vị trí của mình. Anh đã lợi dụng việc vua Pháp đang dấn thân vào cuộc
Chiến tranh Bảy năm (1756 – 1763), về phe Áo, Nga, Thụy Điển và Xacxonia chống
lại vua Phổ. Anh đã ủng hộ vua Phổ những khoản tài trợ lớn, dồng thời phong tỏa bờ
biển nƣớc Pháp và hƣớng sự chú ý vào các thuộc địa. Năm 1759, nguwofi Anh
chiếm Canada và đến năm 1761 Anh chiếm đƣợc vùng Pondichery ở Ấn Độ. Hạm
đội của Pháp gần nhƣ bị tiêu diệt hoàn toàn. Pháp nhƣợng một số quyền lợi cho Anh

tại Bắc Mỹ. Cuộc chiến tranh Bảy năm là cuộc xung đột vũ trang toàn châu Âu, kết
quả của cuộc chiến là Pháp đã mất quyền kiểm soát ở các lãnh địa hải ngoại của Pháp
ở phía Tây đồng thời đảm bảo quyền bá chủ trên biển của Anh.
Bên cạnh đó, cuộc chiến tranh Bảy năm có tác động trực tiếp đến khu vực Đông
Nam Á, để trả đũa cho việc Tây Ban Nha ủng hộ về mặt quân sự cho Pháp, Anh đã
tấn công vịnh Manila vào năm 1762. Kết quả, họ đã chiếm đƣợc thủ đô và các khu
vực lân cận, Cùng với sự thất bại tại Havana (Cuba), Anh đã phơi bày điểm yếu của
Tây Ban Nha trƣớc toàn thể thế giới, thể hiện đƣợc sự ảnh hƣởng nhất định của mình
đối với khu vực châu Á cũng nhƣ các thuộc địa của Anh trên toàn thế giới.
Thế kỉ XVIII – XIX, ở phƣơng Đông có nhiều thay đổi lớn nhất là trên lĩnh vực
chính trị, trong thời gian này diễn ra sự suy thoái của các quốc gia phong kiến. Các
21


vƣơng quốc vẫn tiếp tục xung đột để khẳng định trong khi bên trong bán thân chế độ
tồn tại những mâu thuẫn không thể nào hòa giải đƣợc, nhƣng ngoại thƣơng là một
điểm sáng trong thời điểm này, ngoại thƣơng khá phát triển. CHính trong hoàn cảnh
này đã tạo điều kiện cho chủ nghĩa thực dân xâm nhập vào, tạo ra một giai đoạn ảnh
hƣởng mới của châu Âu đối với khu vực này, có thể nói rằng, đây là thời kì phƣơng
Tây chiếm lĩnh nhanh chóng về mặt lãnh thổ lẫn chính trị, khi Anh , Pháp, Hà Lan
nhanh chóng xây dựng đƣợc đế chế của mình. Việc cạnh tranh giữa các nƣớc là điều
không thể tránh khỏi khi khu vực này là một khu vực giàu có, đem lại nhiều nguồn
lợi trong đó phải kể đến Ấn Độ và Trung Quốc, nếu bá chủ đƣợc khu vực này sẽ
củng cố thêm địa vị vững chắc trên trƣờng quốc tế nên các nƣớc đế quốc phƣơng Tây
không ngừng xác lập, tranh giành ảnh hƣởng tại khu vực này.
Tiểu kết:
Bối cảnh lịch sử của Anh vào thế kỷ XV – XVIII đã xuất hiện những yếu tố thúc
đẩy Anh tham gia vào quá trình tìm kiếm con đƣờng mới từ phƣơng Tây sang
phƣơng Đông, hình thành mạng lƣới thƣơng mại trên biển tiến đến việc thiết lập
hàng loạt thuộc địa trở thành đế quốc hùng mạnh vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ

XX. Việc Anh kết thúc cuộc chiến tranh 100 năm với Pháp đã tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển của chế độ phong kiến, tuy giành đƣợc những lợi thế về mặt chiến
thuật nhƣng ngƣời Anh không thể giành chiến thắng cuối cùng trƣớc ngƣời Pháp
nhƣng cuộc chiến tranh đã khơi dậy tinh thần dân tộc cùng với việc khám phá ra
châu Mỹ vào năm 1492 đã đem lại cho ngƣời Anh những cơ hội mới để phát triển,
buộc Anh phải tìm kiếm những vùng đất mới để bù đắp lại những vùng đất đã mất
trên lục địa. Sau khi thoát khỏi cuộc chiến tranh 100 năm, nƣớc Anh lại rơi vào cuộc
nội chiến, tuy cuộc nội chiến khiến tình hình đất nƣớc luôn trong tình trạng chiến
tranh liên miên, cuộc nội chiến gây nhiều tổn thất cho giới quý tộc với nhiều quý tộc
bị giết và giới quý tộc cũ gần nhƣ không còn nữa. Và điều này hoàn toàn có lợi cho
nhà Tudor để xây dựng nên một quốc gia mới thịnh vƣợng, một chế độ quân chủ
hùng mạnh, đẩy mạnh hơn nữa việc tìm kiếm những vùng đất mới, gây ảnh hƣởng
nghiêm trọng tới lợi ích của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Bên cạnh đó, sự phát triển
của lực lƣợng sản xuất và nền kinh tế hàng hóa ở Anh đã đòi hỏi Anh cần những thị

22


trƣờng rộng lớn hơn nữa, đồng thời sự cạnh tranh thƣơng mại với các nƣớc Tây Âu ở
phƣơng Đông dấy lên phong trào thám hiểm những vùng đất xa xôi giàu có nhƣ Ấn
Độ ở phía đông. Với những lợi thế phát triển về hàng hải đã tạo điều kiên thuận lợi
cho Anh trong cuộc chạy đua thiết lập thuộc địa, mà trong đó phải kể đến các chuyến
thám hiểm của Anh từ thế kỷ XV – XVIII. Vào thời Victoria, Anh là một đế quốc
thuộc địa rộng lớn nằm trên cả 5 châu lục: ở châu Mỹ là Canada và một số đảo trong
biển Caribbean, ở châu Phi là xứ Cape – thuộc địa cũ của Hà Lan, ở châu Á, một
phần bán đảo Ấn Độ và đảo Ceylon, ở châu Đại Dƣơng là phần duyên hải phía đông
của đảo Australia. Từ năm 1815, bằng sự khuyến trƣơng hòa bình và bằng con đƣờng
chinh phục, đề quốc thuộc địa Anh mở rộng nhanh chóng, đến đầu thế kỷ XX, thì đế
quốc ấy đã rộng lớn nhất thế giới.


23


Chƣơng 2
CÁC CUỘC PHÁT KIẾN ĐỊA LÝ TIÊU BIỂU CỦA ANH THẾ KỶ XV –
XVIII
Bối cảnh lịch sử trên đã tạo những điều kiện thuận lợi để ngƣời Anh tham gia vào
cuộc đua tìm kiếm những vùng đất mới mà chủ yếu là ở châu Mỹ và khu vực Nam
Thái Bình Dƣơng.
2.1. Các cuộc phát kiến địa lý của Anh ở châu Mỹ
2.1.1.

John Cabot (1450-1500)

John Cabot (tên tiếng Ý là Giovanni Caboto; sinh khoảng 1450 – mất khoảng
1499) là một nhà hàng hải và nhà thám hiểm ngƣời Ý đã thám hiểm một số khu
vực Bắc Mỹ năm 1497 theo sứ mệnh đƣợc Henry VII của Anh giao cho, chuyến
thám hiểm này đƣợc cho là cuộc gặp gỡ đầu tiên của châu Âu với lục địa Bắc Mỹ kể
từ khi những ngƣời Viking Bắc Âu vào thế kỷ thứ mƣời một. Tại Ý, ông đƣợc biết
đến với tên gọi Giovanni Caboto, tại Anh là John Cabot, ở Pháp là Jean Cabot, và ở
Tây Ban Nha là Juan Caboto. Đƣợc sinh ra tại Ý nhƣng vào cuối năm 1480 ông rời
khỏi Venice vì gặp phải vấn đề khó khăn về kinh tế. Sau khi tìm kiếm tài trợ cho
chuyến thám hiểm tại Seville và Lisbon nhƣng không thành công, ông đến Anh vào
giữa năm 1495. Cũng nhƣ các nhà thám hiểm khác, John Cabot nếu muốn thực hiện
đƣợc hành trình thám hiểm của mình phải đƣợc sự tài trợ của một quốc gia châu Âu
nào đó và trong trƣờng hợp này, John Cabot đã nhận đƣợc sự ủng hộ về tài chính
cũng nhƣ chính trị của nƣớc Anh. Cabot lên kế hoạch khởi hành về phía tây từ vĩ độ
bắc, kỳ vọng tìm một con đƣờng thay thế đến Trung Quốc.
John Cabot đã nhận đƣợc sự tài trợ của cộng đồng ngƣời Ý tại Anh, đoàn thám
hiểm của ông còn tập hợp những nhà tu sĩ, chính các nhà tu sĩ này đã giới thiệu John

Cabot cho nhà vua Henry. Vào ngày 5 tháng 3 năm 1496, Henry VII đã trao cho
Cabot và ba ngƣời con trai của mình bằng sáng chế bằng thƣ với các điều khoản
thăm dò sau đây:
quyền tự do, truyền đạo và quyền lực để đi thuyền đến tất cả các khu vực, vùng và
bờ biển phía đông, tây và bắc, dƣới các biểu ngữ, cờ và cờ hiệu của chúng tôi, với
24


năm tàu hoặc tàu của bất kỳ gánh nặng và chất lƣợng nào, và với rất nhiều và với
những ngƣời đàn ông và những ngƣời đàn ông nhƣ họ có thể muốn mang theo họ
trong những con tàu nói trên, với chi phí và chi phí riêng của họ, để tìm, khám phá và
điều tra bất kỳ đảo, quốc gia, khu vực hoặc tỉnh nào bất kỳ phần nào của thế giới
đƣợc đặt, mà trƣớc thời điểm này chƣa đƣợc tất cả các Kitô hữu biết đến. [13, tr.8 10]
Cabot đã đến Bristol để chuẩn bị cho chuyến thám hiểm của mình. Hành trình
thám hiểm của John Cabot đƣợc chia làm 3 chuyến lần lƣợt khám phá các vùng đất
mới đem lại nhiều tài sản, danh tiếng cho nƣớc Anh.
-

Chuyến đi đầu tiên

Chuyến đi đầu tiên của Cabot ít đƣợc ghi lại. Một lá thƣ mùa đông 1497 từ John
Day (một thƣơng gia Bristol) cho một ngƣời đƣợc cho là ngƣời đƣợc cho
là Christopher Columbus nói ngắn gọn về nó. John Cabot đã khởi hành với một con
tàu, phi hành đoàn của ông ta nhầm lẫn khiến ông ấy thiếu nguồn cung cấp và gặp
thời tiết xấu, và ông quyết định quay lại.
Kể từ khi Cabot nhận đƣợc bằng sáng chế hoàng gia vào tháng 3 năm 1496, ngƣời
ta tin rằng ông đã thực hiện chuyến đi đầu tiên của mình vào mùa hè. Cuộc thám
hiểm đầu tiên không thành công dƣờng nhƣ là do sự vội vã, chƣa chuẩn bị đủ về mọi
mặt, cho nên chuyến đi tiếp theo bị gián đoạn mãi cho đến khi John Cabot nắm chắc
bằng sáng chế của mình thì khó có thể có thêm nguồn tài trợ nào. Sau khi trở về

Bristol, Cabot đã có ít nhất tám tháng để chuẩn bị cho chuyến đi tiếp theo. Khoảng
thời gian này cho phép ông thuê tàu theo sự lựa chọn của mình và đảm bảo rằng
chiếc tàu tốt. Bên cạnh đó, thời gian này đã cho ông thu thập một phi hành đoàn đã
sẵn sàng để thực hiện một hành trình dài không xác định thời gian trong vùng biển
chƣa đƣợc thám hiểm.[29, tr 38]
-

Chuyến đi thứ hai

Thông tin về chuyến đi 1497 chủ yếu đƣợc đề cập trong một biên niên sử 1565
của thành phố Bristol.

25


×