ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
PHẠM THỊ THỦY
NGHỆ THUẬT CHÂM BIẾM
TRONG TIỂU THUYẾT MỘT TỈ SÁU
CỦA TRƯƠNG HIỀN LƯNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Thừa Thiên Huế, Năm 2016
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
PHẠM THỊ THỦY
NGHỆ THUẬT CHÂM BIẾM
TRONG TIỂU THUYẾT MỘT TỈ SÁU
CỦA TRƯƠNG HIỀN LƯNG
Chun ngành: LÍ LUẬN VĂN HỌC
Mã số: 60 22 01 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
PGS.TS. TRẦN THÁI HỌC
Thừa Thiên Huế, Năm 2016
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
các số liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực,
được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố
trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Phạm Thị Thủy
ii
Luận văn này là kết quả của một quá
trình học tập và nghiên cứu của tôi được
hoàn thành nhờ nỗ lực của bản thân và sự
giúp đỡ, động viên của quý thầy cô, gia
đình và bạn bè.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
thầy giáo PGS.TS Trần Thái Học, người thầy
đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình giúp đỡ
tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn này.
Xin cảm ơn phòng Đào tạo Sau đại học,
quý thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn và thư
viện trường ĐHSP Huế đã tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập và
nghiên cứu tại trường.
Xin cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô
giáo trường THPT Trần Văn Kỷ đã tạo điều
kiện giúp đỡ cho tôi trong suốt quá trình
học tập và hoàn thành đề tài.
Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng
biết ơn chân thành tới gia đình, người thân
và bạn bè đã luôn ở bên động viên, khích lệ
và tạo điều kiện thuận lợi để tôi an tâm
học tập, nghiên cứu và hoàn thành tốt luận
iii
văn này.
Huế, tháng 09 năm 2016
Tác giả luận văn
Phạm Thị Thủy
iii
iii
iv
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa ...............................................................................................................i
Lời cam đoan .............................................................................................................. ii
Lời cảm ơn ................................................................................................................ iii
Mục lục ........................................................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................3
2. Lịch sử vấn đề .....................................................................................................6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................9
4. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................9
5. Đóng góp của luận văn .....................................................................................10
6. Cấu trúc của luận văn........................................................................................10
PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................................11
Chƣơng 1. NGHỆ THUẬT CHÂM BIẾM TRONG TIỂU THUYẾT
MỘT TỶ SÁU CỦA TRƢƠNG HIỀN LƢỢNG NHÌN TỪ
PHƢƠNG DIỆN ĐỀ TÀI ....................................................................11
1.1. Nghệ thuật châm biếm trong văn học ............................................................11
1.1.1 Châm biếm trong văn học truyền thống ..................................................11
1.1.2. Châm biếm trong tiểu thuyết hậu hiện đại .............................................13
1.2. Đề tài châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng .....15
1.2.1 Châm biếm tương lai dân tộc ..................................................................16
1.2.2. Châm biếm nhân vật lịch sử ...................................................................23
1.2.3. Châm biếm xã hội kim tiền, hãnh tiến ...................................................27
1.2.4. Châm biếm khoa học “giả cầy” ..............................................................33
Chƣơng 2. NGHỆ THUẬT CHÂM BIẾM TRONG TIỂU THUYẾT
MỘT TỶ SÁU CỦA TRƢƠNG HIỀN LƢỢNG NHÌN TỪ
PHƢƠNG DIỆN CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT ..........................38
2.1. Cốt truyện Carnaval hoá trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng ...38
2.1.1. Tuyến cốt truyện Doanh nhân thành đạt ...............................................39
1
2.1.2. Tuyến cốt truyện Gái điếm thành đạt .....................................................42
2.2. Nhân vật .........................................................................................................44
2.2.1. Nhân vật carnaval hoá ............................................................................45
2.2.2. Nhân vật hãnh tiến ..................................................................................53
2.2.3. Nhân vật đĩ thoã .....................................................................................56
2.2.4. Nhân vật “siêu thực” mang suy ngẫm của tác giả ..................................59
Chƣơng 3. NGHỆ THUẬT CHÂM BIẾM TRONG TIỂU THUYẾT
MỘT TỶ SÁU CỦA TRƢƠNG HIỀN LƢỢNG NHÌN TỪ
PHƢƠNG DIỆN GIỌNG ĐIỆU VÀ THỦ PHÁP ............................66
3.1. Giọng điệu châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng ...66
3.2.1. Giọng điệu hài hước ...............................................................................66
3.2.2. Giọng điệu dung tục ...............................................................................74
3.2. Thủ pháp châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng 78
3.2.1. Giễu nhại ................................................................................................79
3.2.2. Phóng đại ................................................................................................85
PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................................91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................95
PHỤ LỤC
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học Trung Quốc sau Đại Cách mạng văn hóa đã có một sự phát triển
mạnh mẽ với diện mạo vô cùng phong phú và phức tạp. Những phần tử bị kết án
oan, bị quy chụp là “phái hữu” trong cuộc Cách mạng văn hóa đã được minh oan
và được nhìn nhận lại. Trải qua mấy chục năm tìm tòi và thử nghiệm trong sự va
đập giữa hiện đại và truyền thống, giữa Trung Quốc và thế giới thì văn học Trung
Quốc thời kì cải cách mở cửa đã có được tiếng nói riêng, đánh dấu sự phá vỡ trật
tự trong thủ pháp biểu hiện đơn nhất tạo nên một bức tranh văn học đương đại
phong phú, đa dạng, đủ màu sắc. Văn học đương đại Trung Quốc xuất hiện nhiều
trào lưu tiểu thuyết mới: dòng “văn học tiên phong”, dòng “văn học tả thực”, dòng
“siêu thực”, dòng “hiện đại chủ nghĩa”… nhưng đáng chú ý là dòng “văn học vết
thương” và “văn học phản tư” góp phần mở ra một thời kì nở rộ cho văn đàn
đương đại Trung Quốc.
Thế hệ nhà văn xuất hiện sau cuộc Đại cách mạng văn hóa làm nên diện mạo
nền văn học Trung Quốc. Hơn ai hết, thế hệ nhà văn này là những nạn nhân, chịu
nhiều đau khổ, bị bức hại tàn khốc trong những năm tháng rối ren, loạn lạc nhưng
họ là những người mẫn thế, dám nghĩ, dám làm. Họ không phủ định hiện thực bằng
những lí thuyết dối trá “tô hồng” hay chủ trương “hai kết hợp”, tức là kết hợp “Chủ
nghĩa hiện thực cách mạng” với “Chủ nghĩa lãng mạn cách mạng”. Những lớp nhà
văn này thẳng thắn nhìn thẳng vào hiện thực đau khổ, không né tránh, vạch trần tội
lỗi của bọn “bè lũ bốn tên”, vạch trần những tàn dư xấu xa trong xã hội. Thế hệ nhà
văn này rất đông đảo: Trương Hiền Lượng, Lưu Tâm Vũ, Mạc Ngôn, Lưu Hằng,
Giả Bình Ao, Phùng Kí Tài, Thẩm Dung…
Như vậy có thể thấy, cuộc Đại cách mạng văn hóa cùng xu hướng đổi mới của
văn học đương đại đã tạo nên một diện mạo mới cho văn đàn Trung Quốc với nhiều
phong cách mới lạ, độc đáo, Trương Hiền Lượng là một tác giả tiêu biểu.
1.2. Trương Hiền Lượng là một tên tuổi được chú ý trên văn đàn Trung Quốc từ lâu.
Năm 2004, ông thuộc vào danh sách một trong mười người Trung Quốc được tôn
vinh là nhân vật văn hoá kiệt xuất. Cả cuộc đời ông là một pho sử liệu gắn liền với
những biến động của lịch sử Trung Quốc hiện đại.
3
Trương Hiền Lượng quê gốc ở tỉnh Giang Tô, sinh năm 1936 tại thành phố
Nam Kinh. Năm 1954, Trương Hiền Lượng chưa đầy 18 tuổi đã phải chia tay tuổi
học trò. Sau khi người cha qua đời, Trương Hiền Lượng tuy còn ít tuổi đã phải gánh
vác trọng trách gia đình. Sau đó, ông dẫn mẹ và em gái rời khỏi Nam Kinh, đến
chân núi Hạ Lan, Ninh Hạ. Mảnh đất này đã thu hút chàng trai trẻ Trương Hiền
Lượng, và viết văn đã trở thành phương thức tốt nhất để bày tỏ những ý nghĩ trong
nội tâm của ông. Năm 1957, Trương Hiền Lượng sáng tác bài thơ “Đại phong ca”
thể hiện lòng hăng hái tuổi thanh xuân, đăng trên nguyệt san văn học Diên Hà đã có
sức ảnh hưởng lớn và gây phản ứng mạnh mẽ. Nhưng cũng chính vì bài thơ này mà
Trương Hiền Lượng đã bị phê phán kịch liệt. Ông bị liệt vào danh sách phần tử phái
hữu phản động, bị đày đi lao động khổ sai suốt hai mươi hai năm trên một vùng đất
xa xôi, hoang vắng. Đó là Trấn Bắc Bảo thuộc địa phận tỉnh Ninh Hạ, nằm ở hướng
Tây – Bắc Trung Quốc. Chính ở đây, sự hoang vắng vô tận, sự cô đơn đến tái tê linh
hồn cũng như sự buồn thảm của lịch sử Trung Quốc đã đánh thức một tài năng văn
chương kiệt xuất. Ông đã đổ ra đến mức kiệt sức tâm huyết, mồ hôi và nước mắt
của mình để viết Một nửa đàn ông là đàn bà và Cây Lục hóa ngay trên vùng đất
màu vàng này giữa tiếng gió rầm rú đêm ngày.
Năm 1980, sau khi được phục hồi danh dự, Trương Hiền Lượng đã chối từ
mọi cám dỗ của cuộc sống phồn hoa ở thành phố, mọi lời mời mọc đầy hứa hẹn
của bè bạn xa gần, ông quyết định trở lại sống lâu dài và có thể là vĩnh viễn ngay
trên mảnh đất mà ông đã lao động khổ sai hai mươi hai năm trước. Và ông đã trở
thành một nhà tư bản giàu có. Cái đáng quý ở Trương Hiền Lượng là dù ở hoàn
cảnh nào, văn chương vẫn là một thế giới cám dỗ cao quý và vẫn là một niềm
hoan lạc thanh khiết giữa vòng xoáy của số phận. Dù bước chân vào con đường
kinh doanh nhưng Trương Hiền Lượng không bao giờ quên thiên chức văn
chương của mình. Quá trình xây dựng thành phố điện ảnh Trấn Bắc Bảo đồng
thời cũng là quá trình thâm canh tác phẩm văn học của ông sau này. Chưa kể
nhiều tác phẩm nổi tiếng đã dịch ra gần 30 thứ tiếng khác nhau trước đây,
Trương Hiền Lượng liên tục cho ra mắt nhiều bộ tiểu thuyết lớn như: Cây Bồ đề,
Thời thanh xuân, Phiền muộn, Đó là trí tuệ...
Bằng những đóng góp nghệ thuật qua nửa thế kỉ, Trương Hiền Lượng đã
được xếp vào vị trí của những nhà văn xuất sắc nhất trong nền văn học Trung
Quốc. Sự mẫn cảm với những gì đang diễn ra hằng ngày, những vấn đề nóng
4
bỏng không riêng của Trung Quốc mà còn của cả nhân loại, đã khiến những
trang viết sắc sảo, đầy “chất tiểu thuyết” của Trương Hiền Lượng không chỉ thu
hút bao thế hệ độc giả mà còn gợi không ít những hứng thú tranh luận, trở thành
nơi “giao tiếp đối thoại” với đông đảo bạn đọc.
1.3. Một tỉ sáu của Trương Hiền Lượng phản ánh xã hội đương đại Trung Quốc
thông qua cuộc đời và số phận của một số người trong lớp “nhà giàu mới nổi” và
những bi - hài kịch mà họ là diễn viên chính. Tác giả đã mở ra cho bạn đọc hiểu hơn
về xã hội Trung Quốc đương đại trong sự phát triển của khoa học kĩ thuật tiên tiến,
đồng thời khám phá những góc khuất của xã hội.
Trong tác phẩm, Trương Hiền Lượng đã khéo léo đi sâu vào từng ngõ ngách
của đời sống con người trước guồng quay của thời đại mới, len lỏi vào tận sâu tâm
hồn của con người, những góc kín tưởng chừng như không mấy ai để mắt đến,
khám phá cái gọi là bản năng của con người. Ông giúp độc giả có cái nhìn thấu đáo
hơn về xã hội Trung Quốc đương đại.
Trong xã hội của Một tỉ sáu, trước sự biến đổi muôn màu của cuộc sống, xã
hội ngày càng phát triển mạnh mẽ, các nền kinh tế - khoa học kĩ thuật tiên tiến, đời
sống vật chất của con người vì thế cũng được nâng cao. Nhưng trước sự phát triển
mạnh mẽ đó thì đời sống tinh thần của con người lại xuống cấp trầm trọng. Con
người chủ yếu coi trọng địa vị, danh lợi, những toan tính trong cuộc sống đua chen
mà quên đi cách phải sống như thế nào. Đồng tiền trở thành mục tiêu phấn đấu của
con người trong xã hội đương đại.
Qua tiểu thuyết Một tỉ sáu, tác giả còn đặt ra một vấn đề lớn cho xã hội Trung
Quốc đương đại: tương lai của dân tộc Trung Quốc sẽ đi về đâu khi mà có sự chênh
lệch rất lớn về đời sống vật chất và đạo đức, nhân cách của con người? Đời sống vật
chất ngày càng phát triển, trong khi con người thì ngày càng xuống cấp về đạo đức,
về nhân cách?
Đó là vấn đề riêng của đất nước Trung Quốc nhưng đó cũng là vấn đề, là câu
hỏi day dứt mà nhân loại đặt ra: sau này tương lai của con người sẽ như thế nào? Đó
là những câu hỏi mang tầm bản thể luận.
1.4. Một tỉ sáu cũng là tác phẩm có giá trị nghệ thuật độc đáo và đặc sắc với những
tình tiết giả tưởng đầy hấp dẫn, kịch tính cùng với giọng văn hài hước, châm biếm.
Trong đó, đáng chú ý nhất ở Một tỉ sáu là nhà văn Trương Hiền Lượng đã tạo nên
một đứa con tinh thần với nét đặc sắc nhất là nghệ thuật châm biếm. Trong hành
5
trình đi sâu vào khám phá các phương diện nghệ thuật của tác phẩm để lí giải thành
công của Một tỉ sáu bằng việc vận dụng lí thuyết châm biếm thì mới thấy hết được
những đóng góp của nhà văn Trương Hiền Lượng mà nếu tiếp cận ở góc độ khác thì
không thấy được.
Vì những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Nghệ thuật châm biếm trong
tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trƣơng Hiền Lƣợng” để nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Sách, báo nghiên cứu về nhà văn Trương Hiền Lượng và những tác phẩm
của nhà văn
Một số bài viết ở các báo, tạp chí, sau đó được PGS.TS Hồ Sỹ Hiệp tập hợp lại
trong công trình Một số vấn đề về văn học Trung Quốc đương đại – NXB tổng hợp
Đồng Nai (2007) và Một số vấn đề văn học Trung Quốc thời kì đổi mới– NXB
ĐHQG thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, còn một số các công trình nghiên cứu
của PGS.TS Lê Huy Tiêu: Tiểu thuyết Trung Quốc thời kì cải cách mở cửa,(2011),
NXB Giáo dục ; Tiểu thuyết Trung Quốc thời kì đổi mới (1976 – 2000), (2006),
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ cấp
bộ Một số thành tựu và đặc điểm chủ yếu của tiểu thuyết Trung Quốc sau “Cách
mạng văn hóa” của PGS.TS Nguyễn Thị Bích Hải, tác giả công trình nghiên cứu
này đã khái quát được những nội dung và thành tựu của văn học Trung Quốc thời kì
sau “Cách mạng văn hóa”.
Trong luận văn Tiểu thuyết của Trương Hiền Lượng từ góc nhìn phân tâm học
(2014), Đinh Thị Hoàng Yến đã phần nào làm sáng rõ hành trình sáng tạo của nhà
văn Trương Hiền Lượng trong việc phân tích, nghiên cứu con người ở tầng sâu bí
ẩn của nó. Những giằng xé giữa ý thức và vô thức để khẳng định ý thức vươn lên
của con người, để thấy “Cách mạng văn hóa” tàn khốc kia có thể hủy diệt tất cả
song nó lại không thể tận diệt được khát vọng lí tưởng của con người.
Luận văn Thạc sĩ “Tính triết lí và trữ tình trong tiểu thuyết của Trương Hiền
Lượng” (Đại học KHXH và NV Hà Nội năm 2013), Hoàng Thị Lan làm rõ triết lí
về cái đói và sự tồn tại, triết lí giữa tự do và kìm kẹp, triết lí giữa sự sống và cái
chết. Tuy nhiên, luận văn này người viết chỉ tập trung đi vào nghiên cứu “tính triết
lí – trữ tình” qua hai tác phẩm Cây hợp hoan và Một nửa đàn ông là đàn bà. Người
viết chưa đi vào khai thác nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết của Trương Hiền
Lượng nói chung và Một tỉ sáu nói riêng.
6
Tác giả Lê Huy Tiêu đã cho rằng tiểu thuyết của Trương Hiền Lượng gợi sự
suy ngẫm giàu triết lí: “Bất luận đó là những tác phẩm viết về “vết thương” trong
“Cách mạng văn hoá” hay những tác phẩm phản ánh công cuộc cải cách, hình
tượng nhân vật trong tác phẩm của Trương Hiền Lượng đều có những suy nghĩ
mang tính triết lí sâu sắc” [ 51, 244].
Nhà xuất bản Phụ nữ đã có những lời nhận xét về tác phẩm Một tỉ sáu của
Trương Hiền Lượng như sau: Cuốn tiểu thuyết về xã hội đương đại Trung Quốc với
những tình tiết giả tưởng đầy kịch tính và giọng văn hài hước, châm biếm một lần
nữa khẳng định Trương Hiền Lượng xứng đáng là một trong số 100 nhà văn có ảnh
hưởng rộng lớn đến thế kỉ XX do tạp chí Time bầu chọn.
Ngoài ra, chúng tôi đã tiến hành thu thập những tư liệu nghiên cứu có liên
quan đến nghệ thuật châm biếm trong văn học nói chung và nghệ thuật châm
biếm trong sáng tác của một số nhà văn, một số tác phẩm văn học nói riêng.
Trong báo cáo nghiên cứu khoa học Nghệ thuật châm biếm của Lỗ Tấn trong
truyện ngắn thời kì đầu đăng trên Tạp chí khoa học, tập XXXVIII – số 1B2009- ĐH Vinh, tác giả Mai Đức Hán viết:
Nói đến nghệ thuật châm biếm tức là chúng ta nói tới cách thức lựa chọn đối
tượng, tổ chức văn bản nghệ thuật để vạch trần mâu thuẫn giữa bản chất và hiện
tượng, phơi bày những đặc tính xấu xa của đủ mọi hạng người trong xã hội, từ đó
làm bật lên tiếng cười châm biếm, đả kích [61, 1].
2.2. Tài liệu trên website viết về nhà văn Trương Hiền Lượng và những tác phẩm
của nhà văn
Trên online ngày 16 tháng 12 năm 2010, giới thiệu về
cuộc đời, sự nghiệp của nhà văn Trương Hiền Lượng. Ông đã bày tỏ những trăn trở:
“Tôi cảm thấy rất tự hào, vì tôi cùng vận mệnh với dân tộc Trung Hoa cũng đang
gặp trắc trở, hơn nữa lúc đó ngoài tôi ra nhiều công nhân, nông dân, cán bộ và tri thức
gặp phải chuyện tan cửa, nát nhà, lạc vợ, xa con, mất tự do, thậm chí mất tính mạng,
tôi vẫn phải coi là người may mắn sống sót”. Chính vì vậy, bằng ngòi bút tài hoa của
mình, ông đã ghi lại một cách chân thật một thời kì lịch sử để lại nhiều đau thương
không chỉ trên bản thân người thi sĩ mà còn cả dân tộc Trung Hoa.
Trên website: vietbao.vn/vi/van – hoa/ Nguoi..../181,1/3/2014, tác giả Hoài Vũ
trong mục Người đàn ông đi bán hoang vắng. Bài viết này đươc in trên báo Sài Gòn
Giải Phóng ngày 05 – 10- 2004. Tác giả có nhận xét:
7
Ngẩng đầu lên mênh mông/ Chỉ nghe ngọn gió mênh mông thổi về. Đúng như
câu hát dân gian, nơi đày ải Trương Hiền Lượng vô cùng hoang vắng, hiu quạnh,
chỉ có tiếng gió là còn chút sức sống. Gió như đoàn tàu tốc hành thổi ù ù suốt đêm
ngày, xới tung bụi cát màu vàng – màu sắc riêng biệt của vùng đất lưu vực sông
Hoàng Hà, xới tung những dằn vặt khổ đau của Trương Hiền Lượng và những
người chung số phận với ông trong thời kì cực kì buồn thảm của lịch sử Trung
Quốc. Ngay trên vùng đất màu vàng, giữa tiếng gió gầm rú đêm ngày, ông đã đổ ra
đến mức kiệt sức tâm huyết, mồ hôi và nước mắt của mình để viết nên “Một nửa
đàn ông là đàn bà” và “Cây lục hóa” làm chấn động văn học Trung Quốc.
Trang website: 4phuong.net/....../su-da-dang-ve-but-phap....tác giả Mai Hải
Oanh có nhận định:
Khi nói đến bút pháp tả thực mới cần thấy rằng đây là thủ pháp quan trọng
của khuynh hướng tiểu thuyết “nhận thức lại” lịch sử. Khuynh hướng này có phần
gần gũi với cảm hứng phản tư trong tiểu thuyết Trung Quốc thời kì cải cách mở cửa
với “Một nửa đàn ông là đàn bà” của Trương Hiền Lượng, “Nôn nóng” của Giả
Bình Ao, “Báu vật của đời” của Mạc Ngôn……..các nhà văn Trung Quốc đã nhìn
lại hàng loạt vấn đề đau lòng, những bi kịch đầy nước mắt trong thời kì cách mạng
văn hóa. Tác phẩm của họ được người đọc đón chào nồng nhiệt bởi từng trang viết
thấm đầy tinh thần phản tư.
Trên Website://Tiki.vn/review/……ngày 21/1/2013, người đọc Phạm Thành
Trung có nhận xét:
Tác giả đã sáng tạo nên một câu chuyện hết sức hấp dẫn với tất cả vẻ sinh
động và khác biệt cần có để tạo nên một tác phẩm giả tưởng đầy kì thú. Mỗi trang
sách đều có những chi tiết hay, những câu văn rất đắt, những miêu tả tinh tế làm
cho người đọc thích thú hấp dẫn một cách không ngờ.
Tài liệu nghiên cứu về Trương Hiền Lượng và sáng tác của nhà văn mà chúng
tôi tìm thấy ở trên mạng cũng không nhiều. Chủ yếu là các bài viết của Hoài Vũ,
Mai Hải Oanh và ý kiến của một số độc giả sau khi đọc tác phẩm Một tỉ sáu. Tác
giả Hoài Vũ đã nhận xét về Trương Hiền Lượng trong mối quan hệ với lịch sử dân
tộc; tiểu thuyết của Trương Hiền Lượng chính là hiện thân của hiện thực cuộc sống
đau khổ ngoài kia.
Mai Hải Oanh đã đánh giá hàng loạt các nhà văn Trung Quốc trong khi nhìn
lại hầu khắp các vấn đề đau lòng cũng như những bi kịch thời đại trong thời kì “
8
Cách mạng văn hóa”. Và từ góc nhìn đó, Trương Hiền Lượng cũng đã đóng góp
một phần không nhỏ trong hành trình lịch sử của văn học dân tộc.
Ý kiến nhận xét của độc giả Phạm Thành Trung mới chỉ dừng lại ở cái nhìn
chung chung tổng quan nhất về đặc sắc trong ngòi bút nghệ thuật của Trương Hiền
Lượng, chưa đi sâu vào một phương diện nào cụ thể.
Nhìn chung, tài năng của Trương Hiền Lượng đến nay không còn gì nghi ngờ
và bàn cãi. Tuy nhiên ở Việt Nam, tên tuổi của ông vẫn còn khá xa lạ khi so sánh
với những cái tên như Cao Hành Kiện, Mạc Ngôn, Sơn Táp… Mặc dù các nhà
nghiên cứu đã đề cập nhiều vấn đề trong từng tác phẩm của Trương Hiền Lượng,
nhưng trong phạm vi khảo sát tìm hiểu của chúng tôi, cho đến nay, hầu như chưa có
một đề tài nào chuyên sâu tìm hiểu về “Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một
tỷ sáu của Trương Hiền Lượng”. Trên tinh thần tiếp thu, phát triển ý kiến của người
đi trước và một số ý kiến cá nhân, chúng tôi xin mạnh dạn góp phần làm sáng tỏ vấn
đề: “Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng”
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết
Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng tập trung trên các bình diện: Đề tài, cốt truyện,
nhân vật, giọng điệu và thủ pháp.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung khảo sát tác phẩm Một tỉ sáu của nhà văn Trương Hiền Lượng.
Ngoài ra, khảo sát các tác phẩm khác của ông cũng như của một số nhà văn khác để
đối sánh.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp cấu trúc - hệ thống
Nghiên cứu nghệ thuật châm biếm thể hiện trên mọi phương diện nội dung và
hình thức trong quan hệ biện chứng và mang tính chỉnh thể trọn vẹn của tác phẩm.
4.2 Phương pháp liên ngành
Đặt tác phẩm dưới góc nhìn liên ngành như: Thi pháp học, Xã hội học, Tâm
lí học, Tiếp nhận văn học…..để thấy được sự đánh giá khác nhau về giá trị của
tác phẩm.
9
4.3 Phương pháp so sánh
Chúng tôi so sánh đối chiếu Một tỉ sáu với những sáng tác trước và sau đó để
thấy được sự tiếp biến của nhà văn.
Ngoài ra, chúng tôi còn vận dụng các phương pháp và thủ pháp để nghiên
cứu như: phân tích tổng hợp, thống kê phân loại…..để giải quyết những vấn đề
do đề tài đặt ra.
5. Đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu đã đem lại những đóng góp sau:
- Luận văn góp phần giới thiệu nhà văn Trương Hiền Lượng đối với độc giả
Việt Nam và nêu bật thành công của tác phẩm Một tỉ sáu. Ông là một tác giả ưu tú,
xuất sắc của văn học Trung Quốc đương đại, với một giọng văn độc đáo: vừa giàu
tính triết lí, trữ tình, vừa mang màu sắc châm biếm sâu cay. Từ đó thấy được thế
giới quan và nhãn quan nghệ thuật của Trương Hiền Lượng.
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện về nghệ thuật
châm biếm trong một tác phẩm nổi tiếng của Trương Hiền Lượng. Từ tác phẩm này,
luận văn đã góp phần làm rõ vấn đề lí thuyết, giúp người đọc hiểu được một cách
tường minh, đầy đủ và toàn diện về nghệ thuật châm biếm trong văn học nói chung
và trong tác phẩm Một tỉ sáu nói riêng. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu Nghệ thuật
châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương Hiền Lượng, luận văn sẽ là tài
liệu tham khảo quý báu cho những ai quan tâm đến đề tài nói chung và sáng tác của
Trương Hiền Lượng nói riêng.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Phần nội dung
chính được triển khai gồm 3 chương:
Chương 1: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương
Hiền Lượng nhìn từ phương diện đề tài.
Chương 2: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương
Hiền Lượng nhìn từ phương diện cốt truyện và nhân vật.
Chương 3: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trương
Hiền Lượng nhìn từ phương diện giọng điệu và thủ pháp.
10
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
NGHỆ THUẬT CHÂM BIẾM TRONG TIỂU THUYẾT
MỘT TỶ SÁU CỦA TRƢƠNG HIỀN LƢỢNG
NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN ĐỀ TÀI
1.1. Nghệ thuật châm biếm trong văn học
Châm biếm là một trong những thủ pháp nghệ thuật dùng lời lẽ sắc sảo, cay
độc, thâm thuý để vạch trần thực chất xấu xa của những đối tượng và hiện tượng
này hay đối tượng và hiện tượng khác trong xã hội.
1.1.1 Châm biếm trong văn học truyền thống
Truyền thống văn học của mọi dân tộc đều có yếu tố/ cảm hứng humour (hài
hước) và Irony (châm biếm). Trong văn học dân gian, tính chất hài hước và châm
biếm đã tồn tại từ rất sớm ở những thể loại thơ ca dân gian, cách ngôn dân gian,
truyện ngụ ngôn và truyện cười với những biến thể của nó như giai thoại trào tiếu,
hý ngôn, hài kịch… Các nhà lí luận văn học Trung Hoa đầu thế kỷ XX cũng đồng
thời với nhà văn Nhất Linh ở Việt Nam đã dịch khái niệm humour trong nguyên
ngữ tiếng Pháp sang âm Hán (Việt) là u mặc (sau đó giữa thế kỷ XX ở Việt Nam
mới xuất hiện từ mượn kí âm là uy - mua).
Truyện cười và hài kịch dân gian là hai thể loại dồi dào sức châm biếm nhất
trong các thể loại của văn học dân gian. Bởi lẽ, ở hai thể loại này, so với các thể loại
khác đã có sự chuyển đổi về mặt đối tượng thẩm mỹ. Xuất hiện với vai trò mở đầu
cho loại hình ý thức xã hội, huyền thoại lấy cái kỳ ảo làm đối tượng thẩm mỹ.
Truyền thuyết và sử thi, tuy cũng chưa dứt được cái huyền ảo nhưng đã xác định cái
cao cả, cái hùng tráng là đối tượng thẩm mỹ của riêng mình. Truyện cổ tích lại lấy
cái đẹp, cái thiện để làm đối tượng thẩm mỹ. Bi kịch lấy cái bi kịch làm đối tượng
thẩm mỹ. Còn truyện cười và hài kịch dân gian lại lấy cái hài hước, dí dỏm để làm
đối tượng thẩm mỹ với tính độc đáo riêng biệt.
Xét về mặt tính chất của đối tượng thẩm mỹ, cái hài như cách nói của Voltare
là cái đẹp nhược căn trong hình thái sự lệch chuẩn của cái đẹp. Cho nên, cái độc đáo
11
của truyện cười và hài kịch dân gian là ở chỗ nhìn ra và nắm bắt nhanh nhạy những
yếu tố phi lý trong đời sống xã hội. Cũng chỉ có truyện cười và hài kịch dân gian,
theo S. Freud và C. Jung, đều sử dụng trạng thái cảm xúc sợ hãi làm vũ khí đấu
tranh. Bởi như đã nói, tiếng cười toát ra từ nỗi sợ hãi từ vị thế của kẻ yếu.
Xét về mặt động cơ tâm lý của thể loại thì nghệ thuật châm biếm trong thể loại
truyện cười và hài kịch dân gian gắn với vị thế của kẻ yếu như trên đã nói. Trong
khi đó, huyền thoại/ thần thoại ra đời trên vị thế của người cha. Cho nên cái kỳ ảo
gắn liền với tâm thế ngưỡng vọng, sùng bái, kính sợ. Truyền thuyết – sử thi vừa
được xây dựng trên vị thế người cha, nhưng cũng được xây dựng dựa trên vị thế của
đứa con trác tuyệt - kẻ tiệm cận đến gần với người cha thần thánh nên cái cao cả,
trác tuyệt, hùng tráng gắn liền với sự ngưỡng mộ, tôn kính. Trong xã hội phương
Đông lẫn xã hội phương Tây, truyền thuyết – sử thi đóng vai trò cực kỳ quan trọng
trong việc liên kết các thành viên của cộng đồng. Cho nên điểm nhìn xây dựng của
nó là điểm nhìn của sự cố kết để xây dựng xã hội. Truyện cổ tích được xây dựng
dựa trên vị thế của đứa con bình thường nên nó gắn liền với cái nhìn mộng tưởng về
sự công bằng. Truyện cổ tích trong sinh quyển văn hoá dân gian được tiếp nhận và
lưu truyền từ điểm nhìn cá nhân, thấp hơn sự phản ánh xã hội nên nó không có tính
đấu tranh xã hội. Bi kịch dân gian là sự phóng chiếu bi kịch cá nhân xã hội hơn
truyện cổ tích nhưng cũng chưa phải là sự đấu tranh xã hội mà chỉ dừng là sự phản
ánh xã hội. Ngược lại, truyện cười và hài kịch dân gian được xây dựng trên quan
điểm phản biện xã hội. Bởi vì nó hình thành trên động cơ tâm lý của kẻ yếu, muốn
tồn tại được phải dựa vào trí thông minh và sự tinh nhạy để đấu tranh với xã hội.
Cho nên nghệ thuật châm biếm của hai thể loại này có tính đấu tranh trực tiếp so với
truyện cổ tích (thế sự) và bi kịch.
Xét về mặt trình độ xã hội của đối tượng thẩm mỹ, cái hài hước và nghệ thuật
châm biếm rất cần thiết cho sự hình thành và phát triển của xã hội dân chủ. Chính vì
vậy mà Platon đã rất công nhận cái hài và trào phúng, châm biếm. Nhưng ông cũng
lo sợ nó làm ảnh hưởng đến nhà nước lý tưởng của ông, vì nó làm con người thiếu
nghiêm túc khi nhận thức đối tượng qua cái đối lập. Những xã hội càng thiếu tính
dân chủ lại càng sợ cái hài hước và sự châm biếm. Và ngược lại, xã hội càng dân
12
chủ bao nhiêu thì tiếng cười châm biếm càng nở rộ và góp phần thúc đẩy văn minh
bấy nhiêu.
Với lý do như vậy, mà nghệ thuật châm biếm trong truyện cười và hài kịch
dân gian đã nhanh chóng hoà nhập vào xã hội hậu hiện đại. Nó vừa giữ nguyên
chính mình trong khuôn khổ thể loại chưa đông cứng của nó, lại vừa thâm nhập vào
các thể loại lẫn phương pháp sáng tác khác nhau trong tiến trình lịch sử văn học của
cả nhân loại.
1.1.2. Châm biếm trong tiểu thuyết hậu hiện đại
N. Frye trong công trình Giải phẫu phê bình đã nêu lên bốn kiểu nhân vật văn
học theo khả năng thực hiện hành động của nhân vật như sau:
(1) “Nhân vật có phẩm chất siêu việt hơn con người và hoàn cảnh chung
quanh thì đó là thần thánh, và câu chuyện kể về nhân vật sẽ là một huyền
thoại…, nghĩa là kể về thần thánh”. “Những câu chuyện như vậy có vị trí quan
trọng trong văn học, nhưng theo quy tắc, chúng không nằm trong bảng phân loại
văn học hiện đại” [57].
(2) “Nếu nhân vật có đẳng cấp cao hơn con người và hoàn cảnh xung quanh
thì đó là nhân vật của những câu chuyện cổ tích” [57].
(3) “Nếu nhân vật có đẳng cấp cao hơn những người khác, nhưng lệ thuộc vào
thực tại trần gian thì đấy là loại nhân vật cai trị” [57].
(4) “Nếu nhân vật không có gì vượt trội hơn mọi người và hoàn cảnh xung
quanh thì nhân vật đó là một trong số chúng ta: chúng ta thấy nhân vật là một người
bình thường, và đòi hỏi nhà văn phải thể hiện nhân vật đó theo quy tắc đảm bảo tính
chân thực, đúng như chúng ta cảm nhận được theo kinh nghiệm sống. Nhân vật đó
thuộc về các mô thức mô phỏng bậc thấp. Mà trước hết là nhân vật của hài kịch và
các tác phẩm văn học hiện thực” [57].
(5) “Nếu nhân vật có trí tuệ và sức mạnh thấp kém hơn chúng ta, bởi chúng ta
luôn có cảm giác đứng từ trên cao mà quan sát họ với lối sống nô lệ, đầy bất cập và
thất bại, thì đó là nhân vật của mô thức châm biếm, mỉa mai. Điều này cũng hợp lý
ngay cả khi độc giả hiểu rằng bản thân mình đang, hoặc có thể là đang ở vào hoàn
cảnh giống như nhân vật, nhưng mặt khác lại có thể độc lập phê phán nhân vật” [57].
13
Như vậy, mô thức nhân vật bậc (4) và bậc và (5) là thuộc về mô thức văn học
hài kịch – mô thức văn học châm biếm. Ông khẳng định rằng kể từ 100 năm sau khi
tiểu thuyết của Daniel Defoe xuất hiện, thì văn học càng ngày càng tiệm cận với các
mô thức cái hài.
Tiểu thuyết văn học từ thập niên 50 của thế kỷ XX cho đến nay, như quan
điểm của N. Frye, ngày càng thẩm thấu yếu tố của mô thức hài kịch, châm biếm.
Tiểu luận của Kundera sau những phần phát biểu về đặc trưng của tiểu thuyết hậu
hiện đại cũng có nhắc đến hiện tượng phát triển mô thức hài hước, châm biếm trong
tính bối cảnh của thời đại.
Theo Kundera, tiểu thuyết có khả năng chuyển hoá triệt để những cái thuộc
phạm trù nghiêm trang thành cái có tinh thần hài hước. Trong cuốn Tiểu luận này,
không phải ngẫu nhiên mà ông thường xuyên nhắc tới những tên tuổi bất hủ là
Cervantes, Rabelais và Kafka. Đó là những huyền thoại đã sáng tạo ra những huyền
thoại đậm đà tính chất humour. Kundera đưa ra lập luận rằng: “Tiểu thuyết sinh ra
không phải từ tinh thần lý thuyết mà từ tinh thần hài hước. […] Nghệ thuật bắt
nguồn cảm hứng từ cái cười của Thượng Đế” [22,167]. Đặc biệt, Kundera phát hiện
ra rằng Rabelais rất sợ những kẻ không bao giờ biết cười là gì. Và cũng trong Tiểu
luận này, ông đã tiến hành phân biệt cái hài hước với tư cách là một phát kiến của
tiểu thuyết với cái cười giễu nhại, châm biếm. Cái hài hước khác với sự châm
biếm, đả kích ở chỗ: hài hước khoác cho đối tượng một lớp áo khác khiến cho đối
tượng trở nên mơ hồ, khó định hình. Kundera nhắc lại phát biểu của Octavio Paz:
cái hài hước chỉ hình thành cùng sự ra đời của tiểu thuyết và Cervantes là người
đã đem lại cho tiểu thuyết sự hiền minh của hài hước. Cái hài có thể tạo ra tiếng
cười khoái hoạt nhưng cũng có thể gắn với nỗi sầu thảm muôn năm. Đọc Kafka,
Kundera đã thấy rõ “cái hài của nỗi buồn” như một định mệnh của tiểu thuyết
Kafka. Ông cho rằng những cảnh tình dục ở Kafka có sự song hành giữa tính hài
hước và nỗi buồn chất ngất.
Kundera cũng đặc biệt nhạy cảm với sự toàn trị. Bởi lẽ ông đã trải qua những
năm tháng sang chấn tinh thần khi sống trong bầu không khí sặc sụa mùi độc tài của
chủ nghĩa Stalin. Ông ủng hộ giả thiết rằng chủ nghĩa duy lý vô thần của châu Âu
14
thế kỷ XVIII, sự tuyệt đối hóa sức mạnh lý trí của CNCS đã đem lại tai hoạ là chủ
nghĩa toàn trị Nga. Sở dĩ ông liên hệ đến thế giới toàn trị là vì trong thế giới đó
không hề chấp nhận sự hài hước cũng như không chấp nhận tính chất song hành,
tính chất đa âm đa diện. Những gì tồn tại trong xã hội toàn trị thì hoàn toàn không
được tiểu thuyết dung nạp như một chất liệu sáng tác quý giá. Đó là sự phán xét,
quy kết – những thiết chế của xã hội toàn trị. Kundera nói: “Treo phán xét đạo đức
lại không phải là sự vô đạo đức của tiểu thuyết, đấy chính là đạo đức của tiểu
thuyết” [22, 180]. Đạo đức đó của tiểu thuyết nhằm “chống lại thói quen bất trị của
con người cứ muốn phán xét tức thì, lúc nào cũng phán xét, phán xét mọi người,
phán xét trước và chẳng cần hiểu” [22, 180]. Đó là sự phán xét lệch chuẩn và mang
tính khuôn mẫu của của định kiến. Và tiểu thuyết với sức mạnh của nó đã góp phần
xóa bỏ sự phán xét mà nói như ngôn ngữ của tác giả là một thói quen “ngu xuẩn”,
“đáng ghét”, “độc hại”. Kundera nhận định rằng sở dĩ xã hội phương Tây là một xã
hội tự do dân chủ, xã hội của dân quyền và nhân quyền là nhờ tác động giáo dục của
một nền nghệ thuật - mà trước tiên là tiểu thuyết. Nền nghệ thuật đó “dạy cho người
đọc biết tò mò về kẻ khác và cố gắng tìm hiểu những chân lý khác với chân lý của
mình” [22, 181]. Văn học và nghệ thuật châu Âu đã dạy cho con người tinh thần
tiếp thu và sự chấp nhận với những gì không giống mình.
Như vậy, sự văn minh, dân chủ tự do trong xã hội phương Tây có thể được coi
là thành quả của tiểu thuyết và nghệ thuật.
Rõ ràng, Kundera đã nhìn thấy được sức mạnh và sứ mệnh của cái hài hước,
sự châm biếm trong tiến trình hoàn thiện xã hội.
1.2. Đề tài châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu của Trƣơng Hiền Lƣợng
Đại Cách mạng văn hóa cùng xu hướng đổi mới của văn học đương đại đã tạo
nên một diện mạo mới cho văn đàn Trung Quốc, xuất hiện nhiều phong cách mới lạ,
độc đáo, Trương Hiền Lượng là một tác giả tiêu biểu.
Tiểu thuyết Trung Quốc thời kì cải cách mở cửa đã bắt đầu bước vào thời kì
phát triển rực rỡ mà trước hết là sự bùng nổ của đề tài: đề tài “tình yêu đôi lứa”, đề
tài “thanh niên trí thức”, đề tài về “lịch sử và cách mạng từ Minh – Thanh đến trước
ngày dựng nước”. Ngoài những đề tài trên, tiểu thuyết thời kì cải cách mở cửa còn
15
viết về cuộc đời của người lính; phong tục tập quá của các dân tộc; cuộc sống của
thị dân, của giới trí thức, của thanh thiếu niên; các tệ nạn xã hội như quan liêu, tham
nhũng, ma túy, an ninh xã hội, tài tử giai nhân….Có thể nói, đề tài của tiểu thuyết
thời kì cải cách mở cửa được mở rộng hết mức độ, gần như không có một mảng nào
của cuộc sống mà không được phản ánh.
Tiểu thuyết “Một tỉ sáu” là một bước ngoặt trong lối viết của nhà văn Trương
Hiền Lượng. Màu sắc chủ đạo nổi bật trong nghệ thuật thể hiện Một tỉ sáu của
“người đàn ông đi bán hoang vắng” đã từng trải qua hai mươi năm bão táp cuộc đời
là một gam màu u-mua, châm biếm sâu cay. Nếu nói Một tỉ sáu là hành trình khoa
học giả tưởng đi tìm kiếm một con người hoàn hảo với kho hạt giống khổng lồ để
cứu cánh cho cả nhân loại nói chung và dân tộc Trung Hoa nói riêng khỏi tấn bi
kịch bị diệt vong, thì bằng nghệ thuât châm biếm, Trương Hiền Lượng đã tạo tác
nên những con người tham gia hành trình tìm kiếm ấy cứ mải miết ngụp lặn trong
tấn kịch vưà bi vừa hài. Từ đó toát bật lên tư tưởng của nhà văn trước thực trạng xã
hội Trung Quốc đương đại. Và người ta dễ nhận thấy phương diện nghệ thuật đầu
tiên biểu hiện cho nghệ thuật châm biếm trong Một tỉ sáu chính là đề tài. Đề tài
châm biếm trong Một tỉ sáu được tập trung ở các bình diện: tương lai dân tộc, nhân
vật lịch sử, xã hội kim tiền- hãnh tiến, khoa học “giả cầy”.
1.2.1 Châm biếm tương lai dân tộc
Cái được gọi là “tương lai dân tộc” luôn trở đi trở lại trong xuyên suốt tác
phẩm Một tỷ sáu như một niềm ám ảnh cần phải được tri nhận.
Dân tộc Trung Hoa cũng như nhân loại luôn luôn đặt ra câu hỏi về tương lai
của loài người sẽ ra sao. Nhưng câu hỏi này đặc biệt là giấc mơ và sự khắc khoải
tột cùng của người Trung Hoa. Chính vì vậy tâm lý muốn giải đáp tương lai
chủng tộc sẽ như thế nào mà Trung Quốc sớm nổi danh là đất nước trọng sử. Và
người Trung Hoa luôn thường trực tâm lý lưu danh thanh sử và muốn phát triển
tộc người. Gánh nặng dân số của Trung Quốc hiện nay chính là từ tâm lý muốn
phát triển chủng tộc như vậy.
Phản đề về tương lai dân tộc Trung Hoa trong tiểu thuyết Một tỷ sáu được
Trương Hiền Lượng xây dựng trên hai thực tế:
16
Thứ nhất là tâm lý khuếch đại dân tộc để thống lĩnh thế giới. Lịch sử cổ đại và
trung đại Trung Quốc chính là câu trả lời chuẩn xác nhất và là thực tế hoàng kim
nhất. Giới thống trị Trung Quốc hiện đại từ Mao Trạch Đông cho tới Tập Cận Bình
đều muốn tiếp tục giấc mơ về chủng tộc siêu việt của các hoàng đế xa xưa. Lịch sử
đương đại thế giới đã phải ghi nhận cách ngôn mới từ dân tộc này là: Người Trung
Quốc đi đến đâu thì cương giới Trung Quốc mở rộng đến đó. Tâm lý này khá giống
tâm lý tự thôi miên của người Đức dưới chế độ toàn trị của Hitler về một chủng tộc
Đức thượng đẳng. Đây là một nguy hại lớn có tính lịch sử. Trương Hiền Lượng đã
nhìn thấy tính chất độc hại trong tư tưởng và giấc mơ mang màu sắc Trung Quốc
của giới lãnh đạo cộng sản toàn trị Trung Quốc.
Thứ hai là hiện tượng cưỡng chế đi ngược nhân văn của một nền pháp luật bất
cận nhân tình. Đó là chính sách cưỡng chế sinh đẻ một con mà chính quyền Trung
Quốc theo đuổi cho đến ngày nay. Vấn đề ngăn cấm này vừa tạo ra di hại lâu dài về
vấn đề dân tộc, vừa tạo ra cú sốc tâm lý – văn hoá trong tiềm thức của dân tộc có
truyền thống phát triển chủng tộc siêu việt. Bên cạnh đó, người ta còn dễ dàng nhận
ra hiện tượng vô sinh ở nam giới Trung Quốc và thế giới trong thời hiện đại càng
ngày càng cao.
Tuy nhiên, Một tỷ sáu không phải là một tiểu thuyết khoa học giả tưởng thuần
tuý mà đó là một tiểu thuyết có tính triết lý. Tính triết lí này lại được thể hiện bằng
thủ pháp châm biếm đặc trưng. Những sự kiện khoa học (có phần nào khoa học)
được ông sử dụng nhằm mục đích làm chi tiết hoá luận đề mà ông đưa ra đồng thời
để xây dựng không khí nghiên cứu khoa học nhằm làm nền cho tác phẩm. Bởi vậy,
phản đề lớn nhất vừa mang tầm quốc dân tính cực đoan đậm màu sắc tư tưởng
Trung Quốc vừa mang tầm nhân loại mà Trương Hiền Lượng đặt ra là phản đề về
chủng tộc (nhân loại) vô sinh và tuyệt diệt trong tương lai.
Qua tác phẩm của mình, nhà văn Trương Hiền Lượng đã vạch ra trước mắt
chúng ta một sơ đồ về xã hội và con người Trung Quốc đương đại. Tất cả đều được
phản ánh một cách sâu sắc. Đứng trước số phận “ngàn cân treo sợi tóc” của dân tộc
trong tương lai, nhà văn Trương Hiền Lượng đã diễn tả được sự thật về xã hội
Trung Quốc thời hiện đại. Và hơn ai hết tác giả mong muốn sẽ có một con người
hoàn hảo đứng ra cứu giúp vận mệnh của dân tộc.
17
Ngay từ đầu tác phẩm, nhà văn đã hé mở về nhân vật bí ẩn hoàn hảo này - một
con người sẽ mang trong mình sứ mệnh của dân tộc, sứ mệnh làm thay đổi lịch sử
Trung Quốc tương lai. Tác phẩm xoay quanh những kiểu con người khác nhau
trong xã hội Trung Quốc đương đại. Mỗi kiểu con người có những số phận và cuộc
đời khác nhau. Nhà văn đã nói lên những nỗi lòng của mình khi đứng trước một xã
hội loài người mà vấn đề danh vọng luôn đặt lên hàng đầu. Một sự thất vọng về xã
hội chỉ đầy những “đại gia”, “tiểu thư”, “quan tham” và bên kia là bao số phận
của những đứa trẻ tội nghiệp. Cuộc sống muôn màu với những con người chỉ biết
sống theo bản năng, không có mục đích tiến tới, không tình yêu. Và càng tệ hại hơn
đó là khi xã hội ngày càng hiện đại con người ngày càng mất đi khả năng tạo ra một
thế hệ mới. Tác giả đã đặt ra một vấn đề bức thiết cho dân tộc: Trung Quốc có thể
sẽ bị diệt vong khi mà xã hội ngày càng phát triển đi lên thì đồng nghĩa với việc
bệnh viện liên tục nhận được những ca chữa bệnh vô sinh.
Nhà văn đã khéo léo tạo ra những biến cố của tác phẩm, từ đó xây dựng nên
những kiểu con người đặc trưng của xã hội. Đồng thời nói lên được mong muốn của
chính mình muốn gửi gắm trong tác phẩm: “một con người hoàn hảo” không phải
là một con người bình thường như bao nhiêu người khác, mà nhân vật đó phải là
một “nhân vật kiệt xuất” và “Nhân vật kiệt xuất sẽ có những cống hiến to lớn trong
lịch sử tương lai của Trung Quốc”. Nếu là một con người hoàn hảo thì tất yếu phải
được sinh ra từ những cặp vợ chồng hoàn hảo. Một người cha, người mẹ tốt về mọi
mặt thì mới có thể tạo ra được một thế hệ hoàn hảo chứ! Nhưng Trương Hiền
Lượng đã tạo ra những tình huống bất ngờ của tác phẩm. Vấn đề sinh ra một con
người hoàn hảo thực sự theo quan niệm của nhà văn liệu sẽ có không? Chính nhà
văn cũng chưa thể giải thích được, nhưng đó là chuyện của tương lai, của mấy chục
năm về sau. Và bây giờ tác giả đã vạch ra những bước tiến cho sự ra đời của nhân
vật mang sứ mệnh của nhân loại.
Trước hết trong xã hội đầy nhố nhăng này việc tìm kiếm một con người hoàn
hảo sẽ rất khó khăn. Nhìn con người đầy đường mà chỉ thấy chạnh lòng. Sự thất
vọng nặng nề đã giúp bác sĩ nhận ra rằng cái con người hoàn hảo kia sẽ được sinh ra
từ những con người có khiếm khuyết mang tên là Nhất Ức Lục. Anh là người bị
18
thiểu năng, dù rất khoẻ mạnh và thậm chí là một con người có kho hạt giống khổng
lồ. Một người cha ngờ nghệch sẽ gặp một người mẹ “đĩ điếm”. Từ một đứa trẻ gặp
cảnh đời bất hạnh, Nhị Bách Ngũ liên tiếp bị những kẻ lưu manh hãm hại, lợi dụng
thân xác của cô để kiếm tiền. Sự kết hợp như vậy rồi sẽ ra sao? Hai con người ấy
đều có một sự trong sáng, ngây thơ trong tâm hồn, không bị dòng đời đua chen tác
động. Họ đến với nhau bằng tình yêu thực sự, một tình yêu ngây thơ non nớt của
tâm hồn hai đứa trẻ tội nghiệp. Nhân vật hoàn hảo ấy sẽ được sinh ra và sẽ là người
kiệt xuất cứu giúp toàn dân tộc Trung Hoa.
Một bức tranh xã hội Trung Quốc đương đại đang dần được phơi bày trong
hành trình tìm kiếm con người hoàn hảo. Nhà văn đã thành công khi vạch trần bộ
mặt của nền kinh tế thị trường, biến tướng của những nhố nhăng trong vòng quay
của nền kinh tế ấy. Trên con đường tìm kiếm con người hoàn hảo, những dự báo về
một tương lai mờ mịt của con người thế hệ mai sau cũng được giãi bày.
Tác phẩm đặt ra những tình huống về bức tranh xã hội Trung Quốc đương đại,
về tương lai của dân tộc, tương lai của con người trong xã hội ấy. Con người trong
xã hội hiện đại đang dần đánh mất đi chính bản thân mình. Sự xuống cấp về phẩm
chất, nhân cách của con người trong xã hội ấy báo hiệu cho một tương lai không
mấy sáng sủa. Từ đó có thể thấy được rằng khi nhìn nhận vấn đề của xã hội, nhà
văn Trương Hiền Lượng đã có những góc nhìn khác nhau trong tác phẩm của
mình. Đứng theo góc nhìn của chính nhà văn thì xã hội đang phát triển mạnh, nền
kinh tế đang ngày càng vững chắc. Tuy nhiên, khi xã hội ngày càng phát triển, đời
sống vật chất của con người vì thế lại được chú trọng nhiều hơn. Vật chất trở
thành điều kiện tiên quyết trong cuộc sống của loài người, thì những mặt trái của
sự phát triển ấy đã nảy sinh.
Việc mở ra bệnh viện Chúng Sinh với mục đích phục vụ cho sức khoẻ của con
người và hơn thế là việc nghiên cứu thụ tinh nhân tạo cho con người. Bác sĩ Lưu là
người chịu trách nhiệm trong việc nghiên cứu tìm ra phương pháp thụ tinh nhân tạo
cho con người. Trong quá trình nghiên cứu ấy, ông đã chợt nhận ra những thứ
không đáng trong xã hội này “Từ lâu chủ nhiệm Lưu đã để ý tới, vấn đề lớn nhất
mà loài người phải đối mặt không chỉ là vấn đề mà người ta tranh cãi mãi không
19
thôi như chiến tranh, nghèo đói, chủ nghĩa khủng bố, thiếu hụt lương thực, sa mạc
hoá trái đất…mà là nhân loại sắp tuyệt chủng” [30, 96]. Thật vậy, những vấn đề
chiến tranh hay những vấn đề nghèo đói cũng không có gì đáng lo ngại. Những vấn
đề thực sự đáng bàn đến ở đây là con người, là sự diệt vong của dân tộc Trung Hoa.
“Cuối cùng, đời sống vật chất phong phú đấy nhưng tinh trùng trong tinh hoàn lại
thiếu hụt, hai cái đó tỉ lệ nghịch với nhau. Khi đời sống vật chất đạt tới mức độ cao
nhất của lịch sử thì tinh trùng trong tinh hoàn sẽ giảm tới mức số không, không thể
sinh đẻ được gì, và loài người chính thức bị tuyệt diệt” [30, 97]. Chủ nhiệm Lưu đã
có cuộc khảo sát về số lượng tinh trùng của nam giới những năm trước và những
năm gần đây, thì thấy một sự thật nghiệt ngã rằng, khi mà xã hội đang còn nghèo
đói, cuộc sống còn phải lo nhiều thứ thì số lượng tinh trùng của nam giới lại rất tốt
và khoẻ mạnh. Nhưng khi xã hội phát triển, mức sống của con người được nâng cao
thì số lượng tinh trùng của nam giới lại giảm rất mạnh và rất yếu:
“ Những năm ông học đại học vào cuối thập kỉ năm mươi đầu thập kỉ sáu
mươi của thế kỉ XX là những năm cung ứng vật chất của Trung Quốc thiếu hụt nhất,
mức sống của người dân yếu kém nhất, cả đến cà rốt dân cũng chẳng có mà ăn,
ngày nào cũng chỉ nhai rau muối và nuốt cháo khiến cho nhiều người dân bị phù
thủng vì thiếu dinh dưỡng. Nhưng lúc ấy tinh trùng của đàn ông Trung Quốc mỗi
miliit có khoảng sáu mươi triệu con. Những năm gần đây ông xét nghiệm tinh dịch
mấy ngàn đàn ông thì nói chung, trong mỗi millit tinh dịch của đàn ông Trung Quốc
bình quân chỉ còn khoảng ba mươi triệu, hơn nữa mỗi năm một giảm và có xu thế sa
sút về chất lượng, tức là tiến gần đến nhân chủng Trung Quốc tuyệt diệt” [30, 99].
Một cuộc khảo sát về tinh trùng của nam giới được các bác sĩ thực hiện thụ
tinh nhân tạo cho giám đốc Vương Thảo Căn theo yêu cầu của San San. Một loạt
nam giới được kiểm tra. Đầu tiên là những công nhân, nhưng không có ai đạt được
yêu cầu cả. Tuổi của họ còn trẻ nhưng phần lớn tinh trùng của họ không chết thì
cũng bị khiếm khuyết, không thể thích hợp cho việc chọn giống thụ tinh được. Âu
cũng bởi những người công nhân này đều làm những việc liên quan đến hoá học,
nên nó chịu ảnh hưởng nhiều từ những chất hoá học. Một loạt những người đàn ông
khác đăng kí qua mạng nhưng không ai có thể làm vừa lòng chủ nhiệm Lưu.
20