ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN ĐĂNG TRUYỀN
NHÂN DÂN LỆ THỦY (QUẢNG BÌNH)
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC
TỪ 1965 ĐẾN 1973
LUẬN VĂN THẠC SĨ SỬ HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60220313
Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN VĂN HOA
Thừa Thiên Huế, năm 2016
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và
kết quả nghiên cứu đã nêu trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho
phép sử dụng, và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Huế, tháng 10 năm 2016
Tác giả luận văn
Nguyễn Đăng Truyền
ii
LỜI CẢM ƠN!
Để hoàn thành luận văn này chúng tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn đến tập
thể và cá nhân sau:
- Ban giám hiệu, phòng Đào tạo sau đại học - trường Đại học sư phạm Huế
- Quý thầy cô giảng dạy bộ môn lịch sử trường Đại học sư phạm và trường
Đại học khoa học Huế
- Các cô, các bác là nhân chứng lịch sử tham gia hoạt động ở Lệ Thủy
- Trung tâm lưu trữ tỉnh Quảng Bình, Báo Quảng Bình, Ban Tuyên giáo
huyện Lệ Thủy, Ban chỉ huy huyện đội Lệ Thủy, Văn phòng Ủy ban nhân dân huyện
Lệ Thủy
- Bác Đỗ Trung Tuân, bác Cao Minh Phán, thầy giáo Nguyễn Khắc Thái,
thầy giáo Nguyễn Việt Anh, đã cung cấp nhiều tư liệu quý
- Gia đình và bạn bè cùng anh chị em đồng nghiệp
Đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ, động viên truyền đạt tri thức cho tôi
trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Đặc biệt, xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc thầy giáo TS. Nguyễn Văn
Hoa giảng viên bộ môn Lịch sử Việt Nam - Trường ĐHSP Huế, người trực tiếp
giảng dạy, hướng dẫn truyền đạt niềm đam mê nghiên cứu lịch sử dân tộc cho tôi.
Mặc dù đã rất cố gắng song do năng lực còn hạn chế, kinh nghiệm nghiên
cứu chưa nhiều nên luận văn chắc sẽ còn khiếm khuyết, rất mong sự góp ý chân tình
của quý thầy cô và bè bạn để luận văn ngày một tốt hơn.
Tác giả luận văn
Nguyễn Đăng Truyền
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................... 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 7
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................ 7
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................. 8
7. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 8
Chương 1: NHÂN DÂN LỆ THỦY TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ,
CỨU NƯỚC GIAI ĐOẠN 1965 - 1968 ................................................................... 9
1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và truyền thống yêu nước
của nhân dân Lệ Thủy ..................................................................................... 9
1.1.1. Điều kiện tự nhiên ....................................................................................9
1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội .......................................................................11
1.1.3. Truyền thống yêu nước ..........................................................................13
1.2. Đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc
và chủ trương của Đảng ................................................................................. 17
1.2.1. Đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc ..................17
1.2.2. Chủ trương của Đảng .............................................................................20
1.3. Quân dân Lệ Thủy xây dựng và bảo vệ hậu phương,
ra sức chi viện cho tiền tuyến miền Nam ..................................................... 22
1.3.1. Trên lĩnh vực xây dựng ..........................................................................22
1.3.2. Trên lĩnh vực bảo vệ ...............................................................................32
1.3.3. Hoạt động chi viện .................................................................................34
Chương 2: NHÂN DÂN LỆ THỦY TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ,
CỨU NƯỚC GIAI ĐOẠN 1969 - 1973 ................................................................. 37
2.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng .............................................37
2.1.1. Bối cảnh lịch sử ......................................................................................37
2.1.2. Chủ trương của Đảng .............................................................................38
2.2. Quân dân Lệ Thủy đẩy mạnh xây dựng và bảo vệ hậu phương,
1
tăng cường chi viện cho tiền tuyến miền Nam ............................................. 42
2.2.1. Trên lĩnh vực xây dựng ..........................................................................42
2.2.2. Trên lĩnh vực bảo vệ ...............................................................................51
2.2.3. Hoạt động chi viện .................................................................................53
Chương 3: VAI TRÒ CỦA LỆ THỦY TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
TỪ 1965 ĐẾN 1973 VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM...........................................56
3.1. Vai trò ....................................................................................................... 56
3.1.1. Đối với tỉnh Quảng Bình ........................................................................56
3.1.2. Đối với miền Bắc....................................................................................59
3.1.3. Đối với miền Nam ..................................................................................63
3.2. Bài học kinh nghiệm ................................................................................ 66
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 83
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 92
2
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Theo Hiệp định Genève năm 1954, nước Việt Nam tạm thời bị chia làm hai
miền, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới quân sự tạm thời. Miền Bắc Việt Nam được
hoàn toàn giải phóng, nhân dân miền Bắc ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh,
khôi phục kinh tế, thúc đẩy sự phát triển toàn diện cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, an
ninh, quốc phòng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động
Việt Nam (9-1960), Đảng chủ trương đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, xây
dựng miền Bắc thành căn cứ địa cách mạng của cả nước. Cùng với nhân dân miền
Bắc, nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình bắt tay vào việc thực hiện kế hoạch
5 năm (1961-1965), phát triển kinh tế - xã hội và làm nhiệm vụ hậu phương.
Trong khi đó, bị thất bại nặng nề trên chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ đã
dựng nên “sự kiện vịnh Bắc Bộ” ngày 5-8-1964 và bắt đầu cho máy bay ném bom
bắn phá một vài nơi ở miền Bắc như cửa sông Gianh (Quảng Bình), Vinh - Bến
Thủy (Nghệ An)... Tiếp đó, lấy cớ trả đũa việc quân Giải phóng miền Nam tiến
công sân bay và doanh trại Mỹ ở Pleiku, ngày 7-2-1965 Tổng thống Mỹ Johnson ra
lệnh mở chiến dịch “Mũi lao lửa I”, chính thức gây ra cuộc chiến tranh bằng không
quân và hải quân phá hoại miền Bắc. Đặc biệt ở Quảng Bình, đế quốc Mỹ đã chọn
Lệ Thủy, nơi tiếp giáp với Vĩnh Linh để đánh phá liên tục, ác liệt ngay từ đầu với
những đợt ném bom xuống xã Ngư Thủy, Sen Thủy ngày 8-2-1965; đến ngày 13-21965 thì đánh phá Hạ Cờ, Chấp Lễ; và ngày 14-2-1965, tàu biệt kích địch tiếp tục
bắn phá vào Ngư Thủy.
Trong hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ từ năm 1965 đến năm
1973, nhân dân huyện Lệ Thủy nói riêng và tỉnh Quảng Bình nói chung đã anh dũng
chiến đấu và nỗ lực sản xuất, đạt được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ vùng đất, góp phần làm nên thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong
sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thắng lợi đó chính là sự kết tinh của
chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của con người Việt Nam anh dũng và thông minh,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm tháng chiến tranh đã đi qua, song những bài học kinh nghiệm của nó để
lại vẫn mãi mãi có giá trị đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
3
Có thể xem huyện Lệ Thủy là bức tranh tiêu biểu của một địa phương chống chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc nước ta. Quá trình sản xuất, chiến đấu
cũng như những đóng góp của quân và dân Lệ Thủy có vị trí rất quan trọng, song
hiện nay việc nghiên cứu vấn đề này còn ở một mức độ nhất định, chưa làm nổi bật
được quá trình chiến đấu và xây dựng của dân huyện Lệ Thủy trong thời gian đế
quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại (1965-1973).
Sinh ra ở vùng đất Lệ Thủy, ngay từ thời niên thiếu tôi đã được nghe kể đến
nhiều chiến công của quê hương, lớn lên được học tập, tiếp xúc với nhiều nhân
chứng lịch sử, từ đó hình thành nên ý thức tìm hiểu về lịch sử của vùng đất mà mình
được sinh ra, đặc biệt là những năm tháng quê hương kháng chiến chống đế quốc
Mỹ. Qua một quá trình tìm hiểu, tôi quyết định chọn đề tài: “Nhân dân Lệ Thủy
(Quảng Bình) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ 1965 đến 1973” làm
luận văn tốt nghiệp của mình.
Về ý nghĩa khoa học, đề tài góp phần nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn lịch
sử huyện Lệ Thủy nói riêng và tỉnh Quảng Bình nói chung thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ; nhận thức có hệ thống hơn quá trình xây dựng, chiến đấu và chi viện của
quân và dân Lệ Thủy từ năm 1965 đến năm 1973; trên cơ sở đó, thấy được vai trò
của Lệ Thủy đối với Quảng Bình và đối với miền Bắc nói riêng, cả nước nói chung
trong những năm ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Về ý nghĩa thực tiễn, đề tài góp phần nâng cao bài giảng lịch sử địa phương ở
các nhà trường phổ thông ở Lệ Thủy, là tài liệu tham khảo đối với các nhà nghiên
cứu lịch sử huyện Lệ Thủy thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Mặc khác, kết
quả nghiên cứu của đề tài còn là tài liệu góp phần vào việc giáo dục truyền thống
yêu nước và cách mạng đối với nhân dân địa phương, nhất là đối với thế hệ trẻ,
những thế hệ được sinh ra và lớn lên trong hòa bình thấy được những chiến công
của cha ông mình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, để không chỉ biết tự hào mà
còn ra sức cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước hiện
nay.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Liên quan đến đề tài có một số công trình, sách báo, tạp chí, tiêu biểu như:
“Lịch sử Quảng Bình chống Mỹ cứu nước 1954-1975”, xuất bản năm 1994,
dưới sự chỉ đạo biên soạn của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh
4
Quảng Bình. Công trình đã trình bày có hệ thống quá trình kháng chiến chống đế
quốc Mỹ của nhân dân Quảng Bình, trong đó thể hiện được phần nào vai trò của
quân và dân huyện Lệ Thủy từ năm 1965 đến năm 1973.
Năm 1999, Ban Thường vụ Huyện ủy và Bộ Chỉ huy quân sự huyện Lệ Thủy
cho xuất bản cuốn “Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân Lệ Thủy” tập 1 (19451995). Đây là công trình được biên soạn công phu, phản ánh có hệ thống quá trình
hình thành, củng cố và phát triển của lực lượng vũ trang nhân dân huyện Lệ Thủy từ
sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1995. Riêng trong
những năm 1965-1973, công trình đã làm nổi bật vai trò của lực lượng vũ trang
huyện trong chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất và lần thứ hai của đế
quốc Mỹ.
Đặc biệt, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Lệ Thủy trong năm 2000 đã cho xuất
bản cuốn “Lịch sử Đảng bộ huyện Lệ Thủy”, tập 2 (1954-1975). Đây là công trình
biên soạn có hệ thống, tái hiện khá chi tiết quá trình khôi phục kinh tế, hàn gắn vết
thương chiến tranh, cũng như quá trình vừa sản xuất vừa chiến đấu của quân và dân
Lệ Thủy thời kỳ cùng cả tỉnh và cả nước kháng chiến chống Mỹ, trong đó, những
năm từ 1965 đến 1973 đã được đề cập khá cụ thể.
Ở một khía cạnh khác, vào năm 2007, nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn đã cho
xuất bản cuốn “Lệ Thủy quê tôi” của tác giả Lê Văn Khuyên. Cuốn sách là sự sưu
tầm, chắt lọc tư liệu một cách khá tỉ mỉ, phong phú về các yếu tố tự nhiên, con
người và truyền thống tốt đẹp của huyện Lệ Thủy, tất cả đã góp phần làm nên chiến
thắng trước kẻ thù xâm lược cũng như những thành tựu trong công cuộc xây dựng
quê hương, đất nước.
Năm 2010, nhà xuất bản Văn hóa Thông tin cho xuất bản cuốn “Địa chí huyện
Lệ Thủy”. Đây là công trình cung cấp nhiều nguồn tư liệu quý giá về lịch sử, văn
hóa, truyền thống, phong tục tập quán của người dân Lệ Thủy, trong đó đã làm nổi
bật sức mạnh, ý chí của con người Lệ Thủy qua các thời kỳ lịch sử, đặc biệt là trong
những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975.
Với công trình “Lịch sử Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện Lệ Thủy 19302008” của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện Lệ Thủy xuất bản năm 2013,
người đọc đã có được những thông tin quan trọng về quá trình xây dựng và trưởng
thành của tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện Lệ Thủy trong hai cuộc kháng
5
chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội thời bình, đổi mới đất nước. Công trình cũng đã làm nổi bật vai trò của các tổ
chức, đoàn thể, tầng lớp nhân dân trong những năm Lệ Thủy trực tiếp chiến đấu
chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
Các công trình trên đây viết về Quảng Bình nói chung và Lệ Thủy nói riêng
trong những năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đều tập trung làm rõ
vai trò lãnh đạo của Đảng, những bài học kinh nghiệm trong chiến đấu và sản xuất
của quân và dân Lệ Thủy, nhưng chưa có công trình nào đi sâu, làm rõ quá trình 8
năm (từ 1965 đến 1973) nhân dân Lệ Thủy vừa sản xuất vừa chiến đấu, đồng thời ra
sức chi viện cho cách mạng miền Nam.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là tái hiện một cách có hệ thống và toàn
diện về sự nghiệp xây dựng kết hợp với bảo vệ và nỗ lực chi viện của quân và dân
Lệ Thủy trong thời kỳ cùng cả tỉnh Quảng Bình và cả nước kháng chiến chống Mỹ,
tập trung trong những năm từ 1965 đến 1973. Trên cơ sở làm rõ những thành tựu
trong chiến đấu và sản xuất của nhân dân Lệ Thủy, luận văn nêu bật vai trò của Lệ
Thủy đối với Quảng Bình, miền Bắc và cả nước; qua đó, đúc rút những bài học kinh
nghiệm để không chỉ nhận thức toàn diện hơn lịch sử 8 năm (1965-1973) của Lệ
Thủy mà còn có ý nghĩa đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Sưu tầm và hệ thống hóa tư liệu về quá trình quân và dân Lệ Thủy vừa sản
xuất vừa chiến đấu và ra sức chi viện từ năm 1965 đến năm 1973.
- Trình bày điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và truyền thống yêu nước của
nhân dân Lệ Thủy, đặc biệt là bối cảnh lịch sử khi đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến
tranh phá hoại trên phạm vi tỉnh Quảng Bình nói chung và huyện Lệ Thủy nói riêng.
- Phân tích, làm rõ âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ trong giai đoạn 19651968 và 1969-1973, khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại ở miền Bắc;
trình bày chủ trương của Trung ương Đảng, của Đảng bộ Quảng Bình, nhất là chủ
trương của Đảng bộ Lệ Thủy trong mỗi giai đoạn nói trên.
- Tái hiện quá trình quân và dân Lệ Thủy vừa sản xuất vừa chiến đấu, đồng
thời ra sức chi viện cho cách mạng miền Nam trong những năm từ 1965 đến 1973.
6
- Trên cơ sở giải quyết các nhiệm vụ trên, luận văn nêu bật vai trò của huyện
Lệ Thủy và đúc rút một số bài học kinh nghiệm từ thực tiễn xây dựng, chiến đấu và
chi viện của quân và dân trong huyện thời kỳ 1965-1973.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhân dân Lệ Thủy trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1965
đến năm 1973.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Địa bàn huyện Lệ Thủy thời kỳ chống chiến tranh phá hoại
của đế quốc Mỹ với 22 xã: An Thủy, Liên Thủy, Xuân Thủy, Phong Thủy, Lộc
Thủy, Mai Thủy, Trường Thủy, Phú Thủy, Sơn Thủy, Hoa Thủy, Hồng Thủy,
Thanh Thủy, Cam Thủy, Hưng Thủy, Sen Thủy, Ngư Thủy, Tân Thủy, Thái Thủy,
Mỹ Thủy, Dương Thủy, Kim Thủy, Ngân Thủy - tương đương với địa bàn huyện Lệ
Thủy hiện nay. Tuy nhiên đề tài cũng có đề cập đến một số khu vực lân cận như
Vĩnh Linh, huyện Quảng Ninh để làm rõ mối quan hệ của nó.
- Về thời gian: Tập trung nghiên cứu từ năm 1965 đến năm 1973 với hai giai
đoạn tương đương với hai lần đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại.
5. NGUỒN TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Nguồn tư liệu
- Các văn kiện của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Đảng bộ
tỉnh Quảng Bình và Đảng bộ huyện Lệ Thủy.
- Các công trình nghiên cứu, sách đã xuất bản liên quan trực tiếp đến đề tài
luận văn.
- Các tài liệu lưu trữ của Trung tâm lưu trữ Quảng Bình, Ban Tuyên giáo Lệ
Thủy, Văn phòng Huyện ủy và Ban Chỉ huy Huyện đội Lệ Thủy.
- Thông tin từ các nhân chứng và khảo sát điền dã.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác
nhau và kết hợp các phương pháp ấy trên cơ sở phương pháp luận sử học mác - xít:
phương pháp lịch sử và logic, phương pháp khảo sát điền dã, phương pháp đối
chiếu, so sánh, phân tích và tổng hợp.
7
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Thứ nhất, làm rõ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân huyện
Lệ Thủy từ năm 1965 đến năm 1973, qua đó thấy được vai trò của nhân dân Lệ
Thủy ở hai giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến.
- Thứ hai, góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử huyện Lệ Thủy nói riêng và
tỉnh Quảng Bình nói chung thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
- Thứ ba, đóng góp thiết thực vào việc giảng dạy lịch sử địa phương ở các nhà
trường phổ thông trên địa bàn huyện Lệ Thủy.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Nhân dân Lệ Thủy trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai
đoạn 1965-1968.
Chương 2: Nhân dân Lệ Thủy trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai
đoạn 1969-1973.
Chương 3: Vai trò của Lệ Thủy trong kháng chiến chống Mỹ từ 1965 đến
1973 và bài học kinh nghiệm.
8
Chương 1
NHÂN DÂN LỆ THỦY TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC GIAI ĐOẠN 1965 - 1968
1.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ TRUYỀN THỐNG
YÊU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN LỆ THỦY
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Huyện Lệ Thủy ở vào eo đất hẹp của lãnh thổ Việt Nam thuộc tỉnh Quảng
Bình, có tọa độ 160 55’ đến 170 22’ độ vĩ Bắc, 1060 25’ đến 1060 59’ độ kinh Đông
[5, tr. 17], phía Bắc giáp với huyện Quảng Ninh, phía Nam giáp khu Vĩnh Linh,
phía Đông giáp với Biển Đông, phía Tây giáp với tỉnh Khăm Muộn của Lào.
Diện tích tự nhiên phần đất liền của Lệ Thủy rộng 127.600 ha, có địa hình bề
mặt thấp dần từ Tây sang Đông, từ Nam ra Bắc với tổ chức hành chính gồm 22 xã:
An Thủy, Liên Thủy, Xuân Thủy, Phong Thủy, Lộc Thủy, Mai Thủy, Trường Thủy,
Phú Thủy, Sơn Thủy, Hoa Thủy, Hồng Thủy, Thanh Thủy, Cam Thủy, Hưng Thủy,
Sen Thủy, Ngư Thủy, Tân Thủy, Thái Thủy, Mỹ Thủy, Dương Thủy, Kim Thủy,
Ngân Thủy.
Địa hình gồm vùng núi cao và vùng đồi trung du, vùng đồng bằng ven biển,
vùng dẫn cát nội đồng ven biển trong đó vùng đồi núi trung du chiếm 70% diện tích
toàn huyện. Núi rừng rậm rạp có nhiều loại gỗ quý như lim, gụ, táu, sến, trắc, dạ
hương và nhiều loại thú quý. Đặc sản dưới tán rừng khá đa dạng phong phú có giá
trị kinh tế cao như trầm hương, mây, và các loại dược liệu quý hiếm, có ngọn núi
cao nhất 1.250 m. Lòng núi chứa những khoáng sản quý như vàng sa khoáng ở Khe
Vàng, đá ốp lát ở Khe Giữa, Vít Thù Lù, đồng, chì, kẽm ở khu vực An Mã, đặc biệt
ở đây có nguồn suối khoáng Bang với nhiệt độ sôi 1050C; vùng đồi trung du có
nhiều đồi lô nhô dạng bát úp có rất nhiều cây tràm, cây chổi là nguyên liệu cho các
sản phẩm tinh dầu, dược liệu, cây muồng, cây đốt xen lẫn cây lá muôn hoa và đồi
cỏ rất thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi trâu, bò, dê; vùng đồng bằng ven biển
mặt rộng có nơi thấp hơn mặt nước biển, đất đai phì nhiêu, dân cư đông đúc, làng
thôn trù phú, là vùng sản xuất lương thực chủ yếu của huyện đây cũng là vùng trọng
điểm lương thực của tỉnh, có vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội.
Cuối hạ lưu sông Kiến Giang có phá Hạc Hải rộng 600 - 700 ha là nơi cung cấp
9
nguồn lợi sản vật phong phú; vùng dãi đất cát đồng nội ven biển hầu hết diện tích
bờ mặt là cát trắng thành bãi, thành đồi nối nhau hình lượn sóng. Đặc điểm đất cát ở
đây ít chua, ít màu, nghèo dinh dưỡng. Do ảnh hưởng của gió kết hợp với địa hình
dốc và dòng chạy của nước từ các đụm cát làm xuất hiện hiện tượng cát bay, cát
chảy, cát di động gây ra nhiều thiệt hại cho sản xuất, giao thông và cư trú. Đất cát
chủ yếu sử dụng vào đất lâm nghiệp.
Về khí hậu, thủy văn, huyện Lệ Thủy nằm trong vành đai khí hậu gió mùa
chịu ảnh hưởng của khí hậu chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Nam của nước ta,
với đặc trưng của khí hậu nhiệt đới điển hình của miền Nam và có một mùa đông
lạnh ở miền Bắc. “Khí hậu chia làm hai mùa rõ rệt: mùa mưa kèm theo bão lụt từ
tháng 9 đến tháng 12, lượng mưa trung bình 2.400 - 2.500mm/ năm, vì thế bảo lụt
thường diễn ra trên diện rộng” [5, tr. 20]. Trung bình cứ 10 năm thì có 9 năm có bão
lụt lớn; mùa khô có gió Tây Nam thổi rất nóng trong các tháng giữa hè. Mùa khô
thường kéo dài từ tháng 1 đến tháng 8, trùng với mùa nắng gay gắt có gió nên lượng
nước bốc hơi lớn gây ra hạn hán nghiêm trọng.
Từ những vấn đề đã nói ở trên, có thể thấy một số thuận lợi và khó khăn do tác
động của yếu tố tự nhiên khi quân và dân Lệ Thủy bước vào cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước.
Về thuận lợi:
- Với địa hình vùng núi cao và vùng đồi trung du chiếm 72% diện tích cùng
với vùng rừng núi rậm rạp, địa bàn Lệ Thủy sẽ phù hợp với lối đánh du kích của ta
nếu địch đổ bộ đất liền, đồng thời gây khó khăn cho địch trong việc phát hiện các
mục tiêu của ta.
- Hệ thống đồi cát ven biển được phủ bởi hệ thống cây dương, tràm, bạch đàn
dày đặc, các quả đồi thấp cao khác nhau tạo thuận lợi cho chúng ta bố trí các trận
địa pháo mặt đất, pháo phòng không, để tiêu diệt máy bay và tàu chiến hải quân
Mỹ, trong đó có việc xây dựng đại đội nữ pháo binh Ngư Thủy sau này.
- Vùng đồi trung du có rất nhiều cây cỏ tạo điều kiện tốt cho việc chăn nuôi
trâu bò, đảm bảo sức kéo cho sản xuất nông nghiệp.
- Phần đất vùng đồng bằng với sông Kiến Giang kéo dài mang đến nhiều tôm
cá, sản vật đồng thời cung cấp nước tưới tiêu cho hệ thống đồng ruộng của vùng
An, Phong, Lộc tạo nên những cánh đồng phù sa màu mỡ để phát triển nông nghiệp.
10
- Khí hậu thất thường, nắng nóng gay gắt, có thể gây khó khăn cho kẻ thù khi
chúng tìm cách đánh trên bộ.
Về khó khăn:
- Giáp với Vĩnh Linh - nơi khu giới tuyến tạm thời, Lệ Thủy được xem như
tuyến đầu của hậu phương miền Bắc và là hậu phương trực tiếp của Trị - Thiên nên
nơi đây là một trong những địa điểm địch sẽ đánh phá ác liệt nhằm chặt đứt nguồn
chi viện của miền Bắc vào miền Nam.
- Trên địa bàn huyện có hệ thống đường giao thông huyết mạch đi qua vùng
đất hẹp: đường sông, đường số 1, đường 15A, đường tỉnh lộ 16, đường 10 nên địch
thường tập trung đánh phá.
- Khí hậu Lệ Thủy khắc nghiệt, hạn hán thường xuyên xảy ra, đời sống nhân
dân hết sức khó khăn.
- Địa hình chủ yếu của Lệ Thủy là đồi núi, đồng bằng lại nhỏ hẹp, ảnh hưởng
bất lợi đến sản xuất của nông dân.
1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Dân cư Lệ Thủy chủ yếu là người Kinh (Việt) với 98,58%, còn lại là một số
thành phần dân tộc ít người.
Dân số huyện Lệ Thủy tại thời điểm năm 1960 là 55.305 người, hầu hết sinh
sống ở nông thôn. Ngành nghề chủ yếu của huyện là nông nghiệp, chiếm 94% khu
vực sản xuất.
Về kinh tế, thấu suốt quan điểm của đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (91960) và nghị quyết của đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI, nghị quyết của Tỉnh ủy
Quảng Bình đầu năm 1961 và nghị quyết đại hội lần thứ V của đảng bộ huyện,
huyện Lệ Thủy đã kịp thời đề ra các chủ trương, giải pháp nhằm thực hiện nhiệm vụ
chính trị, đẩy mạnh việc hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nâng cao khả
năng kinh tế, phát triển văn hóa xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, tăng cường
tiềm lực quốc phòng an ninh, đồng thời nâng cao tinh thần chiến đấu của các tổ
chức đảng [6, tr. 82]. Vào năm 1961, nhân dân Lệ Thủy tập trung vào các nhiệm vụ
trọng tâm là: đi đôi với củng cố và phát triển phong trào hợp tác xã, tăng cường
quan hệ sản xuất mới, phải ra sức đẩy mạnh sản xuất trọng tâm là sản xuất nông
nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, trên cơ sở cải tiến kỹ thuật nhằm bảo đảm
tự túc lương thực, cải tiến một bước đời sống nhân dân, phục vụ cho sự nghiệp công
11
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, đó là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất trong năm 1961,
bên cạnh đó là các nhiệm vụ quan trọng khác về phát triển công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, văn hóa, giáo dục, y tế, chăm lo đời sống nhân dân, tăng cường công
tác quốc phòng, an ninh.
Đánh giá tình hình chung của huyện trong năm 1961, nghị quyết Huyện ủy
nêu rõ: “Tình hình phong trào của huyện ta trong năm qua có nhiều tiến bộ về mọi
mặt mà thắng lợi căn bản có tính chất quyết định nhất là đã hoàn thành công cuộc
cải tạo xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là hoàn thành hợp tác xã bậc cao và quy mô toàn
thôn với hơn 99,7% hộ nông dân tham gia” [6, tr. 82]. Phong trào thi đua tiếp tục
phát triển, đến tháng 3-1964 Lệ Thủy hưởng ứng và thực hiện lời kêu gọi của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: “Mỗi người làm việc bằng hai, để đền đáp cho đồng bào miền
Nam ruột thịt”. Vâng lời Bác nhân dân trong huyện đã tạo nên một phong trào thi
đua hoàn thành nhiệm vụ trong các nghành, các cấp, các giới, làm việc có năng suất,
chất lượng nhất là trên mặt trận nông nghiệp.
Thủ công nghiệp, sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp còn nhỏ bé. Sản
xuất tiểu thủ công nghiệp ban đầu có sự phát triển như nông trường Lệ Ninh, xí
nghiệp cơ khí Kiến Giang, xí nghiệp xay xát lương thực, hợp tác xã gạch ngói
Quyết Tâm. “Ở nhiều vùng có hợp tác xã mộc, cưa, may, lò rèn. Nhiều mặt hàng
được sản xuất như thuốc lá, cói, chè, gai, lạc... Nhìn chung do nhận thức hạn chế và
trong hoàn cảnh chung nền công nghiệp còn khó khăn về vốn đầu tư và kỹ thuật nên
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chưa đáp ứng được nhu cầu kinh tế” [6, tr. 102].
Về văn hóa xã hội, Lệ Thủy đã từng bước vươn lên theo mục tiêu, tinh thần
Nghị quyết đại hội đại biểu Đảng bộ đề ra, tiêu biểu có phong trào thi đua trong
ngành giáo dục “dạy tốt, học tốt”, phong trào đã được cấp ủy, chính quyền địa
phương quan tâm vật chất lẫn tinh thần, nhân dân ủng hộ. Vai trò của người thầy
được đề cao trong xã hội. Năm học 1964-1965 bình quân trong huyện có 4 người
dân thì có một người đi học, hệ thống trường lớp cơ bản được đáp ứng, học sinh
phấn khởi học tập.
Về y tế, mạng lưới y tế chăm sóc sức, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân được xây
dựng từ huyện đến xã, thôn. Huyện đã chú trọng bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp,
tinh thần phục vụ nhân dân cho cán bộ, nhân viên y tế, phát động phong trào vệ sinh
cho tất cả mọi người nội dung chủ yếu là “ba sạch, bốn diệt”, kết hợp thường xuyên
12
công tác tiêm chủng. Cuối năm 1964 bệnh xá Lệ Thủy được nâng cấp lên thành
bệnh viện huyện. Từ đó, bệnh viện có điều kiện hơn trong khám chữa bệnh cho
nhân dân. Y tế các xã vùng sâu vùng xa như Kim Thủy, Ngân Thủy, Thái Thủy, Sen
Thủy, Ngư Thủy được cán bộ của nghành đến theo dõi, chăm sóc sức khỏe nhân
dân.
Dưới ánh sáng Nghị quyết đại hội III của Đảng, Nghị quyết Đại hội đảng bộ
huyện lần thứ V, từ năm 1961-1964, được sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Quảng Bình,
Đảng bộ huyện Lệ Thủy đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ, phấn đấu thực hiện kế
hoạch năm năm lần thứ nhất, bước đầu tạo được sự chuyển biến về nhiều mặt kinh
tế - xã hội. Quân và dân Lệ Thủy đã giành được những thắng lợi to lớn trên mặt trận
sản xuất nông nghiệp; xây dựng được ngọn cờ Đại Phong, cơ sở vật chất kỹ thuật
được xây dựng một bước, quan hệ sản xuất mới được củng cố trong toàn huyện.
Những nhân tố tích cực đó đã đưa Lệ Thủy trở thành một huyện ổn định chính
trị, kinh tế - xã hội phát triển, an ninh quốc phòng được củng cố để sẵn sàng bước
vào một cuộc chiến đấu mới đầy thử thách, hy sinh gian khổ nhưng tin tưởng sẽ
giành được những thắng lợi to lớn.
1.1.3. Truyền thống yêu nước
Lệ Thủy từng là vùng đất biên viễn dưới các triều đại phong kiến Việt Nam,
do đó trong suốt chiều dài lịch sử cộng đồng dân cư trên vùng đất Lệ Thủy phải
gánh chịu những thử thách vô cùng khốc liệt của các cuộc chiến tranh xâm lược và
sự tranh chấp giữa các thế lực.
Thời cổ đại, nhân dân Lệ Thủy đã chiến đấu chống lại các cuộc xâm lược của
các triều đại phong kiến Tần - Hán, bảo vệ cương vực lãnh thổ, ngăn chặn sự bành
trướng về phía Nam của các quốc gia này.
Thời trung đại, vùng đất Lệ Thủy thuộc địa bàn vương quốc Chămpa. Người
dân Lệ Thủy đã ủng hộ khởi nghĩa của Khu Liên. Sau khi vùng đất Lệ Thủy nhập
vào vùng đất Đại Việt, cộng đồng cư dân trên địa bàn Lệ Thủy đã đóng góp nhân
tài, vật lực, cùng nhân dân cả nước chiến đấu ngoan cường dũng cảm. Đặc biệt
trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, riêng vùng đất này đã đóng góp hai danh tướng đó
là Nguyễn Danh Cả người Tuy Lộc và Phạm Đăng Man người Đại Phong.
Đến giữa thế kỷ XIX thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, cùng với nhân
dân cả nước, với lòng yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc, nhân dân Lệ Thủy
13
sớm dấy lên phong trào yêu nước, bắt đầu phong trào đấu tranh tự phát, gây cho
địch nhiều khó khăn, làm chậm quá trình tiến công và bình định của chúng. Hưởng
ứng chiếu Cần Vương, nhiều sỹ phu yêu nước trong huyện đã tham gia đội quân
tình nguyện bảo vệ nhà vua. Theo sử sách, Lệ Thủy là một trong 3 huyện có lòng
căm thù giặc sôi sục “đâu đâu cũng rùng rùng dậy cả, ai cũng vậy, làng nào làng
nấy, đâu đó cùng đua nhau, kẻ bá hộ, nhà giàu đều xuất tiền bạc...”[54, tr. 591].
Nhiều hào kiệt nổi tiếng lúc bấy giờ như Đề Chít, Đề Én, Đề Ấn, Phạm Xuân Trân,
đặc biệt là tướng Hoàng Phúc đã liên kết các đạo quân để hưởng ứng chiếu Cần
Vương. Đến đầu thế kỷ XX, những luồng tư tưởng tiến bộ đã truyền vào nước ta,
một số sách báo bắt đầu lưu hành một số địa phương trong huyện như Thạch Bàn,
An Xá. Dưới ảnh hưởng của phong trào đấu tranh yêu nước của các tổ chức cách
mạng tiền thân, một số thanh niên có học ở Lệ Thủy cũng bắt đầu nhen nhóm các
hoạt động yêu nước, tạo tiền đề hình thành các tổ chức cách mạng ở Lệ Thủy về
sau.
Thời kỳ 1930-1945, những hoạt động của nhóm đọc sách báo tiến bộ đầu thế
kỷ XX ở Thạch Bàn, An Xá đã tuyên truyền lòng yêu nước, lên án tội ác của đế
quốc, phong kiến, vận động quần chúng chống lại áp bức, địa chủ trong huyện.
Cùng thời gian trên, ảnh hưởng của các xu hướng yêu nước tiến bộ cũng đã lan ra ở
một số địa phương khác trong huyện như Trung Lực, Mỹ Thổ, Ga Mỹ Đức, Thượng
Lâm, Hòa Luật Bắc... Đến tháng 11-1931 tại miếu Thần Hoàng ở Trung Lực - Mỹ
Thổ thuộc địa phận xã Tân Thủy, chi bộ đầu tiên ở Lệ Thủy được thành lập, đây
cũng là nơi thành lập chi bộ đầu tiên ở Quảng Bình với 3 đảng viên Nguyễn Đông,
Lê Thuận Chất, Lê Thuận Sản do đồng chí Lê Thuận Chất làm Bí thư. Đây là một
mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển hướng của phong trào yêu nước và cách mạng
tại địa phương. Từ đây phong trào cách mạng đã được lãnh đạo, chỉ đạo bởi tổ chức
những người cộng sản. Từ Trung Lực - Mỹ Thổ phong trào phát triển mạnh đến các
các làng và xã khác. Tất cả kết quả và hoạt động trên đã góp phần cũng cố niềm tin,
tạo điều kiện mới cho phong trào đấu tranh yêu nước của toàn huyện dưới sự lãnh
đạo của đảng viên và chi bộ cộng sản ở các địa phương trong huyện. Tháng 9-1939,
Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ, ở Đông Dương thực dân Pháp mở đường cho
phát xít Nhật vào. Từ đó, cũng như nhân dân cả nước, cả tỉnh, nhân dân Lệ Thủy lại
chịu cảnh áp bức “một cổ hai tròng”.
14
Dưới sự lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng, các cuộc đấu tranh chống Nhật
thu thóc, bắt lính, trưng thu xe cộ, thuyền bè nổ ra một số nơi. Tuy nhiên, do sự bao
vây gắt gao của địch và việc mất liên lạc với cấp trên làm cho phong trào cách mạng
trong thời kỳ này gặp nhiều khó khăn lớn. Đến tháng 2-1942 Tỉnh ủy cử đồng chí
Bùi Trung Lập liên lạc với các tổ chức Đảng trong huyện và truyền đạt tinh thần
nghị quyết của hội nghị Trung ương 8 (5-1941) về chủ trương thành lập Mặt trận
Việt Minh, xây dựng căn cứ địa cách mạng, tổ chức lực lượng vũ trang, chuẩn bị
mọi điều kiện để tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Phong trào sau một thời
gian tạm lắng đã tiếp tục phát triển trở lại, quần chúng đã tích cực tham gia tổ chức
Việt Minh ở các làng, các tổng, nhất là An Xá, Thạch Bàn, Lộc An, Xuân Lai, Quy
Hậu. Chính sự phát triển của phong trào đã dẫn đến thắng lợi cuộc khởi nghĩa giành
chính quyền trong cách mạng Tháng 8-1945.
Ngày 19-8-1945, Ủy ban khởi nghĩa huyện (vừa là Uỷ ban nhân dân cách
mạng lâm thời) Lệ Thủy được thành lập do đồng chí Võ Văn Quyết làm Chủ tịch đã
nhóm họp tại thôn Thượng Phong để bàn kế hoạch khởi nghĩa toàn huyện, vạch kế
hoạch cụ thể. Rạng sáng ngày 23-8-1945, lệnh khởi nghĩa được ban bố và đến 8 giờ
30 phút cùng ngày, khởi nghĩa kết thúc thắng lợi.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 diễn ra trên địa bàn Lệ Thủy giành thắng lợi
to lớn. Điều này khẳng định sức mạnh khối đoàn kết toàn dân, đứng đầu là Mặt trận
Việt Minh, là sức mạnh to lớn của đội quân chính trị của quần chúng cách mạng kết
hợp với các đội tự vệ nồng cốt, dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng ở Lệ Thủy.
Thời kỳ 1945-1954, ngay sau ngày khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi
cùng với nhân dân trong tỉnh, nhân dân Lệ Thủy hăng hái tham gia chế độ mới. Tuy
nhiên, sau năm 1945 cũng như tình hình chung cả nước nhân dân Lệ Thủy đứng
trước muôn vàn khó khăn đòi hỏi tổ chức Đảng phải lãnh đạo nhân dân vượt qua
chặng đầu khó khăn khi mới giành được chính quyền, tiếp tục đưa phong trào cách
mạng tiến lên. Ngày 20-10-1945, Hội nghị cán bộ Đảng trong toàn huyện đã diễn ra
do đồng chí Võ Văn Quyết chỉ đạo và chủ trì. Đây là lần đầu tiên Lệ Thủy có một
hội nghị thống nhất toàn bộ cơ sở Đảng trong địa phương để bàn về các nội dung
quan trọng trong công tác lãnh đạo của Đảng đối với phong trào cách mạng trong
huyện. Vì thế, Hội nghị ngày 20-10-1945 có ý nghĩa như một đại hội, đây được xem
là mốc ra đời của Đảng bộ Lệ Thủy. Sau khi Pháp trở lại xâm lược nước ta, hưởng
15
ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến nhân dân Lệ Thủy đã anh dũng chiến đấu
chặn đường tiến công của Pháp. Nhiều cơ quan, đoàn thể, nhân dân theo kế hoạch
trước đã tản cư lên các vùng rừng núi phía Tây, đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du
kích, toàn dân đánh giặc. Từ 1945-1954 nhân dân Lệ Thủy giành nhiều thắng lợi to
lớn như hưởng ứng “cao trào Quảng Bình quật khởi”, chiến thắng Xuân Bồ, trận
đánh đồn Sen Hạ, chiến thắng Xuân Lai - Mỹ Lộc, xây dựng xã chiến đấu Hưng
Đạo, tiêu diệt đồn Thượng Phong. Sau hiệp định Genève, những tên lính cuối cùng
trong đội viễn chinh Pháp rút khỏi Lệ Thủy, rút khỏi Quảng Bình vào ngày 18-81954 chấm dứt 8 năm kháng chiến trường kỳ anh dũng để bảo vệ quê hương.
Thời kỳ 1954-1965, phát huy những truyền thống đã đạt được, nhân dân Lệ
Thủy bước vào thời kỳ khôi phục kinh tế, thực hiện giảm tô và cải cách ruộng đất
đạt được những kết quả hết sức quan trọng, đời sống nhân dân ổn định, có nhiều
biến đổi tích cực trên tất cả các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội. Sản xuất nông nghiệp
trở thành mặt trận hàng đầu của Lệ Thủy. Bên cạnh khôi phục kinh tế nhân dân Lệ
Thủy còn ra sức đấu tranh chống chiến dịch cưỡng ép đồng bào di cư vào Nam của
đế quốc Mỹ. Đứng trước nhiều thủ đoạn của kẻ thù như cho bọn phản động phá của
nhà cửa giáo dân, nói xấu chế độ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân. Tình hình đó
đã làm cho một số giáo dân hoang mang, dao động, bỏ nhà cửa ruộng vườn ra đi.
Xóm Mỹ Phước thuộc xã Phong Thủy có 42 hộ gia đình ra đi, trong thời gia từ 1954
đến đầu năm 1955 địch đã đưa hàng nghìn người dân Lệ Thủy di cư vào Nam, trong
đó cơ bản là giáo dân ở các làng có đạo. Trước tình hình đó, cấp ủy Đảng và chính
quyền Lệ Thủy đã phát động quần chúng dấy lên phong trào căm thù địch, tấn công
vào hành động, luận điệu xảo quyệt của bọn phản động. Nhờ đó, hàng chục gia đình
ở Xuân Hòa, Mỹ Trạch, Xuân Bồ, Phú Thiết có ý định ra đi đã ở lại. Sau một thời
gian, tình hình di cư vào Nam đã ổn định trở lại, nhân dân yên tâm sản xuất, ổn định
đời sống. Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế đã xây dựng thành công
các mô hình hợp tác xã mà tiêu biểu là ngọn cờ nông nghiệp Đại Phong. Nhờ đẩy
mạnh khai phá miền Tây của huyện, làm tốt công tác thủy lợi mở rộng diện tích lúa
và màu, phục hồi chăn nuôi và các nghề truyền thống, nên đời sống xã viên ngày
càng được nâng cao, bộ mặt nông thôn Đại Phong không ngừng đổi sắc, thay da. Từ
một vùng quê đời sống nhân dân luôn gặp khó khăn, nhờ làm ăn tập thể, Đại Phong
đã trở thành một điển hình về quản lý lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
16
và thâm canh tăng vụ. Ngày 26-5-1960, đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Bộ
Chính trị, trưởng ban Nông nghiệp Trung ương, cùng các ban nghành ở Trung ương
và đại biểu các tỉnh trên toàn miền Bắc đã về dự hội nghị tổng kết rút kinh nghiệm,
đồng thời phát động phong trào thi đua với Đại Phong. Hợp tác xã nông nghiệp Đại
Phong trở thành lá cờ đầu của nghành nông nghiệp toàn miền Bắc.
Đến năm 1964, sau 10 năm khôi phục, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc
phòng - an ninh, nhân dân Lệ Thủy đã nỗ lực vượt bậc làm thay đổi bộ mặt quê
hương trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó, đặc biệt Lệ Thủy giành thắng lợi to lớn
trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, xây dựng ngọn cờ Đại Phong. Những kết quả
tích cực đó đã đưa Lệ Thủy thành một huyện luôn ổn định về chính trị, kinh tế, văn
hóa, quốc phòng - an ninh được củng cố, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ mới trong
giai đoạn tiếp theo.
1.2. ĐẾ QUỐC MỸ TIẾN HÀNH CUỘC CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI MIỀN
BẮC VÀ CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG
1.2.1. Đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc
Năm 1964, khi gây ra những cuộc đánh phá bằng không quân ở miền Bắc, đế
quốc Mỹ đã thấy rõ miền Bắc là căn cứ địa cách mạng của cả nước Việt Nam, hậu
phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam. Vì vậy, ngay từ đầu và trong tất cả các
thời kỳ của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, chúng luôn tìm cách phá hoại
miền Bắc. Tháng 3-1964, Jonhson phê chuẩn kế hoạch, dùng tàu khu trục Mỹ tuần
tiễu ở Vịnh Bắc Bộ để ngăn chặn sự tiếp tế bằng đường biển của ta; tiến hành quấy
rối, trinh sát vùng ven biển; yểm trợ cho tàu biệt kích ngụy vây bắt ngư dân đánh cá
để khai thác tin tức. Trung tuần tháng 4-1964, Hội đồng Tham mưu trưởng liên
quân Mỹ vạch ra kế hoạch ném bom miền Bắc, thông qua danh sách 94 mục tiêu
đánh phá khi được lệnh. Ngày 31-7-1964, tàu khu trục Maddox của Mỹ tiến vào
khu vực phía nam đảo Cồn Cỏ để do thám và uy hiếp ta dọc bờ biển. Cùng ngày,
máy bay Mỹ từ Lào sang bắn phá đồn biên phòng Nậm Cắn và bản Nọong Dẻ nằm
sâu trong lãnh thổ Việt Nam. Tiếp sau sự kiện trưa chủ nhật 2-8-1964, ba tàu phóng
lôi của hải quân Việt Nam tiến công đánh đuổi tàu Madốc của Mỹ đang vào sâu hải
phận nước ta giữa đảo Hòn Mê và Lạch Tường, chính quyền Jonhson dựng lên sự
kiện đêm 4-8-1964: tàu chiến Mỹ bị hải quân Việt Nam tiến công ở ngoài khơi vịnh
Bắc Bộ, thuộc hải phận quốc tế, để lấy cớ ra lệnh cho không quân Mỹ ném bom một
17
số nơi trên miền Bắc, như cửa sông Gianh, Vinh - Bến Thủy, Lạch Tường, thị xã
Hồng Gai vào ngày 5-8-1964.
Dựng nên “sự kiện vịnh Bắc Bộ”, Jonhson nhằm trước hết kích động Quốc hội
nước Mỹ thông qua một số nghị quyết cho phép chính phủ áp dụng biện pháp chiến
tranh không quân và hải quân ở miền Bắc Việt Nam. Nghị quyết về sự kiện vịnh
Bắc bộ được Quốc hội Mỹ thông qua ngày 7-8-1964 [64, tr. 1038].
Ngày 7-2-1965, lấy cớ “trả đũa” việc Quân giải phóng miền Nam Việt Nam
tiến công doanh trại Mỹ ở Pleiku (đêm 6-2-1965), Jonhson ra lệnh cho quân Mỹ mở
chiến dịch “Mũi lao lửa” ném bom bắn phá thị xã Đồng Hới, đảo Cồn Cỏ, chính
thức mở rộng cuộc chiến tranh không quân và hải quân lần thứ nhất phá hoại miền
Bắc với những mục tiêu cụ thể là:
- Phá hủy tiềm lực kinh tế và quốc phòng, phá hoại công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc.
- Ngăn chặn nguồn chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào
miền Nam.
- Uy hiếp tinh thần, làm lung lay ý chí chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta ở
cả hai miền đất nước.
Đặc biệt ở Quảng Bình, đế quốc Mỹ chọn Lệ Thủy, nơi tiếp giáp với Vĩnh
Linh để đánh phá liên tục, ác liệt ngay từ đầu với những đợt tấn công như: ngày 8-2
-1965, máy bay Mỹ ném bom xuống xã Ngư Thủy, Sen Thủy; ngày 13-2-1965 máy
bay đánh phá Hạ Cờ, Chấp Lễ; ngày 14-2-1965 tàu biệt kích địch tiếp tục bắn phá
vào Ngư Thủy. Như vậy, có thể nói huyện Lệ Thủy có vị trí quan trọng, hiểm yếu
trong kế hoạch tiến hành hai cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ.
Về phía ta, sau năm 1954, bên cạnh việc khôi phục, phát triển kinh tế, xã hội
thì công tác chính trị, an ninh - quốc phòng cũng được quan tâm đúng mức sẵn sàng
đối phó với âm mưu và thủ đoạn quân sự của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai bán nước.
Lệ Thủy đã tập trung đúng mức để xây dựng lực lượng vũ trang tại chỗ đủ sức đối
phó với những hành động liều lĩnh xâm phạm miền Bắc ngày một gia tăng của Mỹ Ngụy. Phong trào xây dựng và tổ chức hoạt động của lực lượng dân quân tự vệ
được triển khai rộng khắp trong toàn huyện. Trong một thời gian ngắn mỗi xã, mỗi
nông trường, lâm trường, xí nghiệp đều tổ chức được một đại đội dân quân tự vệ,
một trung đội du kích. Huyện chỉ đạo dân quân 1 số xã vùng biển và vùng núi cùng
18
với tự vệ một số lâm trường, đồn Công an vũ trang Ngư Thủy, Làng Ho luyện tập
phương án sẵn sàng chống biệt kích.
Chính nhờ những phương án hiệp đồng đó mà trong các lần địch tung gián
điệp, biệt kích ra thăm dò, phá hoại ở Ngư Thủy (năm 1962), tại Kim Thủy, Ngân
Thủy (4-1963) ta đã chủ động chiến đấu, đẩy đuổi địch và tiêu diệt chúng.
Giai đoạn này, nhân dân Lệ Thủy còn góp công sức to lớn của mình vào việc
mở đường Trường Sơn, hình thành tuyến Đường 559, sau này phát triển thành
đường Hồ Chí Minh huyền thoại. Điển hình là việc quân dân Lệ Thủy phối hợp sư
đoàn 325 xây dựng tuyến dường Thạch Bàn - Khe Hó phía Tây Lệ Thủy.
Thực hiện Nghị quyết của tỉnh ủy Quảng Bình về công tác quân sự, quốc
phòng nhằm “đẩy mạnh sản xuất, ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời tích
cực chuẩn bị để sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của đế quốc Mỹ và tay sai”,
nhân dân Lệ Thủy đã cảnh giác đối phó với mọi âm mưu của kẻ thù, tăng cường
công tác trị an, bảo mật, phòng gian, xây dựng phương án tác chiến, chống địch tập
kích, bảo vệ mục tiêu quan trọng về quân sự, kinh tế, văn hóa sẵn sàng thực hiện
nhiệm vụ mới trong các giai đoạn tiếp theo.
Về kinh tế - xã hội, từ năm 1955 đến 1964, sau 10 năm khôi phục, phát triển
kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh, nhân dân Lệ Thủy đã nỗ lực vượt bậc làm thay
đổi bộ mặt quê hương trên tất cả các lĩnh vực đặc biệt là trên mặt trận nông nghiệp
tiêu biểu là việc xây dựng hợp tác xã Đại Phong. Năm 1958 chủ trương xây dựng
hợp tác xã đưa nhân dân vào con đường làm ăn tập thể, đưa năng suất sản lượng thu
nhập của của người nông dân lên cao, khai hoang phục hóa mở rộng diện tích, đi
đầu trong sử dụng kỹ thuật vào sản xuất và làm thủy lợi, đại tướng Nguyễn Chí
Thanh đã phát hiện và xây dựng hợp tác xã Đại Phong thành lá cờ đầu của phong
trào nông nghiệp toàn miền Bắc, được Bác Hồ gửi thư khen và gửi tặng chiếc máy
cày do Đoàn thanh niên cộng sản Liên Xô tặng Bác.
Thi đua với phong trào Đại Phong, phong trào hợp tác hóa của Lệ Thủy đã
thực sự chuyển biến nhanh, đúng hướng. Kết quả và thành tích ban đầu của phong
trào hợp tác hóa ở Lệ Thủy đã xóa bỏ quan hệ người bốc lột người, đưa nông thôn
và nông dân Lệ Thủy vào con đường làm ăn tập thể, xây dựng đời sống mới. Đến
cuối năm 1960, toàn huyện có 187 hợp tác xã nông nghiệp với 118 hộ chiếm 75%
tổng số hộ dân. Có 20 hợp tác xã ngư nghiệp với 722 hộ chiếm tỉ lệ 90% tổng số hộ
19
dân. Bộ mặt nông thôn có sự đổi mới, hệ thống lớp học có từ cấp 1 đến cấp 3 phục
vụ việc học tập con em trong huyện. Phong trào xây dựng đời sống mới, bài trừ các
tệ nạn xã hội, các hoạt động văn hóa, văn nghệ ca ngợi đời sống mới và tuyên
truyền lí tưởng cách mạng. Các phong trào thể dục thể thao diễn ra sôi nổi, hệ thống
trạm y tế bước đầu đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh trong nhân dân.
1.2.2. Chủ trương của Đảng
1.2.2.1. Chủ trương của Trung ương Đảng
Cuối năm 1964 đầu năm 1965, trong điều kiện có chiến tranh đang lan rộng ra
cả nước, một vấn đề lớn được đặt ra cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta là: có
thể tiếp tục công cuộc xây dựng miền Bắc hay phải dừng lại? Tháng 1-1965, Hội
đồng quốc phòng họp dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết định nhiệm
vụ miền Bắc là tăng cường công tác phòng thủ, trị an và sẵn sàng chiến đấu; ra sức
xây dựng lực lượng vũ trang hùng mạnh; tích cực xây dựng và củng cố miền Bắc về
mọi mặt. Tháng 3-1965, Hội nghị lần thứ 11 của Trung ương Đảng nhận định: đế
quốc Mỹ là tên đế quốc đầu sỏ, có tiềm lực chiến tranh rất lớn cho nên chúng đẩy
mạnh chiến tranh tới mức độ cao nhất, bao gồm cả việc bắn phá miền Bắc thường
xuyên, mạnh mẽ và ác liệt hơn. Chúng có thể dùng các phương tiện chiến tranh hiện
đại để phong tỏa đường biển và tập kích một số vùng bờ biển nước ta. Còn nhiệm
vụ của quân và dân ta trên miền Bắc lúc này là: xây dựng miền Bắc trở thành một
hậu phương lớn, vững chắc của cách mạng miền Nam, đồng thời bảo đảm đời sống
cho nhân dân và đáp ứng hậu cần tại chổ; đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ; tăng cường viện trợ cho tiền tuyến miền Nam và cho cách mạng Lào [3,
tr. 342]. Để thực hiện phương châm xây dựng kinh tế phù hợp với thời chiến, Hội
nghị lần thứ 11 của Ban chấp hànhTrung ương Đảng quyết định: chuyển hướng xây
dựng kinh tế sang thời chiến, chuyển hướng về tư tưởng và tổ chức, tăng cường lực
lượng quốc phòng cho phù hợp với tình hình mới và nhiệm vụ cấp bách của ta ở
miền Bắc.
1.2.2.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Quảng Bình
Để đối phó với các hành động khiêu khích, phá hoại ngày càng tăng của Mỹ ngụy, Tỉnh ủy Quảng Bình đã đề ra nhiệm vụ cho các ngành, nhất là lực lượng vũ
trang, về công tác chiến đấu. Sau trận đầu đánh thắng không quân Mỹ, Tỉnh ủy đã
đề ra nhiệm vụ cấp thiết cho Đảng bộ, quân và dân trong tỉnh: “Phải tăng cường
20
công tác phòng thủ, trọng tâm là công tác chống tập kích bờ biển và công tác phòng
không nhân dân. Trong công tác phòng không phải chú ý đến hai mặt: tổ chức lực
lượng đánh địch và phòng tránh. Phải phát động phong trào thi đua bắn máy bay
Mỹ bằng súng bộ binh rộng khắp trong các địa phương. Đặc biệt chú trọng các vùng
thị xã, thị trấn, quân cảng, sân bay, và các mục tiêu quân sự khác. Về tư tưởng, phải
giáo dục, xây dựng cho lực lượng vũ trang và quần chúng có quyết tâm cao. Giặc
đến ta chủ động, không bị bất ngờ, với tinh thần quyết đánh, dám đánh, có gì đánh
nấy, lấy ít địch nhiều, lấy thô sơ thắng hiện đại, quyết đánh thắng giòn giã” [24, tr.
85].
1.2.2.3. Chủ trương của Đảng bộ huyện Lệ Thủy
Giữa tháng 3, đầu tháng 4-1965, Đảng bộ và nhân dân Lệ Thủy đã kịp thời
quán triệt thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng, của Quân khu IV, Tỉnh ủy
Quảng Bình nhằm nhanh chóng chuyển hướng về tư tưởng và tổ chức; chuyển
hướng xây dựng kinh tế, sản xuất sang thời chiến; chuyển hướng tăng cường tốt hơn
tiềm lực quốc phòng phù hợp với tình hình và nhiệm vụ cấp bách đang đặt ra.
Về tư tưởng và tổ chức, Huyện ủy kịp thời triển khai công tác giáo dục tuyên
truyền trong tình hình mới, thấy được âm mưu xảo quyệt của địch, thấy được tình
hình cả nước và trong tỉnh để nâng cao ý chí chiến đấu lên một bước mới. Công tác
tổ chức cán bộ được sắp xếp lại, một số cán bộ được thay đổi vị trí công tác cho phù
hợp hơn. Cơ quan bắt đầu sơ tán người, cơ sở vật chất, phương tiện và tài liệu để
hạn chế tới mức thấp nhất thiệt hại do địch gây ra.
Về kinh tế, Huyện ủy đề ra chủ trương phát triển kinh tế toàn diện với phương
châm khẩn trương, kịp thời hơn. Trước hết là tập trung vào sản xuất nông nghiệp
đảm bảo cung cấp đủ lương thực, thực phẩm và có phần dự trữ. Các hợp tác xã tiếp
tục thực hiện tốt hơn cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật,
nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất trong toàn huyện.
Về quốc phòng an ninh, Huyện ủy tập trung lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quân
sự, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, gọi thanh niên nhập ngũ, củng cố phát triển lực
lượng dân quân tự vệ xã, cơ quan xí nghiệp và phát động phong trào “tay cày, tay
súng”, “tay búa, tay súng”, với khẩu hiệu “đồng ruộng là chiến trường, nhà nông là
chiến sĩ”, “hậu phương thi đua với tiền phương”. Bên cạnh đó lực lượng công an
huyện, công an xã được kiện toàn cả về số lượng và chất lượng và phương thức hoạt
21
động. Huyện ủy đã kịp thời chỉ đạo các cấp chính quyền triển khai các biện pháp
phòng tránh an toàn nhất, tổ chức cho dân quân du kích xây dựng hầm hào cho các
gia đình thương binh liệt sĩ, gia đình bộ đội, hầm trú ẩn của các gia đình nối với
giao thông chạy dọc, chạy ngang trong thôn, xóm, thành lập các tổ, các phân đội
trực chiến phòng không.
Về tổ chức đời sống cho nhân dân, các hợp tác xã lập danh sách những đối
tượng khó khăn để theo dõi, có biện pháp hổ trợ kịp thời, không để xãy ra tình trạng
dài ngày. Hệ thống y tế từ huyện đến xã, thôn xóm được củng cố và phát triển rộng
khắp đi đôi với xây dựng và huấn luyện đội ngũ cứu thương để chủ động cứu chữa
tại chổ. Các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao vẫn được duy trì. Các
trường tổ chức cho học sinh học ban đêm, học theo ca, kíp thuận lợi trong từng
thôn, xã.
Huyện ủy cũng đã phát động nhiều phong trào như “tất cả cho tiền tuyến, tất
cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “mỗi người làm việc bằng hai”, “ba sẵn
sàng”, “ba đảm đang”, “dạy tốt, học tốt”... đã được triển khai và bước đầu đạt được
nhiều kết quả tích cực [6, tr. 157].
1.3. QUÂN DÂN LỆ THỦY XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ HẬU PHƯƠNG, RA
SỨC CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN MIỀN NAM
1.3.1. Trên lĩnh vực xây dựng
1.3.1.1. Về hệ thống chính trị
Từ thời bình chuyển sang thời chiến, nhưng các tổ chức Đảng, chính quyền,
đoàn thể các cấp đã có nhiều cố gắng trong chỉ đạo, ngày đêm bám sát cơ sở, do đó
tình hình chính trị, xã hội và đời sống nhân dân nhanh chóng ổn định. Với quyết
tâm đánh thắng Mỹ ngay từ trận đầu, tuyến đầu. Quân dân Lệ Thủy nêu cao khẩu
hiệu “sản xuất giỏi chiến đấu giỏi” ra sức chi viện cho tiền tuyến.
Vào giữa năm 1965, nhằm động viên quân và dân trong huyện giành chiến
thắng ngay trong năm đầu địch gây chiến tranh phá hoại, Thường vụ Huyện ủy đã
tổ chức Đại hội thi đua quyết thắng toàn huyện tại xã Mỹ Thủy. Tại Đại hội, đồng
chí Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Tư Thoan khen ngợi quân và dân Lệ Thủy đã nhanh
chóng chuyển hướng sự lãnh đạo từ thời bình sang thời chiến và đã đạt những thành
tích bước đầu trong sản xuất, chiến đấu và các mặt công tác khác. Sau đại hội,
Huyện uỷ đã phân công cán bộ xuống các xã miền núi và miền biển để theo dõi và
22