ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
LÊ THỊ DIỆU HIỀN
ĐỐI THOẠI SHANGRI – LA VÀ ĐÓNG GÓP CỦA HOA KỲ
TỪ NĂM 2002 ĐẾN NĂM 2015
Chuyên ngành: Lịch sử Thế giới
LUẬN VĂN THẠC SĨ SỬ HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. BÙI THỊ THẢO
Thừa Thiên Huế, năm 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả
nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng và
chưa từng công bố trong bất kì một công trình nào khác.
Huế, ngày 28 tháng 9 năm 2018
Tác giả luận văn
Lê Thị Diệu Hiền
ii
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện và hoàn thành đề tài luận văn Thạc sĩ một cách hoàn chỉnh, tôi xin
chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Bùi Thị Thảo – người đã tận tình
giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn đến toàn thể quý Thầy Cô giáo trong khoa Lịch
Sử - Trường Đại học Sư phạm Huế, Trường Đại học Khoa học Huế đã tận tình truyền đạt
những kiến thức quý báu. Xin cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo sau Đại học, Trung
tâm thông tin thư viện trường Đại học Sư Phạm Huế đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất
cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Trung tâm giáo dục Kĩ năng sống Hoàn
Năng, trường Trung học phổ thông Nguyễn Huệ, gia đình, người thân, các anh chị em
bạn bè đồng nghiệp đã hỗ trợ, giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt khóa học.
Huế, tháng 9 năm 2018
Lê Thị Diệu Hiền
iii
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
STT
Chữ viết tắt
1
IISS
2
SLD
Tiếng Anh
Tiếng Việt
The International Institute for Viện Nghiên cứu Chiến lược
Strategic Studies
quốc tế
The Shangri-La Dialogue
Diễn đàn Đối thoại Shangri La
3
ASEAN
Association
of
South
East Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á
Asian Nations
4
CSCAP
5
EAS
6
ADMM
The
Council
for
Cooperation in the Asia Pacific
châu Á - Thái Bình Dương
East Asia Summit
Hội nghị cấp cao Đông Á
ASEAN
Defense
phòng ASEAN mở rộng
Diễn đàn Biển ASEAN
AMF
ASEAN Sea Forum
8
OPEC
Organization
Petroleum Tổ chức các nước xuất khẩu
of
Exporting Countries
EDCA
10
EU
11
HADR
CHDCND
13
UNCLOS
agreement
phòng tăng cường
European Union
Liên minh châu Âu
Humanitarian assistance and Hỗ trợ Nhân đạo và Cứu trợ
thảm họa
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
United Nations Convention on Công ước Liên Hợp Quốc về
Law of the Sea
14
COC
Luật Biển 1982
Code of Conduct in the South Bộ quy tắc ứng xử ở biển
Đông
China Sea
15
APEC
Economic Diễn đàn Hợp tác Kinh tế
Asia-Pacific
châu Á – Thái Bình Dương
Cooperation
16
NATO
dầu mỏ
Enhanced defense cooperation Hiệp định hợp tác quốc
disaster relief
12
Ministers Hội nghị Bộ trưởng Quốc
Meeting Expanded
7
9
Security Hội đồng hợp tác an ninh
North
Atlantic
1
Treaty Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại
Organization
Tây Dương
17
GDP
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
18
IMF
International Monetary Fund
Quỹ Tiền tệ Quốc tế
2
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong thế kỉ XX, Đông Nam Á nói riêng và khu vực Châu Á – Thái Bình Dương
(châu Á - TBD) nói chung vốn là chiến trường diễn ra các cuộc chiến tranh ác liệt và bị
chia rẽ sâu sắc. Hơn bao giờ hết, bước vào thế kỉ XXI, trong xu thế hòa bình hợp tác
cùng phát triển các quốc gia trong khu vực luôn khát khao một nền hòa bình thực sự để
cùng chia sẻ cơ hội phát triển thịnh vượng. Muốn vậy, các quốc gia phải tăng cường xây
dựng và củng cố lòng tin chiến lược. Từ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, xu thế toàn
cầu hóa, khu vực hóa diễn ra một cách mạnh mẽ tạo nên nhiều cơ hội hợp tác đa phương
giữa các quốc gia. Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương là khu vực đang phát triển năng
động, nơi tập trung của ba nền kinh tế lớn nhất thế giới và nhiều nền kinh tế mới nổi, xu
thế hợp tác, liên kết đa lĩnh vực, đa tầng nấc đang diễn ra hết sức sôi động và ngày càng
thể hiện là xu thế chủ đạo, điều này là sự lạc quan và cũng là cơ hội cho tất cả các nước
trong khu vực cùng hợp tác phát triển.
Tuy nhiên, bức tranh toàn cảnh khu vực trong những năm qua cho thấy: bên cạnh
những cơ hội là những nguy cơ, thách thức ngày càng lớn đối với hòa bình và an ninh
khu vực. Các nguy cơ xung đột tôn giáo, sắc tộc, chủ nghĩa dân tộc vị kỉ, ly khai, khủng
bố,…đang hiện hữu từng ngày từng giờ, những thách thức mang tính toàn cầu như biến
đổi khí hậu, dịch bệnh, thiếu nguồn nước, lợi ích giữa các quốc gia thượng nguồn, hạ
nguồn các con sông lớn…ngày càng trở nên gay gắt. Bán đảo Triều Tiên với những diễn
biến khôn lường, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền lãnh hải từ biển Hoa Đông
đến biển Đông đang diễn biến phức tạp, đe dọa hòa bình, an ninh khu vực, ảnh hưởng
đến kinh tế chính trị xã hội không chỉ trong khu vực mà còn đối với cả thế giới.
Chính vì vậy, việc cùng nhau xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình,
hợp tác, thịnh vượng, tiến tới thành lập các tổ chức an ninh chính trị trong khu vực nhằm
tạo ra những liên kết chính trị mạnh mẽ để giải quyết những vấn đề tồn tại của khu vực là
vô cùng cấp thiết. Mỗi quốc gia phải luôn là một thành viên có trách nhiệm đối với hòa
bình và an ninh chung, các quốc gia dù lớn hay nhỏ cần có quan hệ bình đẳng, tôn trọng
lẫn nhau, có lòng tin chiến lược vào nhau. Các nước lớn có vai trò và có thể đóng góp
nhiều hơn trong tạo dựng và củng cố lòng tin chiến lược, tuy nhiên việc đưa ra được
những sáng kiến hữu ích không phụ thuộc nước đó là nước lớn hay nước nhỏ. Những
3
nguyên tắc hợp tác, đối thoại cởi mở, bình đẳng có trong các diễn đàn an ninh ở khu vực
và Diễn đàn Đối thoại Shangri - La cũng được hình thành và duy trì trên cơ sở tư duy đó.
Từ khi ra đời năm 2002, Diễn đàn Đối thoại Shangri – La (SLD), qua các kì hội
nghị đã giải được bài toán khó của khu vực châu Á – Thái Bình Dương trong việc tìm ra
một cơ chế hợp tác đa phương, có khả năng đánh giá tổng quan tình hình khu vực, đề
xuất các giải pháp thiết thực cho an ninh khu vực và toàn cầu trong thời gian trung hạn.
Tính đến năm 2018, sau 16 năm hình thành và phát triển Diễn đàn Đối thoại Shangri – La
đã và đang chứng tỏ được vai trò là một trong những diễn đàn an ninh khu vực cao cấp
nhất, có xu hướng ngày càng mở rộng cả về nội dung lẫn phạm vi tham dự của các nước
trong và ngoài khu vực châu Á-TBD. Trong số các thành viên của SLD, Hoa Kì giữ vị trí
quan trọng, không chỉ với vai trò thành viên sáng lập mà còn góp phần then chốt kiến tạo
và dẫn dắt vai trò của SLD đối với nền chính trị an ninh khu vực và thế giới.
Do vị trí, vai trò ngày càng quan trọng của châu Á - Thái Bình Dương, các cường
quốc, đặc biệt là Hoa Kỳ, đã có những điều chỉnh chiến lược nhằm tăng cường ảnh
hưởng, bảo vệ lợi ích của mình ở khu vực này. Trong “Chiến lược quốc gia cho thế kỷ
XXI”, Hoa Kì xác định châu Á - Thái Bình Dương là một địa bàn quan trọng đối với an
ninh quốc gia và Hoa Kì cần thiết phải hiện diện trong các tổ chức an ninh chính trị ở khu
vực này, trong đó có Diễn đàn Đối thoại Shangri – La để khẳng định vai trò của mình.
Cho đến nay, việc hệ thống hóa, phân tích tư liệu để có những hiểu biết sâu sắc về
Diễn đàn Đối thoại Shangri – La và sự tham gia, đóng góp của Hoa Kỳ trong quá trình
phát triển của tổ chức hợp tác đa phương này vẫn chưa được chú trọng đúng mức , chưa
mang tính hệ thống. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống về quá trình hình thành
và phát triển của Đối thoại Shangri-La, từ đó đi sâu phân tích vị trí và tầm quan trọng của
Diễn đàn này cũng như sự đóng góp của Hoa Kì đối với hòa bình và ổn định khu vực là
một việc làm có giá trị khoa học và thực tiễn sâu sắc.
Về mặt khoa học, nghiên cứu đề tài góp phần hệ thống hóa, cụ thể hóa và cập nhật
các thông tin, dữ liệu về quá trình hình thành, phát triển từ năm 2002 đến năm 2015 của
Diễn đàn Đối thoại Shangri – La một trong những cơ chế an ninh đa phương quan trọng
ở khu vực châu Á - TBD. Kết quả này góp phần cung cấp thêm những hiểu biết khoa học
về SLD, một nội dung nghiên cứu còn hạn chế ở trong nước.
4
Về mặt thực tiễn, thông qua kết quả nghiên cứu, luận văn đưa ra những đánh giá,
nhận xét liên quan góp phần củng cố các luận cứ khoa học cho công tác hoạch định chính
sách an ninh quốc phòng cũng như chính sách đối ngoại của nước nhà trong bối cảnh
quan hệ quốc tế hết sức phức tạp và biến đổi không ngừng như hiện nay. Bên cạnh đó,
luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm tìm hiểu nghiên cứu về Diễn
đàn Đối thoại Shangri – La và quan hệ quốc tế ở khu vực châu Á – TBD.
Từ những phân tích trên cùng với mong muốn tìm hiểu sâu kỹ về Diễn đàn Đối
thoại Shangri – La của bản thân, tôi đã mạnh dạn chọn “Đối thoại Shangri – La và đóng
góp của Hoa Kì từ năm 2002 đến năm 2015” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ
chuyên ngành Lịch sử Thế giới.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Khu vực châu Á – Thái Bình Dương có vị trí ngày càng quan trọng trong đời sống
kinh tế chính trị quốc tế. Đây là nơi tập trung của ba nền kinh tế lớn nhất thế giới (Hoa
Kì, Trung Quốc, Nhật Bản) và nhiều nền kinh tế mới nổi và xu thế hợp tác, liên kết đa
lĩnh vực, đa tầng nấc đang diễn ra hết sức sôi động và ngày càng thể hiện là xu thế chủ
đạo, tạo cơ hội cho tất cả các nước trong khu vực cùng hợp tác phát triển. Tuy vậy, bên
cạnh môi trường năng động, tạo động lực phát triển cao, châu Á – TBD đứng trước các
thách thức an ninh quan trọng. Từ đó, việc nỗ lực xây dựng các cơ chế hợp tác an ninh từ
lâu là mục tiêu của các quốc gia trong khu vực. Trên thực tế, đã có một số tổ chức hợp
tác an ninh được thành lập ở châu Á – TBD có sự tham gia của các cường quốc, trong đó
có SLD. Sự ra đời của tổ chức này với quá trình hợp tác và tính hiệu quả của chúng đã
thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều giới, nhiều ngành. Đối với sự tham gia của
Hoa Kì trong hệ thống an ninh ở châu Á – TBD và trong diễn đàn SLD đã có một số
nhóm công trình nghiên cứu có liên quan chủ yếu dưới góc độ sau:
Thứ nhất, nghiên cứu về chính sách đối ngoại và chính sách an ninh đối ngoại của
Hoa Kì đối với khu vực châu Á – TBD. Viết về nội dung này, có các tác phẩm tiêu biểu
như: “Chính sách đối ngoại của các nước lớn trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị
Quế (chủ biên) (2015), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nộ; tác phẩm Giáo trình quan hệ quốc
tế ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương của Phạm Quang Minh, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội; tác phẩm “ Tìm hiểu những thay đổi lớn trong chiến lược quân sự của
Mỹ” (2000) của tác giả Trần Bá Khoa do Nxb Chính trị Quốc gia ấn hành. Trong số đó,
5
đáng lưu ý có các tác phẩm “Quan hệ của Mỹ với các nước lớn ở khu vực châu Á –
TBD” (2003) của tập thể tác giả Học viện Quan hệ quốc tế - Bộ Ngoại giao do Vũ Dương
Huân chủ biên; tác phẩm “Vai trò của Mỹ ở châu Á – TBD” – quan điểm của các học gải
Mỹ và châu Á (2009), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nội dung của những tác phẩm này
có đề cập ở mức độ nhất định những chính sách đối ngoại và chính sách an ninh của Hoa
Kì đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Theo đó, những hoạt động của Hoa Kì
trong lĩnh vực quốc phòng – an ninh cũng được thể hiện ít nhiều cùng với sự vận động
của quan hệ giữa Hoa Kì với các quốc gia trong khu vực châu Á – TBD.
Thứ hai, nghiên cứu về các cơ chế tổ chức hợp tác của khu vực châu Á – TBD
trong đó có SLD. Như đã biết, nỗ lực tìm một cơ chế đa phương, bình đẳng về an ninh –
quốc phòng có khả năng giải quyết những thách thức an ninh truyền thống và phi truyền
thống của khu vực châu Á – Thái Bình Dương thời gian qua là một bài toán khó đối với
Chính phủ các nước trong khu vực. Hiện nay, tại khu vực đang có những cơ chế như:
ARF, CSCAP, EAS, ADMM+, AMF,…Tuy nhiên, các cơ chế trên đều chưa đủ khả năng
tìm kiếm các giải pháp toàn diện và thiết thực cho an ninh tại khu vực. Diễn đàn Đối
thoại Shangri – La ra đời và được đánh giá là một trong những lời giải cho bài toán về an
ninh – quốc phòng, có khả năng đánh giá tổng quan tình hình khu vực, đề xuất các giải
pháp thiết thực cho an ninh khu vực và toàn cầu trong tương lai. Chính vì vậy, mảng đề
tài về các cơ chế hợp tác an ninh đa phương, thực trạng an ninh khu vực châu Á – TBD
đã được khảo cứu qua các tác phẩm tiêu biểu như:
“Đánh giá An ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương năm 2017 (Asia – Pacific
Regional Security Assessment 2017)” của tập thể tác giả thuộc Viện Nghiên cứu Chiến
lược Quốc tế (IISS) do các tác giả Tim Huxley (Giám đốc điều hành Văn phòng châu Á
của IISS) và William Choong (Chuyên gia về an ninh châu Á của IISS) đồng chủ biên.
Nội dung tác phẩm được thể hiện trong 192 trang, phân tích các chủ đề trọng yếu về an
ninh khu vực, có liên quan đến các cuộc đối thoại tại Diễn đàn Đối thoại Shangri – La
hàng năm. Tác phẩm cũng dành một dung lượng lớn nhất định để đánh giá vai trò của
Hoa Kì và Trung Quốc trong việc giải quyết các căng thẳng an ninh tại châu Á – Thái
Bình Dương; Các phản ứng của Hoa Kì và các quốc gia đối với các căng thẳng an ninh
khu vực, đặc biệt trên Biển Đông. Bên cạnh đó, các vấn đề an ninh mới nổi liên quan đến
6
vũ khí hạt nhân, tên lửa và triển vọng hợp tác an ninh tại khu vực châu Á – Thái Bình
Dương cũng được đề cập.
Nghiên cứu riêng về SLD còn có các công trình nghiên cứu sau: “The Shangri –
La Dialogue”, xuất bản tháng 8/2014 của Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế (IISS).
Công trình nghiên cứu của hai tác giả Blair Vorsatz và Rudydeleon đăng trên Center for
American Progress có tiêu đề “Revisiting the Shangri La Dialogue” cũng xuất bản tháng
8/2014. Những công trình này đã giới thiệu khái lược về SLD và trình bày một cách tổng
quan nhất về quan điểm của Diễn đàn này trong việc giải quyết các vấn đề an ninh truyền
thống và phi truyền thống tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Ngoài ra, trên các tạp chí khoa học trong nước cũng có các bài đăng liên quan đến
đề tài nghiên cứu như: “Hàng loạt sáng kiến tăng cường an ninh Biển Đông”, ngày
31/5/2015 của Thông tấn xã Việt Nam đăng trên Tạp chí Cộng Sản; “Hướng tới cấu trúc
an ninh vì hòa bình và ổn định trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương” của tác giả
Hương Ly đăng trên Tạp chí Cộng Sản ngày 4/6/2012; “ Hành trình Đối thoại Shangri –
La” của Đức Vũ, đăng trên báo Dân trí ngày 2/6/2012; “ Những sự kiện đáng chú ý trong
tuần (từ ngày 25/5 đến 31/5/2014) do tác giả Hà Bùi tổng hợp, đăng trên Tạp chí Cộng
sản. Những bài báo này đã trình bày một cách khái quát về một số nội dung của Diễn đàn
Đối thoại Shangri – La, các nội dung chính trong các kì hội nghị cụ thể, nhưng các nội
dung còn mang tính tổng quát, ngắn gọn.
Việt Nam cũng là thành viên của Diễn đàn Đối thoại Shangri – La và cũng là quốc
gia có các nỗ lực tích cực trong việc giải quyết các vấn đề an ninh tại khu vực. Hằng
năm, Việt Nam đều cử các đoàn đại biểu tham dự Diễn đàn. Viết về sự tham gia của Việt
Nam tại diễn đàn này còn có tác phẩm: “Thông điệp Shangri – La”, phát hành vào tháng
8/2013 của Nhà xuất bản Thế giới. Nội dung chính của tác phẩm giới thiệu toàn văn bài
phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Đối thoại Shangri – La 12 (2013); toàn
văn những câu trả lời có sức thuyết phục cao của Thủ tướng và tuyển chọn những nhận
xét, đánh giá, ý kiến của các chính khách, nhà nghiên cứu và dư luận quốc tế (đã được
đăng tải trong nước và quốc tế) với hy vọng có thể đem lại cho người đọc cái nhìn toàn
cảnh về thông điệp Shangri – La của Thủ tướng và quan điểm đối ngoại của Việt Nam.
Tuy vậy, tác phẩm chỉ mang tính tổng hợp về một kỳ Đối thoại Shangri – La.
7
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đây với các hình thức, nghiên cứu ở
các góc độc nội dung khác nhau ít nhiều đều có đề cập đến SLD cũng như sự tham gia
đóng góp của Hoa Kì tại diễn đàn này. Tuy vậy, cho đến nay, gần như vẫn chưa có một
công trình nào tập trung khảo cứu một cách hệ thống về SLD và sự tham gia, đóng góp
của Hoa Kì tại diễn đàn này giai đoạn 2002 – 2015. Do vậy, trên cơ sở tham khảo tài liệu
của những nhà nghiên cứu đi trước, kết hợp những hiểu biết của mình, tôi xin mạnh dạn
chọn hướng nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển của Diễn đàn Đối thoại
Shangri – La và đóng góp của Hoa Kì với mong muốn khắc phục những hiểu biết còn rời
rạc, ít ỏi trong nước về chủ đề này, từ đó rút ra những nhận định và tổng hợp thành
những kết luận chung cho luận văn hoàn chỉnh mang tính khoa học và tính thực tiễn hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ quá trình hình thành và phát triển của
Diễn đàn Đối thoại Shangri – La giai đoạn 2002 – 2015 và phân tích đóng góp của Hoa
Kì đối với diễn đàn này. Qua đó, tác giả đề tài đưa ra một số nhận xét về vai trò của Diễn
đàn Đối thoại Đối thoại Shangri – La và của Hoa Kì đối với hòa bình, an ninh của khu
vực châu Á – TBD.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài luận văn tập trung giải
quyết những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rõ quá trình hình thành và phát triển của Diễn đàn Đối thoại
Shangri – La từ 2002 đến 2015.
Thứ hai, trình bày quá trình tham gia và phân tích đóng góp của Hoa Kì đối với
Diễn đàn Đối thoại Shangri – La giai đoạn 2002 - 2015.
Thứ ba, rút ra nhận xét về vai trò, tác động của Diễn đàn Đối thoại Shangri – La
và về đóng góp của Hoa Kì cho Diễn đàn này cũng như cho an ninh khu vực châu Á –
TBD giai đoạn 2002 - 2015.
8
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Diễn đàn Đối thoại Shangri – La, lịch sử hình
thành và hoạt động của cơ chế hợp tác an ninh đa phương này cùng với sự tham gia, đóng
góp của Hoa Kỳ trong Diễn đàn giai đoạn 2002 – 2015.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian, mốc mở đầu là năm 2002 là năm diễn ra Diễn đàn Đối thoại Shangri
– La lần đầu tiên và mốc kết thúc là năm 2015 đánh dấu chặng đường 14 năm phát triển
của Diễn đàn an ninh đa phương này.
Về không gian, địa bàn trọng tâm mà luận văn tập trung nghiên cứu chủ yếu là
khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đặt trong không gian chung của bối cảnh quốc tế đầu
thế kỉ XXI.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Về phƣơng pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quán triệt quan điểm chủ nghĩa Mác - Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong nghiên cứu
khoa học lịch sử. Những quan điểm này được xem là kim chỉ nam trong quá trình thu
thập, xử lí tài liệu và thực hiện luận văn.
5.2. Về phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử là phương pháp cơ bản để thực
hiện. Bên cạnh đó, bằng phương pháp logic, duy vật lịch sử, xem xét vấn đề 1 cách khách
quan biện chứng là phương pháp tôi nghiên cứu đề tài này. Bên cạnh đó, tôi còn sử dụng
các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như phân tích, so sánh đối chiếu… để xử lý các
tài liệu có liên quan đến sự tham gia và đóng góp của Hoa Kỳ trong Đối thoại Shangri –
La để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
9
6. Đóng góp của luận văn
Thứ nhất, luận văn sẽ cung cấp tương đối đầy đủ và hệ thống các tài liệu liên quan
đến lịch sử hình thành, phát triển của Diễn đàn Đối thoại Shangri – La và sự tham gia,
đóng góp của Hoa Kỳ trong diễn đàn này giai đoạn 2002 – 2015.
Thứ hai, kết quả nghiên cứu của luân văn sẽ góp phần cung cấp những hiểu biết
cần thiết về một trong những cơ chế an ninh đa phương ở khu vực châu Á – TBD là Diễn
đàn Đối thoại Shangri – La. Qua đó, góp phần vào việc hoạch định chính sách đối ngoại
an ninh – quốc phòng của Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế.
Thứ ba, thông qua việc phân tích sự đóng góp của Hoa Kì trong Đối thoại Shangri
– La, luận văn góp phần phác họa diễn biến sinh động của quan hệ quốc tế ở khu vực
châu Á – TBD giai đoạn 2002 – 2015.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn
bao gồm 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Diễn đàn Đối thoại
Shangri – La từ 2002 đến 2015
Chương 2: Đóng góp của Hoa Kì đối với Diễn đàn Đối thoại Shangri – La giai
đoạn 2002 – 2015
Chương 3: Một số nhận xét về Đối thoại Shangri – La và đóng góp của Hoa Kì
cho diễn đàn này giai đoạn 2002 – 2015
10
CHƢƠNG 1:
KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DIỄN ĐÀN
ĐỐI THOẠI SHANGRI – LA TỪ NĂM 2002 ĐẾN NĂM 2015
1.1. Khái quát về Diễn đàn Đối thoại Shangri – La
1.1.1. Lịch sử hình thành Diễn đàn Đối thoại Shangri – La
Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc (1991), hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế
chung của khu vực và thế giới. Tuy vậy, tình hình chính trị quốc tế tiếp tục diễn biến
phức tạp, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc,
ly khai, chiến tranh cục bộ, tranh chấp lãnh thổ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ,
khủng bố vẫn diễn ra gay gắt, các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống trong nhiều lĩnh
vực của đời sống như: tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực: tài chính - tiền tệ, điện
tử - viễn thông, sinh học – môi trường,…vẫn tiếp tục gia tăng và phát triển hết sức phức
tạp. Trong bối cảnh đó, ở châu Á – Thái Bình Dương, tình hình an ninh khu vực cũng
không kém phức tạp.
Mặc dù từ giữa thập niên 1990 đến nay, khu vực châu Á – Thái Bình Dương có sự
phát triển năng động, tăng trưởng kinh tế cao và là tâm điểm thu hút các nhà đầu tư thế
giới, nhưng nơi đây vẫn tồn tại nhiều lỗ hổng an ninh. Trong đó, xung đột lợi ích giữa
các cường quốc khu vực căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên, tranh chấp chủ quyền trên
Biển Đông và Biển Hoa Đông,… là các nhân tố ảnh hưởng sâu sắc đến hòa bình và ổn
định khu vực. Nguyên nhân của các vấn đề trên, xuất phát từ các mâu thuẫn và xung đột
lợi ích, dẫn đến sự hoài nghi về thiện chí và lòng tin trong quan hệ hợp tác; sự cọ xát về
lợi ích trong cạnh tranh chiến lược và hành động kiềm chế lẫn nhau. Bên cạnh đó, những
mâu thuẫn, khác biệt về văn hóa, tôn giáo, sắc tộc, ý thức hệ…vẫn tồn tại, trong khi các
bên liên quan vẫn chưa có được các giải pháp xử lí hiệu quả, nhất là vẫn chưa có một
thiết chế an ninh mang tính ràng buộc đủ mạnh để hóa giải các xung đột và quản trị an
ninh ở khu vực. Thực tế này là một trong những nhân tố quan trọng nhất thúc đẩy sự hình
thành các cơ chế hợp tác an ninh quốc phòng, trong đó có Diễn đàn Đối thoại Shangri –
La (viết tắt là SLD).
Thật vậy, để ngăn chặn các nguy cơ có thể dẫn đến xung đột, trước hết cần có một
nhận thức chung trong việc đề cao trách nhiệm quốc tế, mà đặc biệt là vai trò, trách
11
nhiệm của các cường quốc. Các nước cùng phải có trách nhiệm giữ gìn hòa bình, ổn
định, tôn trọng luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hợp Quốc, tôn trọng độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước, không dùng vũ lực, hoặc đe dọa dùng vũ lực
để giải quyết các vấn đề tranh chấp đồng thời tăng cường các mặt hợp tác trên cơ sở bình
đẳng, tôn trọng lẫn nhau, cùng có lợi, không phân biệt đối xử. Khi các nước có nhận thức
chung thì sẽ có nền tảng vững chắc để xây dựng lòng tin. Để thực hiện các quốc gia cần
hành động cụ thể, bằng những việc làm thiết thực để thúc đẩy sự minh bạch, đối thoại
bình đẳng, cởi mở, xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác và giải quyết xung đột, tranh
chấp trên cơ sở tôn trọng luật pháp và các chuẩn mực trong quan hệ quốc tế. Các nước
lớn càng có vai trò trách nhiệm và đóng góp quan trọng hơn trong việc tạo dựng và củng
cố lòng tin chiến lược này
Mặt khác, để giải quyết các xung đột căng thẳng vấn đề truyền thông có vai trò rất
quan trọng. Truyền thông cần tạo ra môi trường thuận lợi để góp phần giải quyết mâu
thuẫn và tranh chấp một cách hòa bình, không nên dùng những lời lẽ kích động, càng
không nên kích động hận thù dân tộc, làm cho tình hình căng thẳng thêm, hoặc gây áp
lực cho lãnh đạo trong quá trình xem xét đưa ra các quyết định giải quyết các vấn đề
tranh chấp [32]
Để kiểm soát và giảm thiểu các nguy cơ xung đột, phải phát huy có hiệu quả các
cơ chế hợp tác cả song phương và đa phương. Trong quá trình giải quyết các vấn đề mâu
thuẫn, bất đồng cần phải được công khai, minh bạch trước cộng đồng quốc tế, tránh sự
hiểu nhầm, hoặc gây hoài nghi cho dư luận. Thế nhưng, cho đến trước khi SLD hình
thành, tại châu Á – Thái Bình Dương vẫn thiếu một tổ chức hợp tác an ninh đảm bảo sự
tham dự rộng rãi của các quốc gia trong khu vực, mang tính truyền thông và có tính định
hướng chiến lược từ sự đóng góp của giới học giả, chuyên gia về an ninh – quốc phòng.
Trong bối cảnh đó, đầu năm 1996, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ William Perry và Bộ
trưởng Quốc phòng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh cùng đưa ra những sáng kiến riêng
biệt, đề xuất tổ chức một cuộc họp thường niên để tập trung các đồng nhiệm tại châu Á
nhưng không được hưởng ứng [18]. Diễn đàn an ninh liên chính phủ duy nhất ở khu vực
châu Á lúc đó là Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) lại bị xem là không hiệu quả vì chỉ
tập trung vào việc xây dựng lòng tin và được tổ chức bởi Bộ trưởng các nước ASEAN,
nên chỉ có tính tham khảo về một cơ chế chính sách quốc phòng tiểu khu vực mà các
nước mong muốn để có thể hợp tác [29]. ARF vẫn chưa được thể chế hóa cao, chưa có cơ
12
chế hợp tác mang tính ràng buộc pháp lí vững chắc. Do vậy, tại Hội nghị Chính sách An
ninh Munic (Munic Coference on Security Policy) lần thứ 361, John Chipman2 nhận thấy:
các quan chức châu Á chỉ đến đây để góp mặt mà không có bất cứ đề xuất hoặc chia sẻ
nào và ông nhận ra rằng “châu Á cần có một diễn đàn quốc phòng của riêng mình mà tại
đó các Bộ trưởng Quốc phòng có thể gặp gỡ và lên tiếng [3;tr37-38]. Từ ý tưởng đó,
John Chipman đã tiếp xúc để đặt vấn đề và đề xuất các ý tưởng với Tổng thống
Singapore S.R.Nathan3 vào tháng 2 năm 2001. Ý tưởng này đã được đưa tới Nội các
Singapore, được Bộ Quốc phòng ủng hộ và Tổng thống Nathan đồng ý hỗ trợ cho đến
khi IISS có thể tổ chức diễn đàn một cách độc lập.
Đến năm 2002, Diễn đàn Đối thoại Shangri – La được Tổng Giám đốc và Giám
đốc điều hành IISS – John Chipman thành lập ở khách sạn Shangri – La, Singapore.
Singapore trở thành nước chủ nhà và vì địa điểm tổ chức hội nghị diễn ra ở khách sạn
Shangri – La nên hội nghị còn được gọi là Diễn đàn Đối thoại Shangri – La. Tham dự
diễn đàn ban đầu chủ yếu là các thành viên của Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), có
khoảng 10 thứ trưởng quốc phòng tới tham dự [21]. Ban đầu, SLD được tổ chức với quy
mô nhỏ, trong không gian thân mật như một buổi ăn tối để cùng gặp gỡ và trao đổi các
vấn đề an ninh quan tâm giữa các học giả Viện IISS cùng với lãnh đạo Bộ Quốc phòng
các nước trong khu vực.
Như vậy, kể từ năm 2002, thêm một cơ chế hợp tác an ninh đa phương được thiết
lập ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương là Diễn đàn Đối thoại Shangri – La do IISS –
một trong những tổ chức nghiên cứu chiến lược hàng đầu thế giới, hằng năm đứng ra chủ
trì tổ chức với sự hỗ trợ tích cực của nước chủ nhà Singapore. Với sự hình thành của
SLD, cấu trúc an ninh khu vực châu Á – Thái Bình Dương được mở rộng bên cạnh sự
hiện diện của các cơ chế đã được xây dựng từ những năm 1990 như ARF, CSCAP, EAS,
1
Hội nghị Chính sách An ninh Munich (viết tắt là MSC) diễn ra tại thành phố Munich của Đức, được thành lập năm
1963. Hội nghị Chính sách An ninh Munich thường niên là một diễn đàn với mục tiêu thúc đẩy việc giải quyết xung
đột một cách hòa bình, cùng hợp tác và đối thoại quốc tế [Thanh Hòa, Hội nghị An ninh Munich: An ninh toàn cầu
đòi hỏi nhiều nỗ lực phía trước, TCCS 19/2/2018]
2
Jonh Chiman là Tổng Giám đốc và là Giám đốc điều hành Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế (IISS), một tổ chức
nghiên cứu về định hướng chính sách và các chiến lược an ninh quốc tế, bao gồm nhiều học giả, nhà nghiên cứu nổi
tiếng từ hơn 100 quốc gia trên thế giới.
3
Tổng thống S.R.Nathan: là vị Tổng thống thứ sáu của Singapore, là người có thâm niên lâu nhất trên cương vị
Tổng thống tại Singapore qua hai nhiệm kì từ năm 1999 đến năm 2001. Trước khi trở thành tổng thống ông
S.R.Nathan từng đảm nhận các vị trí chủ chốt trong lĩnh vực dân sự, an ninh, tình báo và ngoại giao. Sau khi thôi
giữ chức tổng thống, ông Nathan là chuyên gia cao cấp tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á và Trường Khoa học Xã
hội, Đại học Quản lí Singapore.
13
ADMM+, AMF. Đây là những khuôn khổ hợp tác quan trọng để xây dựng lòng tin, thúc
đẩy ngoại giao phòng ngừa và tìm kiếm các biện pháp quản lí xung đột có hiệu quả
Thành viên của SLD đến từ 28 quốc gia của 4 châu lục. Trong đó, châu Á bao
gồm 18 quốc gia: 11 quốc gia ASEAN, Ấn Độ, Nhật Bản, Mông Cổ, Pakistan, Sri Lanka,
Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa, Hàn Quốc; châu Âu gồm 5 quốc gia: Anh, Pháp, Đức,
Nga, Thụy Điển; châu Mĩ gồm 3 quốc gia: Hoa Kì, Canada, Chile và hai quốc gia thuộc
châu Đại Dương là: Australia, New Zealand [26]
Kể từ khi ra đời năm 2002 đến nay, SLD trở thành một hội nghị thường niên, nuôi
dưỡng ý thức cộng đồng trong các hoạch định chính sách quan trọng nhất về quốc phòng
và an ninh ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Diễn đàn là cơ hội cho các Bộ trưởng
Quốc phòng, các chỉ huy quân sự và các quan chức Quốc phòng cao cấp, các học giả,
chuyên gia quốc phòng từ các quốc gia thành viên tổ chức các cuộc đối thoại đa phương,
các cuộc họp song phương bên lề nhằm xây dựng niềm tin và bồi dưỡng sự hợp tác an
ninh trong thực tế đồng thời thảo luận những vấn đề thời sự quan trọng nhất liên quan tới
an ninh khu vực. Dù chủ yếu là một diễn đàn an ninh liên chính phủ, nhưng hiện diện tại
SLD còn có sự tham dự của các nhà lập pháp, các chuyên gia khoa học, nhà báo và các
đại biểu là doanh nhân từ khắp nơi trên thế giới, làm cho SLD trở thành một diễn đàn mở
và mang tính truyền thông để phát triển chính sách và thảo luận về quốc phòng – an ninh
ở châu Á –TBD.
14
1.1.2. Cơ cấu tổ chức, mục tiêu hoạt động của Diễn đàn Đối thoại Shangri – La
1.1.2.1. Về cơ cấu tổ chức của Diễn đàn Đối thoại Shangri – La
Là một diễn đàn an ninh khu vực cao cấp và mở của khu vực châu Á – TBD, Diễn
đàn Đối thoại Shangri – La là một tổ chức an ninh liên chính phủ có thành phần tham dự
chính bao gồm Bộ trưởng Quốc phòng, các Thứ trưởng thường trực và các Tướng lĩnh
quân đội cao cấp của 28 quốc gia châu Á – TBD. Từ năm 2009 đến nay, dẫn đầu đoàn
đại biểu tham dự SLD được nâng cấp với sự tham dự của các nguyên thủ quốc gia thành
viên. Australia là nước đầu tiên cử Thủ tướng đến tham dự SLD. Bên cạnh đó, tham dự
SLD còn có sự hiện diện của các đại biểu phi chính phủ. Theo ghi nhận, mỗi kì hội nghị
này cũng có khoảng hơn 200 đại biểu phi chính phủ tham dự, bao gồm các chính trị gia,
học giả, doanh nhân, các tổ chức phân tích, các cơ quan truyền thông và các tổ chức phi
chính phủ khác. Điều này cho thấy Diễn đàn Đối thoại Shangri – La còn là quá trình
ngoại giao ở kênh II, cho dù hoạt động ngoại giao ở kênh I là chính yếu. Việc đưa các đại
biểu phi chính phủ tham dự hội nghị là kết quả của những nỗ lực được thực hiện để SLD
không trở thành “Diễn đàn độc quyền”, theo đánh giá của giới chuyên gia phương Tây
[19]
Ngôn ngữ được sử dụng trong các kì hội nghị là tiếng Anh, tiếng Trung Quốc,
tiếng Nhật Bản, tiếng Hàn Quốc, trong đó tiếng Anh được sử dụng chủ yếu nhất. Ngoài
ra, Ban tổ chức bố trí 1 cabin cho phiên dịch của các nước sử dụng khi đại biểu của nước
mình đọc tham luận hoặc phát biểu bằng ngôn ngữ khác ngoài 4 ngôn ngữ được kể trên.
Là một diễn đàn đối thoại đa phương cao cấp SLD có cơ cấu gồm nhiều phiên
họp, được phân cấp thành các phiên họp toàn thể và phiên họp song phương.
Phiên họp toàn thể:
Mỗi lần tổ chức, diễn đàn thường sẽ có 5 phiên họp toàn thể, được tổ chức trong 2
ngày, gồm tất cả những người tham gia diễn đàn dự. Những phiên họp toàn thể thường
do một Bộ trưởng chủ trì. Đến năm 2006, phiên họp toàn thể chỉ có sự tham gia của các
Bộ trưởng và các quan chức quốc phòng cấp cao của đoàn đại biểu.
Mỗi diễn đàn thường được mở đầu bằng một bài phát biểu quan trọng do một
nhân vật nổi tiếng của Singapore, thường là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đảm nhận. Bắt
15
đầu từ năm 2009, người đứng đầu Chính phủ hoặc Bộ trưởng Bộ Quốc phòng của các
nước tham dự được mời làm diễn giả chính sẽ đọc bài phát biểu khai mạc. Theo đó, Thủ
tướng Australia Kevin Rudd là diễn giả chính năm 2009, tiếp đó là Tổng thống Hàn
Quốc Lee Myung – Bak năm 2010, Thủ tướng Malaysia Dato Sri Najib Tun Razak năm
2011, Tổng thống Indonesia Susilo Bambang Yudhoyono năm 2012, Thủ tướng Việt
Nam Nguyễn Tấn Dũng năm 2013, Đại tướng Trần Quang Thanh năm 2014, Thủ tướng
Nhật Bản Shinzo Abe năm 2015
Trong phiên họp toàn thể, các Bộ trưởng Quốc phòng các nước tham dự sẽ trình
bày các bài phát biểu chính thức theo chủ đề của hội nghị, có thời gian dài khoảng 15
phút. Mỗi chủ đề thường có 3 hoặc 4 đại biểu được Ban tổ chức mời trình bày. Sau phần
trình bày tham luận của các Bộ trưởng là phần hỏi đáp (Đối thoại). Các đại biểu tham dự
có thể đặt câu hỏi đích danh cho một diễn giả hoặc có thể cho tất cả diễn giả. Câu hỏi
được đặt ra cho ai thì người đó sẽ trả lời hoặc diễn giả nào muốn chia sẻ nhận thức, quan
điểm của mình có thể tham gia trả lời, thời gian phát biểu của mỗi đại biểu tối đa là 15
phút.
Bên cạnh các phiên họp toàn thể, tính đa phương của diễn đàn còn được thể hiện
qua cuộc họp của các nhóm nhỏ về từng vấn đề cụ thể được các nước quan tâm. Phiên
họp này còn gọi là nhóm “Break – out” (nhóm Đột phá), được triển khai lần đầu trong
SLD năm 2003. Việc họp từng nhóm nhỏ được tổ chức đồng thời, cho phép mở được
nhiều cuộc thảo luận cởi mở giữa các đại diện các nước thành viên về các vấn đề cụ thể.
Các phiên họp này đảm bảo rằng có đủ thời gian trong Diễn đàn để các Bộ trưởng có thể
tổ chức các cuộc họp song phương. Các nhóm Đột phá sẽ không ghi chép thành các văn
bản chính thức để các quan chức tổ chức có thể thúc đẩy các mục tiêu chính sách một
cách tự do hơn. Các nhóm Đột phá thường do một nhân viên cao cấp của Viện IISS chủ
trì. Đến năm 2006, các nhóm Đột phá chỉ có sự tham gia của các Bộ trưởng và các quan
chức an ninh quốc gia cấp cao của đoàn đại biểu. Tại các phiên họp này, các học giả và
giới quan chức Chính phủ của các nước tham dự sẽ trao đổi cùng nhau về các chủ đề
được hội nghị quy định.
16
Các cuộc họp song phương:
Đối thoại Shangri – La cũng là một địa điểm hàng năm để các Bộ trưởng và các
quan chức quốc phòng hàng đầu mở rộng và ngoại giao quốc phòng ở khuôn khổ song
phương. Mỗi đoàn đại biểu có thể tổ chức từ 15 đến 20 cuộc họp song phươngvới các đối
tác đã được hoạch định. Thường mỗi cuộc họp kéo dài 30 phút mỗi lần và có thể tiến
hành trong thời gian thích hợp suốt quá trình tổ chức diễn đàn.
Ngoài ra, trong khuôn khổ SLD còn có Hội thảo xuyên diễn đàn Đối thoại Shangri
– La. Hợp tác với Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (IISS), GMF đã tổ chức một hội
thảo cấp cao hàng năm vào buổi chiều sau chương trình Đối thoại Shangri – La chính
thức tại Singapore. Sự kiện này đã tập hợp các nhà hoạch định chính sách hàng đầu và
các nhà tư tưởng chiến lược có ảnh hưởng nhất từ châu Á, châu Âu và Hoa Kỳ. Họ tổ
chức các cuộc họp không chính thức, đối thoại với các phiên họp toàn thể và các nhóm
Đột phá chính để thảo luận về quan hệ xuyên Đại Tây Dương và châu Á – TBD.
Là diễn đàn thường xuyên và duy nhất tạo cơ hội cho các quan chức Quốc phòng
và các nhà tư tưởng chiến lược xuyên Đại Tây Dương tập trung ở châu Á để bàn thảo về
các vấn đề an ninh trọng đạo ở khu vực, Đối thoại Shangri – La cung cấp một nền tảng lý
tưởng để làm sâu sắc thêm biện pháp hiệu quả hợp tác trong giải quyết các vấn đề an
ninh ở châu Á.
Hội thảo cũng tạo cơ hội để khai thác các vấn đề phổ biến trong các mối quan tâm
chiến lược tại khu vực Châu Á –TBD và Đại Tây Dương với các vấn đề xuyên suốt quan
trọng như khủng bố, an ninh hạt nhân, chiều hướng trỗi dậy của Trung Quốc, triển vọng
hợp tác với Ấn Độ, tương lai của Afghanistan, an ninh mạng và giải quyết các tranh chấp
hàng hải. Hội thảo hàng năm có tiêu đề “Châu Á, Phương Tây và trật tự quốc tế đang
thay đổi” đã đưa ra thảo luận về những vấn đề then chốt: các khía cạnh an ninh như an
ninh hàng hải; các dự án cải tạo đất của Trung Quốc ở Biển Đông; ISIS và mối đe dọa
của chủ nghĩa cực đoan tôn giáo. Các cuộc thảo luận cũng đưa ra những mối quan tâm
chiến lược chung của Hoa Kỳ, EU và các nước châu Á ở Trung Đông. Tham dự có cựu
Thủ tướng Thụy Điển Carl Bildt, cựu Tổng giám đốc CIA David Petraeus, cựu Đại sứ
Hoa Kỳ tại Afghanistan Karl Eikenberry, Phó Tham mưu trưởng Koji Yamazaki, Chủ
tịch Hội đồng Tình báo Quốc gia Gregory Treverton, Giám đốc Điều hành Diễn đàn
Kinh tế Thế giới Espen Barth Eide, Foundation Camille Grand, và nhiều đại diện cấp cao
17
khác từ Australia, Bangladesh, Bỉ, Canada, Trung Quốc, Pháp, Đức, Ấn Độ, Ý, Nhật
Bản, Myanmar, Na Uy, Philippines, Nga, Singapore, Hàn Quốc, Thụy Điển, Thái Lan,
Anh, Hoa Kỳ, Việt Nam, Ủy ban châu Âu và NATO [27]
1.1.2.2. Về mục tiêu hoạt động của SLD
Được chính thức thành lập từ năm 2002, Diễn đàn Đối thoại Shangri – La được tổ
chức dựa trên sự hợp tác chặt chẽ giữa Chính phủ Singapore và Viện Nghiên cứu Chiến
lược Quốc tế (IISS). Singapore mong muốn trở thành một cầu nối cho an ninh và ổn định
khu vực, qua đó gia tăng uy tín của quốc gia, trong khi IISS cũng có mục đích tương tự
trong giới nghiên cứu quốc tế. Dựa trên những thành tựu và uy tín mà Viện Nghiên cứu
này có được, Đối thoại Shangri – La là cố gắng của IISS nhằm khỏa lấp chỗ trống quan
trọng trong chuỗi các cuộc gặp thượng đỉnh liên quốc gia ở khu vực châu Á – TBD.
Thời gian đầu, SLD phỏng theo mô hình của Hội nghị Chính sách An ninh
Munich, nhưng có mục tiêu lớn hơn là thiết lập một diễn đàn “kênh 1” chính thống nơi
“mà các Bộ trưởng Quốc phòng cần đến và mang lại cho họ tất cả những điều họ cần tại
một hội nghị liên chính phủ hay liên khu vực” [21]
Mục tiêu thành lập của SLD nhằm tạo ra một kênh đối thoại mở, đa phương để các
quốc gia trong khu vực châu Á –TBD cùng chia sẻ những quan tâm về an ninh – quốc
phòng, xây dựng lòng tin chiến lược và cùng tìm kiếm các giải pháp nhằm giải quyết một
cách hòa bình, hiệu quả các vấn đề an ninh ở khu vực, hướng đến mục tiêu đảm bảo sự
phát triển an ninh, thịnh vượng và bền vững của khu vực.
Trên cơ sở mục tiêu chung đó, SLD có nhiệm vụ chính là thiết kế các cuộc họp
song phương và đa phương để giới lãnh đạo các quốc phòng cấp cao của các nước thành
viên cùng giới chuyên gia an ninh, học giả trực tiếp trao đổi, nghiên cứu về chính sách
quốc phòng đưa ra các ý tưởng, các biện pháp để xây dựng môi trường an ninh minh
bạch và hiện đại hóa quân sự trong khu vực châu Á –TBD.
Về nguyên tắc hoạt động, Đối thoại Shangri – La đã tập trung được tất cả các đối
tác của khu vực duy trì ba nguyên tắc cơ bản: Thứ nhất, giải quyết tranh chấp một cách
hòa bình. Thứ hai, cho phép các quốc gia tự quyết định về an ninh. Thứ ba, bảo vệ các
quy tắc về luật pháp quốc tế có liên quan đến hoạt động bay và hàng hải, đặc biệt trên
Biển Đông. Trong những năm qua, hoạt động của SLD ngày càng trở nên quan trọng, thu
18
hút được sự chú ý của các nước trong khu vực châu Á –TBD và trên thế giới. Diễn đàn
này đã tạo ra cơ hội cho các quốc gia khác nhau tăng cường truyền thông quốc phòng và
hiểu biết lẫn nhau, điều đó sẽ làm tăng khả năng đối phó với các mối đe dọa an ninh và
bảo vệ hòa bình khu vực và thế giới một cách hòa bình. Với các đặc trưng đó, SLD ngày
càng chứng minh tính hiệu quả và sức lan tỏa của nó, góp phần quan trọng vào việc hình
thành cấu trúc an ninh đa tầng ở khu vực châu Á –TBD.
Về thực chất, SLD tạo cơ hội để giới lãnh đạo quốc phòng các nước trong khu vực nhóm
họp, bàn bạc các vấn đề khu vực và quốc tế cũng như gặp gỡ riêng để thúc đẩy các mối
quan hệ an ninh song phương, đa phương và là diễn đàn để tuyên truyền đường lối chính
sách quốc phòng, bày tỏ quan điểm, mối quan tâm của các nước khác trước những biến
động của tình hình khu vực và thế giới. Như vậy, SLD là diễn đàn không ràng buộc về
mặt pháp lý, tất cả những vấn đề được đưa ra bàn luận tại hội nghị là để thảo luận tìm
kiếm ý tưởng và giải pháp thực hiện nhưng không đi đến bất cứ kết luận ràng buộc nào.
Các nước tham dự diễn đàn này, theo đó không phải chịu bất cứ trách nhiệm quốc tế nào.
Tuy nhiên, kết quả của SLD tác động định hướng, điều chỉnh hành vi một cách rõ nét
Để đạt được những mục đích trên, cơ chế hoạt động của Đối thoại Shangri-La rất
đa dạng. Bên cạnh các phiên thảo luận toàn thể còn có các phiên thảo luận theo nhóm
nhỏ. Các nhóm nhỏ này có thể đề xuất các mục tiêu chính sách riêng biệt. Ban tổ chức
SLD cũng thiết kế lịch trình làm việc đảm bảo thời gian để các Bộ trưởng quốc phòng có
ít nhất hai cuộc họp đa phương và khoảng hàng chục cuộc đối thoại song phương trong
thời gian diễn ra hội nghị, tạo điều kiện để xúc tiến các cuộc gặp đa phương, song
phương giữa quan chức quân sự các quốc gia thành viên.
Như vậy, với cơ cấu tổ chức và mục tiêu hoạt động trên cùng với các cơ chế an
ninh đã có ở khu vực như ARF, CSCAP, ADMM,.. SLD sẽ là một cơ chế hợp tác an ninh
đa phương, bình đẳng và mở cho các quốc gia trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
19
1.2. Quá trình phát triển của Diễn đàn Đối thoại Shangri – La giai đoạn 2002 – 2015
Từ năm 2002 đến năm 2015, Diễn đàn Đối thoại Shangri – La đã trải qua 14 kì hội
nghị và mỗi kì hội nghị đều có chủ đề riêng trình bày về những nội dung cụ thể.
Diễn đàn Đối thoại Shangri – La lần thứ nhất (2002)
Diễn đàn Đối thoại Shangri – La lần thứ nhất diễn ra từ ngày 31/5 - 02/6/2002, có
sự tham gia của 24 quốc gia, bao gồm Australia, Bru nây, Campuchia, Canađa, Trung
Quốc, ĐôngTimo, Pháp, HongKong, Ấn Độ, Inđônêxia, Nhật Bản, Malaixia, Mông Cổ,
Mianma, NewZealand, Philippin, Nga, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Anh,
Hoa Kì và Việt Nam.
Nội dung chính của Hội nghị tập trung các vấn đề sau đây “Chiến lược của Hoa Kì
tại khu vực Châu Á - TBD”, “Học thuyết quân sự và chính sách an ninh Trung Quốc”,
“Vai trò của EU đối với an ninh Châu Á”, “Kiểm soát mối đe dọa khủng bố ở Đông Nam
Á”, “Những thách thức chống phổ biến vũ khí ở khu vực Châu Á –TBD” và “Triển vọng
về cơ cấu tổ chức an ninh Châu Á”.
Diễn đàn Đối thoại Shangri-La lần thứ hai (2003)
Diễn đàn Đối thoại Shangri – La lần thứ hai diễn ra từ ngày 30/5-01/6/2003 với sự
tham gia của 22 quốc gia, bao gồm Australia, Brunây, Campuchia, Canađa, Trung Quốc,
ĐôngTimo, Pháp, Hongkong, Ấn Độ, Inđônêxia, Nhật Bản, Malaixia, Mông Cổ,
Mianma, New Zealand, Philippin, Nga, Singapore, Hàn Quốc, Anh, Hoa Kì và Việt Nam.
Hội nghị tập trung vào các nội dung chủ yếu sau “Chiến lược của Hoa Kì và an ninh
Châu Á –TBD", “Triển vọng an ninh khu vực Châu Á –TBD" và “Thay đổi môi trường
chiến lược: Tác động đến chính sách an ninh và học thuyết quân sự”. Ngoài ra, Hội nghị
còn tổ chức thảo luận 2 nhóm chủ đề: Đối phó với chủ nghĩa khủng bố ở Đông Nam Á và
Chống phổ biến vũ khí ở Đông Bắc Á, trước khi họp phiên toàn thể để thông qua báo cáo
tóm tắt nội dung làm việc của các Nhóm.
Diễn đàn Đối thoại Shangri – La lần thứ ba (2004)
Diễn đàn Đối thoại Shangri – La lần thứ ba diễn ra từ ngày 04 - 06/6/2004.
20
Nội dung chính của Hội nghị tập trung giải quyết các vấn đề “Chiến lược của Hoa
Kì ở Châu Á –TBD" và “Hiện đại hóa quân sự và những thách thức trong khu vực”.
Ngoài ra, Hội nghị còn tổ chức thảo luận 3 nhóm nội dung: Phòng thủ tên lửa ở Châu Á –
TBD, Chính sách đối ngoại quốc phòng và các tổ chức an ninh hợp tác ở Châu Á - Thái
Bình Dương và Công nghệ tiên tiến và an ninh Châu Á –TBD. Cuối cùng, tổ chức phiên
họp toàn thể để thông qua báo cáo thảo luận tóm tắt của các Nhóm.
Diễn đàn Đối thoại Shangri – La lần thứ tư (2005)
Diễn đàn Đối thoại Shangri – La lần thứ tư diễn ra từ ngày 03 - 05/6/2005 với sự
tham gia của 24 quốc gia, bao gồm Australia, Bangladet, Brunây, Campuchia, Canađa,
Trung Quốc, Pháp, Ấn Độ, Inđônêxia, Nhật Bản, Malaixia, Mông Cổ, Mianma, New
Zealand, Pakistan, Philippin, Hàn Quốc, Singapore, Sri Lanka, Thái Lan, ĐôngTimo,
Anh, Hoa Kì và Việt Nam.
Nội dung chính của Hội nghị gồm 5 chủ đề “Hoa Kì và an ninh Châu Á – TBD bên
ngoài cuộc chiến chống khủng bố”; “Kinh nghiệm trong hoạt động gìn giữ hòa bình và
can thiệp nhân đạo của Châu Á”; “Đối phó với thách thức vũ khí hủy diệt (WMD) tại
Châu Á –TBD: Ngoại giao và ngăn chặn”; “Lực lượng vũ trang Châu Á – TBD và chống
khủng bố” và “Tăng cường hợp tác an ninh biển”.
Diễn đàn Đối thoại Shangri – La lần thứ năm (2006)
Diễn đàn Đối thoại Shangri – La lần thứ năm diễn ra từ ngày 02 - 04/6/2006 với sự
tham gia của 22 quốc gia, bao gồm Australia, Brunây, Campuchia, Canađa, Trung Quốc,
Pháp, Ấn Độ, Inđônêxia, Nhật Bản, Malaixia, Mông Cổ, Mianma, New Zealand,
Pakistan, Philippin, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, ĐôngTimo, Anh, Hoa Kì và Việt
Nam.
Nội dung chính của Hội nghị tập trung giải quyết “Hoa Kì và cơ cấu an ninh đang
hình thành ở Châu Á”; “Ấn Độ: Một nhân tố toàn cầu đang lên”; “Phát triển lực lượng
đảm bảo an ninh quốc tế”; “Hoạch định những ưu tiên an ninh quốc gia” và “Xây dựng
Cộng đồng an ninh khu vực”. Ngoài ra, Hội nghị còn thảo luận 3 nhóm nội dung: Tăng
cường hợp tác an ninh trên biển, Những thách thức nảy sinh từ hiện đại hóa quân đội và
Chống nổi loạn trong thế kỷ XXI.
21
Diễn đàn Đối thoại Shangri – La lần thứ sáu (2007)
Diễn đàn Đối thoại Shangri – La lần thứ sáu diễn ra từ ngày 01 - 03/6/2007 với sự
tham gia của 27 quốc gia, bao gồm Australia, Bangladet, Brunây, Campuchia, Canađa,
Trung Quốc, Pháp, Đức, Ấn Độ, Inđônêxia, Nhật Bản, Lào, Malaixia, Mông Cổ,
Mianma, New Zealand, Pakistan, Philippin, Hàn Quốc, Nga, Singapore, Sri Lanka, Thái
Lan, ĐôngTimo, Anh, Hoa Kì và Việt Nam.
Nội dung chính của Hội nghị bao gồm 5 vấn đề: “Hoa Kì và an ninh châu Á –
TBD”, “Ấn Độ và Trung Quốc: Xây dựng ổn định quốc tế”; “Thách thức hạt nhân”;
“Những tiến triển trong đảm bảo an ninh các vùng biển trong khu vực” và “Hợp tác an
ninh ở Châu Á: Kiểm soát liên minh và đối tác”. Ngoài ra, Hội nghị tổ chức thảo luận 3
nhóm nội dung: Can thiệp vào các quốc gia yếu kém, Thách thức mới đối với cải tổ an
ninh và Tiến triển trong chống khủng bố.
Diễn đàn Đối thoại Shangri – La lần thứ 7 (2008)
Diễn đàn Đối thoại Shangri – La lần thứ tám được tổ chức từ 30/5 - 01/6/2008 tại
khách sạn Shangri – La, Singapore với sự tham gia của 27 nước.
Hội nghị lần này được tổ chức thành 6 phiên toàn thể với 6 chủ đề tương ứng gồm:
Thách thức đối với sự ổn định ở Châu Á –TBD; Tương lai của an ninh Đông Á; Hoạch
định chính sách quốc phòng trong thời đại bất ổn; An ninh năng lượng tại Châu Á –
TBD; Khôi phục hòa bình trong các tình huống khẩn cấp phức tạp; Hình thức hợp tác an
ninh: Xây dựng lòng tin, quan hệ đối tác, liên minh (Việt Nam phát biểu trong phiên họp
toàn thể này). Ngoài ra, Hội nghị còn tổ chức thành 6 nhóm sau phiên họp thứ 3 với 6
nhóm nội dung, là: Thay đổi khí hậu và an ninh Châu Á –TBD; Liệu có cuộc chạy đua vũ
trang tại châu Á – Thái Bình Dương, Cuộc chống khủng bố ở Châu Á - TBD; Chiến lược
đối phó với thách thức chống phổ biến vũ khí; Cấu trúc an ninh khu vực đang hình thành;
Tranh chấp trên biển tại Châu Á –TBD.
Diễn đàn nĐối thoại Shangri – La lần thứ 8 (2009)
Diễn đàn Đối thoại Shangri – La lần thứ 8 được tổ chức từ 29/5 – 31/5/2009 tại
khách sạn Shangri – La, Singapore với sự tham gia của 27 nước.
22