ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
PHAN THỊ VI
MỨC ĐỘ STRESS CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG NAM
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Huế, năm 2016
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
PHAN THỊ VI
MỨC ĐỘ STRESS CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG NAM
Chuyên ngành: TÂM LÝ HỌC
Mã số: 60 31 04 01
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
TS. LÊ NAM HẢI
Huế, năm 2016
1
LỜI CAM ĐOAN
Đề tài luận văn: “Mức độ stress của SV trường Đại học Quảng Nam ” được
tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Lê Nam Hải. Tôi xin cam đoan đây là công
trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận
văn là trung thực, được các tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố
trong bất kỳ một công trình nào khác.
Huế, tháng 9 năm 2016
Tác giả luận văn
Phan Thị Vi
2
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, chúng tôi bày tỏ lòng biết ơn tới TS. Lê Nam Hải người đã tận tụy giúp đỡ, động viên chúng tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Xin chân thành cảm ơn quý Thầy Cô giảng dạy lớp cao học Tâm lý học khóa
K23 đã bổ sung cho chúng tôi những kiến thức và bài học vô cùng quý báu về
chuyên ngành của mình.
Cảm ơn quý Thầy Cô giáo trong khoa Tâm lý – Giáo dục, Trường Đại học Sư
phạm Huế, quý Thầy Cô phòng Đào tạo sau đại học đã tạo điều kiện thuận lợi cho
chúng tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Xin gửi lời cảm ơn tới các bạn sinh viên Trường Đại học Quảng Nam đã phối
hợp cung cấp nhiều thông tin cần thiết và tạo điều kiện cho chúng tôi tổ chức khảo
sát thực trạng.
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi luôn cố gắng, song với khả năng có hạn
chắc chắn luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi kính mong nhận
được sự góp ý chân thành của quý thầy cô giáo và bạn đọc.
Xin chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 9 năm 2016
Tác giả luận văn
Phan Thị Vi
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa ............................................................................................................. i
Lời cam đoan............................................................................................................. ii
Lời cảm ơn...............................................................................................................iii
Mục lục...................................................................................................................... 1
Bảng chữ viết tắt........................................................................................................4
Danh mục các bảng và biểu đồ..................................................................................5
MỞ ĐẦU..................................................................................................................6
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................6
2. Mục đích nghiên cứu..........................................................................................7
3. Nhiệm vụ của đề tài...........................................................................................7
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu.....................................................8
5. Giả thuyết khoa học...........................................................................................8
6. Các phương pháp nghiên cứu.............................................................................8
7. Cấu trúc đề tài....................................................................................................9
NỘI DUNG.............................................................................................................10
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẦN ĐỀ NGHIÊN CỨU.......................10
1.1. Một số vấn đề lý luận của đề tài....................................................................10
1.1.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu vấn đề.......................................................10
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới....................................................10
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam.....................................................12
1.1.2. Lý luận chung về stress...........................................................................14
1.1.2.1. Khái niệm stress................................................................................14
1.1.2.2. Biểu hiện của stress...........................................................................19
1.1.2.3. Tác nhân gây stress...........................................................................21
1.1.2.4. Ảnh hưởng của stress đối với đời sống của sinh viên.......................25
1.1.3. Khái quát một số đặc điểm tâm lý của sinh viên.....................................27
1.1.3.1. Đặc điểm hoạt động học tập của sinh viên........................................28
1.1.3.2. Sự phát triển về nhận thức của sinh viên...........................................29
1
1.1.3.3. Giao tiếp và đời sống tình cảm của sinh viên....................................30
1.1.3.4. Sự phát triển một số phẩm chất nhân cách ở sinh viên......................31
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1..........................................................................................35
CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU........................36
2.1. Tổ chức nghiên cứu.......................................................................................36
2.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể.............................................................36
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận.............................................................36
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn..........................................................36
2.2.2.1. Phương pháp quan sát.......................................................................36
2.2.2.2. Phương pháp phỏng vấn...................................................................37
2.2.2.3. Phương pháp trắc nghiệm.................................................................37
2.2.2.4. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.................................................38
2.2.2.5. Phương pháp trò chuyện...................................................................39
2.2.3. Phương pháp thống kê toán học..............................................................40
2.3. Vài nét về địa bàn nghiên cứu.......................................................................41
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2..........................................................................................43
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.............................................................44
3.1. Mức độ stress của sinh viên trường Đại học Quảng Nam.............................44
3.1.1. Mức độ stress của SV Trường Đại học Quảng Nam dưới góc độ giới
tính.................................................................................................................... 46
3.1.2. Dưới góc độ năm học..............................................................................47
3.2. Biểu hiện stress ở sinh viên trường Đại học Quảng Nam..............................48
3.2.1. Biểu hiện stress của SV Trường Đại học Quảng Nam dưới góc độ
giới tính.............................................................................................................50
3.2.2. Biểu hiện stress của SV Trường Đại học Quảng Nam dưới góc độ
năm học.............................................................................................................50
3.3. Tác nhân gây stress ở sinh viên trường Đại học Quảng Nam........................52
3.3.1. Tác nhân gây stress cho SV Trường Đại học Quảng Nam dưới góc
độ giới tính........................................................................................................54
3.3.2. Tác nhân gây stress cho SV Trường Đại học Quảng Nam dưới góc
độ năm học........................................................................................................56
2
3.4. Một số biện pháp giúp giảm thiểu stress ở SV trường Đại học Quảng
Nam..................................................................................................................... 57
3.4.1. Nhóm ứng phó phòng ngừa.....................................................................57
3.4.2. Nhóm ứng phó trong khi bị stress...........................................................59
3.4.3. Nhóm ứng phó sau stress........................................................................60
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3..........................................................................................63
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...............................................................................64
1. Kết luận............................................................................................................64
2. Kiến nghị.......................................................................................................... 64
2.1. Đối với gia đình.........................................................................................64
2.2. Đối với nhà trường.....................................................................................65
2.3. Đối với xã hội............................................................................................66
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................68
PHỤ LỤC
3
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Max
Min
SV
SPSS
%
Viết đầy đủ
Điểm cao nhất
Điểm thấp nhất
Sinh viên
Statistical Product and Services
Solutions (Phần mềm thống kê dành
cho các ngành Khoa học xã hội)
Tỉ lệ phần trăm
Giá trị trung bình
4
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
1. Danh mục các bảng
Bảng 1.1. Các triệu chứng của stress.......................................................................20
Bảng 2.1. Bảng mẫu khách thể nghiên cứu..............................................................39
Bảng 3.1. Mức độ stress của SV Trường Đại học Quảng Nam................................44
Bảng 3.2. Mức độ stress của SV Trường Đại học Quảng Nam dưới góc độ giới
tính.........................................................................................................46
Bảng 3.3. Mức độ stress của SV Trường Đại học Quảng Nam dưới góc độ năm
học..........................................................................................................47
Bảng 3.4 Biểu hiện stress của SV Trường Đại học Quảng Nam dưới góc độ
giới tính..................................................................................................50
Bảng 3.5 Biểu hiện stress của SV Trường Đại học Quảng Namdưới góc độ
năm học..................................................................................................50
Bảng 3.6 Tác nhân gây stress cho SV Trường Đại học Quảng Nam dưới góc
độ giới tính.............................................................................................54
Bảng 3.7. Tác nhân gây stress cho SV Trường Đại học Quảng Nam dưới góc
độ năm học.............................................................................................56
2. Danh mục các biểu đồ
Biểu đồ 3.1. Biểu hiện stress ở sinh viên trường Đại học Quảng Nam....................49
Biểu đồ 3.2. Tác nhân gây stress ở sinh viên trường Đại học Quảng Nam..............52
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, khi xã hội ngày càng phát triển thì ta lại hay thấy thuật ngữ stress
được nhắc đến khá nhiều. Stress dường như là một phần tất yếu không thể tránh
trong cuộc sống mỗi người. Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực của stress dương
tính như giúp con người thích ứng với những thay đổi liên tục trong đời sống, năng
động hơn, linh hoạt hơn trong công việc thì stress âm tính được tổ chức Y tế Thế
giới cảnh báo là một đại dịch toàn cầu. Nó liên quan đến sáu nguyên nhân hàng đầu
cướp đi sinh mạng của con người: bệnh tim mạch, ung thư, viêm phổi, xơ gan, tai
nạn và tự tử (APA, 2007). Đại dịch này đang tấn công con người ở mọi tầng lớp
kinh tế, mọi vị trí xã hội, mọi ngành nghề một cách toàn diện.
Cuộc sống luôn biến động và stress luôn luôn thường trực trong cuộc sống
hằng ngày. Stress có thể làm phá vỡ sự cân bằng trong cơ thể dẫn đến những rối
loạn về tâm lý, rối loạn những chức năng sinh lý, sinh hóa của cơ thể làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến hoạt động và cuộc sống của con người. Stress có thể gây ra
nhiều hậu quả, nhiều tai hại cho cơ thể chúng ta trên nhiều bình diện khác nhau, từ
sự tổn thương thần kinh, năng lượng, thông tin... đến thực thể vật chất. Tuy nhiên,
stress không chỉ có sự tác động tiêu cực. Theo I. Levi và H. Selye: “cuộc sống
không thể thiếu stress, nếu không có nó thì có thể dẫn tới cái chết, stress là một chất
muối làm cho cuộc đời thêm thi vị, thiếu nó không có cuộc sống. Cuộc sống không
có stress sẽ chẳng có thách thức gì, chẳng có trở ngại nào phải vượt qua, chẳng có
địa hạt mới nào để chiếm lĩnh, chẳng có lý do gì để trau dồi trí tuệ hoặc nâng cao
năng lực”. Stress có một ít ảnh hưởng tích cực như mang lại sự thách thức ý chí, gia
tăng những hoạt động cường độ cao kèm theo những phát minh sáng tạo – nếu cơ
thể con người chịu một liều lượng stress vừa phải. Việc hiểu biết về stress và ảnh
hưởng của nó đối với cuộc sống của con người là yếu tố cần thiết.
Đáng báo động nhất là stress đang có chiều hướng gia tăng trong giới học
sinh - sinh viên (SV) và SV Trường Đại học Quảng Nam không nằm ngoài số đó.
Theo nhiều chuyên gia tâm lý học và xã hội học, thực trạng này có thể được cải
6
thiện nếu họ đánh giá đúng trạng thái tinh thần của bản thân cũng như biết sử dụng
các chiến lược ứng phó tích cực, hiệu quả, kịp thời nhằm duy trì và bảo tồn các
stress dương tính. Tuy nhiên, họ thường không nhận thức đúng đắn về các rối loạn
liên quan đến stress và tự thử nghiệm với các loại ứng phó một cách may rủi, vừa có
lợi, vừa có hại khiến cho trạng thái căng thẳng thêm phức tạp.
Quan trọng hơn, các nhà giáo dục và các bậc phụ huynh chưa nắm vững các
kỹ thuật kiểm soát stress để giúp SV giảm thiểu các rối nhiễu tâm lý này. Không có
đủ nội lực ứng phó, ít nhận được sự hỗ trợ thiết thực của xã hội, mà hệ luỵ của nó là
ốm đau, bệnh tật, kết quả học tập sa sút, chán chường, trầm cảm, sa vào các tệ nạn
xã hội và thậm chí tìm đến cái chết.
Đối với SV trường Đại học Quảng Nam, là một trường địa phương, các bạn
sinh viên đều xuất thân từ con nông dân là chủ yếu, ngoài việc học tập căng thẳng
thì cơm áo gạo tiền hay là mối quan hệ xã hội cũng làm họ rất căng thẳng. Có nhiều
bạn bị stress nhưng các bạn thiếu hiểu biết về stress dẫn đến việc học bị sa sút, có
bạn bị trầm cảm và cá biệt, có bạn tìm đến cái chết.
Vì vậy, việc nghiên cứu mức độ của stress để có những tác động tích cực làm
giảm bớt những tác hại và nâng cao tính tích cực của stress là một vấn đề có ý nghĩa
rất quan trọng. Điều này không chỉ hướng đến việc giúp cho SV có những ứng xử
phù hợp với stress khi ngồi trên ghế nhà trường mà ngay cả khi đã ra trường họ vẫn
có thể tự mình đối mặt với stress. Từ những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu
đề tài “Mức độ stress của sinh viên trường Đại học Quảng Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Trên cơ sở tìm hiểu mức độ, biểu hiện, tác nhân gây stress của SV Trường
Đại học Quảng Nam, đề tài đề xuất một số biện pháp nhằm giúp SV giảm thiểu
stress nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và học tập.
3. Nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về mức độ stress của SV Trường Đại học Quảng Nam.
- Nghiên cứu mức độ stress của SV Trường Đại học Quảng Nam.
- Đề xuất biện pháp nhằm giúp giảm thiểu stress ở SV Trường Đại học
Quảng Nam.
7
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Mức độ stress của SV trường Đại học Quảng Nam.
4.2. Khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Khách thể nghiên cứu: SV Trường Đại học Quảng Nam. Chúng tôi nghiên cứu
trên 250 SV trong đó có 125 SV nam, 125 SV nữ ở cả năm thứ nhất và năm thứ ba.
4.2.2. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về mức độ stress của SV Trường Đại học Quảng Nam.
- Khảo sát mức độ stress ở SV Trường Đại học Quảng Nam.
- Đề xuất biện pháp để giảm thiểu stress ở SV Trường Đại học Quảng Nam.
Thời gian:
Từ tháng 1/2016 đến tháng 8/2016.
Địa điểm nghiên cứu:
Nghiên cứu được tiến hành tại Trường Đại học Quảng Nam đóng trên địa
bàn phường An Mỹ, Thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
5. Giả thuyết khoa học
- Mức độ stress ở SV Trường Đại học Quảng Nam tương đối cao, có sự khác
biệt giữa nam và nữ và có sự khác biệt giữa SV năm 1 với SV năm 3.
- Biểu hiện stress ở SV Trường Đại học Quảng Nam rõ rệt nhất chính là ở
mặt nhận thức và xúc cảm.
- Tác nhân gây stress cho SV Trường Đại học Quảng Nam chủ yếu là do bản
thân SV và áp lực của việc học.
- Có nhiều biện pháp giúp giảm thiểu stress cho SV Trường Đại học Quảng Nam.
6. Các phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp quan sát
6.2.2. Phương pháp phỏng vấn
6.2.3. Phương pháp trắc nghiệm
8
6.2.4. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
6.2.5. Phương pháp trò chuyện
6.3. Phương pháp thống kê toán học bằng phần mềm SPSS
7. Cấu trúc đề tài
- Mở đầu
- Nội dung
+ Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
+ Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
+ Chương 3: Kết quả nghiên cứu
- Kết luận và kiến nghị
9
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẦN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Một số vấn đề lý luận của đề tài
1.1.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Năm 1920, Walter Cannon - Nhà sinh lý học đầu tiên đã mô tả một cách
khoa học về cách con vật và con người phản ứng với mối hiểm nguy đến từ bên
ngoài. Ông nhận thấy có một trình tự hoạt tính xảy ra trong các dây thần kinh và
trong các tuyến nội tiết, nhằm chuẩn bị để cơ thể chiến đấu chống lại hoặc bỏ chạy
để bảo toàn tính mạng. Ông gọi phản ứng kép này với strees là hội chứng chống
hoặc bỏ chạy. Trung tâm của phản ứng kép với stress là vùng dưới đồi, đôi khi được
gọi là trung tâm stress là vì nó kiểm soát hoạt động của hệ thần kinh và tuyến yên.
Nối tiếp những nghiên cứu của Cannon, người đầu tiên theo phương pháp
hiện đại nghiên cứu các ảnh hưởng của stress nặng tác động liên tục lên cơ thể là
Hans Selye, một nhà nội tiết học người Canada. Vào những năm 30, Selye báo cáo
về các biểu hiện phức tạp của súc vật thực nghiệm với các tác nhân gây thương tổn
như các bệnh do vi khuẩn, các độc tố, chấn thương hoặc sự nóng lạnh... Hết thảy
mọi tác nhân gây stress đều đòi hỏi sự thích ứng, duy trì tính toàn vẹn tổng thể và sự
thoải mái bằng cách phục hồi thế cân bằng còn gọi là cân bằng nội tại. Về mặt lý
thuyết stress được quan niệm như một trạng thái bên trong cơ thể.
Năm 1984 nhóm các nhà khoa học tại Đại học Tổng hợp Los Angeles bang
California đã khám phá ra vai trò của các peptids dạng opi trong sự thiếu hụt miễn
dịch liên quan đến stress, nhất là đối với các tế bào tiêu diệt tự nhiên.
Vào những thập kỷ cuối của thế kỷ XX, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra
những bằng chứng thực nghiệm và lâm sàng, cung cấp những lập luận vững chắc về
mối tương tác giữa stress và phản ứng miễn dịch. Plaut và Friedman (1981) đã
chứng minh stress làm tăng nguy cơ tiếp xúc với các bệnh nhiễm trùng, các phản
ứng dị ứng ở người. Sklar và Anisman (1987) cho rằng những thay đổi đột ngột
trong việc tiếp xúc với bầy đàn đã làm tăng sự phát triển của khối u trong thực
10
nghiệm chuột nhắt, các quan sát phản ứng với stress ở người nói chung cũng xác
nhận những kết quả tương tự.
Việc nghiên cứu cách stress xuất hiện và ảnh hưởng của nó đến cuộc sống
của con người đã khơi dậy mối quan tâm của các nhà tâm lý học về ảnh hưởng của
các quá trình ứng xử đến cuộc sống thoải mái nói chung. Ở Anh, vào những năm
1990, tính trung bình có khoảng 15% đến 20% công nhân bị stress đến mức ngã
bệnh và phải nghỉ việc trong các nhà máy. Stress trong môi trường lao động khiến
các ông chủ và những giám đốc điều hành (CEO) mắc bệnh tim nhiều gấp 7 lần và
những cơn đột quỵ khiến người lao động phải nghỉ việc vì những xáo trộn trong đời
sống tâm trí và cảm xúc. Điều này đã khơi dậy mối quan tâm của giới nghiên cứu
nhằm làm giảm thiểu stress trong công việc, đặc biệt trong những ngành sản xuất
vật chất. Tiếp theo đó các nhà nghiên cứu ở các nước thuộc Châu Âu cũng bắt tay
vào nghiên cứu đề tài này.
Ở nước ngoài hiện nay có thể nói rằng tình hình nghiên cứu về stress rất
được quan tâm chú ý với nhiều đề tài nghiên cứu phong phú. Nhiều khoa tâm lý học
của nhiều truờng Đại học trên thế giới hiện nay đã có chương trình giảng dạy,
nghiên cứu về stress với những phương pháp rất khoa học cụ thể. Trước hết, các
phản ứng hoặc tình trạng stress có những biểu hiện rõ nhất trên bình diện sinh lý
học và gần đây người ta bắt đầu nghiên cứu stress trên bình diện tâm lý. Các vấn đề
liên quan đến stress được các nhà nghiên cứu tập trung nghiên cứu nhiều nhất là:
- Nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng tới việc ứng phó stress: Mô tả và
phân biệt giữa stress và tác nhân gây stress, ảnh hưởng của nhận thức cá nhân đối
với việc đáp ứng với các tác nhân gây stress, những nhân tố bên trong và bên ngoài
làm giảm nhẹ tác dụng đáp ứng stress, cơ chế ứng phó làm giảm thiểu stress.
- Phân tích các phản ứng sinh lý đối với stress: Mô tả đáp ứng stress trên các
hệ thống cơ thể (hệ thần kinh, hệ nội tiết...), mối liên hệ giữa những nhân tố làm
giảm stress và đáp ứng sinh lý, sự khác biệt hệ thống miễn dịch giữa người lớn và
trẻ em...
- Biểu hiện tâm lý khi stress: Nhận biết nguyên nhân gây stress, nguyên
nhân và cá tính của stress hậu sang chấn, tương quan giữa nhân cách và biểu hiện
11
stress, phân tích các loại kế hoạch đối phó, lựa chọn hệ thống phòng thủ, những
hành vi biểu hiện không hiệu quả.
Hiện nay, có thể nói rằng vấn đề stress đã và đang thu hút sự chú ý rất mạnh
mẽ của nhiều nhà khoa học, họ quan tâm nghiên cứu dưới cả hai góc độ lý thuyết và
thực nghiệm. Giờ đây nghiên cứu về stress không chỉ đơn thuần là nghiên cứu
chuyên về y học, sinh học mà đã trở thành một lĩnh vực nghiên cứu mang tính liên
ngành: Y học, Sinh học, Tâm lý học, Xã hội học... Những kết quả nghiên cứu đã
góp phần không nhỏ cho việc giảm bớt stress và những tác hại do nó gây ra.
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, từ lâu chịu ảnh hưởng rất sâu sắc bởi tư tưởng văn hóa phương
Đông như thuật dưỡng sinh bảo vệ sức khỏe thuận theo quy luật tự nhiên. Từ thế kỷ
XVIII, nhà y học, nhà khoa học kiệt xuất, nhà tư tưởng lỗi lạc của dân tộc ta là Hải
Thượng Lãn Ông tức Lê Hữu Trác đã khuyên rằng: có thân mà không biết giữ gìn
chỉ lo làm sao cho thỏa mãn dục vọng là trái với phép dưỡng sinh. Ăn uống là lấy vị
bồi bổ cho chỗ thiếu, làm việc nghỉ ngơi phải có chừng mực, ăn uống quá mức thì
trường vị tổn thương.
“....nhàn cư ủ rũ tinh thần
Nằm nhiều khí huyết khó phần lưu thông”
Ông cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các yếu tố tâm lý đối với sức
khỏe con người:
“Nội thương bệnh chứng phát sinh
Nguyên do cũng bởi tinh thần gây ra”
Theo lý thuyết y học cổ truyền, trong quá trình chuyển hóa vật chất, cơ thể
con người tồn tại 3 thành phàn cơ bản: phần tinh (thức ăn, huyết tinh sinh dục), khí
(năng lượng), thần (là hình thức cao nhất). Có hai câu thơ rất nổi tiếng của Tuệ Tĩnh
đã nói đến nội dung chính của 3 thành phần trong dưỡng sinh :
“Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần
Tham tâm, quả dục, thủ dâm, luyện hình”
Dưới góc độ sinh lý học và y học, nhà khoa học Tô Như Khuê với công trình
nghiên cứu “Phòng chống trạng thái căng thẳng (stress) trong đời sống và trong lao
12
động”, 5/1976 và những công trình của ông và cộng sự trong thời chiến tranh
(1967-1975) chủ yếu phục vụ cho việc tuyển dụng, huấn luyện và nâng cao sức
chiến đấu cho bộ đội ở các binh chủng đặc biệt cũng đã bàn đến và ứng dụng rất
sâu, có kết quả tốt.
Sau Tô Như Khuê nhiều tác giả có uy tín trong nước vào những năm gần đây
đã tiếp nối các nghiên cứu trên bắt tay vào nghiên cứu lý thuyết về stress. Những tác
giả tiêu biểu như: Bác sỹ Nguyễn Khắc Viện, nhà sáng lập trung tâm nghiên cứu
tâm lý trẻ em N-T. Ông đã có công biên soạn và dịch thuật giới thiệu nhiều tài liệu
khoa học bổ ích về tâm lý trẻ em. Trong đó dưới góc độ nghiên cứu về stress, đáng
chú ý là cuốn “Tâm bệnh học trẻ em” do nhà xuất bản Y học và trung tâm N-T phối
hợp ấn hành. Ngoài ra phải kể đến GS.BS.Đặng Phương Kiệt, bác sỹ nhi khoa
chuyên nghiên cứu và tư vấn về tâm lý lâm sàng với nhiều tác phẩm như: “Stress và
đời sống”; “Stress và sức khỏe”; “Chung sống với stress”. Hai tác giả Phạm Ngọc
Giao và Nguyễn Hữu Nghiêm với tác phẩm “Stress trong thời đại văn minh”, NXB
Đà Nẵng, 1986, đã cảnh báo với tất cả những người đang sống trong xã hội văn
minh về nguy cơ stress và hậu quả của stress... Nguyễn Công Khanh, tiến sĩ tâm lý
lâm sàng đã nghiên cứu về các liệu pháp trị liệu tâm lý, các công trình nghiên cứu
của các tác giả này mang một giá trị khoa học cao, gắn liền với các hoạt động thực
tiễn nghề nghiệp của họ.
Hiện nay, ngoài những nghiên cứu chính thức tại Việt Nam đã có những
công trình nghiên cứu, tác phẩm, bài viết hoặc bài dịch từ tiếng nước ngoài đăng
trên các báo và tạp chí trong nước, hoặc phổ biến trên các website... giúp ích cho
người dân hiểu biết và phòng chống stress. Luận văn thạc sỹ tâm lý học của tác giả
Lại Thế Luyện năm 2007 đã tìm hiểu về “Biểu hiện stress trong sinh viên trường
Đại học sư phạm Kỹ Thuật TPHCM”. Trong công trình này tác giả Lại Thế Luyện
đã đưa ra kết quả: trong 500 khách thể nghiên cứu có 10,8% SV rất căng thẳng,
49,8% SV căng thẳng, 33,8% SV ít căng thẳng, 5,6% SV không có biểu hiện căng
thẳng. Luận văn tốt nghiệp của sinh viên Trần Thị Nhân, Đại học Quy Nhơn
“Bước đầu tìm hiểu thực trạng hiện tượng stress của sinh viên ĐH Quy Nhơn”
cũng đã đưa ra kết quả nghiên cứu trên 300 SV, trong đó 56,7% sinh viên có biểu
13
hiện stress ở các mức độ khác nhau. Một số luận văn Thạc sĩ của các học viên tại
khoa Tâm lý – Giáo dục, Đại học sư phạm Huế nghiên cứu vế vấn đề stress cũng
cho kết quả tương tự.
1.1.2. Lý luận chung về stress
1.1.2.1. Khái niệm stress
Stress có nguồn gốc từ tiếng Latinh là “strictia” bởi từ gốc “strictus” và một
phần của từ “stringere” nghĩa là kéo căng, nghịch cảnh, bất hạnh, đè nén. Từ thế kỷ
17, stress được sử dụng với ý nghĩa là “sự khổ cực - hardship” (Hinkle, 1973), dùng
để mô tả con người trải qua thử thách gay go, tai họa hoặc nỗi đau buồn [14, tr.111].
Từ này cũng là một phần của từ “destresse” và “estresce” trong tiếng Pháp cổ nghĩa
là sự chật hẹp (narrowness), sự đàn áp (oppression).
Trong tiếng Anh, stress có nghĩa là nhấn mạnh. Thuật ngữ này được dùng
trong vật lý học để chỉ sức nén mà vật liệu phải chịu, sau đó W.B.Cannon (1914) sử
dụng trong sinh lý học. Ban đầu, nó dùng để chỉ phản ứng bình thường của cơ thể
đối với bất cứ một tác động có hại nào. Sau đó, stress được sử dụng để miêu tả các
trạng thái của cá nhân đối với các điều kiện bên ngoài ở các mức độ sinh lý, tâm lý
và hành vi [5].
Năm 1936, nhà sinh lý học người Canada, Hans Selye đã tiến hành nghiên
cứu và nhấn mạnh rằng: “Stress có tính chất tổng hợp chứ không phải thể hiện trong
một trạng thái phản ứng không đặc hiệu của cơ thể với bất kỳ tín hiệu nào”. Sau đó,
ông lại quan niệm rằng “stress là nhịp sống luôn luôn có mặt ở bất kỳ thời điểm nào
trong sự tồn tại của chúng ta”. Một tác động bất kỳ tới một cơ quan nào đó đều gây
ra stress. Stress không phải lúc nào cũng là kết quả của sự tổn thương, ngược lại có
hai loại stress khác nhau, đối lập nhau: stress bình thường khỏe mạnh là Eustress,
stress độc hại hay còn gọi là stress tiêu cực là Dystress. Hans Selye khẳng định
rằng: “Stress là phản ứng của cơ thể với mọi tác động của môi trường, do đó nó là
phản ứng không thể thiếu được ở động vật nói chung cũng như ở con người nói
riêng”. Mỗi tác nhân gây stress luôn được phản ứng ở hai mặt: thứ nhất, phản ứng
mang tính đặc hiệu đó là chức năng các nội quan, cơ chế thần kinh, thể dịch; thứ
hai, phản ứng không đặc hiệu của các quá trình thích nghi tâm lý và sinh lý. Nó
14
được thể hiện là: khi gặp các tác động như nhau về cường độ, sự kéo dài hoặc tầm
quan trọng của tác động đó đối với chủ thể. Có nghĩa là phản ứng không đặc hiệu
chỉ xuất hiện khi có tác nhân kích thích, tác động tạo nên những biến đổi ở nhịp
sinh học: Sự bài tiết, dịch vị và các hormone trong cơ thể hơn bình thường liên tục,
trường diễn sẽ dẫn đến phù đại tuyến thượng thận, sự co nhỏ của của tuyến ức... ảnh
hưởng đến sự biến đổi trạng thái tâm lý của chủ thể ở mức độ nhất định có thể gây
ra rối loạn quá trình tâm, bệnh lý.
Theo tác giả Nguyễn Đình Phư:
- Stress là một sự căng thẳng kéo dài: Trong cuộc sống, nếu luôn bị những
căng thẳng, dồn nén với một sức ép kéo dài thì chúng ta không thể chịu đựng nổi
mà phải ngã gục, đó là tình trạng bị stress.
- Stress là do cường độ làm việc quá sức kéo dài: Đầu tiên là những việc làm,
suy nghĩ… với một cường độ cao kéo dài đẩy con người đến giới hạn của sự kiệt
quệ về tinh thần và thể chất.
- Stress là một sự đơn điệu nhàm chán kéo dài: Trong cuộc sống, nếu chúng
ta bị những sự việc có tính đơn điệu lặp đi lặp lại một cách đều đặn gây nên sự
nhàm chán quá mức, cuộc sống thiếu những kích thích, những thách thức để con
người vượt lên mà kéo dài sẽ dẫn đến tình trạng bị stress nặng.
- Stress là một sự bực bội kéo dài: Sự bực bội chốc lát có thể không gây nên
nguy hiểm, nhưng bực bội vượt quá ngưỡng bình thường và lặp lại thường xuyên là
nguyên nhân làm chúng ta bị stress.
- Stress là một sự tự ti, bi quan kéo dài: Những trạng thái tâm lý như bi quan,
tự ti và coi thường khả năng của chính bản thân mình sẽ kéo theo sự sụp đổ về ý
thức vươn lên trong mọi công việc cũng làm cho người đó bị dồn nén, chèn ép mà
dẫn tới căng thẳng trong cuộc sống, tức là đã bị stress do tình trạng tâm lý tiêu cực
kéo dài.
- Stress là một sự nghiện ngập kéo dài: Nếu chúng ta luôn bị những chất gây
nghiện, như rượu, thuốc lá, các chất kích thích thần kinh khác hành hạ và cơ thể
luôn phải đáp ứng một cách không thể không có chúng thì nghiễm nhiên chúng ta
đã bị stress.
15
- Stress là một sự thăng hoa kéo dài: Việc ứng phó với tình trạng căng thẳng
kéo dài, nếu chúng ta không ý thức được tác hại của những sức ép mà mình đã đang
chịu đựng sẽ dẫn chúng ta đến ranh giới của stress nặng.
Con người trở nên giỏi giang hơn trong trạng thái thăng hoa bởi những đòi
hỏi căng thẳng thường trực, những ảnh hưởng của stress bằng cách gắn cho nó
những tham vọng càng lớn lao hơn. Đấy là một stress trá hình mà bất kỳ ai cũng
muốn lao vào.
Theo từ điển Tâm lý của Nguyễn Khắc Viện: “Stress có hai nghĩa: thứ nhất,
stress là một mối kích động đánh mạnh vào con người; thứ hai là phản ứng tâm lý
và sinh lý của người ấy”; Ông Nguyễn Khắc Viện dịch thuật ngữ stress có nghĩa là
“kích - ứng”. Một kích động có thể là tác nhân vật lý, hóa chất, một vi khuẩn, hoặc
một tác nhân tâm lý xã hội, nói chung là một tình huống căng thẳng đột xuất đòi hỏi
con người huy động tiềm năng thích ứng. Stress là nỗ lực của cơ thể để thích nghi
với những đổi thay trong cuộc sống của mỗi người.
Theo từ điển Tâm lý học của Nguyễn Văn Lũy – Lê Quang Sơn: “Stress là
trạng thái căng thẳng tâm lý nảy sinh ở con người trong quá trình hoạt động với
những điều kiện khó khăn của cuộc sống đời thường cũng như ở các tình huống đặc
biệt, stress có thể gây ảnh hưởng âm tính hoặc dương tính đến hoạt động, đến mức
làm cho nó hoàn toàn tê liệt”. Theo tác giả, stress thường xuất hiện trong những
hoàn cảnh nhất định vì vậy việc tìm hiểu sự thích nghi của con người với các điều
kiện phức tạp là rất cần thiết.
Theo bác sĩ Nguyễn Huỳnh Ngọc:
Stress là một kích thích tác động mạnh vào con người và là phản ứng sinh lý
và tâm lý của con người đối với tác động đó. Stress đặt con người vào quá trình
thích ứng với môi trường xung quanh, tạo cho cơ thể một trạng thái cân bằng mới
sau khi chịu sự tác động của môi trường. Nói cách khác, stress bình thường giúp
con người thích nghi với môi trường sống.
Nếu sự đáp ứng của cá nhân với stress không đầy đủ, không phù hợp và cơ
thể không tạo nên sự cân bằng mới, thì những chức năng của cơ thể ít nhiều bị rối
loạn, những dấu hiệu về thể chất và tâm lý sẽ xuất hiện.
16
Stress là những yếu tố bất lợi bên ngoài, nếu kết hợp với yếu tố bên trong,
tức là yếu tố di truyền (hầu hết các bệnh tâm thần đều có yếu tố di truyền) có thể
bộc phát thành bệnh tâm thần.
Chúng ta thấy rằng, stress được tiếp cận đa phương diện, dưới góc độ Sinh lý
học, Xã hội học và Tâm lý học. Dưới mỗi góc độ, khái niệm stress được hiểu theo
mỗi cách khác nhau.
Stress - một đáp ứng sinh lý
Dưới góc độ sinh học, stress được Cannon định nghĩa (1935) là phản ứng
“chống hoặc chạy” được “cài đặt sẵn” về mặt sinh học của cơ thể trước những nhân
tố gây hại nhằm huy động sức mạnh của cơ thể để ứng phó [23, tr.27]. Quan điểm
của Cannon được Hans Selye phát triển vào năm 1956 trong nghiên cứu đầu tiên
của mình về stress. Theo Syle, stress là “một hội chứng đặc hiệu bao gồm tất cả
những thay đổi được gây ra một cách không đặc hiệu bên trong hệ thống sinh học
nhằm khôi phục lại trạng thái cân bằng nội môi, khắc phục được các tình huống để
đảm bảo duy trì và thích nghi thoả đáng của cơ thể trước điều kiện sống luôn biến
đổi” hay cũng tác giả này định nghĩa trong nghiên cứu sau đó: “Stress là một trạng
thái được thể hiện trong một hội chứng bao gồm tất cả các biến cố không đặc hiệu
trong một hệ thống sinh học” [24, tr.28].
Quan niệm về stress của Cannon (1935) và Selye (1956) được đánh giá rất
cao bởi đây là một học thuyết đầu tiên tìm hiểu về sự cân bằng nội môi trước những
tác nhân đa dạng gây ra stress, phát hiện ra các biểu hiện, triệu chứng sinh lý của
stress và cơ chế sinh lý của mối quan hệ giữa stress với bệnh tật (Taylor, 1991). Tuy
nhiên, với quan niệm tập trung vào mặt sinh học của stress, Cannon và Selye đã
đồng nhất stress với các phản ứng sinh lý và không đề cập những thông số quan
trọng thuộc về tâm lý và hành vi trong việc xác lập những đáp ứng sinh lý này. Bên
cạnh đó, quan niệm rằng đáp ứng sinh lý với stress là có tính không đặc hiệu (giống
nhau trong mọi điều kiện có hại) cũng không thật thoả đáng bởi các biến đổi sinh lý
còn tùy thuộc vào cách thức phản ứng của cá nhân về hành vi và cảm xúc.
Stress - một sự kiện từ môi trường
Dưới góc độ xã hội học, stress được định nghĩa như là một sự kiện từ môi
trường đòi hỏi một cá nhân phải thử thách những tiềm năng và đáp ứng không bình
17
thường (dẫn theo Snynder, 2001). Có thể hiểu đơn giản, stress là những biến động
trong xã hội, trong gia đình và trong đời sống cá nhân tác động lên con người, gây
mất thăng bằng cho họ.
Quan niệm về stress dưới góc độ xã hội học cũng không làm bộc lộ được bản
chất của stress bởi theo cách hiểu này, stress được đồng nhất với các tác nhân gây ra
stress. Tuy vậy, việc tìm hiểu về các “kích thích” gây ra stress là một bước tiến lớn
trong lịch sử nghiên cứu. Nó mở rộng và hoàn thiện các nội dung nghiên cứu về
stress. Song, cũng như khái niệm về stress dưới cái nhìn của sinh học, cách tiếp cận
stress dưới góc độ môi trường xã hội cơ bản vẫn là những mô hình kích thích - đáp
ứng. Chúng không đi sâu vào những thông số, những quá trình trung gian điều hòa
mối liên quan giữa các sự kiện gây căng thẳng và các đáp ứng sinh học.
Stress - Một hiện tượng thuộc về nhận thức – hành vi – cảm xúc của cá nhân
Bruce Singh và Sidney Bloch cho rằng: “Stress đề cập tới các hoạt động hoặc
các tình huống, gây ra cho con người những yêu cầu về cơ thể và tâm lý quá mức và
đe dọa gây mất thăng bằng”.
Tác giả Tô Như Khuê quan niệm: “stress chính là những phản ứng không
đặc hiệu xảy ra một cách chung khắp, do các yếu tố có hại về tâm lý xuất hiện
trong các tình thế mà con người chủ quan thấy là bất lợi hoặc rủi ro, ở đây vai trò
quyết định không chủ yếu do các tác nhân kích thích, mà do sự đánh giá chủ quan
về tác nhân đó”.
Các tác giả Phạm Minh Hạc, Lê Khanh và Trần Trọng Thủy đã nêu được
thành phần quan trọng của stress đó là xúc cảm và một số nguyên nhân cơ bản gây
ra stress ở con người, khi cho rằng: “stress là những xúc cảm nảy sinh trong những
tình huống nguy hiểm, hẫng hụt, hay trong những tình huống phải chịu đựng những
nặng nhọc về thể chất và tinh thần hoặc trong những điều kiện phải quyết định hành
động nhanh chóng và trọng yếu” [8, tr.146].
Theo Nguyễn Thành Khải, “dưới góc độ của tâm lý học có thể hiểu stress là
trạng thái căng thẳng về tâm lý mà con người cảm nhận được trong quá trình hoạt
động cũng như trong cuộc sống” [10, tr.20].
18
Stress được Lazarus (1999) khái quát là “trạng thái cảm xúc mà chủ thể trải
nghiệm khi họ nhận định rằng những yêu cầu và đòi hỏi bên trong hoặc bên ngoài
vượt quá nguồn lực cá nhân và xã hội mà họ có thể huy động được” [23, tr.144].
Cho đến nay, đây được coi là định nghĩa phổ biến nhất về stress. Hướng tiếp cận
này có một số điểm đáng lưu ý sau:
Thứ nhất, stress không chỉ trú ngụ trong sự kiện gây căng thẳng, trong đáp
ứng của chủ thể mà ở cả trong hai yếu tố này, đặc biệt là trong nhận thức của cá
nhân. Stress chỉ xảy ra khi chủ thể nhận định sự kiện là có tính thách thức, có hại,
đe dọa sức khỏe tâm – sinh lý và đòi hỏi chủ thể phải cố gắng sử dụng các tiềm
năng thích ứng của mình. Thứ hai, stress là một lĩnh vực bao gồm một loạt yếu tố
liên quan đến xúc cảm – tình cảm. Theo Lazarus (1999), tình cảm là một khái niệm
rộng lớn còn stress có thể được xem là một cấp bậc của tình cảm.
Với quan niệm này, Lazurus (1999) đã tích hợp được các bình diện nhận thức,
ứng phó, xúc cảm và môi trường khi tiếp cận với stress; stress trong các nghiên cứu
của Lazarus mới thực sự được gọi là “stress tâm lý” và có thể bổ sung những thiếu sót
cho mô hình stress “sinh học” và stress “môi trường”. Tuy vậy, quan điểm nhận thức
– hành vi – cảm xúc vẫn bỏ qua bình diện sinh học của stress cùng những liên quan
giữa bình diện sinh học với các bình diện nhận thức và cảm xúc.
Nhìn chung, stress là một khái niệm mang tính hệ thống, liên hệ đến nhiều
thông số và quá trình, xảy ra trên nhiều bình diện của sự phân tích sinh lý, nhận thức,
cảm xúc, hành vi và môi trường. Vì thế, có thể kết luận stress là một phản ứng tích hợp
sinh học - tâm lý - xã hội được chủ thể triển khai nhằm đáp ứng với các tác nhân gây
stress, các sự kiện kích thích đòi hỏi huy động khả năng ứng phó của cá nhân.
Trong đề tài này, chúng tôi đi theo hướng tiếp cận stress tâm lý của Lazus
(1999), nghĩa là không chú trọng đến bình diện sinh lý của stress.
1.1.2.2. Biểu hiện của stress
Mỗi cá nhân có biểu hiện stress khác nhau vì mỗi người phản ứng và ứng
phó với từng tình huống một cách riêng biệt và chúng ta trải nghiệm stress theo
những mức độ căng thẳng không giống nhau. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng
đã tổng kết lại những biểu hiện và triệu chứng phổ biến chung (xem bảng 1.1).
Càng có nhiều biểu hiện thì mức độ stress càng nặng.
19
Bảng 1.1. Các triệu chứng của stress
Các biểu hiện về nhận thức
Các biểu hiện về xúc cảm
Gặp khó khăn trong các quá trình trí Ủ rũ, buồn rầu, dễ xúc động
nhớ
Không thể tập trung
Cáu kỉnh, dễ nổi nóng
Khả năng đánh giá, nhận định kém
Bức bối, không xoa dịu được căng thẳng
Tư duy chậm hoặc không muốn tư Dễ bị lây lan tình cảm theo hướng tiêu cực
duy
Có nhiều suy nghĩ âu lo
Cảm thấy cô độc, bị cô lập và dễ bị tổn
Ý nghĩ quanh quẩn
thương
Hân hoan cao độ rồi đột ngột buồn bã tột
cùng
Hồi tưởng lại những điều buồn phiền Cảm thấy vô vọng
gần đây nhất
Cảm thấy mất lòng tin, hay nghi ngờ Tự đổ lỗi cho bản thân
Chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực của mọi Mất phương hướng
vấn đề, đánh giá cao khó khăn, đánh
giá thấp bản thân.
Không có khả năng đưa ra quyết Bồn chồn, lo lắng và sợ hãi
định
Các biểu hiện sinh lý
Đau đầu, đau dạ dày, đau nửa đầu
Đau ngực, tim đập nhanh
Bị tiêu chảy hay bị táo bón
Buồn nôn và chóng mặt
Giảm hứng thú tình dục
Các biểu hiện hành vi
Ăn quá nhiều hoặc quá ít
Ngủ quá nhiều hoặc quá ít
Không muốn năng động như bình thường
Nói năng không rõ ràng, khó hiểu
Nói liên tục về một sự việc, hay phóng đại
Ăn không ngon miệng
Vả mồ hôi
sự việc
Hay tranh luận quá khích
Thu mình lại, rút lui, không muốn tiếp xúc
với người khác
Thường xuyên ớn lạnh, run rẩy
Thường xuyên mệt mỏi
(Nguồn: Institute of Mental Health )
1.1.2.3. Tác nhân gây stress
a. Tác nhân gây stress cho con người nói chung
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến stress, các nhà khoa học cho rằng stress có
tính chất tích tụ, diễn tiến trong thời gian dài. Cho nên khi những nguy cơ, những
20
biểu hiện stress xuất hiện thì cần phải xem xét, kiểm soát và giải tỏa chúng nếu
không chúng sẽ được dồn nén đến khi bùng phát nó sẽ gây ra những tác hại không
nhỏ. Nhìn vào thực tế chúng ta cũng có thể thấy có những người đang bình thường
bỗng dưng trở nên “bất thường” không hẳn là do họ gặp phải những biến cố gì đó
lớn lao, hay là bị một sang chấn nào đó mạnh mẽ mà vì những lý do rất giản đơn.
Chính những thứ chuyện có vẻ giản đơn đó cứ nối tiếp nhau tạo thành một chuỗi
những bi kịch nhỏ nhặt, từng ngày từng ngày tác động vào con người, họ cứ bỏ
quên nó hay cố tình gạt nó khỏi tầm kiểm soát của mình từ đó những sai lầm được
nối tiếp những sai lầm trong cách ứng xử của họ đối với những điều nếu ta nhìn với
sự cởi mở hơn thì tưởng chừng như là vô hại, mà cũng có thể là sẽ có lợi theo một
góc độ nào đó. Trong thực tế có rất nhiều nguyên nhân gây ra stress mà mọi người
thường không nhận ra hay cố tình bỏ qua nó và chỉ khi bị suy giảm khả năng hoạt
động, hoặc phát hiện những suy tổn chức năng thực thể nào đó mới biết.
Nguyên nhân từ môi trường bên ngoài
• Sự tác động từ môi trường tự nhiên
Con người là một thực thể tồn tại trong môi trường tự nhiên. Môi trường tự
nhiên là điều kiện cần cho sự tồn tại và phát triển của con người. Sự biến đổi của
môi trường tự nhiên sẽ có những tác động không nhỏ đến cuộc sống của con người.
Stress có thể được sinh ra khi con người đang tìm cách thích nghi hay thay đổi
những sự tác động của môi trường tự nhiên lên họ.
Hiện nay, biến đổi khí hậu là một trong những yếu tố đang được khá nhiều
các nhà khoa học quan tâm, kể cả các nhà tâm thần học. Bởi vì những hệ quả của sự
biến đổi khí hậu cũng có những tác động đáng kể đến sự phát triển tâm lý của con
người. Theo tiến sĩ Page và tiến sĩ Howard thì biến đổi khí hậu với sự xuất hiện của
thiên tai như hạn hán, lũ lụt…, điều này khiến cho con người luôn phải sống trong
tình trạng phấp phỏm lo âu, tình trạng này có thể dẫn đến stress, trầm cảm suy
nhược về thể chất và tinh thần. Những tác động có hại của sự căng thẳng tâm lý sau
khi gặp phải những chấn thương hoặc sự mất mát có thể khiến cho con người rơi
vào trạng thái stress, trầm cảm nặng.
21