Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Lựa chọn nghề của học sinh khối 12 các trường THPT thành phố đồng hới, tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ NHƯ PHƯỢNG

LỰA CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH KHỐI 12
CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Huế, năm 2016

i


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ NHƯ PHƯỢNG

LỰA CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH KHỐI 12
CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH
CHUYÊN NGÀNH: TÂM LÝ HỌC
Mã số: 60310401

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHÙNG ĐÌNH MẪN

Huế, năm 2016

ii


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả
nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng và
chưa được công bố trong bất kỳ luận văn nào.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Như Phượng

iii


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Thầy giáo PGS. TS. Phùng Đình Mẫn,
người thầy đã trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn và tận tình chỉ bảo tôi trong suốt
quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô giáo của khoa Tâm lý – Giáo dục, các
thầy cô ở Phòng Đào tạo sau đại học – Đại học sư phạm - Đại học Huế, đã nhiệt
tình giảng dạy, giúp đỡ trong suốt thời gian học tập và luôn tạo mọi điều kiện
thuận lợi để giúp tôi hoàn thành luận văn.
Xin cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của các thầy cô giáo và học sinh các
trường THPT Đào Duy Từ, THPT Phan Đình Phùng đã cung cấp các thông tin, tài
liệu để tôi nghiên cứu luận văn này.

Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình, đồng
nghiệp, bạn bè... đã luôn động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và
thực hiện luận văn.
Huế, ngày 01 tháng 10 năm 2016
Tác giả

Nguyễn Thị Như Phượng

iv


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


: Cao đẳng

CNH - HĐH

: Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

ĐH

: Đại học

GDHN

: Giáo dục hướng nghiệp

HS


: Học sinh

KT - XH

: Kinh tế - xã hội

SL

: Số lượng

TB

: Thứ bậc

TP

: Thành phố

TLH

: Tâm lý học

THCN

: Trung học chuyên nghệp

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


THPT

: Trung học phổ thông

v


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................ 3
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu......................................................................3
2. Mục đích nghiên cứu.................................................................................................4
3. Nhiệm vụ nghiên cứu................................................................................................4
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu.........................................................................4
5. Giả thuyết khoa học..................................................................................................5
6. Phạm vi nghiên cứu...................................................................................................5
7. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................5
8. Đóng góp của đề tài...................................................................................................6
9. Cấu trúc của luận văn...............................................................................................6
NỘI DUNG........................................................................................................................ 7
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỰA CHỌN NGHỀ.............................................7
CỦA HỌC SINH TRƯỜNG THPT.............................................................................7
1.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................7
1.2.Các khái niệm liên quan ………………….......…………………………11
1.3. Đặc điểm tâm - sinh lý của HS THPT ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề
................................................................................................................................... 27
1.4. Một số quan điểm của thanh niên khi lựa chọn nghề....................................29
1.5. Yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn nghề của HS THPT.....................................30
* TIỂU KẾT CHƯƠNG 1...........................................................................................40
Chương 2. TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..................................41
2.1. Tổ chức nghiên cứu...........................................................................................41

2.2. Vài nét về địa bàn và khách thể nghiên cứu...................................................42
2.3. Các phương pháp nghiên cứu..........................................................................44
* TIỂU KẾT CHƯƠNG 2...........................................................................................49
Chương 3. THỰC TRẠNG LỰA CHỌN NGHỀ CỦA HỌC SINH KHỐI 12
CÁC TRƯỜNG THPT TP. ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH.............................50

1


3.1. Thực trạng về lựa chọn nghề của học sinh khối 12 các trường THPT
TP. Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.............................................................................50
3.2. Các biện pháp giáo dục hướng nghiệp cho học sinh THPT...........................71
3.3. Kết quả thực nghiệm tác động về mặt nhận thức nghề của học sinh............77
* TIỂU KẾT CHƯƠNG 3...........................................................................................80
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ........................................................................................82
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................88
PHỤ LỤC .......................................................................................................................91

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Nghề nghiệp là vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống của mỗi con
người. Có nghề nghiệp, con người có cuộc sống ổn định và làm cho cuộc sống trở
nên có ý nghĩa. Câu hỏi chọn nghề gì luôn là vấn đề trăn trở đối với mỗi người khi
bước vào ngưỡng cửa của cuộc đời, đặc biệt là đối với học sinh THPT.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra 1 trong
6 nhiệm vụ trọng tâm, đó là: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí

tuệ và năng lực làm việc”. Điều đó có nghĩa nhân tố con người có vai trò quan trọng
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và năng lực làm việc của con người là một
trong những yếu tố cần phải tập trung xây dựng.
Để xây dựng con người có năng lực làm việc tốt cho xã hội, cùng với việc
đào tạo nghề thì việc lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với nhu cầu, hứng thú, khả
năng, năng lực sở trường, sức khoẻ của bản thân, lựa chọn nghề nghiệp một cách có
ý thức, có cơ sở khoa học là điều kiện tiên quyết.
Thực tế cho thấy đã có nhiều người phải hối tiếc vì không được tiếp cận với
khoa học chọn nghề, với sự đánh giá toàn diện, đánh giá bản thân khi chọn nghề để
rồi không phát huy được năng lực bản thân, không tìm được niềm vui, sức sáng tạo
và thành công trong công việc.
Đối với học sinh, lớp 12 là năm có tính bản lề trong cuộc đời, sau khi tốt
nghiệp, các em sẽ chọn cho mình những bước đi khác nhau.Vì vậy, việc lựa chọn
nghề phù hợp với năng lực, sở thích, hứng thú của mình sẽ là động lực thúc đẩy các
em phấn đấu đạt kết quả cao trong học tập nghề và hành nghề.
Tuy nhiên, hiện nay ở các trường THPT, công tác hướng nghiệp chưa được
quan tâm với đúng vị trí, vai trò của nó, việc thực hiện và kiểm tra, đánh giá còn
mang nặng tính hình thức. Điều đó dẫn đến việc nhiều học sinh chọn nghề chưa
đúng hoặc không phù hợp với bản thân nên chưa phát huy được năng lực, sức sáng

3


tạo, chưa gặt hái được thành công trong công việc. Thực tế, rất nhiều học sinh khi
đã được vào học các trường chuyên nghiệp mới nhận ra rằng mình không phù hợp
với nghề đã chọn, dẫn đến tình trạng chán nản, học tập không tiến bộ, bỏ học để tiếp
tục thi vào các trường khác. Điều này đã gây ra nhiều vấn đề phức tạp cho xã hội
như: chất lượng học tập kém, rèn luyện kém dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực
yếu, làm lãng phí của cải, thời gian, công sức cho cả cá nhân học sinh, gia đình học
sinh và cho xã hội.

Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn và nghiên cứu
đề tài: “Lựa chọn nghề của học sinh khối 12 các trường THPT thành phố Đồng
Hới, tỉnh Quảng Bình” `
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng lựa chọn nghề của học
sinh khối 12 các trường THPT TPĐồng Hới, tỉnh Quảng Bình, chúng tôi đề xuất các
biện pháp nhằm nâng cao nhận thức cũng như khả năng lựa chọn nghề nghiệp cho
học sinh một cách đúng đắn, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước, của địa
phương trong thời kỳ hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát cơ sở lý luận về lựa chọn nghề của học sinh THPT
- Khảo sát, đánh giá thực trạng lựa chọn nghề của học sinh khối 12 các
trường THPT TP Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
- Đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và khả năng lựa chọn nghề
nghiệp cho học sinh THPT
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Lựa chọn nghề của học sinh khối 12 các trường
THPT TP. Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
4.2. Khách thể nghiên cứu:
Do tính chất và nhiệm vụ của đề tài đặt ra, khách thể nghiên cứu gồm:
- Khách thể nghiên cứu nhằm phát hiện thực trạng gồm: 300 học sinh khối
12 của 2 trường THPT Đào Duy Từ và THPT Phan Đình Phùng, thành phố Đồng
Hới, tỉnh Quảng Bình

4


- Khách thể nghiên cứu nhằm lấy ý kiến đánh giá bên ngoài về lựa chọn
nghề của HS gồm: các giáo viên chủ nhiệm, giáo viên phụ trách hoạt động giáo dục
hướng nghiệp trong nhà trường và các cán bộ ở Trung tâm giáo dục hướng nghiệp

và dạy nghề tại địa phương.
- Khách thể thực nghiệm: biện pháp tác động giúp HS khối 12 lựa chọn nghề
phù hợp hơn gồm 45 HS của lớp 12A2 và 45 HS của lớp 12A6.
5. Giả thuyết khoa học
Đa số các em học sinh khối 12 trong diện nghiên cứu có mong muốn đi học
đại học hơn là học nghề. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc các em không mong
muốn học các nghề khác, trong đó, nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức của các
em về những nghề này còn hạn chế. Nếu khảo sát, đánh giá đúng thực trạng, đề xuất
các biện pháp phù hợp thì sẽ nâng cao được nhận thức cũng như khả năng lựa chọn
nghề cho học sinh một cách đúng đắn, phù hợp.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu lựa chọn nghề của HS khối 12
trên các mặt: Nhận thức, nhu cầu, hứng thú, sự chuẩn bị nghề và các yếu tố ảnh
hưởng đến lựa chọn nghề của HS.
6.2. Về phạm vi khảo sát: Khảo sát lựa chọn nghề của 300 HS các trường
THPT ở thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu liên
quan để xây dựng cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp quan sát
Phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia
Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp thống kê toán học

5



Luận văn sử dụng các phương pháp thống kê toán học và phần mềm SPSS
16.0 để xử lý số liệu nhằm phân tích kết quả nghiên cứu.
8. Đóng góp của đề tài
8.1. Về mặt lý luận: Tổng hợp, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận TLH về
lựa chọn nghề và các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề của HS khối 12.
8.2. Về mặt thực tiễn: Đánh giá thực trạng lựa chọn nghề, các yếu tố ảnh
hưởng đến sự lựa chọn nghề của HS khối 12 thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
và đề xuất một số biện pháp tác động nhằm giúp HS khối 12 thành phố Đồng Hới,
tỉnh Quảng Bình có sự lựa chọn nghề phù hợp hơn.
9. Cấu trúc của luận văn
Đề tài nghiên cứu này gồm có:
- Phần mở đầu
- Chương 1: Cơ sở lý luận về lựa chọn nghề của HS trường THPT
- Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
- Chương 3: Thực trạng lựa chọn nghề của học sinh khối 12 các trường
THPT thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
- Phần kết luận và kiến nghị
- Tài liệu tham khảo
- Phụ lục

6


NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỰA CHỌN NGHỀ
CỦA HỌC SINH TRƯỜNG THPT
1.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ lâu, nghề nghiệp luôn là vấn đề được quan tâm, bởi đó là yếu tố quan
trọng trong sự phát triển của xã hội cũng như đời sống của mỗi con người. Trình độ

của xã hội càng phát triển, đòi hỏi sự đa dạng của nghề nghiệp càng lớn và như thế
khi nghề nghiệp càng phát triển thì đời sống vật chất và tinh thần của con người
càng được nâng cao. Vì vậy, vấn đề nghề nghiệp có rất nhiều tác giả quan tâm.
Chúng tôi xin điểm lại những kết quả đã nghiên cứu trước đây về vấn đề này.
1.1.1. Trên thế giới
Hiện nay, vấn đề lựa chọn nghề được rất nhiều các nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu, bởi xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu con người ngày càng cao, sự
lựa chọn nghề ngày càng phong phú, đa dạng nhưng cũng phức tạp.
Có thể nói những tư tưởng về định hướng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ đã có từ
thời cổ đại, tuy nhiên, ở dưới dạng rất sơ khai và biểu hiện thông qua việc phân
chia, phân cấp lao động tùy thuộc vào địa vị và nguồn gốc xuất thân của mỗi người
trong xã hội. Điều này thể hiện rõ tính áp đặt của giai cấp thống trị và sự bất bình
đẳng trong phân công lao động xã hội. Đến thế kỷ XIX, khi nền sản xuất xã hội phát
triển cùng với những tư tưởng tích cực về giải phóng con người trên khắp thế giới
thì khoa học hướng nghiệp mới thực sự trở thành một khoa học độc lập. Cuốn sách
“Hướng dẫn chọn nghề” xuất bản 1948 ở Pháp được xem là cuốn sách đầu tiên nói
về hướng nghiệp. Nội dung cuốn sách đã đề cập đến sự phát triển da dạng của các
ngành nghề trong xã hội do sự phát triển của công nghiệp, từ đó đã rút ra những kết
luận coi giáo dục hướng nghiệp là một vấn đề quan trọng không thể thiếu khi xã hội
ngày càng phát triển và cũng là nhân tố thúc đẩy xã hội phát triển.
Năm 1980, James McKeen Cattell - một trong những người tiên phong của

7


khoa học hướng nghiệp, giáo sư tâm lý học của Đại học Pensylvania (Mỹ) đã mở
màn bằng việc xây dựng các test đầu tiên để đo lường và đánh giá các thành công
học đường của sinh viên. Năm 1909, Frank Parsons cũng là giáo sư Đại học
Pensylvania đã xuất bản cuốn “Lựa chọn một nghề nghiệp” (Choosing Vocation), về
sau vào những năm 1930, thế giới phương Tây đã tôn vinh cuốn sách này như là

một công trình nền tảng của ngành tư vấn hướng nghiệp. Cuốn sách đã trình bày cơ
sở tâm lý học của hướng nghiệp và chọn nghề, các tiêu chí về sự phù hợp nghề của
mỗi cá nhân để từ đó có sự lựa chọn phù hợp. Vào những năm 1940, nhà tâm lý học
Mỹ J.L.Holland đã nghiên cứu và thừa nhận sự tồn tại của các loại nhân cách và sở
thích nghề nghiệp, tác giả đã chỉ ra tương ứng với mỗi kiểu nhân cách nghề nghiệp
đó là một số những nghề nghiệp mà cá nhân có thể chọn để có được kết quả làm
việc cao nhất. Lý thuyết này của J.L. Holland đã được sử dụng rộng rãi nhất trong
thực tiễn hướng nghiệp trên thế giới.
Tại các nước phương Tây, những tác phẩm đầu tiên về tâm lý học nghề
nghiệp đã được công bố từ trước chiến tranh thế giới thứ nhất. Ngày nay, tâm lý học
nghề nghiệp được rất nhiều người quan tâm với một số lượng lớn các bài báo, các
bản tóm tắt chuyên môn và các tài liệu chuyên khảo bằng nhiều thứ tiếng. Phần lớn
các tài liệu này có đề cập đến những phương pháp và kết quả thu được trong

quá

trình hoạt động thực tiễn. Các tác giả của những tài liệu trên đều nghiên cứu những
vấn đề do xí nghiệp mà họ trực tiếp làm, đặt ra những vấn đề như về tuyển chọn
công nhân, vấn đề dạy nghề cho công nhân, sự sắp đặt nơi làm việc, các nguyên
nhân gây nên những nhân tố bất hạnh hay những nhân tố có ảnh hưởng đến năng
suất lao động, đến các mối quan hệ của con người trong thực tế.
Ở Liên Xô (cũ) vào những năm 29, 30 của thế kỷ XX, vấn đề hướng nghiệp
cho học sinh cũng được các nhà khoa học và lãnh đạo chính quyền Xô viết đặc biệt
quan tâm. V.I Lênin đã có chỉ thị yêu cầu phải cho học sinh làm quen với khoa học
kỹ thuật, làm quen với cơ sở của nền sản xuất hiện đại. N.K Crupxkaia - nhà giáo
dục lỗi lạc đã từng nêu lên luận điểm “Tự do chọn nghề” cho mỗi thanh, thiếu niên.
Theo bà, thông qua hướng nghiệp, mỗi trẻ em phải nhận thức sâu sắc hướng phát
triển kinh tế của đất nước, những nhu cầu của nền sản xuất cần được xã hội đề ra

8



cho các em trong lĩnh vực lao động sản xuất. Mặt khác, công tác hướng nghiệp lại
phải giúp cho trẻ em phát triển được hứng thú và năng lực nghề nghiệp, giáo dục
cho các em thái độ lao động đúng đắn, động cơ chọn nghề trong sáng. Từ đó các em
có thái độ tự giác trong việc chọn nghề.
Vấn đề dự định nghề nghiệp cũng được các tác giả A.A.Barbinova và
A.A.Baixburg nghiên cứu. Theo các tác giả, học sinh trung học phổ thông thường
có dự định học lên hơn là đi làm ngay. Những nghề học sinh dự định chọn là rất
khác nhau, tùy theo từng thời kỳ, theo đặc điểm lứa tuổi, giới tính.
N.D.Leevitov đánh giá rằng: Động cơ chọn nghề là một trong những động cơ
có ý nghĩa to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách, là mục tiêu phấn đấu
và tự quyết định đường đời của thanh niên. Những sự hứng thú, năng lực, mức độ
chuẩn bị với nghề đã chọn, nguyện vọng tự rèn luyện là những động cơ cá nhân bên
trong. Còn tấm gương của người khác hay lời khuyên, vật chất,... là những động cơ
bên ngoài của việc chọn nghề. Khi chọn nghề thì xu hướng xã hội thường kết hợp
với động cơ cá nhân như hứng thú đối với công việc nào đó, nhận thấy mình có
năng lực đó,...[10, tr9].
V.V.Tsebuseva đã nhận xét: “Học sinh chọn nghề nhưng chưa hiểu được ý
nghĩa của việc lựa chọn đó, không có các kiến thức cần thiết về nghề đã chọn” và
ngoài sự hiểu biết tối thiểu về nghề đã chọn đó, còn việc cần phải đối chiếu những
đặc điểm cá nhân mình với những yêu cầu mà nghề đó đề ra là điều mà HS thường
không tiinhs đến. [29, tr 52].
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, giáo dục hướng nghiệp tuy được xếp ngang tầm quan trọng với
các mặt giáo dục khác như đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục nhưng bản thân nó lại
rất non trẻ, mới mẻ cả về nhận thức, lý luận và thực tiễn, rất thiếu về lực lượng,
không mang tính chuyên nghiệp,... vì vậy, việc thực hiện không mang lại nhiều hiệu
quả. Vấn đề hướng nghiệp chỉ thực sự nóng lên và được xã hội quan tâm khi nền
kinh tế đất nước bước sang cơ chế thị trường với sự đa dạng của các ngành nghề và

nhu cầu rất lớn về chất lượng nguồn nhân lực. Nếu so với sự ra đời của nền giáo dục
XHCN sau cách mạng tháng Tám năm 1945 thì những tư tưởng về hướng nghiệp

9


cho học sinh cũng xuất hiện khá sớm. Cho đến trước những năm 1970, những tư
tưởng này chủ yếu dừng lại ở các quan điểm, chỉ thị, nghị quyết mang tính chỉ đạo,
lãnh đạo của Đảng, Nhà nước chứ chưa phải là luận điểm mang tính khoa học hay
những nghiên cứu khoa học thực sự.
Tác giả Phạm Tất Dong là người có những đóng góp rất lớn cho giáo dục
hướng nghiệp Việt Nam, ông đã dày công nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực
tiễn cho giáo dục hướng nghiệp như xác định mục đích, ý nghĩa, vai trò của hướng
nghiệp; hứng thú, nhu cầu và động cơ nghề nghiệp; hệ thống các quan điểm, nguyên
tắc hướng nghiệp, các nội dung, phương pháp, biện pháp giáo dục hướng nghiệp,...
Điều này được thể hiện ở rất nhiều trên các báo cáo, bài báo, sách, giáo trình của
ông như: “Giúp bạn chọn nghề” hay cuốn “Việc làm cho sinh viên - Giải pháp và
chính sách”. Trong một công trình nghiên cứu gần đây, ông đã chỉ ra rằng: “Công
tác hướng nghiệp góp phần điều chỉnh việc chọn nghề của thanh niên theo hướng
chuyển đổi cơ cấu kinh tế”. Bởi vì theo tác giả, đất nước đang trong giai đoạn đẩy
mạnh sự nghiệp CNH – HĐH, cơ cấu kinh tế sẽ chuyển theo hướng giảm tỉ trọng
công nghiệp, dịch vụ. Xu hướng chọn nghề của thanh niên phù hợp với xu hướng
chuyển cơ cấu kinh tế là một yêu cầu của công nghiệp [9, tr 38].
Chiến lược phát triển giáo dục năm 2001 - 2010 đã xác định rõ: “Thực hiện
chương trình phân ban hợp lý nhằm đảm bảo cho học sinh có học vấn phổ thông,
cơ bản theo một chuẩn thống nhất, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát huy năng
lực của mỗi học sinh, giúp học sinh có những hiểu biết về kỹ thuật, chú trọng hướng
nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân luồng sau THPT, để học sinh vào
đời hoặc chọn ngành nghề học tiếp sau khi tốt nghiệp”.
Tác giả Phạm Tất Dong có đề cập đến xu hướng nghề nghiệp của học sinh ở

một số vấn đề như lý tưởng, hứng thú nghề nghiệp nhưng mới chỉ dừng lại ở phạm
vi lý thuyết [6].
Tác giả Nguyễn Văn Hộ cũng là một trong những người rất tâm đắc và
nghiên cứu chuyên sâu về giáo dục hướng nghiệp. Gần đây (2006), ông cũng đã cho
xuất bản cuốn sách: “Hoạt động giáo dục hướng nghiệp và giảng dạy kỹ thuật trong
trường THPT”, cuốn sách đã trình bày một cách hệ thống về cơ sở lý luận của giáo

10


dục hướng nghiệp, vấn đề tổ chức giáo dục hướng nghiệp trong trường THPT và
giảng dạy kỹ thuật ở nhà trường THPT trong điều kiện kinh tế thị trường và sự
nghiệp CNH - HĐH đất nước hiện nay.
Tóm lại, thế giới nghề nghiệp phát triển không ngừng, việc nghiên cứu vấn
đề này bao giờ cũng mang tính thời sự và luôn mới mẻ. Xung quanh vấn đề nghề
nghiệp đã có nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu trên nhiều khía cạnh
như động cơ chọn nghề, hứng thú nghề, nhận thức chung về nghề… Tuy nhiên, vấn
đề về lựa chọn nghề của HS 12 chưa được các tác giả quan tâm thỏa đáng. Vì vậy,
để góp phần làm rõ hơn vấn đề này, chúng tôi đi sâu tìm hiểu thực trạng lựa chọn
nghề của HS lớp 12 các trường THPT TP Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
1.2. Các khái niệm liên quan
1.2.1. Việc làm
Theo Từ điển Tiếng Việt (do Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, nhà xuất bản
(NXB) Thanh Niên, 2000) định nghĩa: Việc làm là công việc cần dùng đến trí tuệ
hoặc sức lực để tạo nên điều kiện sinh sống.
Việc làm là công việc được giao cho làm thường ngày và được trả công (theo
Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng).
Có rất nhiều định nghĩa về việc làm, nhưng chung quy lại, có thể thấy điểm
chung: việc làm là công việc thiết yếu của mỗi con người, là công việc để sinh sống,
công việc có hai loại là công việc lao động trí óc và công việc lao động chân tay.

1.2.2. Nghề nghiệp
Nghề nghiệp là một trong những yếu tố quan trọng trong sự phát triển của xã
hội cũng như trong đời sống của mỗi người. Trình độ phát triển của xã hội được
biểu hiện ở sự phong phú và đa dạng của nghề nghiệp. Nghề càng phát triển, càng
phong phú đa dạng bao nhiêu thì người dân càng dễ dàng lựa chọn cho mình một
nghề nghiệp phù hợp với năng lực của mình.
Sự chuyển mình nhanh chóng của thế giới cũng như của Việt Nam trên các
lĩnh vực kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật công nghệ là điều kiện khiến cá nhân mỗi
con người hay toàn xã hội quan tâm sâu sắc đến lĩnh vực nghề nghiệp. Cũng chính
vì thế, có rất nhiều quan điểm khác nhau về nghề nghiệp.

11


Theo Từ điển Tiếng Việt: Nghề là một thuật ngữ để chỉ một hình thức lao
động trong xã hội theo sự phân công lao động mà con người sử dụng lao động của
mình để tạo nên sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội.
Nghề là các hoạt động lặp đi lặp lại của một người lao động trong việc sử
dụng những công cụ lao động nhất định nhằm hoàn thành những nhiệm vụ phục vụ
hay trực tiếp sản xuất của cải vật chất do xã hội phân công. Khái niệm này dành cho
lao động chân tay [17, tr 22].
Nghề được đào tạo là nghề mà trình độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của người
lao động đã được đào tạo dài hạn hoặc ngắn hạn nhằm giúp người đó tạo ra sản
phẩm vật chất, tinh thần cho xã hội.
Nghề là một tập hợp do sự phân công lao động xã hội quy định mà giá trị của
nó trao đổi ngược, nghề mang tính chất tương đối, nó phát sinh, phát triển hay mất
đi là do trình độ của nền sản xuất và nhu cầu xã hội. Khái niệm này dành cho lao
động trí óc.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về nghề nghiệp, nhưng tất cả đều chỉ
một hình thức lao động của một cá nhân hay một tập thể người trong xã hội dùng

khả năng trí tuệ hay cơ bắp để tạo ra của cải vật chất hoặc tinh thần nhằm phục vụ
cho bản thân và cho xã hội. Giữa nghề nghiệp và việc làm có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau nhưng không phải bất cứ việc làm nào cũng được gọi là nghề nghiệp. Có
những việc làm mang tính chất nhất thời, không ổn định, có thể thay đổi từ việc làm
này sang việc làm khác thì không thể gọi là nghề nghiệp của họ được.
Nghề nghiệp mang tính ổn định, lâu dài, ít khi di chuyển hay thay đổi,
thường có sự chuẩn bị về kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, cho dù nghề được đào tạo có
bài bản hoặc là những nghề tự phát, tích lũy kinh nghiệm xã hội hay nghề truyền
thống được lưu giữ từ đời này sang đời khác.
Từ những định nghĩa trên, có thể coi nghề nghiệp cũng là việc làm nhưng
không phải việc làm nào cũng là nghề nghiệp. Giữa việc làm và nghề nghiệp có
điểm chung là con người cùng bỏ sức lao động để tạo ra sản phẩm của cải vật chất
để phục vụ cho bản thân và xã hội. Dấu hiệu để nhận biết việc làm và nghề nghiệp
là ở chỗ: Nghề nghiệp là sự gắn bó lâu dài với công việc chuyên môn, là trình độ,

12


kỹ năng, kỹ xảo đối với việc làm đó. Còn việc làm chỉ gắn với một phần hoặc một
số kỹ năng lao động tùy thuộc vào một hay nhiều nghề mà qua đó người lao động
có thể hoàn thành nhiệm vụ và đem lại thu nhập cho bản thân.
1.2.3. Lựa chọn nghề
1.2.3.1. Lựa chọn nghề là gì?
Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, sự phân công xã hội ngày
càng phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, mỗi người chỉ có thể lựa chọn một nghề phù
hợp nhất với mình. Công việc này đòi hỏi mỗi học sinh phải có những hiểu biết nhất
định về nghề, đồng thời căn cứ vào hứng thú, năng lực của bản thân và nhu cầu của
thị trường lao động để tiến hành lựa chọn. Do đó, quá trình lựa chọn nghề phải bắt
đầu bằng sự nhìn nhận, đánh giá về nghề và rồi căn cứ vào hứng thú, năng lực của
bản thân để chọn cho mình một nghề phù hợp.

1.2.3.2. Quá trình chọn nghề
Nghề nghiệp xưa nay vốn là nỗi lo của xã hội và là khát vọng của con người.
Do đó, việc lựa chọn nghề phù hợp không chỉ là sự quyết định quan trọng của cá
nhân mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với toàn xã hội. Khi có nghề nghiệp phù hợp
con người sẽ luôn say mê tìm tòi, khám phá, phát huy khả năng sáng tạo, đồng thời
tạo điều kiện cho quá trình hoạt động nghề nghiệp của mình đạt hiệu quả cao.
Nhưng thực tế, con người không dễ dàng chọn được cho mình một nghề phù
hợp. Làm thế nào để học sinh chọn được cho mình một nghề mà các em có thể gắn
bó và cống hiến cho nghề đó một cách tốt nhất, đó là một vấn đề không hề đơn giản
đòi hỏi mỗi học sinh phải khéo léo, linh hoạt trong việc lựa chọn nghề.
Nghề gì cũng đòi hỏi con người cần phải có những phẩm chất về tâm sinh lý,
đáp ứng những nhu cầu của nghề đó. Muốn thành công trong nghề nghiệp, cần phải
phấn đấu tìm ra được sự phù hợp giữa những đặc điểm tâm sinh lý của học sinh với
những yêu cầu của nghề. Vì vậy, muốn chọn nghề phù hợp, cần phải tiếp thu thông
tin từ nhiều nguồn khác nhau như gia đình, nhà trường...và điều quan trọng là phải
hiểu rõ bản thân mình và nghề mình chọn. Những năm gần đây, có rất nhiều HS do
không nhận thức được năng lực của bản thân và thiếu thông tin về nhu cầu lao động
nên tỷ lệ HS thi trượt rất đông và có rất nhiều HS, sinh viên ra trường không tìm

13


được việc làm.
Trong quá trình chọn nghề, học sinh thường gặp những khó khăn sau:
- Thiếu thông tin về nghề
- Thiếu thông tin về thị trường lao động
- Thiếu tài chính để theo học nghề
- Bị gia đình phản đối
- Các yếu tố xã hội và một số khó khăn khác.
Những khó khăn trên ảnh hưởng đáng kể đến quá trình chọn nghề của thanh

thiếu niên. Như vậy, bên cạnh những trường hợp chọn nghề không đúng, có những
trường hợp chọn nghề theo dư luận xã hội, do chủ quan, áp đặt và nhất là do thiếu
hiểu biết về nghề nghiệp.
1.2.3.3. Cơ sở khoa học của việc lựa chọn nghề
Việc định hướng và chọn nghề phù hợp với học sinh có tầm quan trọng đặc
biệt đối với xã hội.
a. Ý nghĩa của việc lựa chọn nghề phù hợp
- Tạo điều kiện cho việc phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp có hiệu quả.
- Giảm áp lực về tâm lý, về tổ chức và các mặt xã hội trong các kỳ thi tuyển
sinh vào các trường ĐH, CĐ.
- Hạn chế, tiến tới xóa bỏ sự mất cân đối trong tuyển sinh, đào tạo và sử
dụng về cơ cấu lao động trong các ngành, nghề.
- Giúp cho mỗi cá nhân chọn được nghề phù hợp, có sự tiến bộ và thành đạt
trong nghề, hành nghề được lâu dài và có thể dịch chuyển nghề một cách dễ dàng,
từ đó, có thể lập thân lập nghiệp.
- Góp phần thiết thực cho thế hệ trẻ hướng nghiệp theo xu thế hội nhập khu
vực và quốc tế.
- Góp phần thúc đẩy cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước ngày một
vững chắc.
- Chọn nghề có cơ sở khoa học mang ý nghĩa giáo dục vừa có ý nghĩa kinh
tế, vừa có ý nghĩa xã hội, nhân văn và ý nghĩa chính trị sâu sắc, góp phần tích cực
vào việc phát triển kinh tế, xã hội bền vững của đất nước, tránh sự lãng phí về kinh

14


tế, tài chính, về đào tạo và sử dụng lao động – một tài sản vô giá của bất kỳ một
quốc gia nào.
b. Cơ sở khoa học của việc lựa chọn nghề.
- Xét trên tổng thể, sự lựa chọn nghề được coi là có cơ sở khoa học khi người

chọn nghề phải biết đặt ra và làm rõ các vấn đề sau:
+ Về phương diện sức khỏe, phát triển thể lực và đặc điểm sinh lý, bản thân
có điểm nào đó mà nghề không chấp nhận.
+ Về phương diện tâm lý, bản thân có những đặc điểm gì không thể phù hợp
với công việc của ngành, nghề.
+ Về phương diện sinh sống, có gì trở ngại khi làm nghề mà mình thích.
- Hiểu một cách chi tiết, cơ sở khoa học của việc chọn nghề được thể hiện
qua các nội dung:
+ Tìm hiểu thế giới nghề nghiệp: Cần phải hiểu biết về thế giới nghề nghiệp
và thấy được sự đa dạng, phong phú của nghề. Trong đó, đặc biệt quan tâm đến hoạt
động của nghề và những yêu cầu của nghề đối với người lao động.
+ Biết đánh giá đúng mình: Tìm hiểu và đánh giá đúng bản thân giữ một vai
trò quan trọng trong việc chọn nghề phù hợp. Tuy nhiên, đây là vấn đề không đơn
giản, bởi vì con người khi tự nhận thức, tự đánh giá mình, đôi khi rơi vào “lăng kính
chủ quan”. Tự đánh giá, xếp loại tâm lý của bản thân vào loại hướng nội hay hướng
ngoại với những đặc điểm cơ bản của nó, biết được khí chất của mình phù hợp hay
không phù hợp với nghề sẽ chọn.
1.2.4. Các thành tố của lựa chọn nghề
1.2.4.1. Nhận thức nghề
Nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý con người. Hoạt
động nhận thức là tiền đề quan trọng và có quan hệ mật thiết với nhiều hoạt động và
nhiều hiện tượng tâm lý khác của con người. Nhờ có nhận thức, con người không
chỉ phản ánh được hiện thực xung quanh mình mà còn cả hiện thực của chính bản
thân, không chỉ phản ánh các dấu hiệu về bề ngoài mà còn cả những thuộc tính bản
chất bên trong. Chỉ khi có nhận thức, con người mới thu nhận được những thông tin
chân thực về thế giới khách quan và qua đó con người mới tiến hành cải tạo thế giới

15



hiệu quả được. Để có thể sống và tồn tại một cách có ý nghĩa trong cuộc sống, con
người không thể không có sự nhận thức về sự vật, hiện tượng xung quanh. Con
người phải luôn có nhu cầu nhận thức về sự vật, hiện tượng, nhờ nhận thức, con
người mới có khả năng cải tạo, sáng tạo, buộc thế giới phục vụ trở lại mình.
Có nhiều quan điểm về nhận thức, nhưng nhìn chung, chúng đều có những
đặc điểm sau:
+ Nhận thức là quá trình phản ánh thế giới khách quan bởi con người.
+ Nhận thức là quá trình tạo thành tri thức trong bộ óc của mỗi người về hiện
thực khách quan.
Như đã nói ở trên, nhận thức là quá trình con người thu nhận tri thức, hiểu rõ
về thế giới xung quanh. Vậy nhận thức nghề là gì?
Nhận thức nghề (thực chất là sự hiểu biết nghề) là quá trình phản ánh các
thuộc tính cơ bản của nghề, những yêu cầu cơ bản của xã hội đối với nghề nghiệp,
những đòi hỏi về mặt tâm, sinh lý đối với người làm nghề đó, phản ánh quá trình
lao động trong lĩnh vực nghề nghiệp nhất định. [24, tr 22]
Nhận thức nghề có một vai trò rất quan trọng đối với quá trình chọn nghề.
Nó cung cấp cho con người những định hướng đầu tiên về nghề nghiệp. Nhận thức
nghề có liên hệ mật thiết sự lựa chọn nghề như hứng thú nghề, những định hướng
giá trị về nghề nghiệp... Đồng thời, nó có tác động mạnh mẽ đến tính tích cực của
sự chuẩn bị nghề cho tương lai. Thông thường, nhận thức đúng thì con người sẽ có
sự lựa chọn nghề nghiệp phù hợp và tích cực trong việc chuẩn bị nghề cho tương
lai. Tuy nhiên, không phải bao giờ nhận thức đúng thì con người cũng có những
hành vi phù hợp. Do vậy, công tác giáo dục hướng nghiệp không chỉ dừng lại ở việc
nâng cao nhận thức mà còn phải giúp các em có được sự lựa chọn đúng nghề, phù
hợp với khả năng, sở thích của bản thân, với yêu cầu phát triển KT – XH của địa
phương, đất nước trong điều kiện hiện nay.
Nhận thức nghề có hai mức độ: Mức độ cảm tính và mức độ lý tính. Chỉ có
nhận thức ở mức độ lý tính thì mới giúp con người có cái nhìn chính xác và đúng
đắn về thế giới nghề nghiệp, nhờ đó mà sự lựa chọn nghề được đúng đắn hơn.
Nhận thức nghề được biểu hiện như sau:


16


* Nhận thức về các thuộc tính cơ bản của nghề
Trong nhận thức nghề, con người trước hết phải nhận thức được những thuộc
tính cơ bản của nghề. Nghề có những thuộc tính cơ bản sau:
- Đối tượng lao động: Đối tượng lao động của nghề là những thuộc tính, mối quan
hệ qua lại giữa các sự vật, hiện tượng, các quá trình mà ở cương vị lao động nhất định, con
người phải vận dụng chúng. Ví dụ: Đối tượng lao động của ngành y là con người và những
bệnh lý cụ thể, các triệu chứng và nguyên nhân dẫn đến bệnh đó ...[25, tr 58].
- Mục đích lao động: Là kết quả mà xã hội đòi hỏi, trông đợi ở người lao
động. Mục đích cuối cùng của lao động trong nghề là phải trả lời được câu hỏi:
“làm được gì?” Ví dụ: Mục đích của việc dạy học là mang lại kiến thức, học vấn
cho con người giúp hình thành một số phẩm chất nhân cách. Trong khi đó, mục đích
lao động của người hướng dẫn viên du lịch lại là hướng tới giới thiệu với du khách
tất cả những vẻ đẹp, sự hấp dẫn của kỳ tích, cảnh quan thiên nhiên, cung cấp những
thông tin về lịch sử văn hóa, về an toàn...nhằm tạo cho du khách thích thú, tò mò và
tin tưởng mình đã sử dụng đồng tiền đúng chỗ. [25, tr 59].
- Công cụ lao động: Bao gồm các thiết bị kỹ thuật, các dụng cụ gia công, các
phương tiện làm tăng năng lực nhận thức của con người, làm tăng sự tác động của
con người đến đối tượng đó. Những máy móc để biến đổi năng lượng, xử lý thông
tin, đo lường chất lượng sản phẩm, những công thức và quy tắc toán học...là những
công cụ lao động. Ví dụ: Công cụ lao động của người giáo viên ngoài những công
cụ bên ngoài (như sách vở, phấn bảng...), còn có những công cụ có vai trò quyết
định đến chất lượng giáo dục đó là tri thức khoa học, kiến thức chuyên môn, nghiệp
vụ và toàn bộ nhân cách của người thầy giáo. [25, tr 58 – 59].
- Điều kiện lao động: Ở đây nó được hiểu là những đặc điểm của môi trường
làm việc như trong nhà máy hay ngoài trời, nhiệt độ, tiếng ồn, độ ẩm, các chất độc
hại cũng như các sự cố nguy hiểm có thể xảy ra. Ví dụ: Điều kiện lao động của nghề

may là làm việc trong nhà hoặc trong dây chuyền sản xuất ở các phân xưởng. Vì
vậy, nghề này không đòi hỏi sự thích ứng đặc biệt của cơ thể đối với công việc. Còn
điều kiện lao động của nghề hướng dẫn viên du lịch lại thường xuyên làm việc
ngoài trời, luôn di chuyển địa điểm, làm việc trong hoàn cảnh thường xuyên tiếp

17


xúc với nhiều người trong nước và ngoài nước. Cho nên, công việc này đòi hỏi
người lao động phải có sức khỏe, tính cách linh hoạt, kiến thức xã hội sâu rộng, khả
năng giao tiếp, ứng xử tốt. [25, tr 59].
Ngoài ra, một số đặc điểm khác như quá trình công nghệ, tổ chức quá trình
lao động, những yêu cầu và đặc trưng về tâm sinh lý của người hành nghề cũng
không kém quan trọng.
Thế giới nghề nghiệp vô cùng đa dạng, nên không dễ dàng gì để trang bị cho
các em hết được những thuộc tính cơ bản của tất cả các nghề trong xã hội. Đối với
học sinh THPT, cấu tạo và chức năng của hệ thần kinh đã phát triển và hoàn thiện
nên các hoạt động trí tuệ (cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng, trí nhớ) đã trở nên
bền vững và hiệu quả, đồng thời tính chủ định trong hoạt động nhận thức đã phát
triển mạnh. Nên các em có thể tự mình tìm hiểu các thuộc tính cơ bản của nghề qua
nhiều kênh thông tin khác nhau. Do đó, công tác hướng nghiệp cần phải luôn đặt ra
những yêu cầu, nhiệm vụ buộc học sinh tích cực, chủ động tìm hiểu chúng, làm cho
nhận thức nghề của bản thân ngày một sâu sắc và hoàn thiện hơn.
Tóm lại, mỗi nghề đều có những đối tượng, mục đích, công cụ, điều kiện lao
động riêng. Việc nhận thức thấu đáo những đặc điểm này sẽ giúp cho học sinh khối
12 có thể có được sự lựa chọn nghề tốt nhất.
* Nhận thức về yêu cầu nghề
Mỗi nghề đều đặt ra cho người lao động những yêu cầu nhất định để có thể
làm tốt được công việc đó. Đó chính là những yêu cầu nghề.
Do số lượng nghề và chuyên môn quá lớn, nội dung và tính chất nghề quá

phức tạp nên thật khó để có thể đưa ra những yêu cầu cụ thể cho từng ngành. Tuy
nhiên, từ trên bình diện tổng quát, việc đưa ra các yêu cầu nghề đối với xã hội của
các tác giả Phạm Tất Dong, Nguyễn Thế Trường được phần lớn các nhà nghiên cứu
chấp nhận. Các yêu cầu đối với từng nhóm nghề như sau:
Những nghề thuộc lĩnh vực hành chính: Những nghề này đòi hỏi con người
có đức tính thận trọng, chu đáo, ngăn nắp, chín chắn, tỉ mỉ. Mọi tác phong và thói
quen cẩu thả, thiếu ngăn nắp... đều không phù hợp với công việc hành chính.
Những nghề thuộc lĩnh vực tiếp xúc với con người: Những người làm trong

18


nghề này phải có thái độ hài hòa, chân thành, khéo léo, tế nhị... Thái độ, hành vi đối
xử lạnh nhạt, thiếu thông cảm, thiếu thiện chí...đều xa lạ đối với công việc trên.
Những nghề trong lĩnh vực kỹ thuật: Nghề kỹ thuật đòi hỏi người lao động
có lòng say mê với công việc thiết kế và vận hành kỹ thuật, nắm chắc những tri thức
khoa học hiện đại, có khả năng tiếp cận với công nghệ mới. Người làm nghề kỹ
thuật phải có lòng nhiệt tình và óc sáng tạo trong công việc. Ngoài ra, năng lực tổ
chức cũng có vị trí quan trọng cơ bản.
Những nghề trong lĩnh vực văn hóa và nghệ thuật: Yêu cầu chung đối với
những người làm trong lĩnh vực này là phải có cảm hứng sáng tác, sự tinh tế và
nhạy bén trong cảm thụ và thể nghiệm cuộc sống.
Những nghề thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học: Người làm công tác nghiên
cứu khoa học phải say mê tìm kiếm chân lý, luôn luôn học hỏi, có thái độ khách
quan trước đối tượng nghiên cứu.
Nghề tiếp xúc với thiên nhiên: Muốn làm nghề này, con người phải yêu thích
thiên nhiên, đồng thời phải cần cù, chịu khó, thích nghi với hoạt động ngoài trời,
thận trọng, tỉ mỉ...
Những nghề có điều kiện lao động đặc biệt như lái máy bay, nhà du hành vũ
trụ, khai thác tài nguyên dưới đáy biển, thám hiểm... Những công việc này thích

hợp với những người dũng cảm, có sự quan sát tinh tế, thông minh, sáng tạo...
Trên đây chỉ là những phẩm chất tâm lý chung cần thiết để người lao động có
thể làm tốt nghề. Đồng thời, mỗi nghề cụ thể thì có những đòi hỏi riêng đối với
người lao động. Ví dụ: Nghề bác sĩ đòi hỏi người lao động phải có một cơ thể khỏe
mạnh, có các giác quan nhạy cảm... Nghề giáo viên đòi hỏi người lao động tối thiểu
có giọng nói bình thường, không nói lắp, nói ngọng.
Lứa tuổi học sinh THPT là lứa tuổi của sự tự xác định đường đời tương lai
của mình. Các em đã biết lựa chọn nghề nghiệp một cách có suy nghĩ, các em đã
nêu lên được các lý do lựa chọn của mình. Nhiều học sinh đã biết so sánh những
đặc điểm về thể chất và tâm lý của mình với yêu cầu của một nghề nào đó đối với
con người (mặc dù các em chưa hiểu hết những yêu cầu đó).
Ở lứa tuổi này, khả năng tự nhận thức về bản thân đã phát triển nên các em

19


có thể ý thức được những diễn biến tâm lý bên trong như: tâm trạng, tâm thế, thái
độ... các em nhận thức được cả những phẩm chất đạo đức, những nét tính cách,
phẩm chất, ý chí của mình. Tuy nhiên, những hình ảnh về “cái tôi” của bản thân ở
lứa tuổi này có tính chất phức tạp và không ổn định. Do đó, để các em nhận thức
được đúng đắn về bản thân mình, rất cần sự hỗ trợ của những nhà chuyên môn. Họ
là những chuyên gia được đào tạo có tay nghề, có kiến thức sâu sắc về hướng
nghiệp, về tư vấn chọn nghề, có kỹ thuật tư vấn và biết sử dụng thành thạo các
phương pháp, TEST, cùng với sự hỗ trợ của các máy móc, phương tiện kỹ thuật
hiện đại để chẩn đoán khả năng trí tuệ, khả năng vận động, nhân cách học sinh.
Tóm lại, thế giới nghề nghiệp thật đa dạng và phong phú, mỗi loại nghề đều
đặt ra những yêu cầu riêng đối với người lao động. Do đó, để việc chọn nghề đúng
đắn thì mỗi cá nhân khi chọn nghề phải đối chiếu những phẩm chất tâm lý của cá
nhân với những yêu cầu mà nghề đặt ra cho người lao động.
* Nhận thức về nghề phù hợp với bản thân

Trong việc chọn nghề, mỗi cá nhân cần nhận thức được nghề phù hợp với
bản thân mình. Một người được coi là phù hợp với nghề nào đó nếu họ có những
phẩm chất, đặc điểm tâm lý, sinh lý đáp ứng với những yêu cầu cụ thể của nghề đó
đòi hỏi ở người lao động. Trong giám định lao động, người ta xét tương quan giữa
những đặc điểm nhân cách (tổ hợp những đặc điểm tâm lý, sinh lý) với những yêu
cầu của nghề (với tư cách là một hoạt động). Nếu tương quan này thể hiện rõ nét thì
coi là có sự phù hợp cao, còn thể hiện không nhiều thì sự phù hợp bình thường.
Trong trường hợp không thấy sự tương quan thì kết luận là không có sự phù hợp.
Hiểu khái quát, xác định sự phù hợp nghề phải xuất phát từ:
+ Xác định phần tĩnh: bao gồm những phẩm chất con người có ở một thời
điểm nhất định.
+ Xác định phần động: là những đặc điểm cá nhân con người sẽ phát triển
theo hướng nào, với tốc độ như thế nào.
Muốn có được chân dung thật của con người phải tổng hợp cả hai phần tĩnh
và phần động.
+ Phải tổng hợp cả ba yếu tố: con người, nghề, KT – XH, tức là tìm ra sự phù hợp

20


×