Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Dạy học đọc hiểu thơ đường ở trường thpt theo đặc trưng thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

PHAN THỊ HIỀN

DẠY HỌC ĐỌC HIỂU THƠ ĐƢỜNG Ở TRƢỜNG THPT
THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN HỮU PHONG

Huế, Năm 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các
số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, được các đồng tác
giả cho phép sử dụng và chưa được công bố trong bất kì một công trình
nghiên cứu nào khác.
Huế, tháng 9 năm 2017
Tác giả luận văn

Phan Thị Hiền


Lời cảm ơn!
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Đào tạo sau Đại học, Ban giám hiệu,
Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn- Trường Đại học sư phạm Huế, Ban giám đốc


Sở Giáo dục & Đào tạo Quảng Bình, Ban giám hiệu trường THPT Nguyễn
Chí Thanh và trường THPT Lệ Thủy đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong
suốt quá trình học tập, thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Xin gửi lòng biết ơn sâu sắc đến các Thầy, Cô đã giảng dạy, giúp đỡ,
dìu dắt tôi trong suốt khóa học vừa qua. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng kính
phục và biết ơn sâu sắc đấn Thầy giáo, Tiến sĩ Trần Hữu Phong - người đã
trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn tôi thực hiện luận văn này.
Cuối cùng, xin được bày tỏ niềm biết ơn sâu sắc đối với các đồng
nghiệp ở trường THPT Nguyễn Chí Thanh và trường THPT Lệ Thủy, các anh
chị học viên Cao học khóa 24 cùng tất cả bạn bẻ và người thân đã luôn sát
cánh động viên, nâng đỡ tôi về mọi mặt trong thời gian qua.
Xin trân trọng cảm ơn!.

Huế, tháng 9 năm 2017
Tác giả luận văn
Phan Thị Hiền


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Viết đầy đủ

Viết tắt
ĐC

:

Đối chứng

GV


:

Giáo viên

HS

:

Học sinh

GS

:

Giáo sư

GS.TS

:

Giáo sư, tiến sĩ

TS

:

Tiến sĩ

SGK


:

Sách giáo khoa

PGS.TS

:

Phó giáo sư, tiến sĩ

PPDH

:

Phương pháp dạy học

TPVH

:

Tác phẩm văn học

THPT

:

Trung học phổ thông

THCS


:

Trung học cơ sở

TN

:

Thực nghiệm


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Thơ Đường là đỉnh cao của thi ca nhân loại nói chung và của văn học
Trung Hoa nói riêng. Thơ Đường không chỉ phong phú về đề tài, số lượng mà
còn đạt đến trình độ rất cao về nghệ thuật với hình tượng thơ hàm súc, ngôn
ngữ thơ tinh tế và hình thức biến hóa linh hoạt... Trải qua hơn một nghìn năm
tồn tại, thơ Đường vẫn giữ nguyên sức lay động sâu xa, để lại ấn tượng sâu
đậm trong lòng của những người quan tâm và yêu nghệ thuật thơ ca. Will
Durant trong Lịch sử văn minh Trung Hoa đã nhận xét về thể loại này như
sau: "Nó không ưa tỉ dụ, so sánh, nói bóng bẩy mà chỉ gợi cho ta về đề tài
thôi. Nó tránh sự phóng đại, những cảm xúc nồng nàn; người nào có óc già
dặn cũng thích giọng kín đáo của nó, thích những ý tại ngôn ngoại của nó..."
[11, tr.12] . Những vần thơ Đường bao giờ cũng gợi một chân trời kì diệu đầy
lôi cuốn như những suối nguồn không khi nào vơi cạn mời gọi sự thích thú
của bạn đọc. Do đó, cảm nhận được cái đẹp, cái hay của thơ Đường đã khó và
việc chuyển tải, truyền thụ cái đẹp, cái hay đó đến người khác lại còn khó
hơn. Vì sao lại có tình trạng " khó" truyền thụ, "khó" tiếp thu như vậy? Phải
chăng là do chưa tìm được phương pháp phù hợp và hiệu quả?
1.2. Với đà phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra ở nước ta,

vấn đề chất lượng nguồn lực con người được đưa lên vị trí hàng đầu. Bởi con
người là nhân tố quyết định đến sự phát triển của lịch sử, xã hội. Nói đến việc
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực không thể không kể đến giáo dục vì đây
là chìa khóa, là nền tảng làm cho xã hội ngày càng văn minh và phát triển. Do
đó, đổi mới giáo dục là một trong những yêu cầu cấp thiết đối với toàn xã hội,
góp phần đáp ứng nhu cầu thiết yếu của thời đại.
Hòa chung xu thế đổi mới giáo dục của thế giới, Việt Nam đã có những
chiến lược cải cách và đổi mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.
Từ năm 2000, Đảng và nhà nước ta đã quan tâm chỉ đạo: tập trung mọi nguồn
lực nâng cao chất lượng đào tạo, thực hiện đổi mới dạy học theo hướng tích
cực hóa vai trò của người học, tạo điều kiện để học sinh, sinh viên phát huy
tích cực, tự giác, sáng tạo trong học tập, chủ động tiếp cận tri thức, hình thành
kĩ năng thực hành. Cuộc đổi mới phương pháp dạy học chủ yếu theo quan
điểm "lấy học sinh làm trung tâm", phát huy vai trò chủ động, tích cực, độc
lập sáng tạo ở người học nhằm đào tạo những con người có tri thức, đạo đức,


bản lĩnh và khả năng thực hành tri thức. Chiến lược cải cách giáo dục ở
trường Trung học phổ thông (THTP) đã áp dụng trên tất cả các môn học trong
đó có môn Ngữ văn - môn học có vị trí quan trọng hàng đầu trong việc thực
hiện mục tiêu chung của giáo dục Việt Nam: bồi dưỡng cho các em những
phẩm chất, tình cảm, thái độ ứng xử tốt đẹp trong xã hội, hình thành năng lực
cảm thụ những giá trị thẩm mĩ của nhân loại.
Đổi mới dạy học trong nhà trường phổ thông được coi là chiến lược phát
triển giáo dục nước ta hiện nay, trong đó có môn Ngữ văn. Bởi theo lời cố thủ
tướng Phạm Văn Đồng thì: “Chúng ta phải xem lại cách giảng văn trong nhà
trường của chúng ta, không nên dạy như cũ bởi vì dạy như cũ thì không
những việc dạy văn không hay mà vấn đề đào tạo con người không có kết
quả. Vì vậy, chúng ta phải dứt khoát có cách dạy khác, dạy cho học sinh phải
suy nghĩ bằng trí óc của mình và diễn tả suy nghĩ của mình như thế nào cho

tốt". Do đó, đổi mới dạy học Ngữ văn cần phải lưu tâm đến việc thiết kế
chương trình môn Ngữ văn hiện nay. Chương trình giáo dục hiện nay đã nhấn
mạnh đến cả ba phương diện về tri thức khoa học xã hội và nhân văn, về kĩ
năng và về giáo dục tình cảm thẩm mĩ; tiếp tục thực hiện nguyên tắc tích hợp
gắn kết Đọc văn với Tiếng Việt và Làm văn. Điều đặc biệt đó là cấu trúc
chương trình Ngữ văn nhất là phần văn học đã coi trọng sự phát triển của thể
loại khi đưa vào chương trình dạy học một cách đa dạng nhiều hình thức thể
loại. Trên tinh thần coi trọng sự phát triển của thể loại trong lịch sử văn học,
các văn bản văn học được sắp xếp theo các cụm thể loại. Vậy nên, dạy học tác
phẩm văn chương không thể không quan tâm đến đặc trưng thể loại.
1.3. Thực tiễn dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT hiện nay còn khá nhiều
vấn đề chưa theo kịp với yêu cầu của giáo dục hiện đại cũng như đòi hỏi của
cuộc sống. Và việc dạy học đọc - hiểu thơ Đường ở trường THPT không nằm
ngoài quỹ đạo đó. Một thực trạng phổ biến đó là học sinh (HS) "chán học"
môn văn, học đối phó, không vận dụng những hiểu biết, suy nghĩ của mình để
làm một bài văn mà quá phụ thuộc vào tài liệu tham khảo, vào các bài văn
mẫu. Những điều này đã làm giảm chức năng giáo dục, nhận thức của văn
học, đặc biệt là giáo dục về tình cảm, đạo đức, nhân cách cho thế hệ trẻ. Mặt
khác, sự phát triển, bùng nổ của công nghệ thông tin với nhiều hình thức giải
trí hấp dẫn đã tác động không nhỏ đến việc nhận thức những giá trị thẩm mỹ
trong sách vở của HS. Các em thờ ơ, bỏ qua các tác phẩm văn học nước
ngoài, huống gì là thể thơ cổ cách xa thế hệ các em hàng nghìn năm khi: ''Các
cụ xưa đã sống trong cuộc đời giản dị, êm đềm, sinh hoạt dễ dàng, tiếp xúc ít


ỏi, nên tâm hồn các cụ cũng đơn sơ, nghèo nàn, phẳng lặng, khô khan như
cuộc đời các cụ, gia dĩ văn hóa tàu tràn sang đưa đến cho ta những kỉ luật
nghiêm khắc, hẹp hòi của Khổng giáo. Các cụ ta chỉ thích các bóng trăng
vàng rọi ở trên mặt nước, ta lại thích cái ánh mặt trời buổi sáng lấp lánh, vui
vẻ ở đầu ngọn tre'' [44, tr.20].

Không chỉ HS mà một bộ phận giáo viên (GV) trong quá trình dạy học vẫn
còn vướng mắc, lúng túng trong việc lựa chọn, sử dụng phương pháp dạy học
sao cho có hiệu quả. Đa số giáo viên đã có ý thức trong đổi mới phương pháp
dạy học theo các hướng lấy HS làm trung tâm của giờ học; dạy văn theo
hướng tích hợp, vận dụng đặc trưng thể loại vào giảng dạy. Thế nhưng hiện
tượng GV khi dạy chỉ chú trọng vào việc giảng giải nội dung; phân tích cắt
nghĩa các từ khó, từ "đắt" vẫn đang diễn ra phổ biến. Thậm chí là đối với các
tác phẩm thơ ca, nhất là thể thơ Đường được coi là quy cũ, nghiêm ngặt, GV
vẫn chỉ dùng phương pháp truyền thống là bình giảng, "diễn nôm". Trong khi
đây là thể loại có hệ thống thi pháp nổi bật, đặc sắc, phải nắm và vận dụng cái
đẹp, cái hay của thể loại ấy vào bài học mới truyền tải hết giá trị của thơ
Đường đến HS.
Để góp phần khắc phục những hạn chế trên và đóng góp vào công cuộc đổi
mới phương pháp dạy học bộ môn Ngữ văn nói chung và dạy học đọc - hiểu
tác phẩm văn học nói riêng, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu ''Dạy
học đọc - hiểu thơ Đƣờng theo đặc trƣng thể loại". Dẫu biết rằng không có
phương pháp nào là vạn năng nhưng chúng tôi hi vọng hướng nghiên cứu dạy
học thơ Đường theo đặc trưng thể loại với những ưu điểm của nó sẽ là một
hướng chiến lược mới, mang lại hiệu quả trong công cuộc đổi mới phương
pháp dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
Việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) môn Ngữ văn đã và đang
được các nhà nghiên cứu hàng đầu quan tâm không chỉ trong nước mà còn ở
ngoài nước, trong đó có vấn đề dạy học tác phẩm văn chương (TPVC) theo
đặc trưng thể loại. Để thực hiện đề tài ''Dạy học đọc - hiểu thơ Đƣờng theo
đặc trƣng thể loại", chúng tôi tập trung khai thác, tiếp thu các thành tựu
nghiên cứu sau:
* Ở nƣớc ngoài



Trên thế giới, có rất nhiều công trình nghiên cứu về PPDH văn trong
nhà trường phổ thông với đóng góp to lớn trong việc tháo gỡ những vướng
mắc trong thực tiễn giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở Việt Nam. Tuy nhiên việc
dịch thuật các công trình ấy ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế.
Tài liệu được nhắc đến đầu tiên đó là trong cuốn Phương pháp giảng
dạy văn học ở trường phổ thông (1978) của tác giả V.A.Nhikônxki. Trong
công trình này, tác giả chú trọng vào những vấn đề chung về quan niệm dạy
học và đề xuất những phương pháp dạy học văn, cùng với nó là những biện
pháp, thủ thuật trong quá trình giảng dạy văn học. Tác giả cho rằng, khi sáng
tác người ta thường dùng các phụ đề như: truyện ngắn, truyện vừa, tiểu
thuyết, thơ, bi kịch… cách gọi tên này không chỉ đơn giản là nói đến thể loại
của tác phẩm mà nó còn có ý định hướng người đọc khi họ tiếp xúc với tác
phẩm. Bên cạnh đó, V.A.Nhikônxki nhấn mạnh vai trò của người đọc cũng
như phương pháp hình thành cảm xúc thể loại trong giờ văn cho HS, phát huy
vai trò chủ thể của HS.
Ở Liên Xô những năm 70, công trình Phương pháp luận dạy Văn ở
trường phổ thông do GS.TS Z.Ia.Rez chủ biên và được Phan Thiều dịch vào
năm 1983 đã góp một phần không nhỏ cho ngành lí luận và PPDH văn ở nước
ta khi đề xuất những hướng nghiên cứu, những phương pháp giảng dạy văn
học một cách sáng tạo và có hệ thống và những phương pháp luận bộ môn có
triển vọng.
Năm 1983, hai tác giả E.A.Maimin và Ê.V.Xlinnhia trình bày kết quả
nghiên cứu của mình về vấn đề thể loại trong công trình Lý thuyết và thực tiễn
của phân tích văn học. Cùng với việc chỉ ra đặc trưng của 3 thể loại tự sự, trữ
tình, kịch sau khi nêu lên các con đường và nguyên tắc phân tích tác phẩm,
các tác giả đã chọn mỗi thể loại là một tác phẩm tiêu biểu để phân tích.
*Ở trong nƣớc:
Người được coi là tiên phong, đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu PPDH
văn từ những năm 60 của thế kỉ trước đó là GS. Phan Trọng Luận với nhiều
công trình nghiên cứu, những chuyên luận có giá trị to lớn như Con đường

nâng cao hiệu quả dạy văn (1978), Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học
(1983), và gần đây nhất là Phương pháp dạy văn học (2001) viết chung với
PGS Trương Dĩnh) và cuốn Văn học nhà trường – nhận diện, tiếp cận, đổi
mới (2007). Trong các công trình nghiên cứu trên, đáng chú ý nhất là công
trình Phương pháp dạy học văn. Công trình đã đi từ khái quát lí luận thực tiễn


đến phương pháp cụ thể, thiết thực trong đổi mới phương pháp dạy học văn.
Giáo sư cho rằng tác phẩm văn chương có mối liên hệ với bạn đọc và mối liên
hệ đó không những phù hợp với ý định sáng tác của tác giả mà còn thể hiện
sự nhận thức đúng đắn về con đường vận động khách quan của tác phẩm đến
cuộc sống. Cũng ở công trình này, tác giả dù không trực tiếp nêu ra phương
pháp dạy học tác phẩm theo thể loại, nhưng đã phần nào đề cập đến các đặc
trưng thi pháp với các PPDH cụ thể. Đối với cuốn Cảm thụ văn học, giảng
dạy văn học, tác giả đã tập trung nghiên cứu chuyên sâu các yếu tố, các quy
luật tác động đến quá trình giảng dạy văn học và tiếp nhận văn học. Ở đây,
vai trò của người học được quan tâm, chú trọng, coi học sinh là chủ thể tiếp
nhận, từ đó đề ra các hướng phát huy năng lực của người học.
Các công trình của GS.TS. Nguyễn Thanh Hùng như: Hiểu văn dạy
văn (2005), Phương pháp dạy học ngữ văn trong nhà trường phổ thông –
Những vấn đề cập nhật (2006) và Đọc hiểu tác phẩm văn chương trong nhà
trường (2008), Kĩ năng đọc hiểu văn bản (2011) đã đóng góp một phần không
nhỏ vào quá trình đổi mới PPDH. Trong Hiểu văn dạy văn, tác giả đã đề cập
trực tiếp đến việc tiếpnhận và cách lí giải, phân tích tác phẩm văn chương của
HS khi nêu ra các vấn đề cụ thể ở Phần II – Một số vấn đề phương pháp dạy
học văn, đề cao vai trò của phương pháp đọc văn trong dạy học: “Đọc văn là
một bộ phận cơ bản của một năng lực đọc nói chung, qua đó học sinh được
giáo dục để có thái độ sáng tạo đối với tác phẩm văn học” [22, tr.61]. Và với
việc bàn đến quá trình tiếp nhận văn học trong bối cảnh lí luận dạy học hiện
đại - đây là cơ sở để có thái độ tiếp nhận TPVC đúng đắn. Cuốn Phương pháp

dạy văn trong nhà trường phổ thông – Những vấn đề cập nhật đã khẳng định
"Định hướng đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn trong nhà trường THPT
hiện nay phải đảm bảo nguyên vẹn đặc trưng bộ môn của môn học mang tính
khoa học nhân văn" [35, tr.19], như vậy, ở đây tác giả đã chỉ rõ, đề xuất các
phương pháp và giải pháp dạy học Ngữ văn THPT. Đến với Kĩ năng đọc hiểu
văn, tác giả nhấn mạnh đọc – hiểu là vấn đề cơ bản trong đổi mới nội dung và
PPDH Ngữ văn: "Đọc hiểu được thực hiện bởi năng lực và tố chất từng người
nhưng muốn đạt tới sự hiểu biết thỏa đáng đều cần phải học hỏi và thể nghiệm
lâu dài;... Ngày nay cần phải xem đọc hiểu là một bộ phận có ý nghĩa và tác
đụng đào tạo văn hóa đọc cho học sinh thông qua dạy học môn Ngữ văn" [27,
tr.50]. Cũng trong cuốn sách này, tác giả cũng đã đề cập đến việc dạy học đọc
hiểu tác phẩm văn chương theo loại thể khi đưa ra cơ sở lí luận, cơ sở thực
tiễn và mô hình hướng dẫn dạy học đọc hiểu văn bản theo thể loại, đồng thời
chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa đọc hiểu, loại thể và dạy học đọc hiểu theo


loại thể. Công trình này là tâm huyết của tác giả về một vấn đề không thể làm
ngơ và bỏ ngỏ với thời gian như đọc hiểu. Theo tác giả thì đây không phải là
vấn đề xưa cũ mà là vấn đề cũ chưa được nghiên cứu kĩ với những kết luận rõ
ràng trong khi nhà trường cần nó như một phương diện lí thuyết và kĩ năng để
đổi mới việc dạy học Ngữ văn.
Cùng với những công trình nghiên cứu về đổi mới PPDH nói trên, Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã tiến hành xuất bản các tài liệu liên quan đến quá trình
đổi mới chương trình - SGK Ngữ văn các lớp 10, 11, 12 nhằm cung cấp, trang
bị cho GV những kiến thức liên quan đến việc đổi mới PPDH, thiết kế giáo
án, đặc biệt là chú trọng vào hoạt động dạy học hiểu lấy HS làm trung tâm,
hình thành phương pháp tự học cho HS. Riêng Tài liệu bồi dưỡng giáo viên
thực hiện chương trình, SGK lớp 10 môn Ngữ văn đã đề ra nguyên tắc đổi
mới chương trình giáo dục, SGK phổ thông; quán triệt cụ thể về mục tiêu dạy
học bảo đảm tính khoa học và sư phạm, thể hiện tinh thần đổi mới PPDH,

đảm bảo tính thống nhất, đáp ứng nhu cầu phát triển của từng đối tượng HS.
Điểm đáng chú ý đó là cấu trúc chương trình Ngữ văn - nhất là phần văn học
đã coi trọng sự phát triển của thể loại: "Loại thể văn học đã được chú trọng và
có nhiều hình thức thể loại văn học được đưa vào chương trình phổ thông một
cách khá phong phú... Trên tinh thần coi trọng sự phát triển của loại thể trong
lịch sử phát triển văn học, các văn bản văn học được sắp xếp theo các cụm
loại thể" [3, tr.39].
Những công trình vừa đề cập ở trên là những công trình đặc sắc, tiêu
biểu trong công cuộc đổi mới PPDH văn nói chung và dạy học đọc hiểu tác
phẩm văn học nói riêng. Tiếp cận với các công trình trên, ta có thể thấy một
điều đó là hầu như công trình nào cũng có đề cập ít nhiều đến vấn đề thể loại
và việc vận dụng, khai thác thể loại tác phẩm trong quá trình dạy học Ngữ
văn. Nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu, thực hiện đề tài liên quan trực tiếp
đến phương pháp dạy học đọc hiểu theo thể loại, chúng tôi đã đi sâu vào
nghiên cứu các công trình sau:
TS Hoàng Ngọc Hiến với các công trình Tập bài giảng nghiên cứu văn
học (1987); Nhập môn văn học và phân tích thể loại (2003) đã đưa ra một số
vấn đề có tính chất lí luận và đi sâu vào việc phân tích thể loại văn học. Trong
Tập bài giảng nghiên cứu văn học gồm 2 phần: Năm thể loại và Năm bài
giảng về phương pháp nghiên cứu văn học, tác giả đã trình bày đặc trưng cơ
bản của năm thể loại: kí, bi kịch, trường ca, anh hùng ca và tiểu thuyết, dựa


vào đó, GV có thể vận dụng vào công tác giảng dạy trên bình diện phân tích,
bám sát vào đặc trưng thể loại.
Đến năm 2001, TS Nguyễn Viết Chữ với chuyên luận Phương pháp
dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể đã đề ra: "Việc xác định loại thể
là vấn đề mấu chốt trong quá trình phát triển khoa học phương pháp dạy học
tác phẩm văn chương [8, tr.99]. Theo đó, tác giả cũng đã đề xuất các phương
pháp lớn trong dạy học văn; các con đường phân tích tác phẩm văn học; lí

thuyết tổ chức dạy học; phương thức để dạy học các thể loại tác phẩm tự sự,
trữ tình và văn học nước ngoài. Có thể coi đây là một trong những công trình
hữu ích, thiết thực, cung cấp cơ sở lí luận cũng như phương pháp dạy học,
nâng cao chất lượng giáo dục .
Năm 2009, TS Nguyễn Ái Học trong cuốn Phương pháp tư duy hệ
thống trong dạy học văn, bên cạnh cung cấp lí thuyết về phương pháp tư duy;
hướng dẫn thực hành phân tích, bình luận một số tác phẩm thuộc chương trình
phổ thông mới nhất... đã đề cập đến vấn đề vận dụng đặc trưng thể loại vào
phân tích tác phẩm khi đề xuất phương pháp xây dựng hệ thống tác phẩm. Ở
đây tác giả đã đi vào phân tích tác phẩm Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo
Nhiên chi Quảng Lăng (Lí Bạch) theo hướng khai thác đặc trưng loại thể: "Ở
bài thơ này, theo chúng tôi lựa chọn cách định hướng hệ thống theo loại hình,
loại thể gắn với phong cách tác giả là thích hợp nhất. Đó là việc phân tích bài
thơ dựa trên một số đặc điểm nổi bật của thi pháp thơ Đường;... Chỉ có dựa
trên đặc trưng thi pháp của thơ Đường cũng như đặc điểm phong cách thơ Lí
Bạch, học sinh mới có thể đọc - hiểu bài thơ đúng hướng, tâm hồn học sinh
mới có cơ sở thăng hoa cất cánh với vẻ đẹp độc đáo, toàn diện của thi phẩm
này" [21, tr.87].
Trên đây là một số công trình tiêu biểu về đổi mới PPDH văn và dạy
đọc - hiểu TPVH. Đi sâu vào vấn đề nghiên cứu giảng dạy văn học theo đặc
trưng thể loại, chúng tối tiến hành khảo sát các công trình sau:
Công trình sớm nhất đề cập trực tiếp đến việc dạy học TPVC theo đặc
trưng thể loại là cuốn Vấn đề giảng dạy văn học theo loại thể (1970) do Trần
Thanh Đạm (chủ biên) cùng nhóm tác giả Huỳnh Lý, Hoàng Như Mai, Phạm
Sĩ Tuấn và Đảm Gia Cần thực hiện. Cuốn sách bước đầu đã chỉ ra mối liên hệ
mật thiết giữa thể loại và PPDH. Từ việc đi sâu vào các thể loại tự sự, trữ
tình, kịch, các tác giả đã chỉ ra những đặc điểm riêng của từng thể loại đồng
thời yêu cầu gắn với nó phải có một PPDH phù hợp. Công trình đã chỉ rõ:



"Nhà văn sáng tác theo loại thể thì người đọc cũng cảm thụ theo loại thể và
người dạy cũng giảng dạy theo loại thể" [12, tr.30]. Đồng thời các tác giả
cũng đã nêu lên vai trò của thể loại và việc vận dụng thể loại vào việc giảng
dạy tác phẩm văn chương: "Loại thể văn học là một thành phần quan trọng
của hình thức nghệ thuật tác phẩm. Giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể
chính là một phương diện lớn của việc giảng dạy tác phẩm văn chương trong
sự thống nhất giữa hình thức với nội dung, một sự giảng dạy đi đúng với quy
luật và bản chất của văn học, đồng thời bảo đảm hiệu quả giáo dục cao nhất
[12, tr.44]. Tài liệu đã đóng góp một phần không nhỏ để GV dựa vào đó làm
nền tảng kiến thức cho quá trình học tập và giảng dạy.
Kế đến, năm 2001, các tác giả Nguyễn Duy Quát và Hoàng Hữu Bội
cho xuất bản cuốn Một số vấn đề dạy học văn trong nhà trường. Cuốn sách
tập hợp những bài viết của nhà nghiên cứu PPDH đã được công bố trong
khoảng những năm 1970 đến năm 2000. Các bài viết ở đây đã phân tích, chỉ
ra vai trò của việc dạy học văn trong nhà trường, trong đó nhấn mạnh yêu cầu
GV giảng dạy tác phẩm theo đặc trưng thể loại, tạo điều kiện phát huy tính
chủ động, tích cực sáng tạo của học sinh qua các hệ thống câu hỏi dẫn dắt, gợi
mở... Cuốn sách nêu nhiều ý kiến phong phú về dạy học văn, trong đó đáng
chú ý là ý kiến của Văn Tâm về “Một số suy nghĩ và biện pháp phát vấn đề
đảm bảo yêu cầu giảng văn theo đặc trưng thể loại văn học và phát huy tính
chủ động, tích cực sáng tạo của học sinh trong học tập". Ở đây, tác giả cũng
nêu lên mối quan hệ giữa thể loại văn học và PPDH. Theo Văn Tâm, trong
dạy học văn, cần căn cứ vào thể loại và các yếu tố bên ngoài văn bản để thiết
kế hệ thống câu hỏi phù hợp, phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng
tạo của HS.
Trở lên là những công trình bàn về PPDH văn nói chung đã ít nhiều đề
cập đến vấn đề dạy học tác phẩm văn chương theo thể loại. Ngoài những công
trình, tài liệu có tính lí luận về khoa học PPDH kể trên, các công trình nghiên
cứu về thơ Đường cũng như phương pháp giảng dạy phần văn học này đã
cung cấp cho GV và HS những kiến thức quan trọng trong quá trình dạy và

học. Hiện nay có một số tài liệu khá phổ biến trong việc nghiên cứu và giảng
dạy thơ Đường trong nhà trường như:
Cùng với việc dịch thuật, bình chú, hàng loạt các bài viết của các tác
giả Nguyễn Khắc Phi, Lương Duy Thứ, Lê Đức Niệm trong Diện mạo thơ
Đường đã mang đến cho độc giả Việt Nam bức tranh toàn cảnh của thơ


Đường, giới thiệu những nét đẹp về nội dung lẫn nghệ thuật đặc sắc của các
bài thơ Đường.
Đến với Bình giảng thơ Đường (2003) của PGS.TS Nguyễn Thị Bích
Hải, bạn đọc sẽ tìm thấy một sự định hướng về phân tích và khám phá về thơ
Đường cũng như một số gợi ý trong cảm thụ, giảng dạy thể thơ này: "Vì đặc
trưng của thơ Đường là tạo lập các mối quan hệ nên người đọc thơ Đường
phải phát hiện các mối quan hệ ấy, mà để phát hiện phải dành nhiều thời gian
liên tưởng, tưởng tượng" [15, tr.22].
Đặc biệt trong Thi pháp thơ Đường (1995), tác giả Nguyễn Thị Bích
Hải không chỉ nghiên cứu cụ thể, chi tiết về thi pháp của thể loại thơ Đường
như: quan niệm nghệ thuật về con người; không gian, thời gian, ngôn ngữ...
mà còn chỉ rõ cách "cảm", cách tiếp cận thể thơ này: " Người xưa đọc thơ
không phải chỉ bằng mắt. Mắt, tai... chỉ là cửa ngõ của sự tiếp xúc đầu tiên.
Còn thì phải "thẩm" thơ, tức là để người và thơ thấm vào nhau. Tác giả đã
"phổ" tâm hồn mình vào thơ thì thơ, đến lượt nó, lại khêu gợi lên nơi người
đọc một trạng thái tâm tình tương ứng" [14, tr.192].
Ngoài ra, nghiên cứu thơ Đường trong lịch sử phát triển của nó còn có
công trình của tác giả Nguyễn Khắc Phi với Thi pháp thơ Đường xuất bản
năm 1997 đã đưa ra những khái quát đặc trưng cơ bản của thơ Đường như:
thời gian, không gian; vấn đề đối ngẫu trong thơ Đường luật; đề tài; bút pháp
nghệ thuật... Nghiên cứu về tác giả có Lý Bạch tứ tuyệt của Phạm Hải Anh;
Thơ Đỗ Phủ của Trần Xuân Đề... Nghiên cứu về thể loại có Một số đặc trưng
cơ bản của thơ tứ tuyệt đời Đường của Nguyễn Sĩ Đại, Đến với Đường thi

tuyệt cú của PGS.TS Hồ Sĩ Hiệp...
Ứng dụng thành tựu của những công trình nghiên cứu về đặc trưng thể
loại thơ Đường để chúng tôi đưa vào vận dụng trong hoạt động giảng dạy các
tác phẩm thơ Đường trong trường THPT là hướng đi đúng đắn và phù hợp với
chương trình đổi mới PPDH.
Những bài viết mang tính chất tham khảo cho GV và HS làm tư liệu
trong quá trình học thơ Đường được thể hiện trong Thơ Đường ở trường phổ
thông (1995) của tác giả Hồ Sĩ Hiệp hay Phân tích bình giảng tác phẩm văn
học của Nguyễn Khắc Phi đã khám phá thơ Đường với những nét khái quát ở
phương diện ngôn từ, hình ảnh... Nhưng vì chỉ chú trọng vào phân tích, bình
giảng những giá trị về nội dung và nghệ thuật; đặc biệt chưa hướng đến nội
dung phương pháp giảng dạy ở trường phổ thông nên nó mang tính chất tài


liệu tham khảo hơn là hướng dẫn HS và GV cách tiếp cận thể thơ "khó nuốt"
này.
Một số luận văn thạc sĩ ở Trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh của Phan
Thị Minh với đề tài Giảng dạy thơ Đường ở trường phổ thông dưới góc nhìn
văn hóa và Dạy học thơ Đường ở trường phổ thông theo hướng tích cực;
Chuyên luận giảng dạy thơ Đường trong trường phổ thông bằng cách tiếp
cận văn hóa của Đỗ Thị Hà Giang (chuyên viên sở GD - ĐT Bắc Giang) cũng
đã đề xuất những phương pháp để vận dụng vào quá trình dạy học thơ Đường
nhằm khơi gợi được niềm hứng thú của cả GV và HS nhưng chỉ giới hạn ở
một số định hướng và cách tiếp cận theo hướng tích cực và dưới góc nhìn văn
hóa chứ chưa đề cập đến vấn đề dạy học tác phẩm theo đặc trưng loại thể.
Điểm qua lịch sử nghiên cứu vấn đề như trên là chưa đầy đủ, nhất là
các công trình, bài báo trên các tạp chí. Nhìn chung, có thể thấy một điều
rằng, các công trình nghiên cứu về phương pháp dạy học văn ngày càng được
khai thác, chú trọng nhưng nghiên cứu về phương pháp dạy học tác phẩm văn
chương theo đặc trưng thể loại vẫn đang còn sơ lược, hạn chế. Tuy nhiên,

những khía cạnh, vấn đề mà người đi trước đề cập đến sẽ là tài liệu quan
trọng, gợi ý thiết thực mang tính định hướng để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu
một cách có hệ thống và cụ thể hơn những biện pháp, cách thức dạy học nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học thơ Đường ở trường THPT theo đặc trưng thể loại
- vấn đề hầu như chưa được đề cập đến một cách cụ thể, chi tiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài ''Dạy học đọc - hiểu thơ Đƣờng theo đặc trƣng thể
loại", chúng tôi đề xuất hướng tiếp cận và kiểm chứng phương pháp dạy học
nhằm giải quyết một trong những vấn đề trọng tâm và phát huy năng lực sáng
tạo, chủ động của người học, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học, giúp HS
biết vận dụng, phân tích các bài thơ Đường nói riêng và các tác phẩm văn học
trong chương trình phổ thông nói chung dựa vào đặc trưng thể loại.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, chúng tôi tiến hành thực hiện các
nhiệm vụ nghiên cứu sau:


- Về lí luận: Nghiên cứu lịch sử vấn đề và cơ sở lí luận của đề tài thông qua
việc phân tích, đánh giá, trình bày các tài liệu đã thu thập.
- Về thực tiễn: Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của đề tài thông qua việc điều
tra, khảo sát chương trình SGK Ngữ văn và thực trạng dạy học thơ Đường ở
trường THPT. Trên cơ sở đó, đề xuất các hướng tiếp cận, các biện pháp dạy
học thơ Đường theo đặc trưng thể loại nhằm tích cực hóa hoạt động nhận
thức, khả năng chủ động trong học tập của HS.
+ Thiết kế giáo án và thực nghiệm sư phạm theo những biện pháp đã đề
xuất thông qua việc tìm hiểu, phỏng vấn GV và HS.
+ Kiểm tra kết quả thực nghiệm và đánh giá hiệu quả của đề tài.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là vấn đề tổ chức dạy học các bài thơ Đường ở
trường THPT theo đặc trưng thể loại.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát hoạt động giảng dạy của giáo viên, năng lực tiếp cận của HS trong
các giờ dạy đọc hiểu thơ Đường ở trường THPT.
Nghiên cứu thể loại những bài thơ Đường trong SGK Ngữ văn THPT và
hướng vận dụng đặc trưng thể loại vào quá trình dạy học trong nhà trường
phổ thông.
Phân tích, đánh giá tình hình và đề xuất giải pháp phù hợp thông qua hoạt
động thực nghiệm đối với HS ở các khối lớp 10 trên địa bàn thuộc huyện Lệ
Thủy - Quảng Bình.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp
Phương pháp này dùng để tổng hợp các tài liệu, công trình nghiên cứu có
liên quan đến đề tài. Trên cơ sở đó tiến hành phân tích, xử lí và rút ra cơ sở lí
luận làm tiền đề giải quyết các yêu cầu đặt ra của đề tài.
5.2. Phƣơng pháp điều tra, khảo sát


Khảo sát thực trạng dạy học các bài thơ Đường ở trường THPT thông qua
các phiếu điều tra, câu hỏi trực tiếp, phỏng vấn GV và HS để đề xuất hướng
giải quyết đúng đắn, nâng cao chất lượng dạy học thơ Đường.
5.3. Phƣơng pháp thống kê
Đây là phương pháp dùng để tổng hợp, xử lí số liệu điều tra, thực nghiệm,
phân tích và đánh giá kết quả thực nghiệm.
5.4. Phƣơng pháp thực nghiệm sƣ phạm
Sử dụng phương pháp này nhằm mục đích đánh giá, kiểm tra để xác định
tính hiệu quả, tính đúng đắn của đề tài khi đưa vào quá trình dạy học các bài
thơ Đường.
6. Giả thuyết khoa học

Nếu vận dụng hợp lí và hiệu quả những lí thuyết về dạy học thơ Đường
theo đặc trưng thể loại vào quá trình dạy học thì đề tài sẽ đóng góp một phần
quan trọng vào việc nâng cao chất lượng dạy học thơ Đường ở trường THPT,
đồng thời mở ra được một hướng tiếp cận mới trong công cuộc cải cách
phương pháp dạy học - đặc biệt là vấn đề dạy học theo đặc trưng thể loại.
7. Đóng góp của luận văn
* Về lí luận
Luận văn góp phần luận giải cơ sở lí luận, khẳng định tính khoa học của
việc dạy học đọc - hiểu thơ Đường theo đặc trưng thể loại.Góp phần làm
phong phú thêm tài liệu tham khảo trong đổi mới phương pháp dạy học, đặc
biệt là dạy học đọc hiểu theo đặc trưng thể loại.
* Về thực tiễn
Bước đầu giúp GV và HS ý thức hơn về vai trò của việc vận dụng đặc
trưng thể loại vào dạy và học thơ Đường ở trường phổ thông.
Luận văn đề xuất, định hướng, cách thức tổ chức các phương pháp giảng
dạy phù hợp thông qua mô hình thiết kế giáo án dạy học các bài thơ Đường
theo đặc trưng thể loại trong chương trình Ngữ văn 10 THPT.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính
của luận văn được cấu trúc thành 3 chương:


Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn cuả việc dạy học đọc hiểu thơ
Đường ở trường THPT theo đặc trưng thể loại
Chƣơng 2: Hướng dẫn học sinh đọc hiểu theo thơ Đường theo đặc trưng
thể loại
Chƣơng 3: Thực nghiệm sư phạm


NỘI DUNG

CHƢƠNG 1.
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY HỌC ĐỌC - HIỂU
THƠ ĐƢỜNG Ở TRƢỜNG THPT THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1 Thể loại văn học và đặc trƣng thể loại văn học.
Tác phẩm văn học ra đời là kết quả của quá trình thai nghén, “sinh nở” của
nhà văn, nhà thơ, là sự thống nhất trọn vẹn của các yếu tố đề tài, tư tưởng
nhân vật, kết cấu, cốt truyện, lời văn. Nhưng sự thống nhất ấy lại được thực
hiện theo những quy luật nhất định, đó chính là thể loại. Đã có khá nhiều nhà
lí luận đưa ra khái niệm về thể loại. Vậy định nghĩa nào là đúng nhất, phù hợp
nhất để đưa vào nghiên cứu, tìm hiểu tác phẩm?
Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên cũng đã đề cập đến thể loại:
“Hình thức sáng tác nghệ thuật phân chia theo phương thức phản ánh hiện
thực, vận dụng ngôn ngữ… văn học có nhiều thể loại: Tự sự, trữ tình, kịch”
[38, tr.917].
Nguyễn Như Ý trong Đại từ điển tiếng Việt lại cho rằng: “Thể loại là hình
thức sáng tác văn học nghệ thuật được đặc trưng bằng phương pháp phản ánh
hiện thực, vận dụng ngôn ngữ riêng khác” [56, tr.1555].
Ở trên là cách hiểu thông thường về nghĩa từ vựng của từ thể loại. Tuy
nhiên, nó sẽ là cơ sở để hiểu nghĩa thuật ngữ của khái niệm “thể loại” trong
chuyên ngành lí luận văn học.
Trong Lí luận văn học do Trần Đình Sử chủ biên, thể loại được hiểu như
sau: “Thể loại tác phẩm văn học là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác
phẩm, trong đó ứng với một loại nội dung nhất định có một loại hình thức
nhất định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh thể” [49, tr.220].
Từ điển thuật ngữ văn học của nhóm tác giả do Lê Bá Hán chủ biên định
nghĩa: “Thể loại văn học là dạng thức của tác phẩm văn học, được hình thành
và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình phát triển lịch sử của văn học, thể
hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm của loại
hiện tượng đời sống được miêu tả và tính chất của mối quan hệ của nhà văn

đối với các loại hiện tượng đời sống ấy” [16].


Dù có sự khác nhau trong quan niệm về thể loại nhưng chung quy lại ta
thấy: Ở trong mỗi thể loại tác phẩm văn học, các loại đề tài, chủ đề, cảm
hứng, hình thức kết cấu, hình thức nhân vật luôn có sự thống nhất, quy định
lẫn nhau. Sự thống nhất nàu có được là các phương thức chiếm lĩnh đời sống,
quan điểm thẩm mĩ khác nhau của tác giả quy định nhằm tái hiện đời sống.
Do vậy, mỗi thể loại lại tạo ra một kênh giao tiếp riêng với bạn đọc (giao tiếp
thơ khác giao tiếp kịch, giao tiếp bằng tiểu thuyết khác với giao tiếp bằng các
thể loại kí…).
Thể loại tác phẩm văn học là một hiện tượng loại hình của sáng tác và giao
tiếp văn học, hình thành trên cơ sở sự lặp lại có quy luật của các yếu tố tác
phẩm. Thể loại tác phẩm được tác giả sử dụng khi sáng tác, hay để chuyển tải
một nội dung tư tưởng nào đó đến người tiếp nhận. Bởi thế, người đọc muốn
nắm bắt được tác phẩm trọn vẹn hơn, đầy đủ hơn thì không thể không quan
tâm đến các khía cạnh liên quan đến thể loại.
- Sự phân biệt "thể loại" và "loại thể":
+ Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê và nhóm tác giả coi "Loại thể như thể
loại" [38, tr.570].
+ Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý cũng cho là "Loại thể như thể
loại" [56, tr.1030].
Như vậy, theo sự phân biệt trên thì ta khó lòng có thể phân biệt rạch ròi hai
thuật ngữ “thể loại” và “loại thể”. Vì theo Lại Nguyên Ân thì tác phẩm văn
học theo một số dấu hiệu nhất định sẽ có sự giống nhau từng nhóm một, trong
đó nhóm lớn nhất là “loại” và mỗi loại có nhóm nhỏ hơn là “thể” (hoặc thể
loại, thể tài). Và theo Trần Đình Sử thì: “Bản thân thể loại có chức năng phân
loại. Khi nhà văn ghi tên thể loại khác và đánh dấu cái truyền thống mà anh ta
theo” [49, tr.190].
Dựa vào các quan niệm trên ta thấy ở cấp độ phân chia “loại” thì tác phẩm

văn học được chia thành ba loại lớn đó là: Trữ tình, tự sự và kịch. Trong mỗi
“loại” sẽ bao hàm các “thể”, đồng nghĩa với việc tác phẩm văn học nào cũng
thuộc một loại nhất định và có hình thức “thể” biểu hiện.
Như vậy, nếu muốn khám phá tác phẩm, đào sâu nghiên cứu những gì tác
phẩm ẩn chứa thì ta không thể nào bỏ qua khâu tìm hiểu về thể loại của tác
phẩm ấy. Một mặt là do tác phẩm được nhà văn xây dựng nếu không thuộc
thể loại này thì sẽ thuộc thể loại kia; mặt khác là chính đặc trưng của thể loại


của tác phẩm ấy mang lại cho ta phương thức tìm hiểu tác phẩm một cách dễ
dàng hơn. Hiểu và nắm bắt được quy luật tồn tại cũng như đặc điểm của thể
loại sẽ phầm nào giúp cho bạn đọc nói chung và HS THPT nói riêng cắt
nghĩa, lí giải tác phẩm hiệu quả hơn, sâu sắc hơn. Cách thức khai thác tác
phẩm như thế này tạo nên sự hứng thú trong học tập, đặc biệt là đối với thể
loại trữ tình như thơ Đường.
1.1.2 Thơ Đƣờng và những dấu hiệu đặc trƣng về thể loại
1.1.2.1 Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong thơ Đƣờng
Con người là trung tâm của văn học, là đối tượng chủ yếu mà các nhà văn,
nhà thơ khao khát hướng đến, nói như M.Gorki "Văn học là nhân học". Quan
niệm nghệ thuật về con người là khái niệm cơ bản nhằm thể hiện khả năng
khám phá, sáng tạo trong lĩnh vực miêu tả của người nghệ sĩ nói riêng và của
thời đại văn học nói chung. Giáo sư Trần Đình Sử đã khẳng định: "Quan niệm
nghệ thuật về con người là một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết, tầm đánh
giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm của nhà văn về con người được thể hiện
trong tác phẩm của mình" [46, tr.15].
Thơ Đường xây dựng nên hai hình tượng con người: Con người vũ trụ và
Con người xã hội.
Quan niệm về con người vũ trụ là quan niệm cho rằng : Con người liên
quan mật thiết với trời đất, vũ trụ. Con người là một "tiểu vũ trụ" trong lòng
"đại vũ trụ". Đó cũng là quan niệm nghệ thuật trong thơ cổ và tồn tại mãi suốt

thời phong kiến thậm chí đến cả thời hiện đại. Con người đó xuất hiện trong
tư thế vũ trụ, đứng giữa trời đất, nối trời với đất, điểm nhìn nghệ thuật đứng
giữa trung tâm vũ trụ:
Trung tâm không gian thiên - địa (vũ)
Trung tâm thời gian tiền - hậu (trụ)
Con người đứng giữa giao điểm của không gian, thời gian mà lên tiếng.
Đó lá tiếng nói của một "tiểu vũ trụ" trong lòng thiên địa mênh mông giữa
dòng thời gian tiền hậu,vô thủy, vô chung. Con người bị giới hạn bởi không
gian hữu hạn vì thế con người trong chữ Hán khao khát tìm kiếm hôm qua và
vươn tới ngày mai.
Thơ Đường xây dựng con người theo mô hình ''pháp - thiên - địa''. Chính vì
vậy con người luôn có khát vọng hòa nhập với thiên nhiên, ở giữa trời đất,


cảm hứng với trời đất, tiếng nói hòa âm cùng vũ trụ. Con người hữu tâm, con
người tri âm là những hình tượng con người thường xuất hiện trong thơ
Đường. Những con người siêu cá thể giữa lòng thiên địa, càn khôn trong sự
hô ứng, tương giao hòa hợp với thiên nhiên, vũ trụ khiến cho khi bước vào thế
giới thơ Đường ta bước vào ''Thế giới của hòa điệu'' [14, tr.26]. Trong thơ
Đường có xuất hiện con người cá nhân nhưng chưa phổ biến. Con người cá
nhân ấy chủ yếu xuất hiện trong mối quan hệ một với tất cả.
“Thế giới hòa điệu” chỉ tồn tại trong mảng thơ sáng tác theo khuynh hướng
lãng mạn còn theo khuynh hướng hiện thực thì đó là con người xã hội, tức là
con người được nhìn nhận và đánh giá trong các mối quan hệ xã hội. Nếu như
con người vũ trụ được thể hiện trong quan hệ thống nhất, tương giao, hòa âm
thì con người xã hội chủ yếu là sự phản ánh trong quan hệ tương phản, đối
lập. Chính cách phản ánh này đã khiến cho thế giới nghệ thuật trong thơ sáng
tác theo khuynh hướng hiện thực là thế giới của sự bất bình.
Tuy có hai kiểu con người như vậy, nhưng do sự chi phối của mỹ học
truyền thống nên con người vũ trụ vẫn chiếm ưu thế và có vị trí quyết định

trong thi pháp thơ chữ Hán, làm cho thế giới nghệ thuật thơ Đường là thế giới
của sự hòa điệu.
1.1.2.2. Kết cấu và niêm luật
Thơ Đường tồn tại ở hai thể chính là Cổ thể và Cận thể (gồm luật thi và
tuyệt cú). Tương ứng với mỗi loại có những đặc trưng riêng về thi pháp.
a) Thơ cổ thể
Thơ Cổ thể gồm có hai dạng là Cổ phong và Nhạc phủ. Nhạc phủ là tên gọi
chung của nhiều loại khác nhau có nguồn gốc từ thơ nhạc phủ. Cổ phong là
thơ của thi nhân trước đời Đường thường là thơ 5 chữ hoặc 7 chữ.
Thơ Cổ thể, cả Cổ phong lẫn Nhạc phủ đều không có niêm luật nhất định,
không hạn định số câu trong bài và số chữ trong câu tương đối tự do, thường
là 5 chữ, 7 chữ nhưng cũng có khi câu dài câu ngắn không đều. Thể này
không quy định niêm luật và cũng không yêu cầu đối ngẫu.
Nhìn chung thể này dung lượng lớn hơn thơ cách luật. Thể cách không
nghiêm ngặt nên phù hợp phản ánh hiện thực cuộc sống và bộc lộ quan niệm
về con người sinh hoạt.
b) Thơ Cận thể


Thơ Cận thể có hai dạng thức chính : Luật thi và Tuyệt cú.
Luật thi gồm thất ngôn bát cú luật thi (gọi tắt là thất luật) và ngũ ngôn bát
cú luật thi (gọi tắt là ngũ luật). Tuyệt cú hay còn gọi là tứ tuyệt là thơ chỉ có 4
câu gồm Thất ngôn tuyệt cú và Ngũ ngôn tuyệt cú.
Niêm luật của Tuyệt cú tương ứng với luật với luật thi nên ở đây xét chung
là niêm luật của luật thi.
Luật thi buộc phải theo cấu trúc nhất định của thanh âm cũng như bố cục
tình ý: sự quy định này rất chặt chẽ. Một bài thơ phải đảm bảo các yêu cầu về
niêm, luật, vận, đối, tiết tấu, bố cục. Cụ thể như sau:
+ Niêm: là nguyên tắc phối thanh theo chiều dọc làm các liên thơ với nhau.
Trong một bài có 4 liên, các liên thơ đi với nhau từng đôi một. Hệ thống niêm

căn cứ từ chữ thứ nhì của mỗi câu, bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc.
Nó yêu cầu câu 3 niêm câu 2, câu 5 niêm câu 4, câu 7 niêm câu 6, câu 8
niêm câu 1 tạo thành vòng tròn khép kín và cấu trúc nội tại bền chặt.
+ Luật: Là sự điều tiết âm thanh theo chiều ngang sao cho bằng trắc phù
hợp. Hệ thống này tính từ chữ thứ hai của câu thứ nhất. Nếu từ này là bằng thì
gọi là ''Bằng khởi cách'', nếu từ này là trắc gọi là ''Trắc khởi cách''. Trong câu
các thanh bằng và trắc phải hòa hiệp cân xứng, luân phiên xen kẽ sao cho
''Đòn cân thanh điệu'' được cân bằng. Phải đảm bảo nguyên tắc ''Nhị, tứ, lục
phân minh'', chữ thứ tư làm tâm đối xứng của câu thơ, nếu thay đổi thì đòn
cân thanh điệu bị nghiêng lệch, phá vỡ sự hài hòa, cân bằng của thơ, ''Nhất,
tam, ngũ, luật bất luận'' để một khoảng tương đối thoải mái cho người làm
thơ. Riêng chữ thứ 7 đương nhiên phải đảm bảo thanh bằng nếu là chữ gieo
vần, còn không gieo vần thì phải là thanh trắc. Luật phối thanh đảm bảo bằng
trắc cân xứng, tức cân bằng âm dương, làm cho bài thơ có âm điệu hài hòa.
+ Vận: là một bài bát cú có năm vần (tuyệt cú có 2 hoặc 3 vần). Trong một
bài thơ có thể "trốn vần'' nhưng chỉ được phép trốn một lần ở câu đầu. Đã trốn
vần thì phải gieo theo nguyên tắc: Hai câu đầu phải đối nhau.
+ Đối: Đối cũng là một nguyên tắc bắt buộc của luật thi, nguyên tắc này
yêu cầu liên hai (câu 3 và 4) và liên 3 (câu 5 và 6) phải là hai ''đối liên'' - tức
là câu 4 đối câu 3 và câu 6 đối câu 5.
Đối phải đảm bảo đối về cả thanh (bằng đối với bằng, trắc đối với trắc), về
từ loại (từ loại nào đối với từ loại ấy) và cả về ý.


Trong một bài Luật thi cả 4 yêu cầu này phải đảm một cách nghiêm ngặt.
Tiết tấu (ngắt nhịp): Nhìn chung cách ngắt nhịp ở câu 7 chữ và 5 chữ đều
chẵn trước, lẻ sau (4/3 hoặc 2/2/3 nếu 7 chữ và 2/3 nếu 5 chữ). Cách ngắt nhịp
chẵn lẻ này cố định hầu như không có ngoại lệ khiến chẵn lẽ đan xen, âm
dương luân chuyển nhịp nhàng, hài hòa. Đó cũng là sự hô ứng tự nhiên với
nhịp điệu vũ trụ.

+ Bố cục: Về bố cục một bài luật thi trước nay có 2 quan niệm chính:
Chia làm 4 phần: Đề - thực - luận - kết.
Câu thứ hai ''thừa đề'' thừa tiếp ý mở đề chuyển vào thân bài.
Thực: (câu 3 và 4) có nhiệm vụ giải thích rõ ý của đầu bài.
Luận: (câu 5 và 6) phát triển rộng ý của đầu bài.
Kết: (hai câu cuối) kết thúc toàn bài.
Chia làm hai phần: tiền giải và hậu giải (đây là cách chia của Kim Thánh
Thán):
Tiền giải: 4 câu đầu
Hậu giải: 4 câu sau
Thực ra đây là cách chia của người đời sau, thi nhân không mấy quan tâm
đến việc chia tách bài thơ thành từng phần như vậy mà họ coi trọng cái ''nhất
khí'' sao cho bài thơ đảm bảo tình toàn vẹn chủ yếu theo sự vận hành đi từ
ngoại cảnh đến nội tâm nên một khi cảnh phát được tâm tình bài thơ kết thúc.
1.1.2.3. Ngôn ngữ và tứ thơ
a) Ngôn ngữ thơ Đường
Văn chương là nghệ thuật ngôn từ. Mỗi thể loại có một đặc điểm riêng về
mặt ngôn ngữ. Ngôn ngữ thơ ca nói chung là mang tính hình tượng, gợi cảm
và hàm súc cao. Trong đó thơ Đường được coi là một trong những đỉnh cao
của ngôn ngữ thơ ca nhân loại.
Ngôn ngữ thơ Đường thường đơn giản nhưng rất tinh luyện, có khả năng
diễn đạt vô cùng tinh tế và phong phú. Đó là ngôn ngữ hàm súc, đa nghĩa,
ngôn ngữ đậm chất nhạc, chất họa. Tính hàm súc, đa nghĩa trong thơ Đường
trước hết là nhờ công phu tinh luyện của các nhà thơ làm sao với một mã tối


thiểu có thể đưa lại một lượng thông tin tối đa. Con chữ tinh luyện cao độ có
khả năng bao quát và chứa đựng nhiều ẩn ý, khơi gợi trường liên tưởng mạnh
mẽ. Các nhà thơ Đường chủ trương không nói hết ý mà ''ý tại ngôn ngoại'', ý
ngoài lời, ''Ngôn tận nhi, ý bất tận'' lời hết mà ý chưa hết, không trực tiếp nói

lên ý mình. Đó chính là cái diệu trong ngôn ngữ thơ Đường.
b) Tứ thơ
Thơ Đường xây dựng tứ thơ độc đáo, mới lạ. Người xưa có câu ''Học thơ
cổ là học tinh thần sáng tạo của các nhà thơ''. Đó chính là tinh thần sáng tạo tứ
thơ, hình ảnh thơ độc đáo, mới lạ. Dựa trên tư duy quan hệ, tứ thơ trong thơ
Đường tập trung làm nổi bật các mối quan hệ từ đó bật nổi những tư tưởng
độc đáo.
Các nhà thơ chú tâm khai thác các mối quan hệ tương đồng và đối lập giữa
các sự vật, các trạng thái tình cảm, khai thác các mối quan hệ xưa và nay,
mộng và thực, tiên và tục, vô cùng và hữu hạn, không gian và thời gian... Từ
tứ thơ độc đáo đó gửi gắm những nổi niềm, tâm sự của thi nhân.
1.1.2.4. Không - thời gian nghệ thuật trong thơ Đƣờng
''Không gian và thời gian nghệ thuật là hình tượng không gian và thời gian
được sáng tạo trong tác phẩm, là môi trường tồn tại của hình tượng con
người'' [14, tr.35]. Không gian và thời gian nghệ thuật cũng là yếu tố hữu cơ
của hệ thống thể loại.
Không gian và thời gian trong tác phẩm có mối quan hệ biện chứng với
nhau không thể chia tách. Ở mỗi loại tác phẩm có một kiểu không - thời gian
xác định.
a) Không gian nghệ thuật trong thơ Đường
Thơ Đường tập trung thể hiện hai loại không gian chính:
Không gian vũ trụ - môi trường tồn tại của con người vũ trụ và không gian
sinh hoạt - môi trường tồn tại của con người sinh hoạt. Tuy nhiên thơ Đường
chủ yếu xây dựng trên tư duy quan hệ, khai thác mối quan hệ hài hòa của con
người với thiên nhiên do vậy không gian vũ trụ là không gian chiếm ưu thế và
có ý nghĩa thi pháp trong thơ Đường.
Không gian trong thơ Đường chủ yếu không gian cao rộng, khoáng đạt, bộc
lộ tư tưởng ''đăng cao'' của con người vũ trụ với khát vọng chiếm lĩnh bề cao



của không gian và "viễn du'' để chiếm lĩnh bề rộng của không gian. Để diễn tả
cái cao rộng, khoáng đạt và tính giãn nở trong không gian thời Đường thường
thấy xuất hiện không gian: con đường, dòng sông, lầu cao, núi cao, sông dài,
trời rộng...
Không gian thơ Đường là không gian mang tính đối xứng với con người ở
vị trí trung tâm, khiến con người cảm thấy bé nhỏ, cô độc giữa vũ trụ vô hạn,
vô cùng.
Vì cảm giác bé nhỏ, cô độc ấy con người dấy lên khát vọng hòa nhập vào
vũ trụ, khát vọng chiếm lĩnh không gian. Do đó nên không gian luôn mang
tính mở, có xu hướng giản nở để đưa tâm hồn con người vượt không gian, có
mặt trong ''thiên địa chi du du''.
Ngoài tính chất cao rộng, khoáng đạt trong không gian, thơ Đường, đặc
biệt là thơ cách luật, chú tâm xây dựng khai thác sự tương đồng, đối lập trong
không gian: Quá khứ và hiện tại, ngày xưa và ngày nay, hiện tại và tương
lai... nhằm thể hiện sự biến thiên dâu bể, hoài vọng về thời gian và bộc lộ nỗi
niềm của thi nhân .
Thời gian sinh hoạt chủ yếu xuất hiện trong thơ cổ thể. Đó là thời gian
hiện tại của cuộc sống đời thường có thể cảm nhận một cách cụ thể trực cảm.
Tuy có tồn tại nhưng thời gian sinh hoạt không mang tính tiêu biểu cho thi
pháp thơ chữ Hán.
Như vậy, cũng giống không gian, thời gian vũ trụ có ý nghĩa thi pháp đối
với thơ Đường nhằm thể hiện quan niệm về con người vũ trụ.
1.1.3. Vấn đề dạy học đọc - hiểu trong quá trình dạy học văn
GS.TS Nguyễn Thanh Hùng trong Kĩ năng đọc hiểu văn đã nhận định rằng:
“Muốn nâng cao trình độ văn hóa giáo dục cho thế hệ trẻ Việt Nam trong nền
kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế để họ phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của đất nước trước ngưỡng cửa hiện đại hóa không có gì tốt hơn là
phải giáo dục họ biết tự học, học mọi lúc, mọi nơi….. Tự đọc sách là một
cách thức phổ biến của tự học để phát huy năng lực trí tuệ và lao động tinh
thần… Đọc văn góp phần giáo dục con người có văn hóa. Văn hóa đọc, đó là

đọc những tác phẩm hay và biết đọc theo những quy luật nội tại của nó” [26,
tr.7]. Thật vậy, để HS “phát huy hết năng lực trí tuệ và lao động tinh thần” thì
không thể nào tiếp tục con đường dạy học theo lối truyền thống với cơ chế
một chiều: Thầy đọc - Trò chép. Yêu cầu đặt ra ở đây là: hơn bao giờ hết cần


×