Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Kinh tế xã hội quảng ngãi dưới triều nguyễn (1802 1885)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1001.64 KB, 100 trang )

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn đã giành được quyền cai trị đất nước. Sau nhiều thế
kỷ phân ly, đến đây nền thống nhất đất nước được khôi phục. Lần đầu tiên trong lịch sử
Việt Nam, một lãnh thổ trải dài từ Lạng Sơn đến Cà Mau được xác lập. Đối với lịch sử
dân tộc, sự kiện này có ý nghĩa vô cùng to lớn. Tuy vậy, nền thống trị của nhà Nguyễn
đứng trước nhiều thách thức lớn, liên quan đến sự sống còn của vương triều. Quản lý
một đất nước rộng lớn trong điều kiện giao thông kém phát triển, thông tin liên lạc lạc
hậu, lòng dân, nhân tâm sĩ phu Bắc Hà không yên, một nền hành chính còn nhiều khác
biệt sau hàng thế kỷ đầy biến động, kinh tế chậm phát triển, nguy cơ ngoại xâm… là
những khó khăn và thách thách thức đặt ra cho nhà Nguyễn ở thế kỷ XIX. Đứng trước
những khó khăn, thách đố đó, triều đình nhà Nguyễn đã thực thi những chính sách cai
trị về tất cả các mặt của đời sống xã hội để ổn định tình hình và phát triển đất nước.
Nước Việt Nam có sự chuyển biến dưới thời nhà Nguyễn, không chỉ ở tầm vĩ mô mà
còn ở các địa phương cụ thể.
Trong bối cảnh đó, Quảng Ngãi thuộc vùng “tả trực” của Kinh đô Huế. Dưới thời
Nguyễn, cũng như các tỉnh khác trong cả nước, tỉnh Quảng Ngãi cũng có sự chuyển
biến về kinh tế - xã hội. Với vị trí và điều kiện cụ thể của địa phương, tình hình Quảng
Ngãi dưới triều Nguyễn cũng có nét khác với các tỉnh cùng khu vực. Việc tìm hiểu
kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885) sẽ giúp cho chúng ta có
cái nhìn khái quát về tình hình kinh tế, xã hội, đời sống của nhân dân nơi đây. Thông
qua đó, góp phần tìm hiểu đầy đủ hơn về tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam dưới
Triều Nguyễn trong thế kỷ XIX, rút ra được những bài học kinh nghiệm giúp cho tỉnh
Quảng Ngãi có thể kế thừa trong công cuộc xây dựng, phát triển hiện nay.

1


Với những lý do trên chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi
dưới triều Nguyễn (1802-1885)” làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt


Nam.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài nhằm khôi phục lại bức tranh kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới
triều Nguyễn trong điều kiện đất nước có nhiều biến động và thách thức.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích các yếu tố tác động đến tình hình kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều
Nguyễn. Đồng thời làm rõ tình hình và đặc điểm kinh tế - xã hội dưới triều Nguyễn từ
năm 1802 đến năm 1885. Từ đó rút ra những bài học quý báu để phát triển tỉnh Quảng
Ngãi hiện nay.
3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Nghiên cứu về tình hình kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (18021885) đã có một số công trình được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Thông qua
một số công trình nghiên cứu đó giúp chúng tôi có thể tra cứu và giải quyết được vấn
đề đặt ra trong luận văn.
Liên quan đến tình hình kinh tế, xã hội ở Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn được ghi
chép rải rác trong các thư tịch cổ. Mặc dù chỉ là một phần ít ỏi nhưng đây là tư liệu
gốc rất có giá trị như: Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Đại Nam
nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, Minh Mệnh chính yếu, Đại Nam thực
lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Mục lục châu bản triều Gia Long, Mục lục
châu bản triều Minh Mạng …
Nghiên cứu về tình hình kinh tế và xã hội triều Nguyễn có cuốn “Kinh tế và xã hội
Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn” của tác giả Nguyễn Thế Anh xuất bản vào năm
1971. Tác phẩm đã để cập đến tình hình kinh tế - xã hội trong đó có một số sự kiện ít
ỏi về Quảng Ngãi. Nghiên cứu về tình hình ruộng đất, năm 1979 tác giả Vũ Huy Phúc
đã cho ra đời tác phẩm “Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX”,

2


năm 1996 có cuốn “Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều

Nguyễn” của tác giả Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang (chủ biên), cuốn sách “Chế độ
ruộng đất ở Việt Nam” của tác giả Trương Hữu Quýnh ra đời năm 1999. Những tác
phẩm trên đây cũng đã đề c ập đến ruộng đất ở Quảng Ngãi thời Nguyễn. Tác phẩm
“Nghề thủ công truyền thống ở Quảng Ngãi” của Nguyễn Ngọc Trạch (chủ biên,
2005) đã phần nào đề cập đến hoạt động kinh tế thủ công nghiệp ở Quảng Ngãi. Năm
2008 Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã biên soạn cuốn “Địa chí Quảng Ngãi”, là
công trình nghiên cứu tổng quan về Quảng Ngãi từ thời cổ đại đến hiện đại, trong đó
có đề cập về kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn.
Năm 2010 tác giả Nguyễn Đình Đầu với tác phẩm “Nghiên cứu về địa bạ triều
Nguyễn – Quảng Ngãi” đã trình bày cụ thể vấn đề ruộng đất và kinh tế nông nghiệp ở
Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn.
Luận văn Thạc sĩ của Trần Thị Thu Hương năm 2011 đã viết về “Phố cảng Thu Xà
(Quảng Ngãi) từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX” và Khóa luận tốt nghiệp Đại học
của Dương Thị Thu Hương năm 2011 có đề cập đến “Hoạt động kinh tế của người
Hoa ở Quảng Ngãi từ thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ XX” cũng đề cấp đến hoạt động
kinh tế thương nghiệp ở Quảng Ngãi.
Vấn đề xã hội Quảng Ngãi thế kỷ XIX đã được đề cập trong các tác phẩm “Tìm
hiểu các phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (18851945)” của Bùi Định xuất bản năm 1985. Cuốn “Phong trào nông dân Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XIX” của Nguyễn Phan Quang xuất bản năm 1986 đã đề cập đến các vấn
đề kinh tế, xã hội ở miền núi Quảng Ngãi và cuộc đấu tranh quyết liệt của đồng bào
thiểu số chống lại nhà Nguyễn. Hội thảo khoa học” Lê Trung Đình và phong trào Cần
vương ở Quảng Ngãi” (1997) và luận án Tiến sĩ “Phong trào yêu nước chống Pháp ở
Quảng Ngãi từ năm 1885 đến năm 1930” của Trương Công Huỳnh Kỳ (2001) đã đề
cập đến các vấn đề xã hội và cuộc đấu tranh của nhân dân Quảng Ngãi trong việc
hưởng ứng dụ Cần Vương (1885).

3


Có thể khẳng định rằng, với các công trình nghiên cứu trên đây, vấn đề kinh tế, xã

hội Quảng Ngãi đã được các nhà nghiên cứu giải quyết với những thành quả đáng trân
trọng. Đây chính là cơ sở để tác giả luận văn có thể kế thừa và phát triển, hoàn thành
được mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn đề ra.
4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tình hình kinh tế - xã hội ở Quảng Ngãi dưới
triều Nguyễn (1802-1885).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu của đề tài là tỉnh Quảng Ngãi.
Thời gian từ năm 1802 đến năm 1885.
Nội dung nghiên cứu là kinh tế - xã hội Quảng Ngãi.
5. NGUỒN TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Nguồn tư liệu
Để thực hiện luận văn, chúng tôi dựa vào các nguồn tư liệu sau:
Các thư tịch cổ, công trình sử học do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn đã
được dịch và xuất bản như: Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ,Mục
lục châu bản triều Nguyễn…
Các công trình nghiên cứu về kinh tế, xã hội triều Nguyễn nói chung và Quảng
Ngãi dưới triều Nguyễn nói riêng lưu trữ tại Thư viện Tổng hợp Thừa Thiên Huế, Thư
viện Tổng hợp tỉnh Quảng Ngãi, Trung tâm học liệu Đại học Huế...
Các bài viết được đăng trên các tạp chí Cẩm Thành, tạp chí Xưa và nay…
Đó là những nguồn tư liệu quan trọng giúp phục dựng lại bức tranh lịch sử về kinh
tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn từ năm 1802 đến 1885.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở nguồn tư liệu thu thập được, trong quá trình nghiên cứu, để hoàn thành
luận văn, ngoài vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin làm cơ sở phương pháp luận, chúng
tôi còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp lịch sử, phương

4



pháp logic, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê,
phương pháp so sánh, phương pháp liên ngành.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Luận văn sẽ có một số đóng góp sau:
Luận văn sẽ hệ thống hóa các nguồn tư liệu liên quan, cung cấp những thông tin
về tình hình kinh tế, xã hội ở Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm
1885.
Luận văn góp phần khôi phục bức tranh kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều
Nguyễn (1802-1885) có tính hệ thống, rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc đề
ra các chính sách phát triển kinh tế - xã hội để tạo nên sự phát triển bền vững Ngãi
hiện nay.
7. BỐ CỤC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và các phụ lục, luận văn gồm 3
chương.
Chương 1. Khái quát về vùng đất Quảng Ngãi
Chương 2.Kinh tế Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Chương 3. Xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)

5


CHƯƠNG 1.
KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT QUẢNG NGÃI
1.1.

Tổng quan về điều kiện tự nhiên và xã hội Quảng Ngãi

1.1.1. Đặc điểm tự nhiên
1.1.1.1.Địa hình

Quảng Ngãi thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ, có tọa độ địa lý 14032’ – 15025’
vĩ Bắc, 108006’ – 109004’ kinh Đông, lưng tựa vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, mặt nhìn
ra biển Đông; phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía nam giáp tỉnh Bình Định; phía tây
và tây bắc giáp tỉnh Quảng Nam và tỉnh Kon Tum; phía đông giáp biển Đông.
Tỉnh Quảng Ngãi có diện tích tự nhiên 5.131,5 km2. Quảng Ngãi có đường bờ biển
dài gồm 130 km với 5 cửa biển chính: Sa Cần, Sa Kỳ, Cửa Đại, Mỹ Á và Sa Huỳnh
[71,tr.31]. Với đặc điểm chung là núi lớn chạy sát biển và có tính chuyển tiếp từ địa
hình đồng bằng ven biển phía đông đến địa hình đồi núi cao ở phía tây nên ở đây được
chia thành bốn vùng có tính chất và đặc trưng khác nhau rõ rệt, bao gồm vùng núi,
vùng trung du, vùng đồng bằng và vùng bãi cát ven biển.
Vùng rừng núi: Quảng Ngãi là một trong những tỉnh có nhiều rừng núi cao trùng
điệp, với diện tích 391.192 ha, chiếm 2/3 diện tích đất đai toàn tỉnh. Núi cao tạo thành
hình vòng cung, hai đầu nhô ra sát biển, ôm chặt lấy đồng bằng. Các núi cao có thể kể
đến như núi Cà Đam (1413m), núi Đá Vách (1115m), núi U Bò (1100m), núi Cao
Muôn (1085m). Bên cạnh đó, các huyện đồng bằng nơi nào cũng có núi cao thấp khác
nhau [36, tr. 24]. Núi rừng Quảng Ngãi có nguồn tài nguyên phong phú về lâm thổ sản
với nhiều loại gỗ quý như lim, sao vát, chò, trắc, huỳnh đàng, kiền kiền, gõ. Ngoài gỗ,
rừng Quảng Ngãi còn có nhiều loại cây thuốc như sa nhân, hà thủ ô, thiên niên kiện,
ngũ gia bì, sâm; các loại cây có sợi, cây có dầu trầm hương, cây lấy nhựa và các loại
cây lấy nấm. Đồng thời đây còn là nơi sinh sống của nhiều loại thú quý, hàng trăm loại
chim quý và là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên khoáng sản, bao gồm các loại: sắt,

6


nhôm, mica, cao lanh, thạch anh, đá vôi. Trong đó hàm lượng sắt chiếm tỷ lệ khá cao
trong các cồn đất Trà Lâm, Thanh Trà (Bình Sơn), Thiết Trường (Mộ Đức), vì thế
trước đây một số nơi trong tỉnh người dân xây dựng các lò để luyện sắt như: Lò Thổi,
Gò Đình (Bình Sơn), Lò Thổ (Mộ Đức) và các làng ở Trà Bồng. Cao lanh khá nhiều ở
Sơn Tịnh, Sơn Hà, Bình Sơn, Tư Nghĩa. Đá vôi san hô có nhiều ở đảo Lý Sơn, là

nguyên liệu phụ gia cần thiết để chế biến đường muỗng, đường phèn, đường cát trắng.
Vùng trung du: Hầu như đất đai được phát triển trên nền đá ong latêrit hóa. Đất
bazan phong hóa, đất cát, đất ruộng thung lũng thấp. Đất ở đây thường bị bào mòn từ
cao xuống thấp, có nhiều gò đồi, lắm sỏi đá. Do đó, vùng này thường là đất xám, đất
bạc màu, đất đen nên rất thích hợp với các loại cây lương thực và cây công nghiệp
ngắn ngày như chè, mì, khoai lang, đậu, mía, lúa.
Vùng đồng bằng Quảng Ngãi: Đồng bằng Quảng Ngãi nhỏ hẹp nhưng khá đa dạng
về hình thái. Diện tích khoảng 160.678 ha, trong đó chỉ có 13.672 ha được bồi đắp phù
sa thường xuyên bởi bốn hệ thống sông chính là sông Trà Bồng, sông Trà Khúc, Sông
Vệ và sông Trà Câu. Càng đi về phía nam, đồng bằng càng hẹp lại, chỉ còn là một rẻo
dọc bờ biển. Địa hình bề mặt đồng bằng Quảng Ngãi khá bằng phẳng, nghiêng thoải về
phía đông, độ cao từ 2 – 30m [71, tr.62]. Đất ở đây thích hợp với các loại cây lương
thực, cây công nghiệp ngắn ngày, đặc biệt là cây mía. Đồng thời đây còn là nơi chứa
nước ngầm lớn nhất phục vụ nhu cầu đời sống, sản xuất của phần lớn cư dân Quảng
Ngãi.
Vùng bãi cát ven biển: nhỏ hẹp với diện tích khoảng 2446,8 ha. Địa hình vùng bãi
cát ven biển Quảng Ngãi có đặc điểm chung giống như các khu vực khác ở miền
Trung, là sự hiện diện của các dải cát cao song song với đường bờ giữ vai trò như đê
cát chắn sóng tự nhiên, bảo vệ phần đá phía sau các cồn cát. Ngoài ra, vùng cát Quảng
Ngãi còn có kiểu địa hình thấp rất đặc trưng, đó là dạng địa hình đầm lầy bị bồi lấp.
Đất vùng này thích hợp với các loại cây khoai lang, mì, dừa, rừng phi lao có tác dụng
làm đai phòng hộ chống cát bay, bồi lấn.

7


Biển Quảng Ngãi dài hơn 130 km, nằm trong vùng nước sâu trũng của biển Đông,
do đó có điều kiện phát triển mạnh. Hơn nữa, vùng biển Quảng Ngãi còn chịu ảnh
hưởng mạnh của các hướng gió mùa và các hiện tượng nhiễu động thời tiết cực đoan
như bão, áp thấp nhiệt đới, giông lốc nên việc đánh bắt xa bờ gặp nhiều khó khăn. Tuy

nhiên, vùng biển Quảng Ngãi là nơi có nhiều loại hải sản như cá, mực, tôm, cua, hải
sâm, rau câu…
Bờ biển Quảng Ngãi có những cửa biển thuận lợi cho tàu thuyền cập bến như cửa
Sa Cần, cửa Sa Kỳ, cửa Cổ Lũy, cửa Lỡ, cửa Mỹ Á, cửa Sa Huỳnh.
1.1.1.2. Khí hậu
Cũng như cả nước, Quảng Ngãi nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa. Một năm được
chia làm hai mùa: mùa khô và mùa mưa.
Mùa khô từ tháng 2 đến tháng 8. Trong mùa khô số giờ nắng bình quân là 6,4
giờ/ngày, đỉnh điểm là 9,9 giờ/ngày. Có năm nắng kéo dài liên tục từ tháng 3 – 4 tháng,
gây ra hạn hán làm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp.Trong mùa khô thường có
những trận mưa giông và gió nồm làm diệu bớt sự oi bức của mùa hè và làm cho cây
cối tốt tươi [36, tr. 33].
Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng Giêng năm sau. Hằng năm, ngày mưa từ
121 ngày đến 126 ngày, số ngày mưa tập trung nhiều nhất vào tháng 10, tháng 11 [36,
tr. 32].
Nhiệt độ trung bình hằng năm là 25,30C.Vào thời điểm nóng nhất của các tháng 6,
7, 8 nhiệt độ lên đến 400C. Độ ẩm hằng năm là 83,9%. Quảng Ngãi có những hướng
gió theo mùa như sau: từ tháng 3 đến tháng 9 thường xuyên có gió Đông Nam và Tây
Nam. Từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau có gió Đông Bắc. Nhiều năm cường độ gió
mạnh thành bão [36, tr.33].

8


Nhìn chung, khí hậu Quảng Ngãi có nhiều thuận lợi cho cây trồng và hoạt động
của các nghề thủ công. Tháng nắng trong năm thuận lợi cho nghề làm gốm, nghề chế
biến đường, kẹo, mạch nha…trong việc phơi nắng nguyên liệu, chế biến sản phẩm.
Tuy nhiên, do độ ẩm cao nên dễ sinh sâu bệnh cho lúa, hoa màu và cây trái. Đồng
thời những năm nắng hạn kéo dài gây tình trạng thiếu nước tưới cho cây trồng, mưa lũ
mùa giông thường gây lụt lội, ngập úng.

1.1.1.3.

Thủy văn

Trên địa bàn Quảng Ngãi, sông suối phân bố tương đối đều. Các sông có một số
đặc điểm như: bắt nguồn từ phía đông dãy Trường Sơn và đổ ra biển, sông chảy trên
hai địa hình (đồi núi phức tạp và đồng bằng hẹp), sông ngắn và độ dốc lòng sông lớn
bao gồm 4 sông chính: sông Trà Bồng, sông Trà Khúc, sông Vệ và sông Trà Câu.
Sông Trà Bồng: Nằm ở phía Bắc tỉnh, bắt nguồn từ dãy núi phía tây của huyện Trà
Bồng, chảy qua huyện Bình Sơn đổ ra cửa biển Sa Cần. Sông dài khoảng 45 km,
hướng chảy cơ bản từ tây sang đông. Phần lớn chảy qua địa hình rừng núi, phần còn lại
chảy vào vùng đồng bằng xen đồi trọc và bãi cát. Phía thượng nguồn của sông Trà
Bồng có nhiều phụ lưu như: suối Nún, suối Cà Đú, nhánh suối Sâu, nhánh suối
Bí…[71, tr.65].
Sông Trà Khúc: Nằm gần giữa tỉnh, đây là sông có lượng nước dồi dào nhất so với
các sông khác trong toàn tỉnh. Sông Trà Khúc dài khoảng 135 km, được hợp lưu bởi 4
con sông lớn là sông Rhe, sông Xà Lộ, sông Rinh, sông Tang chảy xuống hướng Đông
qua ranh giới các huyện Sơn Hà, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Thành phố Quảng Ngãi và đổ ra
cửa biển Cổ Lũy.
Sông Trà Khúc có lưu vực khoảng 3240 km2, trên bề mặt lưu vực sông có khoảng
nửa diện tích kể từ nguồn là rừng già, còn lại là rừng thưa, vùng hạ lưu là đất canh tác
và đồng bằng trồng lúa, mía chiếm diện tích khá lớn.

9


Sông Vệ: Dài khoảng 90 km, phát nguyên từ vùng rừng núi phía tây của huyện Ba
Tơ, chảy theo hướng tây nam – Đông Bắc qua các huyện Nghĩa Hành, Tư Nghĩa, Mộ
Đức đổ ra biển Đông tại cửa biển Cổ Lũy và cửa Đại Lợi.
Sông Vệ có một chi lưu đáng kể nhất là sông Thoa, cung cấp lượng nước khá lớn

cho đại bộ phận đồng lúa Mộ Đức.
Sông Trà Câu: dài khoảng 32 km, bắt nguồn từ rừng núi Ba Trang (huyện Ba Tơ)
chảy xuyên qua huyện Đức Phổ để ra cửa biển Mỹ Á. Đây là con sông nhỏ nhất trong
số các con sông nói trên, nước ở đây cũng thường xuyên cũng cạn kiệt vào mùa khô.
Nhìn chung, điều kiện tự nhiên và đặc điểm địa hình cùng nguồn tài nguyên thiên
nhiên đã tạo cho Quảng Ngãi có nhiều khả năng để phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.2. Đặc điểm xã hội
1.1.2.1.Dân cư Quảng Ngãi
Nhìn chung dân cư trong tỉnh phân bố không đồng đều, vùng trung châu và ven
biển đông đúc, còn miền núi dân cư thưa thớt. Trên địa bàn Quảng Ngãi có 4 dân tộc
anh em sinh sống, bao gồm Kinh, Hrê, Cor và Ca Dong (một nhánh của dân tộc Xơ
Đăng) [71, tr.145].
Có thể nói, người Kinh hiện diện ở Quảng Ngãi bắt đầu từ thế kỷ XV trở đi, đa số
là những người nông dân ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, vùng Thanh – Nghệ di cư vào
khẩn hoang đất đai, lập thành làng mạc.
Dưới thời các chúa Nguyễn, một số người Hoa từ vùng Quảng Đông, Phúc Kiến,
Triều Châu, Hải Nam (Trung Quốc) đến sinh sống ở Thu Xà, cửa biển Sa Cần, Sa
Huỳnh và một số điểm ở trung du. Người Hoa đóng vai trò tương đối quan trọng trong
sự phát triển kinh tế ở vùng đất Quảng Ngãi thời Nguyễn. Nhưng trải qua các cuộc
chiến tranh, người Hoa phần nhiều đã phân tán đi nơi khác, phần hòa nhập vào cộng
đồng người Việt, không còn các cộng đồng làng xã đặc thù.

10


Ở miền núi, dân cư có sự ổn định hơn. Miền núi Quảng Ngãi là địa bàn cư trú của
dân tộc Hrê, Cor, Ca Dong sinh sống; là là cư dân lâu đời, sống theo từng khu vực và
có sự đan xen nhất định, có sự giao lưu buôn bán với nhau và với người Việt ở miền
xuôi lên buôn bán, khai khẩn.
1.1.2.2.Thành phần dân tộc

* Dân tộc Kinh
Tộc danh chính thức gọi là Việt, nhưng để phân biệt với các dân tộc thiểu số thì
người Việt thường được gọi là người Kinh.
Cư dân người Việt có mặt đầu tiên ở Qảng Ngãi vào thế kỷ XV. Năm 1402, qua
cuộc xung đột giữa phong kiến Đại Việt và Chămpa, vua Chămpa nhượng hai châu
Chiêm Động và Cổ Lũy Động cho nhà Hồ. Sau đó Hồ Quý Ly đổi đặt thành 4 châu
Thăng, Hoa (Quảng Nam) và Tư, Nghĩa (Quảng Ngãi).
Năm 1472 cuộc chinh phạt Chămpa của vua Lê Thánh Tông, vùng đất từ nam đèo
Hải Vân đến đèo Cù Mông nằm trong sự quản lý của Đại Việt và đặt thành đạo thừa
tuyên Quảng Nam, gồm 3 phủ: Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn. Nhà Lê chiêu mộ
dân chúng vào khai khẩn đất hoang và đồng thời khuyến khích quân lính ở lại mở
mang đồn điền, phát vãng những tù nhân lưu đày vào đây. Đây được xem là những
nguồn nhân lực chủ yếu khai phá vùng đất mới.
Vùng cư trú của người Kinh tập trung chủ yếu ở đồng bằng và các thị trấn, thị tứ ở
miền núi Quảng Ngãi, một số sinh sống đan xen với người dân tộc thiểu số ở miền núi.
*Dân tộc Hrê
Hrê là tộc người có số dân đứng thứ hai trong tỉnh sau dân tộc Kinh. Họ cư trú chủ
yếu ở các huyện: Trà Bồng, Tây Trà, Sơn Hà, Sơn Tây, Minh Long, Ba Tơ, Nghĩa
Hành và Tư Nghĩa.

11


Hrê là tộc danh chính thức của dân tộc này. Dưới triều Nguyễn và Pháp thuộc,
người Hrê được gọi bằng những phiếm danh, có ý nghĩa khinh miệt như: “Mọi Đá
Vách”, “Mọi Thạch Bích”, “Mọi Sơn Phòng”, “Thượng Ba Tơ”… Sau Cách mạng
tháng Tám năm 1945 được thống nhất chung tên gọi dân tộc Hrê.
Trong xã hội của người Hrê, làng là đơn vị cư trú, đồng thời là cộng đồng tự quản
với những thiết chế sinh hoạt đã định hình từ lâu. Mỗi làng đều có chủ làng (Krăng
plây), là người lớn tuổi, có nhiều kinh nghiệm, có uy tín, gia đình thuộc loại giàu có

trong làng.Chủ làng là người cùng với thầy cúng (Pơ dâu) tổ chức các lễ cúng của làng.
Cá nhân chủ làng đứng ra chịu trách nhiệm tổ chức bắt máng nước, làm đường, rào
làng, hướng dẫn việc sản xuất, giải quyết các vụ xử phạt…
Xã hội truyền thống của người Hrê có sự phân hóa giàu nghèo, do chênh lệch về
ruộng đất, về lao động và về thu nhập giữa các hộ gia đình. Trong xã hội có 4 tầng lớp
người: người giàu (Proong), người đủ ăn có chút ít dư thừa (Lắp ká), người thiếu ăn,
kinh tế khó khăn (Pa), người đi ở vì nơ, nô lệ vì nợ (Hapoong, dik) [71, tr. 148].
Nguồn kinh tế đem lại thu nhập quan trọng nhất cho đời sống của người Hrê là
nông nghiệp trồng lúa nước. Nghề thủ công cũng góp phần bổ sung quan trọng trong
đời sống kinh tế tự cung tự cấp, bao gồm nghề dệt, đan lát, chăn nuôi gia súc, gia
cầm…
* Dân tộc Cor
Dân tộc Cor là dân tộc có số dân đông thứ 3 trong tỉnh và là dân tộc có số dân đông
thứ 2 trong các dân tộc thiểu sô sau dân tộc Hrê.
Địa bàn cư trú của dân tộc Cor ở các huyện Trà Bồng, Tây Trà của tỉnh Quảng
Ngãi và một số ít của huyện Trà My tỉnh Quảng Nam. Xưa kia, người ta gọi người Cor
là người Cua, người Trầu. Tên tự gọi của dân tộc Cor, là tộc danh chính thức.

12


Đặc trưng sinh hoạt kinh tế của người Cor là lấy kinh tế nương rẫy làm nguồn thu
nhập chính. Ngoài ra, vùng người Cor còn nổi tiếng về giống trầu không và quế.

* Dân tộc Ca Dong
Ca Dong là tộc người có số dân đứng thứ 4 trong tỉnh. Địa bàn cư trú của người Ca
Dong phân bố ở các huyện Sơn Tây (Quảng Ngãi), Sa Thầy , Kon Plong (Kon Tum),
Trà My (Quảng Nam).
Kinh tế của tộc người Ca Dong chủ yếu là nông nghiệp rẫy canh tác theo kiểu luân
canh luân khoảnh, trồng trọt vụ đầu tiên đến vụ thứ hai hoặc vụ ba rồi bỏ hoang khoảng

1 đến 2 năm mới canh tác lại. Từ sau năm 1975, chính quyền địa phương đã vận động
họ chuyển dần tập quán canh tác sang làm ruộng nước.
Địa bàn cư trú chủ yếu của người Ca Dong nằm giáp giới với vùng Tây Nguyên, có
nhiều đường bộ liên thông nên thường có các cuộc trao đổi hàng hóa với miền xuôi.
Người Ca Dong mua các loại chiêng, ché, vải mặc, nồi đồng,… buôn bán trao đổi bằng
nguồn quế, loại cây nguyên liệu có giá trị thương phẩm cao. Ngoài ra, các sản phẩm
chăn nuôi như trâu, bò…được buôn bán trao đổi cho các cư dân vùng Tây Nguyên để
đổi lấy chiêng, ché.
Trong xã hội người Ca Dong có sự phân chia giàu nghèo dựa trên lượng gạo thu
hoạch, chiêng, ché, trâu, bò…Trong làng có 3 loại người: người giàu, người đủ ăn và
người nghèo, nhưng chưa thấy có sự bóc lột nhau [71, tr.155].
1.2. Tổ chức hành chính Quảng Ngãi dưới thời Nguyễn
Quảng Ngãi là Cổ Lũy động thuộc châu Amaravati. Năm 1400 nhà Hồ thay triều
Trần, tháng 7 năm 1402 đánh lấy đất Chiêm động và Cổ lũy động. Năm 1407, nhà
Minh (Trung Quốc) đem quân xâm lược và thống trị nước ta.Nhân cơ hội này, Chiêm
thành đem quân chiếm đất Chiêm động và Cổ Lũy động.

13


Để củng cố vùng đất phía Nam, xây dựng đất nước thống nhất, năm Hồng Đức thứ
2 (năm 1471), vua Lê Thánh Tông cùng các tướng Lê Huy Cát, Hoàng Nhân Thiêm,
Lê Thế, Nguyễn Đức Trung đem quân thu phục các đất Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa và
thành Đồ Bàn (thuộc tỉnh Bình Định ngày nay), sau đó thiết lập đạo Thừa tuyên Quảng
Nam là đơn vị hành chính (như cấp tỉnh ngày nay) thứ 13 của cả nước. Thừa tuyên
Quảng Nam thống lĩnh 3 phủ: Thăng Hoa (Quảng Nam), Tư Nghĩa (Quảng Ngãi), Hoài
Nhân (Bình Định) gồm 9 huyện. Trong đó phủ Tư Nghĩa gồm 3 huyện: Bình Dương,
Nghĩa Giang và Mộ Hoa.
Năm 1602, đời Lê Hoằng Định thứ 3, Nguyễn Hoàng cải đổi tên các đơn vị lãnh
thổ, hành chính đã được đặt từ trước ở hai trấn Thuận – Quảng. Trấn Quảng Nam đổi

thành dinh Quảng Nam, phủ Tư Nghĩa (thuộc dinh Quảng Nam) đổi thành phủ Quảng
Nghĩa.Tên Quảng Nghĩa ra đời từ đó.
Năm 1771, phong trào nông dân Tây Sơn bùng nổ. Năm 1776, nhà Tây Sơn đổi
phủ Quảng Nghĩa thành phủ Hoà Nghĩa.
Năm 1805, Gia Long đổi phủ Hòa Nghĩa thành phủ Tư Nghĩa, đồng thời đặt ra
dinh Quảng Nghĩa, đặt các chức Lưu thủ, Cai bạ, Ký lục. Năm 1808, Gia Long lại đổi
dinh Quảng Nghĩa thành trấn Quảng Nghĩa và đến năm 1810 đổi chức Lưu thủ thành
Trấn thủ.
Năm 1832, Minh Mạng bãi bỏ các trấn, dinh, chia cả nước thành 31 tỉnh. Trấn
Quảng Nghĩa đổi thành tỉnh Quảng Nghĩa, Quảng Nghĩa trở thành đơn vị hành chính
cấp tỉnh từ đó. Nhưng đến năm 1934, Minh Mạng lại cải tên Quảng Nghĩa thành tỉnh
“Nam trực”.Năm Thiệu Trị thứ 7 (năm 1847), đặt chức Tuần phủ Quảng Nghĩa và đặt
chức Tổng đốc Nam – Nghĩa. Tỉnh Quảng Nghĩa dưới thời Nguyễn gồm 1 phủ Tư
Nghĩa và 3 huyện: Bình Sơn, Chương Nghĩa, Mộ Đức và 4 nguồn Trà Bồng, Sơn Hà,
Minh Long và Ba Tơ.

14


Năm 1858, thực dân Pháp nổ sung xâm lược nước ta. Với các điều ước Quý Mùi
(năm 1883), Giáp Thân (năm 1884), triều đình Huế thừa nhận sự đô hộ của thực dân
Pháp trên cả nước. Sau đó, cùng với các địa phương khác, tỉnh Quảng Nghĩa cũng bị
Pháp đô hộ. Tên tỉnh được đổi thành tỉnh Quảng Ngãi.
1.3.Tình hình kinh tế - xã hội Quảng Ngãi từ thế kỷ XV đến năm 1802
Năm 1471, triều đình nhà Lê cho thiết lập đạo thừa tuyên Quảng Nam, đạo thừa
tuyên thứ 13 của Đại Việt, bao gồm vùng đất nam đèo Hải Vân của châu Hóa cùng 4
châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa thời nhà Hồ và kinh đô Chà Bàn của vương quốc
Chămpa. Đạo thừa tuyên Quảng Nam thống lĩnh 3 phủ: Thăng Hoa (Quảng Nam), Tư
Nghĩa (Quảng Ngãi), Hoài Nhân (Bình Định). Phủ Tư Nghĩa gồm 3 huyện là Bình
Dương, Nghĩa Giang và Mộ Hoa.

Thực hiện chỉ dụ và được sự khuyến khích của triều đình, dân cư các vùng Sơn
Nam Hạ, Thanh Hóa, Nghệ An đi vào vùng đất Nam – Ngãi – Bình cùng sống với
người Chăm, cấy cày ở những vùng đồng bằng, khai thác tài nguyên phong phú trên
rừng, dưới biển. Vùng đất thừa tuyên Quảng Nam từ đó vĩnh viễn trở thành một bộ
phận lãnh thổ của quốc gia Đại Việt.
Thế kỷ XVI, thừa tuyên Quảng Nam trong đó có vùng đất Quảng Ngãi, tình hình
kinh tế - xã hội đi vào ổn định, kinh tế không ngừng phát triển, diện tích khai hoang
được mở rộng, sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh, các nghề thủ công phát triển, thu
hút ngày càng nhiều di dân từ các vùng Hoan, Ái (Thanh Hóa, Nghệ An) vào lập
nghiệp, sinh tụ lâu dài.
Từ khi Nguyễn Hoàng trấn thủ vùng Thuận – Quảng, ông ra sức xây dựng vùng
này thành một khu vực kinh tế trù phú với nhiều chính sách về điền địa, thuế khóa,
giao thương nội địa và ngoại thương, thu phục được nhân tâm, tạo được uy thế lâu dài.
Năm 1602, Nguyễn Hoàng cải tổ các đơn vị hành chính – lãnh thổ ở hai trấn Thuận

15


Quảng, theo đó trấn Quảng Nam đổi thành dinh Quảng Nam, phủ Tư Nghĩa (thuộc
dinh Quảng Nam) đổi thành phủ Quảng Nghĩa.
Từ sau khi dinh Quảng Nam được thành lập (bao gồm các phủ Điện Bàn, Thăng
Hoa, Quảng Nghĩa, Quy Nhơn), vùng đất phủ Quảng Nghĩa nói riêng, dinh Quảng
Nam nói chung, tiếp tục phát triển trong một thời gian dài về sau dinh Quảng Nam
không còn là miền biên trấn vì các chúa Nguyễn đã mở rộng lãnh thổ xa dần vào phía
Nam. Trong thời gian đó, miền đất Quảng Nam trong đó có Quảng Ngãi, diễn ra một
quá trình xen lẫn chuyển dịch và ổn định cư dân.
Lớp cư dân đến từ trước tiếp tục dựng làng, lập ấp, ổn định đời sống và phát triển
sản xuất. Lớp người đến sau (gồm một số lớn là tù binh và cư dân Đàng Ngoài bị chúa
Nguyễn bắt đem về trong các cuộc tấn công ra phía bắc sông Gianh, một số khác là di
dân tự do, đào tẩu…) khai phá những vùng đất còn hoang hóa, lập thêm làng ấp mới.

Ở Quảng Ngãi, số cư dân mới đến này định cư rải rác cả 3 huyện nhưng nhiều nhất
là huyện Mộ Hoa (nay là 2 huyện Mộ Đức và Đức Phổ) ở phía nam. Ngoài ra, còn có
một bộ phận người Hoa (Minh Hương) từ Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Hải
Nam đến sinh sống và lập một số khu dân cư mua bán lâm thổ sản, làm một số nghề
thủ, công mỹ nghệ mà họ mang từ cố hương đến, thu mua hàng xuất khẩu. Một bộ
phận khác của cư dân Đàng Ngoài đến định cư từ trấn Thuận – Hóa (Thừa Thiên –
Huế) và các phủ Điện Bàn, Thăng Hoa (phía bắc dinh Quảng Nam) những giai đoạn
trước, lúc này có sự dịch chuyển vào Quảng Ngãi, Quy Nhơn.
Cũng trong thời gian này, biển Đông và các đảo ven bờ trong đó có đảo Lý Sơn
(Cù Lao Ré, nay là huyện đảo Lý Sơn) xa hơn là Hoàng Sa, Trường Sa (Bắc Hải) cũng
thu hút sự quan tâm của các chúa Nguyễn với việc hình thành các đội Hoàng Sa, Bắc
Hải để tuần phòng và khai thác hải sản. Lúc bấy giờ, Hoàng Sa lệ thuộc vào sự quản lý
của phủ Quảng Nghĩa. Hàng năm, chúa Nguyễn lập đội Hoàng Sa gồm 60 người, là các
dân binh lấy từ ngư dân 2 xã An Vĩnh và An Hải thuộc huyện Bình Sơn (nay thuộc

16


huyện Lý Sơn) đi thuyền đến Hoàng Sa để tuần phòng và khai thác đồi mồi, ba ba, hải
sâm, san hô. Nhiều thư tịch Việt Nam, Trung Hoa và nhất là những ghi chép của các
nhà hàng hải phương Tây còn để lại đã góp phần khẳng định từ lâu, Hoàng Sa đã là
một phần lãnh thổ Việt Nam, thuộc địa phận Quảng Ngãi [71, tr.169].
Lúc bấy giờ dinh Quảng Nam là vùng đất phồn thịnh nhờ vào sự phát triển nông
nghiệp trên những cánh đồng tương đối rộng và có điều kiện khí hậu phần nào thuận
lợi hơn vùng Bắc Trung Bộ. Tài nguyên rừng (sa nhân, cánh kiến, trầm hương, kỳ nam,
gỗ quý…), tài nguyên biển (trai ngọc, đồi mồi, cá, mực…) được khai thác phục vụ xuất
khẩu qua các cảng biển như Hội An (Quảng Nam), Thu Xà (Quảng Nghĩa). Các nghề
thủ công nghiệp cũng khá phát đạt, gồm cả những nghề do cư dân Việt phía Bắc mang
theo trong quá trình di dân (dệt chiếu, đan nón, làm gốm…), nghề của người Chăm
(đóng thuyền, đan lưới…), nghề của một bộ phận người Hoa Minh Hương đến định cư

(kẹo gương, làm nhang…).
Thế nhưng đến giai đoạn cuối thế kỷ XVIII, sự phát triển kinh tế - xã hội ở Đàng
Trong đã dần dần tích tụ những mâu thuẫn nội tại với việc hình thành lớp người giàu,
có quyền lực, chiếm hữu nhiều đất đai, bên kia là đại đa số nông dân nghèo khó, ruộng
đất khai khẩn được bằng mồ hôi, nước mắt và cả xương máu dần dần rơi vào tay điền
chủ, quan lại.
Mối quan hệ chung lưng đấu cật giữa những người có của đi kinh dinh với số đông
người lao động đã phai nhạt dần theo năm tháng. Đồng thời, nhiều mâu thuẫn giữa kẻ
giàu với kẻ nghèo, người chiếm hữu và người bị chiếm hữu ngày càng trở nên gay gắt.
Thêm vào đó do đặc điểm xã hội Đàng Trong, bộ máy cai trị về đại thể mang hình thức
quân quản nên những người giàu có, nhiều ruộng đất, cũng đồng thời là tầng lớp tướng
lĩnh hoặc quan lại xuất thân từ tướng lĩnh. Quá trình chiếm hữu ruộng đất của tầng lớp
trên được hỗ trợ bằng các chính sách, chủ trương của nhà nước phong kiến mà trong
đó, ngày càng nặng nề hơn là sự nghiệt ngã của chính sách sưu dịch, thuế khóa. Bên
cạnh đó, sự quản lý chặt chẽ của các chúa Nguyễn đối với việc khai thác các nguồn tài

17


nguyên nhằm phục vụ xuất khẩu, mua sắm vũ khí và các mặt hàng xa xỉ khác đã làm
cho tầng lớp thương nhân không thể hình thành, cho dù đã có một lực lượng khá đông
đảo những người mua bán nhỏ lẻ, thu mua nông thổ sản, lâm sản, hải sản đã nhóm
thành các “nậu” ở khắp vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi lúc bấy giờ. Bao trùm lên tất
cả, chi phối tất cả các quan hệ phức tạp trên đây là mâu thuẫn giữa tập đoàn phong kiến
Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài và các chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Nếu như ở giai đoạn đầu
mối quan hệ này đã gián tiếp thúc đẩy quá trình Nam tiến cũng như sự thịnh vượng của
đất Thuận Quảng thì càng về sau, khi các chúa Nguyễn đã công khai ý đồ cát cứ, thì
ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển đất nước ngày càng trầm trọng. Những cuộc
chiến tranh triền miên giữa hai bờ sông Gianh, việc huy động một lực lượng lớn nhân
tài, vật lực để đào hào, đắp lũy, mua sắm vũ khí, huy động tráng đinh bỏ ruộng vườn

tham gia quân đội đã làm cho nền kinh tế Đàng Trong nói chung và Quảng Ngãi nói
riêng rơi vào khủng hoảng. Người dân vốn đã khổ cực vì sưu cao thuế nặng, lại thêm
nạn dịch binh, thiên tai, mất mùa…làm cho bội phần khốn đốn.
Cuộc khởi nghĩa của anh em nhà Tây Sơn (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn
Lữ) từ vùng rừng núi Tây Sơn Thượng Đạo, nổ ra vào năm 1771, và nhanh chóng trở
thành một phong trào nông dân rộng lớn. Từ Quy Nhơn, Quảng Ngãi phong trào này
lan ra khắp đất Quảng Nam, rồi cả nước, cuốn cả tập đoàn phong kiến của các chúa
Nguyễn ở Đàng Trong và tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài, đánh bại cả
quân Thanh xâm lược ở phía Bắc và quân Xiêm gây rối ở phía Nam.
Ngay sau khi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra, ở miền Tây Quảng Ngãi, các ông Đa
Phát Rang (chủ động Cao Muôn), Đa Phát Canh (chủ động Thạch Bích), Đinh Thung
(chủ động Cà Đam) đã hô hào đồng bào các dân tộc ít người nổi dậy hưởng ứng cuộc
khởi nghĩa, thiết lập 3 căn cứ kháng chiến ở vùng cao. Từ đây, phong trào nhanh lan
xuống vùng thấp với việc hình thành các căn cứ: Sa Lang (tây nam Đức Phổ), Vực
Liêm (tây Đức Phổ, Mộ Đức), Tây Giang (vùng giáp ranh Nghĩa Hành, Minh Long),
Tuyền Tung (vùng giáp ranh Bình Sơn, Trà Bồng). Ngoài ra, quân Tây Sơn còn có các

18


chốt điểm hoạt động quan trọng ở Bến Thóc (huyện Mộ Đức), Lò Thổi (Tuyền Tung),
Thiết Trường (huyện Mộ Đức), Trà Câu (huyện Đức Phổ) và đặc biệt là vùng rừng núi
Cà Ty (nay thuộc xã Tịnh Trà, huyện Sơn Tịnh), tiếp giáp với xã Bình Chương, huyện
Bình Sơn, nơi quân Tây Sơn xuất quân tiến đánh quân chúa Nguyễn tại dinh Quảng
Nam (1773) và cũng là nơi Nguyễn Huệ tổ chức cuộc hội tụ quan trọng gồm các văn
thần, mưu sĩ, tướng lĩnh cùng các đạo kỵ binh hùng mạnh trước giờ xuất quân đánh lấy
Phú Xuân vào năm 1786.
Từ khắp nơi trong phủ Quảng Nghĩa, nhiều bậc hiền tài đã hướng về nghĩa quân
Tây Sơn, quy tụ dưới ngọn cờ anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Nhiều
người trong số đó đã trở thành các yếu nhân của phong trào nông dân Tây Sơn, lập

chiến công xuất sắc trong việc xóa sổ các tập đoàn phong kiến Đàng Trong lẫn Đàng
Ngoài, đánh bại quân xâm lược Mãn Thanh năm 1789, như: Thái phó Trần Quang Diệu
(người làng Tú Sơn, xã Đứ Lân, huyện Mộ Đức); Đô đốc Nguyễn Văn Huấn và Đại tư
mã Nguyễn Văn Danh (là hai anh em ruột, người làng Văn Hà, xã Đức Phong, huyện
Mộ Đức); Đô Đốc Huỳnh Văn Thuận (người làng Dương Quang, xã Đức Thắng, huyện
Mộ Đức); Đô đốc Trương Đăng Đồ (người làng Mỹ Khê, xã Tịnh Khê, huyện Sơn
Tịnh); …
Cùng với nhân dân phủ Quy Nhơn (nay là tỉnh Bình Định), nhân dân phủ Quảng
Nghĩa (nay là tỉnh Quảng Ngãi) đã có nhiều đóng góp to lớn trong sự nghiệp của nhà
Tây Sơn và phong trào nông dân Tây Sơn. Trong lời Hịch truyền quan lại, quân dân
của các phủ Quảng Nghĩa, Quy Nhơn đề ngày 10-9 năm Quang Trung thứ 5 (27-81792), Quang Trung – Nguyễn Huệ đã khẳng định: “Tất cả các ngươi, lớn nhỏ từ hơn
hai chục năm nay, đều luôn luôn chịu ân đức của nhà Tây Sơn ta. Sự thật, trong mấy
chục năm qua, trẫm đã chiến thắng cả trong Nam, ngoài Bắc. Trẫm nhận rằng có được
những chiến thắng ấy chính là nhờ có sự phù trợ hết lòng của nhân dân hai phủ. Hai
phủ cũng đã tiến cử lên trẫm nhiều người trung dung, hiền tài để giúp triều đình” [32,
tr.101].

19


Năm 1776, dưới thời Tây Sơn, phủ Quảng Nghĩa được đổi tên là phủ Hòa Nghĩa,
kéo dài từ phía nam sông Bến Ván (Bản Tân) đến đèo Bình Đê và đặt dưới quyền quản
lý trực tiếp của vua Thái Đức – Nguyễn Nhạc. Triều Tây Sơn chỉ tồn tại ngắn ngủi,
nhưng đã thực thi nhiều chính sách tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển của đất nước,
trong đó có phủ Hòa Nghĩa (Quảng Ngãi).
Từ sau khi vua Quang Trung – Nguyễn Huệ qua đời (1792), nhà Tây Sơn nhanh
chóng rơi vào khủng hoảng. Những mâu thuẫn xã hội tạm thời lắng dịu do ảnh hưởng
và thanh thế của phong trào Tây Sơn trong buổi đầu dấy nghiệp cũng như tài năng, đức
độ của Nguyễn Huệ, đến lúc này đã bộc lộ trở lại và ngày càng trở nên gay gắt hơn.
Thêm vào đó, những lục đục trong nội bộ vương triều, do những tham vọng cát cứ,

thâu tóm quyền lực của một số công thần, sự bất tài, nhu nhược của Trung ương Hoàng
đế Nguyễn Nhạc, Đông Định vương Nguyễn Lữ, người kế vị Quang Trung là Quang
Toản, và nhất là sự phản kích liên tục của tập đoàn Nguyễn Ánh từ phía Nam khiến
nhà Tây Sơn trở nên suy yếu.
Năm 1801, triều Tây Sơn sụp đổ. Nguyễn Ánh lên ngôi vua (1802), thiết lập vương
triều Nguyễn, xây dựng và củng cố quyền lực trên toàn cõi đất nước.
Tiểu kết
Quảng Ngãi là vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng không chỉ về mặt quân sự
mà cả về mặt kinh tế, chính trị, văn hóa. Trên mảnh đất núi Ấn – sông Trà mà thiên
nhiên không mấy ưu đãi này, các thế hệ kế tiếp nhau sinh sống, đã lập nên những giá
trị văn hóa vật thể và phi vật thể mang đậm sắc thái địa phương, un đúc nên những con
người lao động cần cù, sáng tạo, đánh giặc giỏi, thông minh, nhân hậu, thời nào cũng
xuất hiện những nhà quân sự tài ba, những bậc anh hung hào kiệt như sách Đại Nam
nhất thống chí chép: “Đất bạc, dân chăm, tính tằn tiện, không xa hoa, người quân tử
thích việc nghĩa, giữ khí tiết…Địa thế tuy hẹp mà khí mạch tốt, nên đời nào cũng có

20


người làm đến quan to chức trọng, bước đường thanh thản, trọn được danh vọng…”
[48, tr. 356-357].
Vào thế kỷ XV – XVI, địa giới và dân cư Quảng Ngãi được dần ổn định. Đến thế
kỷ XIX, trải qua thời Gia Long, Minh Mạng, các vị vua đầu triều Nguyễn đã cố gắng
tổ chức bộ máy hành chính các cấp nối liền giữa triều đình và các cấp cơ sở tạo thành
một hệ thống tương đối chặt chẽ. Quảng Ngãi cũng như các miền đất khác, nhà
Nguyễn đã thiết lập ở đây một bộ máy hành chính các cấp một cách hoàn chỉnh, tập
trung, góp phần vào công cuộc ổn định kinh tế - xã hội nơi đây.

21



CHƯƠNG 2.
KINH TẾ QUẢNG NGÃI DƯỚI TRIỀU NGUYỄN (1802-1885)
2.1. Nông nghiệp
2.1.1. Tình hình ruộng đất
Vào thế kỷ XIX, ở Việt Nam, nông nghiệp là hoạt động chính và cung cấp tài
nguyên chính yếu. Dưới thời nông nghiệp cực thịnh, phần ruộng đất là quan trọng hơn
cả. Dân gian trông cậy vào đó để sinh tồn và phát triển. Triều đình nhờ đó thu thuế để
nuôi quân và điều hành việc nước. Ở Quảng Ngãi nửa đầu thế kỷ XIX vẫn tồn tại hai
loại hình sở hữu ruộng đất chủ yếu là công điền, công thổ (sở hữu nhà nước) và tư
điền, tư thổ (sở hữu tư nhân). Công điền công thổ lại chia ra hai loại: quan điền, quan
thổ và công điền, công thổ.
Quan điền, quan thổ là những loại ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước và do quan
chức quản lý như tịch điền, quan xá thổ, quân trại thổ, quan trại điền, quan đồn điền,
quan tiêu viên…Đối với mỗi loại ruộng đất đó, quan chức quản lý theo những quy chế
mà triều đình đã định riêng cho mỗi loại. Tựu trung về mặt sử dụng, thường chia làm
hai phần: phần công dụng như quan xá thổ và phần dân dụng như quan trại điền. Phần
công dụng thì ít mà phần dân dụng thì nhiều.Song dân dụng thì phải đóng thuế, thuế
này cao hơn thuế các loại công điền công thổ hay tư điền tư thổ [15, tr.10].
* Quan điền, quan trại
Đây là loại ruộng ngụ lộc, thưởng lộc, chế lộc, quan điền, quan điền trang, quan
đồn điền, quan trại…
Loại quan điền, quan trại phân bố chủ yếu ở các tỉnh miền Trung từ Nghệ An trở
vào, tuy nhiên số lượng không nhiều. Ở Quảng Ngãi, loại này có tồn tại nhưng chiếm

22


tỷ lệ ít, theo địa bạ Quảng Ngãi lập năm Gia Long thứ 12 (1813) toàn diện tích thực
canh ở Quảng Ngãi là 48.446 mẫu, trong đó quan điền chiếm 587 mẫu, quan thổ 6 mẫu

[15, tr. 91-92].
Năm 1822, Minh Mạng cho chuyển dần quan điền quan trại thành ruộng công làng
xã và đến giữa thế kỷ XIX cơ bản quan điền, quan trại không còn tồn tại nữa.
* Đồn điền
Đồn điền là một hình thức khai hoang vốn xuất hiện từ thời Trần, nhà Lê phát triển
thêm một bước và tiếp tục duy trì cho đến nhà Nguyễn. Trước năm 1802 trong quá
trình xây dựng lực lượng của mình, nhằm đốc thúc binh lính và nhân dân khai khẩn đất
hoang, Gia Long đã sáng lập ra các loại đồn điền mới. Tinh thần đó được tiếp tục dưới
thời Nguyễn vào thế kỷ XIX.
Kể từ 1802, các loại đồn điền vẫn duy trì khắp trên toàn quốc, kể cả Nam Kỳ, Trực
Kỳ, Bắc Kỳ. Ở miền Trung, năm 1804 các loại đồn điền do binh lính canh tác được mở
thêm nhiều ở toàn hạt Quảng Ngãi trên cơ sở các liên cơ binh lính địa phương.
Công điền, công thổ là những loại ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước và để cho xã
thôn quản lý theo quy định của triều đình như cách chia ra khẩu phần và thời gian phân
chia lại.
Vào đầu thế kỷ XIX, một tình trạng chung là ruộng đất công làng xã bị thu hẹp
dần. Năm 1852 khi được vua Tự Đức hỏi về ruộng công, ruộng tư ở các tỉnh, Thượng
thư bộ Hộ là Hà Duy Phiên tâu: “Thừa Thiên, Quảng Trị ruộng công nhiều hơn ruộng
tư. Quảng Bình thì ruộng công, ruộng tư bằng nhau.Còn các hạt khác thì ruộng tư
nhiều mà ruộng công ít, tỉnh Bình Định lại càng ít hơn” [59, tr.238]. Theo địa bạ
Quảng Ngãi thì ruộng đất công làng xã chỉ có 7.406 mẫu trong tổng số 48.446 mẫu
diện tích thực canh, chiếm tỉ lệ 15,29% [15, tr. 91-92].

23


Ruộng đất công ở đây chiếm đa số một phần là do kết quả của công cuộc khai
hoang mở đất lập làng từ các thế kỷ trước. Tuy nhiên, tỷ lệ phân bố ruộng đất công
trong tỉnh cũng không đồng đều cho các huyện và các xã thôn, cụ thể là huyện Bình
Sơn trong tổng số diện tích ruộng thực canh 19.948 mẫu thì công quan điền thổ chỉ

chiếm hơn 2.765 mẫu (13,86%), tương tự huyện Chương Nghĩa công quan điền thổ là
1.502 mẫu trong tổng số 11.624 mẫu, chiếm tỷ lệ 12,92% và huyện Mộ Hoa công quan
điền thổ là 3.138 mẫu trong tổng số 16.873 mẫu (18,6%) [15, tr. 92-93].
Theo Nguyễn Đình Đầu, trong 230 làng còn địa bạ ở Quảng Ngãi thì có 60 làng có
dưới 100 mẫu ruộng đất và 20 làng có trên 500 mẫu ruộng đất. Còn 150 làng ở giữa, có
từ 100 đến 500 mẫu ruộng đất. Tiêu biểu như ở xã Đại Nham (Tổng Hạ, huyện Chương
Nghĩa) có 6 mẫu và xã Vạn Phước Tứ (Tổng Thượng, huyện Mộ Hoa) có 1.532 mẫu,
tức cách nhau tới 251 lần. Những làng theo nghề đánh cá hay làm mắm muối tất nhiên
sẽ có ít ruộng đất. Những làng ở ven biển hay gần rừng, có nhiều đất hoang nhàn mà ít
ruộng đất canh tác [15, tr. 94].
Nhà Nguyễn đã có nhiều biện pháp nhằm bảo vệ ruộng đất công làng xã thành cơ
sở kinh tế phù hợp với chế độ đương thời. Để gia tăng diện tích, nhà Nguyễn không
ngần ngại sung công ruộng đất tư, ruộng đất bỏ hoang, không thể cày cấy được làm
công điền. Các vua Nguyễn, nhất là vua Tự Đức đã đánh thuế ruộng công nhẹ hơn
ruộng tư và cùng với các chính sách tô thuế của nhà nước ở Quảng Ngãi cũng góp phần
củng cố công điền.
Xưa kia, tuyệt đại đa số dân ta sống theo nghề nông, tức phải có ruộng đất. Quảng
Ngãi tương đối không có nhiều ruộng đất nhưng sự phân bố giữa các cá nhân không
đến nỗi quá chênh lệch. Chế độ công điền, công thổ cũng là một định chế giúp cho
người không có sản nghiệp được chia khẩu phần ruộng đất để làm ăn và cư ngụ.
Tiêu biểu hơn cả là Tổng Trung của huyện Mộ Hoa có tỷ lệ ruộng công khá cao, cụ
thể là ở một số xã thôn:

24


Tên xã thôn
Thôn Đông Ngạn
Xã Lộ Bôi
Xã Miên Trường

Xã Nga Dân

Diện tích công điền
56 mẫu
231 mẫu
224 mẫu
146 mẫu

Diện tích tư điền
12 mẫu
331 mẫu
224 mẫu
149 mẫu
[15, tr. 98].

Tư điền, tư thổ là loại ruộng đất không thuộc sở hữu nhà nước, mà thuộc tư nhân
vừa sở hữu vừa quản lý, tự do mua đi bán lại, song phải khai báo để lập sổ địa bạ hay
điền bạ. Tư nhân có thể là cá nhân, là tộc họ, tập thể hay làng xã (bổn thôn điền, bổn
thôn xã).
Bước sang thế kỷ XIX, ruộng tư có xu hướng phát triển và ngày càng có địa vị
thống trị. Ở một số địa phương, ruộng đất công chỉ là một con số nhỏ bé. Điều này có
nhiều nguyên nhân khác nhau.
Nhà nước là chủ sở hữu ruộng đất hoang trong nước và do nhu cầu của xã hội về
lương thực nên các triều đại phong kiến cho đến các địa chủ phong kiến đứng ra khai
hoang. Số ruộng khai hoang được phần lớn trở thành tư điền. Hơn nữa, bọn quan lại
chiếm đoạt ruộng đất công làng xã biến thành ruộng tư.
Đầu thế kỷ XIX, sở hữu tư nhân về ruộng đất ở Quảng Ngãi chiếm vị trí bao trùm.
Theo ghi chép địa bạ của Nguyễn Đình Đầu, ruộng tư ở Quảng Ngãi là 41.040 mẫu,
chiếm tỷ lệ 84,71% [14, tr. 91]. Trong đó, huyện Bình Sơn là 17.182 mẫu chiếm tỷ lệ
86,14%, huyện Chương Nghĩa là 10.122 mẫu chiếm tỷ lệ 87,08% và huyện Mộ Hoa là

13.734 mẫu chiếm tỷ lệ 81,4% [15, tr. 92-93] .
Tuy nhiên, cũng giống như ruộng đất công, sự phân bố ruộng đất tư giữa các
huyện, xã, thôn ở Quảng Ngãi không giống nhau. Những nơi có diện tích ruộng tư lớn:
huyện Bình Sơn có Tổng Trung ruộng tư 9.925 mẫu (87,44%), thuộc Hà Bạc là 1.724
mẫu (90,27%); huyện Chương Nghĩa có Tổng Hạ ruộng tư 749 mẫu (96,65%), thuộc
Đồn Điền là 2.256 mẫu (96,25%) và Tổng Hạ thuộc huyện Mộ Hoa là 1.588 mẫu
(98,52%).
25


×