Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Phật giáo việt nam thời tự đức (1848 – 1883)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.36 MB, 140 trang )

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Lịch sử Việt Nam thời Tự Đức (1848 – 1883) là một giai đoạn đầy biến động, đây
được xem như thời kỳ bản lề chuyển giao giữa thời trung đại và cận đại ở Việt Nam. Triều
Tự Đức, là triều đại để lại dấu ấn đặc biệt trong lịch sử dân tộc với hai vấn đề: tôn giáo và
bảo vệ chủ quyền đất nước. Trong vấn đề tôn giáo, các công trình nghiên cứu thường đề
cập đến Công giáo, những vấn đề về Phật giáo thời Tự Đức ít được nhắc đến. Như vậy,
cùng nằm trong hệ thống quản trị tôn giáo của triều đình Tự Đức, Phật giáo có quá trình
tồn tại như thế nào, đây là điều cần quan tâm tìm hiểu.
Về phía Phật giáo cũng đã có quá trình đồng hành, gắn bó cùng dân tộc hơn hai ngàn
năm. Tư tưởng của Phật giáo đã trở thành một điểm tựa tinh thần, cơ sở để giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc, chống lại âm mưu đồng hóa của tập đoàn quân chủ phương Bắc thời Bắc
thuộc. Và tôn giáo này cũng đã góp sức vào công cuộc trị nước, an dân ở các triều đại sau
đó. Phật giáo đã đóng góp trên nhiều lĩnh vực, như chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, tư
tưởng. Và truyền thống đó đã nối dài đến thời vua Tự Đức như thế nào? Câu hỏi này cần
được quan tâm luận giải.
Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam nói chung, thì đã được nhiều học giả quan tâm.
Những, vẫn chưa có công trình nào riêng biệt, nghiên cứu về Phật giáo thời Tự Đức. Những
câu hỏi đặt ra liên quan đến diện mạo, đặc điểm, vai trò của Phật giáo giai đoạn này là vấn
đề cần quan tâm luận giải. Vì vậy, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Phật giáo Việt Nam
thời Tự Đức (1848 – 1883)” làm luận văn thạc sĩ, trong chương trình đào tạo cao học
chuyên ngành Lịch sử Việt Nam tại Trường Đại học Sư phạm - Huế (2018).
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Những vấn đề xoay quanh chủ đề Phật giáo Việt Nam thời Tự Đức (1848 – 1883),
vốn được nhiều học giả quan tâm, tuy nhiên vẫn còn tảng mạn. Một trong những hoạt động
nghiên cứu sớm nhất về chủ đề này, là những bài nghiên cứu công bố trên tạp chí Những
người bạn cố đô Huế (B.A.V.H) hồi đầu thế kỷ XX. Như các bài Chùa Quốc Ân: ngài khai
sơn, các vị trụ trì (L. Cadière), Chùa Thiên Mẫu (A.Bonhome), Chùa Báo Quốc
1



(J.A.Laborde), Liệt kê đền miếu và các nơi thờ tự ở Huế (A.Sallet và Nguyễn Đình Hòe)
[74]... Qua những bài nghiên cứu này, Phật giáo Việt Nam bước đầu được khơi gợi, và
Phật giáo thời Tự Đức cũng theo đó được diễn giải phần nào.
Cùng trong khoảng đầu thế kỷ XX, tác giả Trần Trọng Kim cho ra đời tác phẩm
Phật Lục1 [30]. Sách gồm 109 trang, với sáu phân mục. Theo lời giới thiệu của tác giả thì
sách này chỉ nói về truyện nhà Phật chứ không phải là công trình nghiên cứu. Tuy vậy,
tham cứu sách này có phần ghi chép về Sự thờ phụng và cách bài trí các tượng trong chùa
(mục V), và phần Mấy cảnh chùa ở Bắc Kỳ (mục Phần phụ thêm). Hai phần này được trình
bày dài 38 trang, từ trang 72 đến trang 109, với cấu trúc nội dung gồm có kênh chữ, kênh
hình và sơ đồ. Thông qua đó, những giá trị lịch sử Phật giáo thời Nguyễn nói chung và thời
Tự Đức nói riêng, phần nào được trình bày bày. Những thông tin như vậy, có giá trị tư liệu
hữu ích cho luận văn này.
Về sau giới xuất sĩ cũng quan tâm xây dựng tư liệu lịch sử cho tôn giáo mình. Có
thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu như sau.
Năm 1943, nhà sư Mật Thể biên soạn cuốn Việt Nam Phật giáo sử lược2 [85]. Sách
gồm 247 trang với cấu trúc 2 phần, phần tự luận gồm 4 chương, từ trang 17 đến trang 62,
phần lịch sử gồm 10 chương, từ trang 63 đến trang 230. Trong đó, phần viết về lịch sử
Phật giáo Việt Nam thời Tự Đức (1848 – 1883), nằm trong khoảng chương 9, với tên gọi
Phật giáo trong thời kỳ cận đại (Triều Nguyễn). Phần này được trình bày từ trang 215 đến
trang 224 với hai vấn đề, một là các vị danh tăng triều Nguyễn và hai là hiện trạng suy
đồi. Qua đó, cho thấy tác giả có cái nhìn về một nền Phật giáo ở giai đoạn khủng hoảng.
Sách viết: “từ lúc vận nước thay đổi, Phật giáo cũng bắt đầu đình đốn và lần đến suy
đồi”[85, tr.215]. Tác giả nhìn nhận một sự thật rằng: “Phật giáo về thời này đã kém lắm

Hiện tại, chúng tôi chưa tra rõ năm xuất bản đầu tiên của cuốn sách Phật Lục. Bản sách dùng
trong luận văn này là ấn bản in lần thứ hai vào năm 1940, do Editions Le-Thang phát hành. Theo
thông tin ghi chép trong sách này thì cuốn sách có sự hỗ trợ của ông Nguyễn Thiện Thuật, nhân
vật này qua đời năm 1940. Cả hai vị này đều có đóng góp cho tạp chí Nam Phong, vậy nên, khả
năng thông tin về cuốn sách sẽ có ghi chép tại tạp chí này.
2

Tài liệu được sử dụng trong luận văn này là do nhà sách Minh Đức (Đà Nẵng) tái bản và phát
hành vào năm 1970.
1

2


rồi, nên các triều vua vẫn tín ngưỡng sùng phụng, làm chùa đúc tượng mà tinh thần Phật
giáo vẫn suy”[85, tr.222]. Đoạn tiếp, tác giả bàn về thực trạng của đạo Phật lúc này “từ
vua quan cho đến thứ dân, ai ai cũng an trí đạo Phật ở sự cúng cấp cầu đảo chứ không
biết gì khác nữa... Phần đông Tăng đồ chỉ nghĩ đến danh vọng, chức tước: xin bằng Tăng
Cang, Trú trì, Sắc tứ... Bởi vậy cảnh chùa trong nước đã thành những cảnh gia đình riêng,
không còn gì là tính cách đoàn thể của một tôn giáo nữa. Họ sống trong Phật giáo hầu
hết chỉ dốt và quên”[85, tr.223]... Có thể nói, cái nhìn mà tác giả đưa ra về nền tảng Phật
giáo lúc này là khá khắc khe và dễ dẫn đến bi quan. Những nhận định đó cần phải có quá
trình xét lại, gột rửa và như vậy mới tìm ra được toàn cảnh của bức tranh Phật giáo Việt
Nam lúc này.
Năm 1978, tác giả Nguyễn Lang cho ra đời tập 2 của bộ sách Việt Nam Phật giáo
sử luận3 [32] tại Pháp. Tập 1 của bộ sách này đã giải quyết những vấn đề của Phật giáo
đến hết thời nhà Trần. Và tập 2, tiếp nối từ đó cho đến hết thời nhà Nguyễn. Tập 2, được
tác giả trình bày trong 9 chương, từ chương 17 đến chương 25. Những vấn đề Phật giáo
Việt Nam thời Tự Đức (1848 – 1883), được trình bày lồng ghép trong phần các danh tăng
triều Nguyễn (chương XXV). Chương này gồm 23 vị danh tăng được trình bày, trong đó
có 4 vị hành đạo vào thời vua Tự Đức. Là các vị sau: Thiền Sư Liễu Triệt (? – 1882);
Thiền Sư Diệu Giác (1805 – 1895); Thiền Sư Giác Ngộ (năm 1842 trụ trì chùa Diệu Dế);
Thiền Sư Đạo Thông (xuất gia năm 1870).
Năm 2001, nhóm tác giả Thích Hải Ấn, Hà Xuân Liêm cho xuất bản sách Lịch sử
Phật giáo xứ Huế4 [3]. Trước đó, tác giả Hà Xuân Liêm cũng cho xuất bản tác phẩm với
tên gọi tương tự (2000). Bản sách viết riêng của tác giả Hà Xuân Liêm (2000) gồm 713
trang, bản sách viết chung gồm 872 trang (cùng khổ chuẩn A5). Nhóm tác giả nghiên cứu

về Lịch sử Phật giáo xứ Huế, trong điều kiện Huế vừa là trung tâm chính trị vừa là trung

Bộ sách Việt Nam Phật giáo sử luận của tác giả Nguyễn Lang đến nay (2018) gồm 4 cuốn. Tài
liệu được sử dụng trong luận văn này là sản phẩm trọn bộ (3 cuốn) được trình bày chung trong
một cuốn (2012). Cuốn số 4 hiện đang được lưu hành nội bộ tại nội viện thiền phái Làng Mai
(Pháp và Thái Lan).
4
Bản sách được sử dụng trong luận văn này là tái bản lần thứ 2 vào năm 2006.
3

3


tâm Phật giáo của cả nước. Qua đó, có thể phác họa được bức tranh Phật giáo thời nhà
Nguyễn và phần nào hiển lộ nội dung Phật giáo Việt Nam thời Tự Đức (1848 – 1883).
Phần lịch sử này được nhóm tác giả trình bày ở chương 3 với tên gọi Phật giáo Huế 1802
– 1945, từ trang 245 đến trang 435. Nội dung nhắc đến bối cảnh lịch sử, sự ngoại hộ của
hoàng triều cho sự phát triển Phật giáo, hệ thống chùa chiền, những vị cao tăng. Nhóm
tác giả đã đưa ra quan điểm về tình hình Phật giáo triều Tự Đức như sau: Vua Tự Đức
(1848 – 1883) lên ngôi, thực hiện một đường lối chuyên đoán, khép chặt, triều thần công
kích Phật giáo (1849), xin bỏ đạo Phật (1858) …[3, tr.256]. Hay việc, nhóm tác giả tỏ
lòng bất bình khi vua Tự Đức phong thần đối với các vị danh tăng thời trước. Qua quá
trình luận giải, nhóm tác giả đi đến kết luận: Phật giáo Huế (Việt Nam/ Triều Nguyễn) lúc
này “phát triển về chiều rộng mà suy giảm về chiều sâu. Phát triển về số lượng chùa chiền,
Tăng sĩ, nhưng suy giảm về mặt học lý”[3, tr.261]. Những quan điểm như vậy được chúng
tôi tiếp thu và chủ trương xét lại.
Ngoài những tác phẩm đi vào trực tiếp luận bàn về lịch sử Phật giáo (thời Tự Đức),
thì các tác phẩm khác bàn luận về tiểu sử của các vị xuất sĩ nổi danh. Qua đó, làm sáng tỏ
thêm phần lịch sử Phật giáo (thời Tự Đức). Có thể kể đến một số tác phẩm sau. Sách Thiền
sư Việt Nam [93]5, tác giả Thích Thanh Từ xuất bản năm 1972, có 5 vị thiền sư sống vào

thời vua Tự Đức. Sách Tiểu sử danh Tăng Việt Nam [7], xuất bản năm 1996, có hơn 30 vị
thiền sư hành đạo vào thời vua Tự Đức. Sách Chư tôn thiền đức và cư sĩ hữu công Phật
giáo Thuận Hóa [20], trong đó tập 1 xuất bản năm 2011, có hơn 30 vị thiền sư hành đạo
vào thời vua Tự Đức. Những tư liệu trên đây là cơ sở nghiên cứu bổ ích cho luận văn này.
Ngoài ra, còn có rất nhiều sản phẩm sử học về Phật giáo Việt Nam của giới nghiên
cứu sau này. Điều này dần dần lấp khoảng trống lịch sử Phật giáo Việt Nam thời Tự Đức
(1848 – 1883).
Năm 1988, nhóm nghiên cứu của Viện Triết học đã công bố cuốn Lịch sử Phật giáo
Việt Nam [87]. Trong đó, đề cập đến Phật giáo Việt Nam thời Nguyễn với tiêu đề là “Tình
hình Phật giáo trong thời kì Nho giáo độc tôn dưới triều Nguyễn” (chương 3). Nội dung

5

Bản sách dùng trong luận văn xuất bản năm 1999.

4


tập trung bàn về chính sách của các vị vua đầu triều Nguyễn đối với Phật giáo. Nhóm tác
giả đi đến nhận định: các vua Nguyễn thực hiện chính sách hạn chế Phật giáo, khiến cho
tình hình Phật giáo “trong một lúc nào đó có phần bị suy giảm, mất vị trí cao trong xã hội,
không được phát triển tràn lan, sư tăng không được coi trọng […] Tuy vậy, chính sách
hạn chế đó không thể ngăn chặn được sự phát triển liên tục của Phật giáo”[87, tr.355].
Năm 1993, nhóm tác giả Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự, Phạm Ngọc Long cho ra đời
tác phẩm Chùa Việt Nam [76], đến năm 2013 tác phẩm này được tái bản, sửa chữa và bổ
sung (lần in thứ 5). Sách tập trung giới thiệu 122 ngôi chùa tiêu biểu trên cả nước qua các
thời kỳ lịch sử. Riêng chùa vào thời Tự Đức thì chỉ có một trường hợp được xây dựng
mới trên nền cũ.
Bên cạnh những sản phẩm là sách báo, thì mảng đề tài này, đến nay còn có các công
trình nghiên cứu là luận án tiến sĩ.

Năm 2010, có luận án Chính sách tôn giáo thời Tự Đức (1848– 1883) của tác giả
Nguyễn Ngọc Quỳnh. Và sau đó, luận án này đã xuất bản thành sách [61]. Sách được trình
bày qua 4 chương, dày 363 trang, trong đó những vấn đề về chính sách và biểu hiện của
Phật giáo thời vua Tự Đức được tác giả lồng ghép với phần các tôn giáo truyền thống.
Chủ yếu được trình bày ở chương 2, từ trang 56 đến trang 144. Tại đây, ngoài vấn đề khai
thác được hệ thống tư liệu để phụ vụ cho nhận định của tác giả, thì tác giả còn cung cấp
cái nhìn đa chiều, mang tính đối sánh với các tôn giáo khác. Năm 2012, có luận án Chùa
sắc tứ ở xứ Huế [29] của tác giả Tạ Quốc Khánh. Luận án gồm 4 chương, trong đó, nội
dung liên quan đến Phật giáo thời Tự Đức được trình bày ở chương 2 và 3. Chương 2,
được trình bày từ trang 54 đến trang 91 với tên gọi Lược sử xây dựng, kiến trúc, đối tượng
thờ và di vật của chùa sắc tứ ở xứ Huế. Chương 3, được trình bày từ trang 92 đến trang
145 với tên gọi Các truyền phái và hoạt động tôn giáo của chùa sắc tú ở xứ Huế dưới thời
Nguyễn. Năm 2016, có luận án Phật giáo Việt Nam thời Minh Mạng (1820 – 1840) [57]
của tác giả Nguyễn Duy Phương. Tuy đề tài là khác về triều vua nhưng cùng triều đại nhà
Nguyễn, nên đề tài này là cơ sở tham chiếu để thực hiện luận văn này.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

5


Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Phật giáo Việt Nam thời Tự Đức (1847 – 1883).
Bao gồm những chính sách đối Phật giáo của triều đình Tự Đức, và những biểu hiện thực
tế của tình hình Phật giáo lúc bấy giờ.
Phạm vi nghiên cứu bao gồm các mặt không gian, thời gian, và chủ thể nghiên cứu.
Về không gian nghiên cứu của luận văn là rộng khắp cả nước, nhưng chú trọng ở các trung
tâm chính là Hà Nội, Thừa Thiên Huế và thành phố Hồ Chí Minh, trong đó trực tiếp nhất
là Huế (Kinh đô Phật giáo). Về mặt thời gian nghiên cứu của luận văn được tính theo niên
hiệu vua Tự Đức: từ năm 1848 đến năm 1883. Về mặt chủ thể của luận văn là phần Phật
giáo của người Việt (kinh), và bỏ qua phần Phật giáo của các cộng đồng tộc người khác.
4. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Mục tiêu là phác dựng lại bức tranh tổng quan về Phật giáo Việt Nam thời vua Tự
Đức trị vì, từ năm 1848 đến năm 1883. Từ đó, chỉ ra những đặc điểm, tính chất, vai trò của
Phật giáo trong đời sống xã hội lúc bấy giờ. Cũng như, rút những bài học lịch sử đóng góp
cho công cuộc xây dựng văn hóa dân tộc ngày nay.
Luận văn tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau:
- Trình bày và phân tích những điểm chính về bối cảnh đất nước đầu thế kỉ XIX. Đồng thời
điểm qua một vài thông tin về vua Tự Đức, cũng như nền tảng Phật giáo Việt Nam trước
thời Tự Đức.
- Trình bày và phân tích chính sách đối với Phật giáo của triều đình thời Tự Đức (1848 –
1883). Chủ yếu tập trung trên các phương diện về cơ sở thờ tự, người xuất sĩ và nếp sống
tôn giáo.
- Tái hiện một cách cơ bản tình hình Phật giáo Việt Nam thời Tự Đức (1848 – 1883).
5. PHƯƠNG PHÁP VÀ NGUỒN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
5.1 Những phương pháp nghiên cứu được sử dụng:
- Sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic: Đây là hai phương pháp cơ bản nhất
trong hoạt động nghiên cứu lịch sử. Qua đó, có thể khai thác hệ thống tư liệu bàn về Phật
giáo Việt Nam thời Tự Đức một cách hệ thống và đầy đủ. Nhằm phác dựng lại lịch sử phát
triển của Phật giáo thời Tự Đức (1848 – 1883).
- Sử dụng phương pháp so sánh cả ở góc độ lịch đại và đồng đại để có thể tìm ra những nét
6


nổi bật của Phật giáo lúc bấy giờ, lấy đó làm cơ sở để nhận định mức độ phát triển của Phật
giáo thời Tự Đức (1848 – 1883).
- Sử dụng phương pháp thống kê để định lượng những cơ sở tạo nên chỉnh thể của Phật
giáo đương thời (chùa, tượng, pháp khí, đại lễ…).
- Sử dụng phương pháp điền dã để khai thác các nguồn tư liệu truyền miệng cũng như các
tư liệu văn bản còn tản mạn trong dân gian. Đồng thời đây còn là quá trình đối chiếu, xác
minh các nguồn tư liệu có sẵn (là những sản phẩm nghiên cứu hoặc tư liệu gốc đã được
công bố).

5.2 Những nguồn tài liệu nghiên cứu được sử dụng:
Tài liệu được sử dụng để nghiên cứu là những tài liệu trình bày tại mục tài liệu tham
khảo. Bao gồm bốn nhóm tài liệu chính: tài liệu do triều đình biên soạn (1), tài liệu nghiên
cứu văn khắc Hán – Nôm trong dân gian (2), tài liệu nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt
Nam và các vùng lãnh thổ qua các thời kỳ (3), tài liệu nghiên cứu về lịch sử và văn hóa
Việt Nam qua các thời kỳ (4).
- Tài liệu do triều đình biên soạn (đã dịch ra chữ quốc ngữ) bao gồm:
Bộ Đại Nam thực lục (10 tập), do nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2007. Trong
đó, phần ghi chép về lịch sử triều Tự Đức là các tập 7 (dày 1570 trang, khổ B5 chuẩn) và
8 (dày 686 trang, khổ B5 chuẩn). Ngoài ra, để làm cơ sở đối chứng thì cần phải tham cứu
các chính sách đối với Phật giáo thời vua Gia Long (tập 1), thời vua Minh Mạng (tập
2,3,4,5), vua Thiệu Trị (tập 6).
Bộ Khâm đinh Đại Nam hội điển sự lệ (chính biên), bộ 10 tập, do nhà xuất bản
Thuận Hóa, xuất bản vào năm 2005. Trong đó, ghi chép những việc từ thời vua Gia Long
(1802) đến thời vua Tự Đức (1851). Năm 2004, Viện Sử học kết hợp cùng Trung tâm Bảo
tồn di tích Cố đô và nhà xuất bản Thuận Hóa, để tiến hành xuất bản bộ tục biên gồm 10
tập. Bộ này ghi chép những việc từ thời vua Tự Đức (1852) đến thời vua Duy Tân (1916).
Như vậy, để phục vụ luận văn này thì cần tham cứu đầy đủ cả bộ chính biên (thời Tự Đức
từ năm 1848 đến năm 1851) và bộ tục biên (thời Tự Đức từ năm 1852 đến năm 1883).
Bộ Hoàng Việt luật lệ, bộ 5 tập, do nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin xuất bản vào
năm 1994. Bộ luật này ra đời từ thời vua Gia Long (1802 – 1819), và là bộ luật áp dụng
7


cho cả triều đại nhà Nguyễn. Qua đó, đã có những quy định các phương thức ứng xử, nếp
sống văn hóa gắn liền với Phật giáo. Đây là cơ sở tham khảo không thể thiếu trong mảng
đề tài này.
Ngoài ra còn có tài liệu Châu bản, được tác giả Lý Kim Hoa biên tập và dịch thuật
thành một tác phẩm riêng biệt, trình bày về Tư liệu Phật giáo…
- Tài liệu nghiên cứu văn khắc Hán – Nôm trong dân gian (đã dịch ra chữ quốc ngữ)

bao gồm: Thư mục thác bản văn khắc Hán – Nôm Việt Nam, bộ 8 tập, do tổ hợp các viện:
Viện Cao Học Thực Hành, Viện Nghiên Cứu Hán Nôm, Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp,
xuất bản năm 2010. Bộ Tuyển dịch văn bia chùa Huế, gồm 2 tập, của dịch giả Lê Nguyễn
Lưu, do Tạp chí Nghiên Cứu và Phát Triển xuất bản năm 2017.
- Tài liệu nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt Nam và các vùng lãnh thổ qua các
thời kỳ: Gồm tác tác phẩm: Việt Nam Phật giáo sử luận (Nguyễn Lang), Lịch sử Phật giáo
Việt Nam (Lê Mạnh Thát), Việt Nam Phật giáo sử lược (Mật Thể), Tiểu sử danh Tăng Việt
Nam (Thích Đồng Bổn), Lịch sử Phật giáo xứ Huế (Thích Hải Ấn – Hà Xuân Liêm), Chính
sách tôn giáo thời Tự Đức (1848 – 1883) (Nguyễn Ngọc Quỳnh), Luận án Tiến sĩ – Chùa
sắc tứ ở xứ Huế (Tạ Quốc Khánh), Luận án Tiến sĩ - Phật giáo Việt Nam thời Minh Mạng
(1820 – 1840) (Nguyễn Duy Phương) ...
- Ngoài ra còn một số tài liệu khác nghiên cứu về lịch sử và văn hóa Việt Nam qua
các thời kỳ. Cũng như các bộ từ điển chuyên môn như: Phật quang đại từ điển xuất bản tại
Đài Loan. Cùng với hệ thống các bài viết công bố trên các tạp chí như Nghiên cứu tôn giáo,
Nghiên cứu và Phát triển, Thông báo Hán – Nôm học….
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Những đóng góp của luận văn bao gồm:
- Luân văn cung cấp hệ thống tư liệu về Phật giáo Việt Nam thời Tự Đức (1848 – 1883) có
giá trị về mặt sử liệu.
- Luận văn trình bày và phân tích những đặc điểm riêng biệt của Phật giáo thời Tự Đức,
đồng thời khẳng định vai trò của Phật giáo trong sự nghiệp phát triển văn hóa dân tộc thời
Tự Đức (1848 – 1883).
- Luận văn đưa ra cái nhìn mới về triều đình Tự Đức (1848 – 1883).
8


- Kết quả nghiên cứu của đề tài là một sản phẩm thành văn, là cơ sở tham khảo cho những
ai quan tâm về lĩnh vực này.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận văn được

chia làm 3 chương:
Chương 1, luận văn trình bày về một số vấn đề gắn liền với đề tài này. Như việc
nghiên cưu bối cảnh lịch sử để nắm rõ trạng thái tồn tại của xã hội lúc bấy và nó tác động
đến Phật giáo như thế nào. Nghiên cứu về vua Tự Đức để hiểu rõ tài đức của vị vua này
như thế nào, để liên hệ đến vận mệnh đất nước. Nghiên cứu về nền tảng Phật giáo từ quá
khứ (trước đó), để hiểu rõ truyền thống phát triển của Phật giáo và thực hiện phép so sánh
lịch đại. Ở chương này, cung cấp cái nhìn tổng quan về những vấn đề lịch sử liên quan đến
trạng thái tồn tại của Phật giáo vào thời vua Tự Đức.
Chương 2, luận văn trình bày về chính sách của triều đình Tự Đức đối với Phật giáo.
Chủ yếu khai thác trên ba phương diện cấu thành của Phật giáo là cơ sở thờ tự, giới xuất sĩ
và nếp sống đạo đức tôn giáo. Đó là cơ sở để phân tích và nhận định về chính sách phát
triển Phật giáo của triều đình Tự Đức. Đồng thời trình bày về các pháp phái tổ truyền trước
thời Tự Đức để thấy rõ được các tông phái và nếp tu của Phật giáo lúc này.
Chương 3, luận văn trình bày về các yếu tố biểu thị tình hình tồn tại của Phật giáo.
Như, hệ thống chùa chiền, hệ thống pháp truyền xuất sĩ, nghi lễ và nếp sống sinh hoạt của
thành phần xuất sĩ, nghệ thật Phật giáo.

9


Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ TỒN TẠI CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM
THỜI TỰ ĐỨC (1848 – 1883)
1.1. Sơ lược bối cảnh lịch sử từ năm 1802 đến năm 1883.
Năm 1802, Nguyễn Ánh, một đại diện tiếp nối của dòng họ Nguyễn (Gia Miêu), đã
thực hiện thành công sứ mệnh thống nhất đất nước. Lãnh thổ quốc gia giờ đây là một dãi
đất rộng lớn và theo đó là số dân đông chưa từng có trước đó. Nguyễn Ánh lên ngôi vua
lấy hiệu là Gia Long (嘉隆), với mong muốn thiết lập một quốc gia hưng thịnh. Nhà Nguyễn
đến năm 1883, đã truyền qua được bốn đời vua, gồm vua Gia Long (1802 – 1819), vua
Minh Mạng (1820 – 1840), vua Thiệu Trị (1841 – 1847), vua Tự Đức (1848 – 1883).

* Về chính trị
Nhà Nguyễn được thành lập và tiếp tục xây dựng mô hình nhà nước quân chủ chuyên
chế. Nho giáo lúc này vẫn là hệ tư tưởng chính thống của kiểu nhà nước quân chủ. Theo
đó, vua có quyền lực tối cao trên mọi phương diện. Các vua Nguyễn tập trung xây dựng bộ
máy hành chính nhà nước theo hướng tăng cường củng cố chế độ quân chủ trung ương tập
quyền. Tính tập quyền được hoàn thiện nhất, là từ sau cuộc cải cách hành chính của vua
Minh Mạng6. Nhìn chung, việc thiết lập bộ máy nhà nước quân chủ vào lúc này là tất yếu.
Lịch sử nước ta chưa tạo ra một loại hình tư tưởng mới thay thế cho ý thức hệ Nho giáo
vào lúc này. Ở Pháp, Napoléon lên năm quyền vào năm 1802, vẫn lựa chọn bộ máy quân
chủ chuyên chế. Sự khác biệt ở đây là nền chuyên chế tư sản.

Triều đình Nguyễn được tổ chức gồm 6 bộ, đứng đầu là Thượng thư, cùng các chức vị Tham tri
(tả - hữu) và Thị lang (tả - hữu). Để tránh việc phân tán quyền lực của nhà vua thì triều đình còn
đặt lệ “tứ bất” (không đặt chức Tể tướng, không lấy đỗ Trạng nguyên, không lập Hoàng hậu và
không ban tước Vương cho người ngoài Hoàng tộc). Bên cạnh đó là các tổ chức sự vụ như Đô Sát
viện, Hàn Lâm viện, Thái Y viện, Quốc Tử giám, Khâm Thiên giám, Nội Vụ phủ... Từ thời vua
Minh Mạng có thêm Cơ Mật viện (gồm 4 đại thần từ các bộ cùng nhà vua nghị sự), bãi bỏ các tổng
trấn Bắc Thành, Gia Định Thành. Năm 1832, vua Minh Mạng chia cả nước làm 29 tỉnh (sau lại
chia thêm thành 30 tỉnh). Đứng đầu là Tổng đốc (có khi Tổng đốc cai quản hai hoặc ba tỉnh), dưới
Tổng đốc có Bố chánh, Án sát. Ở phủ có Tri phủ, ở huyện có Tri huyện, ở châu có Tri châu. Miền
thượng du, nhà Nguyễn vẫn phải dựa vào các tù trưởng nhưng đặt thêm các quan của triều đình
gọi là Chiêu Thảo sứ, lại có thêm chức “Lưu quan” nhằm trực tiếp quản lý, giảm dần quyền hạn
của tù trưởng.
6

10


Ngoài ra, thế kỷ XIX, còn là cao trào của cuộc va chạm của hai nền văn minh phương
Đông và Tây. Khoảng những năm 30, các cuộc cách mạng công nghiệp đã bắt đầu lan rộng

khắp các nước châu Âu và Bắc Mỹ. Trong khi đó, vào lúc này dân tộc ta gần như không
có sự am hiểu về văn minh phương Tây. Vào khoảng thời gian cuối niên hiệu Tự Đức
(1848 – 1883), vị vua này đã có những xúc tiến để tiếp thu nền văn minh phương Tây,
nhưng gặp trở ngại vì sự cản trở của một bộ phận giáo sĩ tay sai. Việt Nam lúc này đã thực
sự trở thành con mồi của chủ nghĩa thực dân phương Tây, những nỗ lực muộn màng của
triều đình Tự Đức đã không vãn hồi được tình thế. Khả năng hội nhập Đông – Tây bằng
con đường hòa bình (dùng thương mại và tôn giáo) đã không tồn tại ở Việt Nam vào lúc
này, mà nó phải diễn ra bằng một cuộc biến động lớn (dùng vũ lực)7.
Nền chính trị lúc này còn mang đậm dấu ấn về vấn đề Công giáo. Tôn giáo này truyền
đến Việt Nam từ thế kỷ XVI. Là tôn giáo có nguồn gốc từ phương Tây với nhiều điều mới
mẽ so với các nước phương Đông, nên vừa truyền đến đã gặp không ít trở ngại về phong
hóa, quan niệm và cũng không thể tránh khỏi được sự xung đột niền tim. Các vua Nguyễn
vẫn chưa sẵn sàng đón nhận cái mới nên số phận của Công giáo lúc này phải chịu những
chính sách khắc khe. Chính vì vậy, Công giáo Việt Nam đã không kịp xây dựng tinh thần
dân tộc. Ngược lại, một số nhà truyền giáo nhân đó đã tiếp tay để những hoạt động thực
dân của phương Tây ngày một mạnh mẽ hơn, nó mang tính hệ thống và trở thành một xu
hướng tất yếu8. Tác phẩm “Thư của các giáo sĩ Thừa sai” (Nguyễn Minh Hoàng)[94] bạch
Lúc này sự hội nhập Đông – Tây tất yếu phải diễn ra cuộc xáo trộn lớn bởi vì sự cách biệt về văn
minh hai nữa địa cầu là quá lớn. Các nước phương Tây có tốc độ phát triển khá nhanh và tạo áp
lực lên các nước phương Đông. Ở phương Đông duy chỉ có hai nước là Thái Lan (1851 – 1868)
và Nhật Bản (1866 – 1869) là đủ tiềm lực thực hiện cuộc xúc tiến hội nhập Đông – Tây trong hòa
bình.
8
Trong các thế kỷ XV - XVI, thế mạnh truyền giáo thuộc về các giáo sĩ Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha với Dòng Augustin, Dòng Dominican, Dòng Franciscan, Dòng Jesuits,… Sang thế kỷ XVII,
phong trào truyền giáo ra vùng đất ngoại đã có thêm sự góp mặt của các dòng tu khác, trong đó
đáng chú ý là Hội Thừa sai Paris (MEP), ra đời năm 1663. Hội này xác định mục tiêu là dùng
phương thức truyền giáo phối hợp cùng các công ty thương mại (chủ yếu là Công ty Đông Ấn của
Pháp), để hỗ trợ cho công cuộc thực dân của Pháp. Những người giáo sĩ đã đến Việt Nam với dã
tâm như vậy nên việc hệ thống truyền giáo trở thành công cụ thực dân là điều tất yếu. Điều này trở

thành một hiện tượng phổ biến trong lịch sử thế giới cận đại. Các nước trong khu vực Đông Á, đến
những năm 50 của thế kỷ XIX đã là thuộc địa, như Philippin đã thuộc Tây Ban Nha, Malaysia đã
thuộc về Anh, Indonesia thuộc về Hà Lan, chỉ còn lại bốn nước cũng đang đứng trước nguy cơ bị
7

11


hóa nội dung 57 bức thư (bao gồm cả thể loại nhật ký và tường thuật) của các giáo sĩ Thừa
sai, chứng minh tính chất bạo động của một bộ phận giáo sĩ. Công bằng mà nói, thì trong
sự dính líu giữa bộ phận giáo sĩ và chủ nghĩa thực dân, có phần nào là trách nhiệm của các
triều vua Nguyễn.
* Về kinh tế
Hòa bình được lập lại là điều kiện để nền kinh tế đất nước có những bước tiến nhất
định. Nhìn chung, lúc này vẫn chủ yếu phát triển nền kinh tế nông nghiệp, kéo theo đó là
công nghiệp phụ cận cùng phát triển. Về thương nghiệp thì có sự phát triển nổi trội, các
triều vua Nguyễn thiếu những chính sách cởi mở như thời chúa Nguyễn.
Về nông nghiệp, xuất phát điểm của nền kinh tế nông nghiệp trong thế kỷ XIX là rất
thấp. Những năm đầu thời Gia Long, ở các trấn Hải Dương, Sơn Tây, Kinh Bắc, Sơn Nam
Thượng, Sơn Nam Hạ, Thái Nguyên, Hưng Hoá có trên 370 thôn phiêu tán, thóc tô của
nhà nước thiếu hơn 7 vạn hộc, tiền thuế thiếu 11 vạn quan [59, tr.53]. Trước tình hình đó,
triều đình đưa ra những chính sách để phát triển nông nghiệp: 1- Phát triển quỹ đất canh
tác bằng phương pháp khẩn hoang (doanh điền, đồn điền), quân điền; 2- Ổn định nguồn
lao động bằng cách khuyến khích mọi người trở về quê củ canh tác và nghiêm cấm việc bỏ
hoang ruộng đất; 3- Phát triển thủy lợi; 4- Phát triển hệ thống giao thông. Điều này còn kéo
theo sự phát triển của công - thương nghiệp trong chừng mực nhất định.
Năm 1839, triều đình đưa vào thí điểm chính sách “quân điền” tại Bình Định. Phương
pháp thực hiện là tịch thu một nửa số ruộng đất tư của nhà giàu làm ruộng đất công làng
xã để chia cho nông dân. Về cơ bản, đây là cách bình ổn sở hữu bất động sản trong quốc
dân, nếu thành công thì nó mang tính chất là một cuộc cải cách ruộng đất. Việc chia lại

ruộng đất tất yếu sẽ gây ra mâu thuẫn trong giới quý tộc. Triều đình chọn Bình Định để thí
điểm vừa mang tính tư thù, vừa để giảm tính đối kháng xã hội trong bộ phận quý tộc ở hai
miền. Ví như thời Hậu Lê, quá trình chia lại ruộng đất đã được thực hiện vào thời thời Hồ,
và như vậy những mâu thuẫn thượng tầng xã hội đã được chuyển hóa trước đó. Kết quả là
thôn tính là Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản và Thái Lan. Việt Nam đã có những nổ lực nhất
định để thoát khỏi quỹ đạo thực dân, nhưng cuối cùng cũng không thể thoát khỏi số phận thuộc
địa.

12


chính sách này phá sản tại đây, không thể áp dụng trên diện rộng.
Trong thực tế lịch sử trải qua các thời kỳ thì thời sau luôn có tính tư hữu phát triển
hơn so với trước. Đến thời Nguyễn, hiện tượng tư hữu về bất động sản là đúng theo nguyên
lý phát triển xã hội. Hiện tượng tư hữu gia tăng sẽ kéo theo sự phá vỡ quan hệ sản xuất cũ
và thiết lập quan sản xuất mới. Tư hữu sẽ diễn ra trên cơ sở bất động sản trước, đến lúc bão
hòa về loại hình tài sản này thì sinh ra động lực phát triển nền sản xuất xã hội. Tuy vậy,
buổi đầu phát triển tính tư hữu xã hội trên loại hình bất động sản thường gắn liền với áp
bức và bất công xã hội (vì đây không phải là một mẫu loại sản phẩm). Nhà Nguyễn đã có
những động thái để bảo vệ phương thức sản xuất cũ, cũng như giảm thiểu bất công xã hội
nhưng bất thành.
Về công - thương nghiệp, tuy có điều kiện để phát triển nhưng rất hạn chế. Có thể
thấy rằng là động lực phát triển kinh tế là do thương nghiệp mang lại vì nó là nút thắt giữa
cung và cầu. Thế nhưng, nền kinh tế nước ta vào thời Nguyễn là một nền kinh tế trọng về
nông nghiệp và chưa có ý thức phát triển thương nghiệp. Nhà Nguyễn, chủ trương “trọng
nông ức thương” và kéo theo đó là chính sách “bế quan toả cảng”, điều này khiến nền kinh
tế trở nên thiếu sức sống. Thực tế của sự phát triển vào lúc này chẳng qua là sự ổn định sau
một thời chiến tranh. Chuỗi giá trị phát triển vào lúc này là lấy nông nghiệp là trọng điểm
để giải quyết nhu yếu đời sống quốc dân và phát triển công nghiệp xoay quanh nhu cầu
phát triển nông nghiệp (có kèm theo nhu cầu chính trị, quân sự) và sản phẩm của nền

thương nghiệp lại quay trở lại nhu cầu nông nghiệp. Trên thực tế thì nhu cầu này là không
lớn, không đủ để tạo ra dòng chảy của hàng hóa.
Đất nước được thống nhất đã tạo ra một thị trường rộng lớn hơn trước, nhưng việc
mua bán cũng chỉ là kiểu thức buôn phường bán chợ. Năm 1834, khi phong trào nông dân
khởi nghĩa lan rộng, ở nhiều nơi, triều đình có lệnh cấm dân họp chợ [58, tr.25]. Nhìn
chung, nền nội thương tuy có sinh động, nhưng chưa đủ sức để phá vỡ cấu trúc kinh tế cũ
để bắt kịp thời đại. Thêm vào đó, nền ngoại thương bị hạn chế. Vào hai đời vua Gia Long
và Minh Mạng, nền ngoại thương vẫn còn đôi chút cởi mở. Nhưng đến hai đời vua sau, bắt
đầu khép chặc cánh cửa ngoại thương. Vì lý do an ninh, vua Thiệu Trị ra lệnh không cho

13


tàu thuyền nước ngoài cập cảng9. Về sau, triều đình Tự Đức tiếp tục chủ trương “đóng
cửa”, triều thần lo ngại việc mua bán với người nước ngoài sẽ dẫn đến bất lợi về an ninh10.
Vốn dĩ, các vua Nguyễn vẫn rất thận trong trong quan hệ với nước ngoài và đặc biệt là
Pháp. Thêm vào đó là việc “tàu Tây Dương gây hấn với tàu thủy quân nước ta, làm cho
quân sĩ bị chết, sinh ra thù hằn, oán giận trong dân chúng. Vì vậy mà từ chối việc mua
bán với họ, cũng để tránh bị dòm ngó” 11. Có thể nói, triều đình có chút lúng túng trong
việc nhìn nhận thực tiễn, từ đó đưa ra chính sách không thích ứng được với thời cuộc.
Vào những năm cuối thời Tự Đức, triều đình có sự điều hướng về chính sách để hòa
nhập với nền thương mại thế giới. Năm 1878, nhìn nhận lại giá trị của việc thông thương,
viện Cơ mật tâu rằng: “Việc thông thương là rất cần kíp vào lúc này. Tuy vậy, nước khác
làm thì dễ, còn nước ta làm thì khó. Vì nước ta từ trước cấm ra nước ngoài, thuyền buôn
không đi buôn xa, trong nước không có thuyền buôn ngoài đến, thế nên khó khăn cho
việc tái thiết lạp ngoại thương”12.
* Về văn hóa - xã hội
Nhà Nguyễn được thành lập trên một vùng lãnh thổ rộng lớn, với số dân đông. Và
những điều kiện quản trị quốc dân vẫn còn đang sơ khai, chưa đi vào quy củ. Vì vậy, lòng
người chưa thể một lúc đã quy về nhà Nguyễn. Trong thực tế lịch sử từ năm 1802 đến 1883

đã có khoảng 400 cuộc nổi dậy chống lại triều đình [58, tr.6]. Trong đó có nhiều nguyên
nhân dẫn đến sự xung đột: 1- Do lợi ích dòng họ, chủ yếu là dòng họ Nguyễn (Tây Sơn)
và dòng họ Lê. 2- Do tập tính xã hội, thời gian trước đó, đất nước vốn rơi vào cảnh tan tóc,
các thế lực tùy vào hoàng cảnh để gầy dựng lực lượng, đến thời đất nước thuộc về nhà
Nguyễn nhưng họ vẫn chưa thể cam tâm ngay được. 3- Do dân chúng gặp lúc đói khổ, cảnh
trần ai oán, đến lúc quan ép thì dân phản. 4- Đứng trước thế lực ngoại xâm, dân chúng
đứng dậy ra sức cứu nước. Dù xuất phát là nguyên nhân gì thì các cuộc nổi dậy đều bị triều
đình dẹp bỏ.

9

Cao Thế Dung (2005). Công giáo sử tân biên. Quyển III, Sdd, tr.1650. cq
Quốc sử quán triều Nguyễn (1963), Đại Nam thực lục chính biên, tập 27, Sđd, tr.118, 214.
11
Quốc sử quán triều Nguyễn (1963), Đại Nam thực lục chính biên, tập 27, Sđd, tr.117-118.
12
Quốc sử quán triều Nguyễn (1963), Đại Nam thực lục chính biên, tập 34, Sdd, tr.166.
10

14


Rõ ràng, việc tái thiết đất nước sau thời chiến là điều không hề dễ dàng, và nó đặc
biệt khó khăn khi những chủ nghĩa bạo lực di căn của thời chiến cộng hưởng cùng chủ
nghĩa bạo lực thực dân luôn thường trực.
Các vua Nguyễn đều rất coi trọng học vấn và khoa cử. Ngay từ đầu thời vua Minh
Mạng, triều đình đã cho lập Quốc Tử Giám, mở khoa thi Hương, thi Hội để đào tạo nhân
tài. Năm 1834, vua Minh Mạng cho ban hành bản Thánh dụ huấn địch thập điều quy định
chính sách giáo dục, văn hóa của chế độ. Đến năm 1870, vua Tự Đức đem phiên dịch ra
chữ Nôm và ấn hành với nhan đề Thánh huấn thập điều diễn nghĩa ca, để đưa vào sử dụng

rộng rãi trong quần chúng [15]13. Cùng với đó là những biện pháp cụ thể khác thúc đẩy nền
giáo dục nước nhà ngày một tiến bộ.
Ngoài nguyên nhân chính là thái độ thận trọng trong các quan hệ đối ngoại của triều
đình nhằm tránh sự dòm ngó của ngoại quốc, thì nạn ăn hối lộ trắng trợn của quan lại các
cấp cũng gây cản trở cho sự phát triển kinh tế. Có thể thấy phần nào tình trạng này qua mô
tả của John White: “Ta có thể kể một bản danh mục vô tận về các chức quan cấp dưới mà
bất cứ ai muốn thương lượng một công việc buôn bán nào ở xứ này đều phải đút lót cho
họ” [58, tr.27] và “Tính cách tham tàn, thất tín, chuyên chế và chống thương mại của nhà
cầm quyền đã biến xứ Đàng Trong thành một nơi ít được người ta ưa thích nhất. Những lý
do trên khiến người Nhật từ bỏ buôn bán, người Bồ ở Ma Cao cũng không đến đây nữa mà
chuyển việc buôn bán của họ sang những nơi khác” [58, tr.26-27]. Công nghiệp, thương
nghiệp đình đốn, do đó xã hội thiếu những tiền đề để có thể phát triển và tạo ra những
chuyển biến tiến bộ.
Như vậy, triều Nguyễn hình thành trong thời kỳ xung đột giữa hai nền văn minh
phương Đông và phương Tây diễn ra gay gắt. Mà trực tiếp nhất là xung đột niềm tin (vấn
đề Công giáo). Trong điều kiện đó, sự có mặt Phật giáo đã có những tác động nhất định để
có thể phục vụ công tác trị nước của vua Nguyễn. Song vào lúc này, khoảng trống mang

Thánh dụ huấn địch thập điều (Thánh huấn thập điều diễn nghĩa ca) được xem như là bản hiến
chương văn hóa, giáo dục thứ ba của Việt Nam, sau bản Nhị thập tứ huấn điều của vua Lê Thánh
Tông ban hành năm 1470 và bản Lê triều giáo hóa điều lệ (Tứ thập thất điều) của vua Lê Huyền
Tông tuyên đọc năm 1663, ban hành năm 1760.
13

15


tính thời đại là quá lớn, những thành tựu đạt được ở giai đoạn đầu triều không thể vãn hồi
được tình thế. Vậy nên, vua Tự Đức đã để mất nước vào tay Pháp.
1.2 Vài nét về thân thế và sự nghiệp vua Tự Đức (1829 – 1883)

Vua là con trai thứ hai của vua Thiệu Trị (Nguyễn Phúc Tuyền) mẹ là Hoàng hậu Từ
Dũ (Nguyễn Thị Hằng), vua sinh vào giờ Bính Tuất, ngày 25 tháng 8, năm Kỷ Sửu
(22.9.1829). Tên huý của vua là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, sau khi lên ngôi vua có thêm
tên gọi là Nguyễn Phúc Thì (tên trước đó dùng làm tên tự). Trước đó mẹ vua “chiêm bao
thấy một vị thần, mặc áo rộng thắt đai to, đầu râu, tóc bạc, mang một tờ giấy vàng viết chữ
son có đóng dấu ngọc và một chuỗi hạt minh châu trao cho” [70, tr.27]. Điều này đã ứng
với thời điểm vua sinh ra.
Từ nhỏ Hoàng tử đã tỏ ra ham học, có trí hơn người, được vua cha yêu quý, cho là
giống tính mình. Vì vậy Hoàng tử được nhiều đặc ân, năm 14 tuổi 14 (1842), được vua cha
dẫn đi Bắc làm lễ tuyên phong, năm sau thì được phong là Phúc Tuy Công. Bên cạnh đó,
Hoàng tử đã sớm được vua cha dày công dạy bảo. Trong lúc dạy bảo, khi vừa ý vua cha
nói rằng: “Cho ngươi vàng ngọc cũng không đủ quý, chi bằng thưởng cho ngươi một câu:
“vô thiểm sở sinh”, nghĩa là đừng để thẹn đến người sinh ra. Ngươi nên nhớ kỹ” [70,
tr.27]. Vua cha cũng thường hay khen tặng bằng thơ “có những câu như: “Phục ưng tức
mộc thừa chu huấn”, nghĩa là: ghi nhớ lời huấn từ khi nghỉ dưới gốc cây và khi đi thuyền15,
và câu: “Gia nhi tam thiện lệ lương châm”, nghĩa là trẻ nhà cố gắng học lấy bài châm hay
ba điều tốt16. Những điều đó là để gieo nên những ý nghĩ lớn lao cho con để có thể trở
thành người kế vị. Trong việc dạy con, vua cha còn có những lúc vui đùa cùng các con.
Như việc vua (Thiệu Trị) hỏi các con về ý nghĩa tên gọi của mình, đến lượt Hồng Nhậm (
洪任)

đáp “Hồng là nặng nề, to lớn, Nhậm là gánh vác”, vua cha cười nói “Gánh gì mà

Tuổi này được tính theo âm lịch.
Câu “Phục ưng tức mộc thừa chu huấn” có nguồn gốc từ câu chuyện vua Đường Thái tông dạy
Thái tử Tấn vương Trị về phép trị nước. Vua Đường phàm gặp vật gì cũng dạy bảo thái tử, như
thấy đi thuyền thì dạy rằng: “dân cũng như nước, nước có thể chở thuyền nổi lên, cũng có thể làm
đắm thuyền được”; khi nghỉ mát dưới gốc cây, thì dạy rằng: “cây gỗ xẻ theo giây mực thì thẳng,
vua nghe lời can thì nên bậc thánh” (Đường kỷ tăng bổ Liễu Phàm cương giám) [70:27].
16

Câu “Gia nhi tam thiện lệ lương châm” có nguồn gốc từ Kinh Lễ, đó là ba điều“thân người thân,
tôn vua, kính người hơn tuổi” [70:28].
14
15

16


nặng, gánh củi sao?”17 [24, tr.343]. Những biểu hiện đó cho thấy vua Thiệu Trị đã gửi
gắm trọng trách cho Hoàng tử Hồng Nhậm. Năm 19 tuổi (1847), Hoàng tử đươc vua cha
ban cho bộ sách Chí thiện đường thi văn hội tập và dạy rằng: “bộ sách này là ý chỉ của
Hoàng tổ ta để lại, tâm pháp và trị pháp đều ở trong đó con nên bắt chước” [24, tr.343].
Tháng 10 năm Đinh Mùi (1847) Hoàng tử kế vị ngai vàng. Vua được vua cha tán
thưởng là “người thông minh ham học, giống in như ta đáng nối nôi vua” [24, tr.343]. Đồng
thời, Vua còn được người đời dành nhiều lời lẽ tán dương. Như lời nhận định của Giám mục
Pellerin là: vua “thông minh và có khả năng hơn cả trong tất cả các hoàng tử của Thiệu Trị
[…] Ông là một thi sĩ và là một đại trí thức, người ta còn nói rằng ông có nhiều ý tưởng tốt”
[61, tr.47]. Hay Gabriel Aubaret nhận định rằng: vua có “dung mạo hết sức dễ mến, cái nhìn
sâu thẳm và không có chút giả dối […] giọng trầm, lời lẽ ôn tồn, rõ ràng và rất dễ hiểu”
[104, tr.197]. Tuy vậy, khi tự xét về mình Vua luôn thể hiện tâm trạng tự phán sâu sắc, vua
bàn rằng: “nói đến ngũ phúc thì trẫm đã thiếu mất ba điều là: thọ, phú và khang ninh; nói
đến lục cực thì trẫm chiếm đủ bốn điều là: tật, ưu, bần và nhược” [16, tr.92-95]. Vua thường
làm thơ văn tự phán, những nội dung ấy vua cho chép thành văn, khắc thành bia, để truyền
bá cho quốc dân (mưu cầu cứu quốc) và để nhận tội tổ tông (thể hiện sự bất lực).
Xuyên suốt trong thơ văn của vua Tự Đức là một sắc thái ảm đạm, có thể nói thế nước
lúc này đã vận vào cuộc đời lận đận của vua. Nhà vua dùng thơ văn để tự vấn, tự trách và
đồng thời là để cảnh tỉnh quan lại và dân chúng để cùng mưu sự cứu quốc. Thế nhưng tình
hình vẫn không thể khá hơn được, như lời dụ của vua (1878) đã nói rằng: “Mới đây trẫm đã
hạ hai tờ dụ để tự trách và tự biếm mình, song các quan to nhỏ trong ngoài vẫn làm lơ như
không nghe thấy, không cải tiến được chút nào, thực là nhẫn tâm quá lắm. Bởi thế mà hàng

trăm công việc vẫn cẩu thả rất nhiều. Biên cương thì chưa dẹp yên, triều đình vẫn còn nát bét,
các công việc lợi ích lớn lao không chịu dụng tâm nghĩ tới, chỉ bo bo những việc trên giấy tờ
và hội họp, chỉ một nhân viên làm cũng được xong, vậy mà tắc trách làm phiền, không hề tỉnh
giảm, còn làm rắc rối thêm ra. Động việc gì thì chê dèm lẫn nhau, bóc lột của nhau, lo được
lo mất riêng mình, lợi hay hại của công sao bằng lợi ích của tư, đảo lộn cả chính trị hình phạt

17

Vua nói lại theo lời dạy của sư phó.

17


cũng không nhìn tới, như vậy mà muốn cho chính trị hay, hình phạt ít, năm được mùa, dân vui
vẻ thì làm sao được?” [16, tr.128]. Triều đình Tự Đức cũng chủ động đề ra các đối sách
nhằm vãn hồi thế nước, cải thiện đời sống của quốc dân, kiềm chế sự hà lạm của quan lại
các cấp... song đều thất bại. Những nổ lực được tiến hành nhưng không đồng bộ và cương
quyết, vì vậy, hiệu quả gần như không có mà ngược lại còn tạo thế cho quan lại nhờn phép
nước. Vận nước từ đó mà ngày càng suy vong.
Lúc này những nhà cải cách ở Việt Nam đề xướng duy tân đất nước theo hướng học
tập các nước Phương Tây. Những bản điều trần được gửi đến chính quyền trung ương để
thảo luận những hành động cụ thể. Thế nhưng, triều đình Tự Đức lại tiếp nhận nó trong sự
hồ nghi, điều này có vẻ vượt xa sự hiểu biết của hệ thống quan lại thời bấy giờ. Vì vậy,
những biện pháp cải cách đã được tiến hành không theo một chiến lược nhất quán, mang
tính vội vàng, có lúc hoài nghi đi đến đình chỉ. Kết quả là dân tộc ta vẫn dậm chân tại chỗ
trong cả một thời gian dài, những thay đổi nhỏ giọt không đủ để đưa đất nước vượt qua sức
ép của thời đại.
Ngay sau việc thực hiện ký kết Hòa ước với Pháp, triều đình Tự Đức đã nghĩ đến
việc tranh thủ văn minh Pháp và phương Tây để tự cường dân tộc. Vua nói: “Nước ta
giao tiếp thấy nghe chưa rộng, nên bị người ta ngăn chế, ta vốn không muốn người ngoài

đến, cũng như người các nước muốn đến mà lại bị kẻ khác ngăn trở” [61, tr.51]. Để khắc
phục điều đó, năm Tự Đức thứ 19 (Bính Dần – 1866), vua phái Nguyễn Trường Tộ hướng
dẫn một phái đoàn sang Pháp mua các máy móc và sách vở, tài liệu dạy về khoa học.
Nhưng khi tàu cập bến Sài Gòn, các thiết bị mang về đã bị Giám mục Miche tịch thu [61,
tr.51]. Các mối quan hệ đối ngoại, cử người ra nước ngoài học tập của triều đình Huế
cũng bị thực dân Pháp cản trở và trách móc cho rằng đã vi phạm hòa ước. Những nỗ lực
đều gặp cản trở như vậy càng khiến bộ máy lãnh đạo đất nước càng rơi vào bế tắt.
Trong việc đối diện với thực dân Pháp, buổi đầu triều đình Tự Đức đã chủ trương
chống trả. Vua đã giáng chức, đổi chức đối với những quan lại dứng về phía chủ hoà. Sách
Đại Nam thực lục đã nhắc đến trường hợp là: “các quan ở quân thứ Gia Định lâu ngày
không có công trạng gì, lại chuyên chủ bàn hoà, không có kế tự cường gì cả. Bèn giáng :
Thống đốc Tôn Thất Cáp làm Thị lang, Tán lý Nguyễn Duy làm Lang trung, đều vẫn sung
18


chức cũ. Tham tán là Lê Tố giáng làm Vệ úy, đổi sung Tán lý” [70, tr.659]. Song thời thế
lại đẩy triều đình đi đến bàn đàm phán với Pháp. Vua than rằng: “gắng gượng theo mưu kế
của người lão thành, mất cả đất đai và dân chúng sáu tỉnh Nam Kỳ, để cầu cho khỏi việc
chiến tranh và được yên thiên hạ. Cơ nghiệp sáng lập giữ gìn hơn hai trăm năm, bỗng một
bỏ mất, thật là tội của tiểu tử này không thể nói xiết. Dù cho có làm được công đức cũng
không thể chuộc được tội lỗi” [16, tr.58]. Vị giáo sĩ Louvet nhận xét rằng: “từ lúc Việt Nam
ký tờ hòa ước với Pháp, Tự Đức không bao giờ mỉm cười. Năm 1862, tóc ông ta trở nên bạc
trắng mặc dù lúc ấy ông mới 33 tuổi” [25, tr.513-514]. Có thể nói, thế cuộc mà Việt Nam
váp phải là điều khó tránh, như Trịnh Vĩnh Thường đã bàn: “Trong quan hệ quốc tế phức
tạp ở thế kỷ XIX, bất kỳ một lựa chọn nào của Việt Nam cũng đều đưa đến sự đối diện với
sự xâm nhập của thực dân” [61, tr.54].
Có thể nói, sự thất bại của Việt Nam trước thực dân Pháp còn là sự thất bại của văn
minh phương Đông trước văn minh phương Tây. Vào thời kỳ cổ đại, văn minh phương Tây
nhờ đứng trên đôi vai của văn minh phương Đông để có sức bật vượt trội và quay ngược lại
để tương tác. Vậy nên nói, tình hình chính trị xã hội mà triều đình Tự Đức phải đối mặt là

giai đoạn lịch sử khó khăn nhất. Những nổ lực nhằm vẵn hồi thế nước của triều đình Tự Đức
đã không mang lại hiệu quả gì18.
Năm Tự Đức thứ 36 (Quý Mùi – 1883), nhà vua băng hà ở tuổi 55, kết thúc 36 năm
giữ ngôi. Vì lòng hổ thẹn nên vua di chiếu, “không nên đặt Tông hiệu, để làm gương cho
những quân nhân có lỗi muôn thuở về sau. Và cho trẫm được cùng với các bầy tôi có lỗi,
cùng chia sẻ tội tình, cùng chịu tủi nhục, ấy là chí hướng của trẫm” (bài dụ Tự chê trách)
[16, tr.59]. Về sau, vua vẫn được tôn xưng Tông hiệu (Miếu hiệu) là Dực Tông, Thụy hiệu
Tham khảo nhận định của học giả Yoshiharu Tsuboi về nguyên chính yếu dẫn đến sựthất bại của
vua Tự Đức: 1- Vì mất lòng dân: chủ yếu là do ông không thể có con và đã lên ngôi sau khi gạt bỏ
người anh. 2- Vì yếu kém về kinh tế: thương mại yếu kém và triều đình không kiểm soát được mạng
lưới ngoại thương. 3- Vì gánh nặng của di sản: sự xâm nhập và ảnh hưởng của thực dân Pháp do hậu
quả từ mối quan hệ của các triều vua trước, phần khác là sự chi phối về quyền lực của các vị đại
quan và sự không ủng hộ của văn thân. 4- Vì những khó khăn về chính trị: những chính sách của
nhà vua đã không dựa trên quyền lợi của đại bộ phận dân chúng, mặt khác tầng lớp văn thân sau
nhiều sự kiện chính trị cũng đã dần rời xa nhà vua. Những chính sách của đất nước, trong đó có tôn
giáo, đã được thực hiện trong tình thế không nhận được sự ủng hộ của hai lực lượng quan trọng này
[104, tr.332-338].
18

19


là Kế thiên, Hanh vận, Chí thành, Đạt hiếu, Thể kiện, Đôn nhân, Khiêm cung, Minh lược,
Duệ văn Anh hoàng đế.
1.3. Sơ lược tình hình Phật giáo Việt Nam trước thời Tự Đức
Tác giả Lê Mạnh Thát đã sử dụng tư liệu huyền sử từ tác phẩm Lĩnh Nam Chích Quái
để nhận định rằng: Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ khoảng thế kỷ thứ 3 trước
Công nguyên theo đường biển. Điều này có được là dựa vào hình tượng Chử Đồng Tử (thời
Hùng Vương thứ 3) theo học đạo của một nhà sư Ấn Độ tên là Phật Quang. Nó có lý khi
Luy Lâu (tên gọi thời đô hộ của một vùng đất tại Bắc Ninh ngày nay) đã sớm trở thành

trung tâm Phật giáo của nước ta từ những năm 111 TCN. Những thông tin trên đây góp
phần minh chứng cho truyền thống sâu dày của Phật giáo Việt Nam, và sự có mặt đó đã
diễn ra trước thời kỳ Bắc thuộc.
Truyền thống như vậy đã ăn sâu trong tâm thức của người Việt Nam và truyền thừa
đời này qua đời khác, ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội. Cho đến nay Phật giáo
đã đồng hành cùng đât nước và trải qua biết bao thăng trầm để xứng đáng là chỗ dựa tinh
thần của dân tộc. Hệ ý thức Phật giáo có lúc xông xáo đi đầu cổ vũ cho hoạt động trị nước
an dân qua nhiều thời đại. Và đây chính là cơ sở để hình thành nên chính sách tôn giáo cho
từng chặng đường lịch sử.
1.3.1 Sơ lược Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVI
Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVI, tương ứng với các triều đại Ngô,
Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu Lê, Mạc. Phật giáo lúc này phát triển dựa trên nền tảng
các tông phái như Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, Yên Tử và Trúc
Lâm. Thời gian này còn có sự góp mặt của thiền phái Lâm Tế từ Trung Quốc truyền sang.
* Trên bình diện tông phái
Tỳ Ni Đa Lưu Chi, là vị xuất sĩ người Ấn Độ, năm 562 thì du hành đến Trung Quốc,
tại đây, thiền sư đắc pháp với Tổ Tăng Xán. Tháng 3 năm 580, thiền sư đến Việt Nam ở
lại chùa Pháp Vân (Long Biên), được 14 năm thì rời khỏi. Thiền phái mang tên của thiền
sư truyền đến thế kỷ X, cũng vừa trong 10 đời. Nổi danh gồm có các vị thiền sư như La
Quý An (mất năm 936), Pháp Thuận (mất năm 991). Các thế tiếp theo như, Thiền Ông,
Sùng Phạm, Vạn Hạnh, Định Tuệ, Đạo Hạnh…Thiền phái này gần như chỉ chịu ảnh hưởng
20


của nền Phật giáo Ấn Độ. Tư tưởng bắt nguồn từ kinh Bát Nhã, Tam Luận, Hoa Nghiêm.
Phép tu là thiền - mật song tu, nhưng chủ về Mật giáo. Thiền phái còn có xu hướng nhập
thế, giúp dân. Thiền phái này truyền được sáu thế kỷ thì đứt đoạn.
Vô Ngôn Thông, là vị xuất sĩ người Trung Quốc, đắc pháp với thiền sư Bách Trượng,
theo con đường đại thừa, đề cao thuyết đốn ngộ. Vị thiền sư này đốn ngộ khi nghe thiền
sư Bách Trượng dạy: “Mặt đất của tâm nếu không bị ngăn che thì mặt trời trí tuệ tự nhiên

chiếu đến” [32, tr.122]. Phép tu của thiền phái này là sự cộng hưởng từ ba yếu tố thiền tịnh - mật, trong đó, chủ về Thiền tông. Năm 820, vị thiền sư này đến Việt Nam truyền
đạo. Những vị đệ tử nổi danh từ thế kỷ X, thuộc thế hệ thứ 3 của dòng truyền này, như
Thiện Hội (mất năm 900), Vân Phong (mất năm 959). Các thế hệ kế tiếp như Khuông
Việt, Đa Bảo, Định Hương, Thiền Lão, Thông Biện, Thường Chiếu…Đến đầu thế kỷ XIII,
thiền phái này bị đứt đoạn.
Thảo Đường, là vị xuất sĩ người Trung Quốc, đang thời hành đạo tại Chiêm Thành
(1069), gặp chiến loạn và bị quân nhà Lý bắt làm tù binh. Tại Đại Việt, vị thiền sư này
được phân công làm phục dịch cho một vị tăng lục. Dần dà tên tuổi của thiền sư được hiển
lộ, và được vua Lý Thánh Tông mời làm quốc sư. Từ đó, hình thành thiền phái Thảo
Đường, có trung tâm tại chùa Khai Quốc (Thăng Long). Thiền phái này chủ trương dung
hợp Phật giáo và Nho giáo, theo truyền thống của phái Tuyết Đậu bên Trung Quốc và
chịu ảnh hưởng hai thiền phái trước là Tì Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Phép tu của
thiền phái này là kết hợp ba yếu tố thiền - tịnh - mật. Các vị xuất sĩ nỗi danh gồm có, Bát
Nhã, Không Lộ, Phạm Âm, Đỗ Đô… Thiền phái truyền được sáu đời thì đứt đoạn.
Đầu thế kỷ XIII, các tông phái trên dần sáp nhập vào nhau với vai trò của thiền sư
Thường Chiếu. Đệ tử của vị thiền sư này là thiền sư Hiện Quang 19 đã khai sơn phái Yên
Tử. Từ đây, Phật giáo thống nhất dưới ngọn cờ Yên Tử. Và đặc biệt, là từ khi vua Trần
Nhân Tông xuất gia đầu Phật, nối pháp đời thứ 6 của thiền phái Yên Tử, lấy hiệu là Trúc
Lâm20. Mở ra một thời đại Phật giáo nhập thế thống nhất dưới ngọn cờ thiền phái Trúc
Thiền sư Hiện Quan còn có bổn sư khác, hiện chưa xác định được danh tính.
Trần Nhân Tông, trước lấy hiệu là Hương Vân, sau mới đổi thành Trúc Lâm. Pháp hiệu này
trùng với pháp hiệu của tổ thứ hai dòng truyền Yên Tử, nhưng ông vẫn quyết lấy theo. Có thể, ông
19
20

21


Lâm. Từ nay gọi là thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Phép tu của thiền phái này vẫn là sự kết
hợp của thiền - tịnh - mật, nhưng chủ về thiền (tiếp hiện), thường nghe pháp ngữ rằng,

“hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền”.
Thời gian này còn có sự góp mặt của thiền phái Lâm Tế. Tư tưởng tu học như, “vô
tâm” và “mê ngộ không hai”, cùng với những nguyên tắc Tứ Liệu Giản, Tam Cú, Tam
Huyền, Tam Yếu, Tứ Chiếu Dụng và Tứ Tân Chủ. Phương pháp tu là dung tiếng thét và
tiếng gậy đánh.
Phật giáo tính đến cuối thời Trần đã trở nên suy vi. Cũng có thể nói là “thịnh quá
hóa suy”. Nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái: Một là, tinh thần nhập thế cao độ gây nên
sự lung lạc trong giới xuất sĩ; Hai là, do sự biến đổi tình hình chính trị đất nước; Ba là, tư
tưởng Nho giáo dần được khởi sinh trở lại và đối kháng với tư tưởng Phật giáo. Tư tưởng
của Nho giáo và Phật giáo không tự trở nên đối kháng được mà do ý thức của người dùng
trong mục đích đối kháng. Vì Phật giáo vốn suy đồi, nên nho sĩ mới lên tiếng phê bình.
* Trên bình diện chính trị
Bước qua thế kỷ thứ X, dân tộc ta lấy lại được nền độc lập tự chủ, và điều này đưa
đến yêu cầu cần có một loại hình tư tưởng lãnh đạo quốc gia trong buổi đầu độc lập. Tư
tưởng Phật giáo đã nhanh chóng được các nhà quân chủ tiếp nhận. Trước đó, Phật giáo
thì góp phần giữ gìn và tôn tạo cho cội nguồn và bản sắc văn hóa Việt Nam trong thời kỳ
Bắc thuộc (1). Trong khoảng thời gian này, Phật giáo nằm trong hệ thống tam giáo đồng
nguyên, và luôn chiếm ưu thế chủ đạo (2). Cùng trong hệ thống đồng nguyên, Nho giáo
là công cụ của thế lực đô hộ dùng để thống trị người dân Việt. Vì vậy, ngay sau thời kỳ
độc lập tự chủ Phật giáo được dùng để đối kháng hệ tư tưởng Nho giáo (3). Những yêu
cầu như vậy đã thúc đẩy việc xác lập vai trò chính trị của Phật giáo.
Các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần đều dùng Phật giáo vào công cuộc trị
nước, thống nhất tinh thần, liên kết cộng đồng Quốc gia. Lúc này trí thức tôn giáo, là
thành phần xã hội có uy tín nhất thời bấy giờ, để cố vấn các vấn đề chính trị, xã hội, ngoại
giao, quân sự. Vua Đinh Tiên Hoàng là vị vua đầu tiên định phẩm cho giới xuất sĩ Phật
có tham vọng dùng tiếng tăm hoàng tộc của ông để quy ngưỡn lòng người thống nhất thiền phái
Trúc Lâm do ông sáng lập và thiền phái Yên Tử do ông nối pháp.

22



giáo. Năm 971, vua phong Thiền sư Ngô Chân Lưu làm Tăng thống, là vị trí đứng đầu
thống lãnh giới xuất sĩ Phật giáo trong cả nước. Thiền sư Trương Ma Ni được phong làm
Tăng lục, các thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh đều làm cố vấn chính trị, ngoại giao...
Những cống hiến của họ được chính sử ghi danh với công trạng gầy dựng nền độc lập ban
đầu. Vào thời Lý, hệ thống quan chức Phật giáo từ trước được giữ nguyên (gồm có các
chức Tăng thống và Tăng lục), đến năm 1088, thì đặt thêm chức quan Đề cử, dùng để
quản lý ruộng đất nhà chùa. Một số nhà sư có uy tín lớn được nhà vua phong làm Quốc
sư, như: Thiền sư Thông Biện ( ? – 1134), Viên Thông (1080 – 1151), Minh Không (1099
– 1174)...
Vào khoảng nửa cuối thế kỷ XI, nền giáo dục nước nhà đã có sự chuyển biến lớn.
Trước đó, chủ yếu là dựa vào nền giáo dục Phật giáo vừa đào tạo người tu hành, vừa đào
tạo người tham gia quản lý đất nước. Đến năm 1070, Lý Thánh Tông cho xây dựng Văn
Miếu ở Kinh đô Thăng Long. Năm 1075, nhà nước mở khoa thi Minh kinh (thi Tiến sĩ)
đầu tiên. Từ đó, Nho giáo từng bước phát triển trong cả môi trường cung đình và dân gian.
Sang thời nhà Trần vẫn tiếp tục hoạt động giáo dục theo lệ cũ của nhà Lý. Năm 1227
triều đình mở khoa thi Tam giáo, năm 1232 mở khoa thi Thái học sinh, từ đó các kỳ thi
được mở 7 năm một lần, nội dung thi thường là các sách của Nho gia. Năm 1243 nhà
nước trùng tu Quốc Tử Giám, đến năm 1253 lập Quốc Học viện, đắp tượng Khổng Tử,
Chu Công và Á thánh, vẽ tranh 72 hiền triết để thờ cúng. Từ đây, giới xuất sĩ không còn
tham chính nữa, chỉ duy trì các chức vị về Phật giáo như Tăng thống, Tăng lục, Tăng chánh
và Đại hiền quan, để phục vụ công tác tôn giáo (đơn thuần).
Các chính thể quân chủ cũng quan tâm việc khắc in Đại Tạng Kinh, làm cơ sở tu học
cho giới xuất sĩ vào thời gian này. Thời Tiền Lê, năm 1007, triều đình cử sứ bộ sang nhà
Tống thỉnh Đại Tạng Kinh đến năm 1009 mới trở về. Thời Lý, triều đình đã hai lần tổ chức
đoàn sứ thần sang nhà Tống thỉnh Đại Tạng Kinh vào các năm 1018 và 1089. Thời Trần,
năm 1295, triều đình cử sứ thần sang nhà Nguyên thỉnh Đại Tạng Kinh, đến năm 1319
thì khắc in. Điều này cho thấy các triều đại đều dụng tâm phát triển Phật giáo, cũng là xây
dựng nền tảng tư tưởng cho dân tộc.
Sau thời kỳ dài phát triển liên tục, nền tảng Phật giáo trở nên rối loạn. Người đi tu là

23


để trục lợi nhiều hơn là để giải thoát, tìm sự bình yên hơn là tập hạnh. Sự phát triển của
Phật giáo lúc này gần như quá mức, và ít nhiều đã gây ra tình trạng mất cân bằng cho xã
hội và sự lệch lạc nhất định đối với Phật giáo. Xã hội nước ta lúc bấy giờ đều tỏ ra hâm mộ
đạo Phật, như lời của vua Lê Thánh Tông rằng: “Đạo của Thánh hiền (Nho giáo) đều thiết
dụng trong cuộc sống thường ngày mà lòng ham thích của người ta lại chẳng bằng Phật
Lão” [57, tr.29]. Những giải pháp nhằm ổn định lại Phật giáo dần được tính đến:
Năm 1381 vua Trần Phế Đế đã lệnh bắt những tăng sĩ không có độ điệp sung vào
quân đội.
Nhà Hồ, tiếp tục thực hiện giảm bớt số lượng xuất sĩ, những ai chưa đến 50 tuổi thì
buộc phải hoàn tục (1396).
Thời Hậu Lê, triều đình đặt lệ thi tăng nhân, những vị xuất sĩ trên 50 tuổi và thông
hiểu giáo lý mới được công nhận, những người không đạt đều bắt hoàn tục (Lê Thái Tổ).
Triều đình cấm quan lại, nhân dân không được xây thêm chùa quán mới, chủ yếu là trùng
tu một số chùa tháp cũ. Năm 1471, Lê Thánh Tông đặt Ty Tăng lục và Đạo lục nhằm quy
củ hoạt động của giới xuất sĩ [57, tr.29].
Nhà Mạc, không những không khắt khe, mà còn bằng những con đường chính thức
và phi chính thức, nhà Mạc đã thúc đẩy và tạo điều kiện cho Phật giáo hết sức hưng thịnh.
Nghiên cứu 147 văn bia thời Mạc, có đến 102 trường hợp chùa được trùng tu, xây dựng
hoặc đúc chuông, tô tượng, cúng ruộng, tiền dưới triều Mạc. Trong đó, có 31 trường hợp
chính do quý tộc nhà Mạc đứng ra xây dựng, trùng tu hoặc cung tiến để trùng tu, xây dựng.
Và có 10 trường hợp do quan lại nhà Mạc đứng ra chủ trương, tổ chức việc trùng tu, xây
dựng hoặc cung tiến gia tư, tiền bạc [4].
Như vậy, Phật giáo đã đồng hành cùng dân tộc, trải qua 7 thế kỷ, với nhiều mối thăng
trầm. Từ thế kỷ X, là nền tảng tinh thần Phật giáo nhập thế, đến khoảng cuối thế kỷ XIII,
Phật giáo chuyển sang nền tảng tinh thần xuất thế. Trong 7 thế kỷ, đã có 4 thiền phái xuất
hiện và hướng đến thống nhất thành một nền Phật giáo thống nhất. Bên cạnh đó, Phật giáo
thời này còn chịu ảnh hưởng của thiền phái Lâm Tế.

1.3.2 Sơ lược Phật giáo Việt Nam trong hai thế kỷ XVII và XVIII
Lịch sử Việt Nam trong hai thế kỷ XVII và XVIII, đất nước chia thành hai Đàng, lấy
24


sông Gianh làm ranh giới. Tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh làm chủ vùng đất Đàng Ngoài,
và phong kiến họ Nguyễn làm chủ vùng đất Đàng Trong. Giai đoạn, từ giữa thế kỷ XVIII,
mở ra các cuộc chiến tranh thống nhất đất nước. Họ Nguyễn (Tây Sơn) lên nắm quyền, tuy
làm chủ toàn bộ đất nước, nhưng các anh em Tây Sơn lại tiếp tục phân liệt. Về phần Phật
giáo, lúc này là dựa trên nền tảng của các tông phái cũ, ngoài ra còn có hai tông phái mới
truyền là thiền phái Tào Động và thiền phái Lâm Tế. Các thiền phái cũ có xu hướng sáp
nhập vào thiền phái mới này. Phép tu lúc này là sự kết hợp bởi ba yếu tố thiền - tịnh - mật.
* Ở Đàng Ngoài
Phật giáo ở thế kỷ XVII, là tiếp nối truyền thống thiền phái Trúc Lâm. Thiền phái này
vốn đã suy vi từ cuối đời Trần và kéo dài đến thời thiền sư Chân Nguyên (1646 – 1726)
mới được phục hưng. Vị thiền sư này là vốn thuộc đời thứ 36 của thiền phái Lâm Tế, đệ tử
của Hòa thượng bổn sư Minh Hành. Về sau, thiền sư Chân Nguyên tu hạnh đầu đà theo
truyền thống Trúc Lâm, và được truyền thừa y bát Trúc Lâm. Điều này cũng minh chứng
cho truyền thống sâu dày của thiền phái Lâm Tế tại Đàng Ngoài.
Truyền thống thiền Lâm Tế, vốn xuất hiện từ rất sớm. Phật giáo thời Trần đã chịu ảnh
hưởng của thiền phái này. Nhưng, hệ thống truyền thừa đến nay vẫn chưa được rõ ràng.
Đến thế kỷ XVII, thiền Lâm Tế một lần nữa được truyền đến Đàng Ngoài. Năm 1633, thiền
sư Chuyết Chuyết cùng đệ tử, từ Đàng Trong ra đến Thăng Long. Thiền Lâm Tế đêm đến
sức sống cho nền Phật giáo vào lúc này.
Phật giáo Đàng Ngoài lúc này còn có thiền phái Tào Động. Năm 1664, thiền sư Thủy
Nguyệt (1636 – 1704), người Hải Dương sang Trung Quốc học đạo, ba năm sau thì về lại.
Thiền phái này rất thịnh hành trong hai thế kỷ XVII và XVIII. Thế nhưng, hiện tại chưa
khảo cứu được hệ thống truyền thừa của tông phái.
* Ở Đàng Trong
Các chúa Nguyễn đến ở đất xứ Đàng Trong cũng tất yếu mang theo nền tảng Phật

giáo từ Đàng Ngoài. Hiện tại, chưa thể khẳng định được truyền thống Phật giáo mà các
chúa Nguyễn mang theo là gì. Nhưng phỏng đoán, cũng chỉ có hai thiền phái ở Đàng Ngoài
vào lúc này, là thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và thiền phái Lâm Tế. Chúa Nguyễn hết lòng
hâm mộ Phật giáo, họ xem Phật giáo như là chỗ dựa tinh thần cho việc lập quốc an dân
25


×