BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
TRẦN THỊ ÁI VÂN
ĐẤU TRANH QUÂN SỰ TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
Ở HUYỆN A LƯỚI (THỪA THIÊN HUẾ) TỪ 1961 ĐẾN 1973
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60220313
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học:
TS: NGUYỄN TẤT THẮNG
THỪA THIÊN HUẾ, NĂM 2016
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả và số
liệu nghiên cứu trong luận văn là trung thực, được các tác giả cho phép sử dụng
và chưa từng được công bố trong bất kì một công trình nào khác.
Họ và tên tác giả
Trần Thị Ái Vân
ii
LỜI CẢM ƠN
Bằng tấm lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin trân trọng cảm ơn Ts. Nguyễn Tất
Thắng - Người thầy đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện
luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm, các thầy cô giáo trong Khoa
Lịch sử, Phòng đào tạo Sau đại học, Trung tâm thư viện - Trường Đại học Sư
phạm Huế; trung tâm thư viện trường Đại học Khoa học Huế, thư viện Tổng
hợp tỉnh tỉnh Thừa Thiên Huế đã quan tâm, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập
và thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến Trung tâm lưu trữ Tỉnh ủy Thừa
Thiên Huế, Bảo tàng lịch sử cách mạng Thừa Thiên Huế, Uỷ ban nhân dân
huyện A Lưới, Đại tá Hồ Mạnh Khóa cùng các bạn học viên đã hỗ trợ và tạo
mọi điều kiện cho tôi trong quá trình thu thập và tìm kiếm tư liệu cần thiết liên
quan đến đề tài nghiên cứu.
Do điều kiện và thời gian hạn hẹp và đang trong quá trình thực tập nghiên
cứu khoa học cho nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi kính mong
nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của quý thầy cô và các bạn để đề tài của
tôi được hoàn thiện hơn.
Huế, tháng 10 năm 2016
Tác giả
Trần Thị Ái Vân
iii
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hơn 20 năm chiến đấu, hi sinh vì độc lập và tự do của tổ quốc (1954 1975), dân tộc Việt Nam dù “Kinh hay Thượng”, đồng bào miền Nam hay miền Bắc
đều đã trải qua nhiều thử thách khốc liệt của cuộc chiến tranh, chịu nhiều tổn thất khi
phải đối đầu với một cường quốc theo đuổi chiến lược toàn cầu như đế quốc Mỹ.
Sau khi thay chân thực dân Pháp thống trị miền Nam, Mỹ đã ráo riết thực hiện
âm mưu biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng nhằm
chia cắt lâu dài đất nước ta. Lúc này, Thừa Thiên Huế là trung tâm chính trị thứ hai ở
miền Nam sau Sài Gòn tiếp giáp với miền Bắc được Mỹ dựng lên một bộ máy cai trị
cấp miền nhằm mục đích kiểm soát và kìm kẹp nhân dân ta.
Trước tình thế đó, Tỉnh ủy Thừa Thiên quyết định xây dựng miền núi Thừa
Thiên Huế thành căn cứ địa cách mạng vững chắc làm chỗ dựa cho đồng bằng. Nằm ở
phía Tây Thừa Thiên Huế với vị trí chiến lược quan trọng, A Lưới1 nhanh chóng trở
thành một chiến trường lớn của tỉnh và cả nước, từng được các cơ quan Tỉnh ủy, Khu
ủy Trị - Thiên, các Binh đoàn, Sư đoàn chủ lực… đóng quân.
Gần nửa thế kỷ đã qua, kể từ khi những cán bộ, chiến sĩ đầu tiên của Đoàn 559
mò mẫm giữa đại ngàn Trường Sơn soi đường tìm lối về Nam, A Lưới cũng trở thành
thành một địa điểm then chốt trên trục đường Hồ Chí Minh huyền thoại, nơi đây đã
chứng kiến nhiều cuộc giao tranh đẫm máu, những cái chết bi thương của chiến sĩ và
đồng bào các dân tộc.
Thực tiễn qua các cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã cho thấy rằng:
bên cạnh đấu tranh chính trị, ngoại giao thì đấu tranh quân sự là nhân tố quyết định
trực tiếp đến thành bại của cuộc chiến tranh. Do vậy, việc nghiên cứu phong trào đấu
tranh quân sự ở huyện A Lưới từ 1961 đến 1973, khi Mỹ thực hiện liên tiếp chiến lược
“chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965), chiến lược “chiến tranh cục bộ” (1965 - 1968) và
chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 - 1972) là một việc làm có ý nghĩa khoa
học và thực tiễn sâu sắc.
Huyện A Lưới tiền thân có 3 quận: Quận 1, Quận 3, Quận 4 gồm các dân tộc anh em cùng sinh sống
đó là Pakô, Katu, Pahy.... Đây là địa bàn có truyền thống cách mạng, một căn cứ địa quan trọng của
Khu ủy và Quân khu Trị - Thiên trong kháng chiến chống Mỹ
1
1
Về ý nghĩa khoa học, nghiên cứu đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ
ở huyện A Lưới từ 1961 đến 1973 giúp ta hiểu rõ hơn về quá trình chiến đấu anh dũng
của quân và dân huyện A Lưới. Qua đó làm sáng tỏ thêm tính chất phức tạp, quyết liệt
của phong trào đấu tranh cách mạng ở miền núi, khẳng định về vai trò lãnh đạo của
Trung ương Đảng, Khu ủy Trị - Thiên, Tỉnh ủy Thừa Thiên đã vạch ra đường lối, chủ
trương, phương pháp đấu tranh phù hợp, đúng đắn và kịp thời.
Về ý nghĩa thực tiễn, nghiên cứu phong trào đấu tranh quân sự ở huyện A Lưới từ
1961 đến 1973 góp phần cung cấp những bài học kinh nghiệm về đấu tranh quân sự ở
miền núi trong sự nghiệp giữ nước và bảo vệ tổ quốc đồng thời góp thêm nguồn tư liệu
phục vụ cho việc giảng dạy lịch sử địa phương, giáo dục truyền thống cách mạng cho
nhân dân huyện A Lưới, đặc biệt là thế hệ thanh thiếu niên nhằm khơi dậy và phát huy
truyền thống tốt đẹp của cha ông, yêu quê hương, đất nước.
Hiện nay, mảnh đất vùng cao A Lưới đang đổi thay từng ngày, việc tìm hiểu
phong trào đấu tranh quân sự cũng gắn liền với quá trình hình thành các di tích lịch sử
cách mạng, từ đó hệ thống hóa đầy đủ hơn các di tích lịch sử, cung cấp thêm những tư
liệu hữu ích phục vụ cho hoạt động du lịch của địa phương.
Từ những lí do trên, với sự hướng dẫn tận tình của Tiến sĩ Nguyễn Tất Thắng, tôi
đã mạnh dạn chọn đề tài “Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện
A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973” làm Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Sử
học thuộc chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hiện nay, có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đấu tranh quân sự ở
huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế), mỗi đề tài đề cập đến những khía cạnh khác nhau.
Cụ thể có các công trình nghiên cứu sau:
Đầu tiên, vào năm 1997, những anh hùng lực lượng vũ trang đã từng chiến đấu
kiên cường trong cuộc kháng chiến chống Mỹ như: Hồ Vai, Kăn Lịch cùng tác giả Hồ
Phương đã viết nên cuốn tiểu thuyết mang tên “Hồ Vai, Kăn Lịch” kể về cuộc đời và
quá trình đấu tranh gian nan trong chặng đường đánh Mỹ ở miền núi A Lưới.
2
Tiếp theo, phải kể đến công trình “Lịch sử Đảng bộ huyện A Lưới” xuất bản năm
1998 đã đề cập đầy đủ và bao quát nhất về lịch sử hình thành, điều kiện tự nhiên, xã
hội, dân cư, truyền thống đấu tranh cách mạng, công cuộc đổi mới của huyện nhà.
Bên cạnh đó, cuốn “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế” cũng đã trình bày sơ
lược quá trình đấu tranh anh dũng, kiên cường của đồng bào miền núi Thừa Thiên.
Đặc biệt phải kể đến Luận văn Thạc sĩ sử học của tác giả Lê Viết Xuân với đề tài
“Đồng bào các dân tộc thiểu số mang họ Hồ ở A Lưới - Thừa Thiên Huế trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước”. Đây là công trình đã dựng lại một bức tranh khá
toàn diện về những đóng góp và hi sinh to lớn của đồng bào dân tộc A Lưới trong cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mỹ.
Ngoài ra, trong tác phẩm “Địa chí Thừa Thiên Huế”, phần Lịch sử của Uỷ ban
nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế do Nguyễn Văn Hoa chủ biên cũng đã đề cập khá chi
tiết về phong trào đấu tranh cách mạng: đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao ở
thành phố Huế cũng như các huyện thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế.
Liên quan trực tiếp đến đề tài đang nghiên cứu có công trình “Lịch sử lực lượng
vũ trang huyện A Lưới (1945 - 2015)” do Đảng ủy - Ban chỉ huy quân sự Huyện A
Lưới biên soạn và được xuất bản năm 2013. Tác phẩm này đã trình bày một cách có hệ
thống về quá trình hình thành và phát triển của lực lượng vũ trang huyện A Lưới trong
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Năm 2015, tác phẩm “Lịch sử Đảng bộ xã A Ngo, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên
Huế (1960 - 2015)” được công bố. A Ngo là xã đầu tiên trên địa bàn huyện A Lưới có
sách trình bày đầy đủ và cụ thể nhất về quá trình đấu tranh kháng chiến chống Mỹ.
Các công trình nêu trên tuy đã nghiên cứu một cách toàn diện về con người,
phong trào cách mạng ở A Lưới trong kháng chiến chống Mỹ nhưng chưa thực sự đi
sâu tìm hiểu hoạt động đấu tranh quân sự. Tuy nhiên, những nguồn tư liệu đó sẽ tạo cơ
sở, điều kiện cho tôi hoàn thành tốt đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm làm rõ truyền thống đấu tranh quân sự
của quân và dân A Lưới trong kháng chiến chống Mỹ từ 1961 đến 1973, qua đó thấy
3
được sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Khu ủy Trị - Thiên, sự quyết tâm đánh thắng
Mỹ của đồng bào các dân tộc thiểu số huyện A Lưới; nêu cao lòng tự hào tự tôn dân
tộc, khơi dậy và bồi dưỡng lòng yêu nước cho đồng bào huyện nhà; hình thành kho tư
liệu phục vụ cho công tác giảng dạy lịch sử địa phương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ đặt ra là phải sưu tầm, khảo sát,
xử lý các tài liệu liên quan (thành văn cũng như viết tay) để tìm hiểu chủ trương của
Trung ương Đảng, Khu ủy Trị - Thiên đối với chiến trường miền núi A Lưới trong đấu
tranh trên mặt trận quân sự từ năm 1961 đến năm 1973, hoàn thành nhiệm vụ cách
mạng cho toàn tỉnh đồng thời chống lại âm mưu của đế quốc Mỹ trong chiến lược
“chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ” và chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Từ đó, phân tích những đặc điểm, ý nghĩa, bài học kinh nghiệm trong đấu tranh quân
sự ở A Lưới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động đấu tranh quân sự của quân và dân
huyện A Lưới trong kháng chiến chống Mỹ từ 1961 đến 1973. Ngoài ra, đề tài còn đề
cập đến một số đơn vị, cá nhân anh hùng, các di tích lịch sử cách mạng gắn liền với
phong trào đấu tranh quân sự trên địa bàn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi các xã miền núi phía Tây
Thừa Thiên, thuộc các quận I, quận III, quận IV (nay là huyện A Lưới, tỉnh Thừa
Thiên Huế).
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu tập trung trong khoảng thời gian từ 1961 đến
1973 khi Tỉnh ủy Thừa Thiên quyết định chuyển đấu tranh chính trị sang đấu tranh
quân sự trên địa bàn miền núi.
Tuy có giới hạn về thời gian và không gian như trên, nhưng khi làm rõ một số
nội dung, luận văn có thể mở rộng không gian ra khỏi địa bàn huyện A Lưới và thời
gian có thể lùi về trước năm 1961 hoặc về sau năm 1973 để làm rõ vấn đề, nổi bật giai
đoạn tôi đang nghiên cứu.
4
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, tôi dựa vào những nguồn tư liệu sau:
Nguồn tư liệu thành văn: Đó là các công trình nghiên cứu đã được xuất bản, bài
báo, hồi kí, internet… liên quan đến huyện A Lưới trong kháng chiến chống Mỹ. Bên
cạnh đó, tôi còn tiến hành thu thập một số tài liệu lưu trữ ở Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế,
Bảo tàng lịch sử cách mạng Thừa Thiên Huế, Uỷ ban nhân dân huyện A Lưới.
Nguồn tư liệu điền dã: Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, tôi còn khai
thác nguồn tài liệu từ quá trình phỏng vấn, lời kể, khảo sát các di tích cách mạng có
liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Cơ sở phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử.
Phương pháp cụ thể: Trong quá trình nghiên cứu, tôi sử dụng phương pháp lịch
sử kết hợp với phương pháp logic. Bên cạnh đó, tôi còn sử dụng phương pháp thống
kê, phân tích tổng hợp, so sánh, đối chiếu…
Đặc biệt, khi thực hiện đề tài về lịch sử địa phương, tôi còn sử dụng phương pháp
điều tra, điền dã, phỏng vấn, khảo sát thực tế.
6. Đóng góp của luận văn
Thứ nhất: Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống và tương đối toàn diện
về hoạt động đấu tranh quân sự huyện A Lưới trong kháng chiến chống Mỹ từ 1961
đến 1973. Qua đó, thấy được sự đóng góp và hi sinh to lớn của đồng bào dân tộc thiểu
số vùng cao A Lưới trong công cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Thứ hai: Luận văn góp phần giáo dục truyền thống yêu nước và đấu tranh cách
mạng cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau ghi nhớ công ơn và tấm gương sáng ngời của
ông cha ta.
Thứ ba: Luận văn còn là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết cho việc giảng dạy
chuyên đề lịch sử địa phương đồng thời cung cấp nguồn thông tin phục vụ cho hoạt
động du lịch, giới thiệu các di tích lịch sử cách mạng trên địa bàn, vừa giữ gìn, bảo
tồn, phát huy giá trị của các di tích vừa đem lại lợi ích kinh tế cho địa phương.
5
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Vài nét về điều kiện tự nhiên, con người và truyền thống yêu nước
của nhân dân huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế)
Chương 2: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới
(Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Chương 3: Đặc điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm
6
Chương 1
1.1. Điều kiện tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
A Lưới là huyện miền núi phía Tây của tỉnh Thừa Thiên Huế có diện tích tự
nhiên khoảng 1.224,64 km2. Địa giới huyện A Lưới được giới hạn trong tọa độ địa lý
từ 16º,01´ đến 16º,23´ độ vĩ bắc, 107º,05´đến 107º,31´ độ kinh đông. Phía Bắc giáp
huyện Đắc Krông (Quảng Trị); phía Nam giáp huyện Hiên (Quảng Nam); phía Đông
giáp huyện Hương Trà, Nam Đông và thị xã Hương Thủy; phía Tây giáp nước bạn
Lào [21, tr. 7].
Huyện A Lưới nằm trên tuyến quốc lộ 49 nối đường Hồ Chí Minh với quốc lộ
1A. Đây là trục giao thông Đông - Tây quan trọng kết nối với quốc lộ 1A, thành phố
Huế và các huyện đồng bằng.
Với vị thế như vậy, A Lưới là một vùng có vị trí chiến lược quan trọng về mặt
kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, đặc biệt về mặt quân sự đối với tỉnh Thừa Thiên
Huế, khu vực Bắc Trung Bộ và cả nước. Khu vực này là vùng đất án ngữ của biên giới
phía Tây tổ quốc, một mắt xích quan trọng trên trục đường Hồ Chí Minh huyết mạch
nối liền Bắc Nam ở Đông Trường Sơn.
Do đó, đế quốc Mỹ đã cho xây dựng nơi này nhiều hệ thống đồn bốt, sân bay…
nhằm khống chế mọi hoạt động của ta, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương miền
Bắc đối với tiền tuyến miền Nam và làm bàn đạp tấn công xuống đồng bằng.
Ngày nay, với nhiều cảnh quan thiên nhiên, sông suối, núi rừng xanh tươi, hệ
thống di tích lịch sử, các giá trị văn hóa cùng với tính nhân ái hiếu khách của người
dân A Lưới đã trở thành nguồn tài nguyên vô giá, hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển kinh
tế xã hội và du lịch.
Những năm gần đây, A Lưới đã và đang được Trung ương và tỉnh Thừa Thiên
Huế tập trung đầu tư xây dựng đô thị; cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội;
xây mới và tu bổ mạng lưới giao thông, mở rộng mạng lưới điện; chú trọng phát triển
thương mại, dịch vụ, du lịch; xây dựng các công trình thủy điện (A Lưới, A Lin, A
Roàng), viễn thông, trường học, trạm y tế... Đó là những nền tảng cơ bản tạo động lực
7
mới thúc đẩy kinh tế - xã hội huyện phát triển nhanh, mạnh và bền vững hơn trong
tương lai.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Địa hình: A Lưới có 118.969 ha đất tự nhiên, trong đó đất nông nghiệp là
4.603,79 ha, tổng diện tích đất chưa sử dụng là 53.863,79 ha. Địa hình chủ yếu là rừng
núi xen lẫn những dãy thung lũng với hệ thống sông suối khá dày đặc với độ cao trung
bình khoảng 700m so với mặt nước biển.
Là một huyện vùng cao, A Lưới có hệ thống núi non hùng vĩ, cao nhất là núi
Động Ngại nằm ở phía Đông Bắc (cao gần 4000m so với mặt nước biển), phía Đông
có các dãy núi như A Lau, A Ló, Kô Pung, Talângai; phía Tây Bắc có các ngọn núi
như Ta Công, A Túc, A Bia; phía Tây có dãy núi Trường Sơn tiếp giáp với Lào [1, tr.
9].
Bên cạnh đó, A Lưới còn có hệ thống thủy văn khá dày đặc, ngoài hệ thống khe
suối len lỏi giữa thung lũng núi rừng hình lòng chảo, nơi đây còn có các con sông lớn
như A Sáp, sông Bồ, sông A Lin… và hàng trăm con suối lớn nhỏ như Ta Rình, Ta
Ho… Địa hình hiểm trở, đất đai màu mỡ, sông suối mát lành tạo điều kiện cho nhân
dân cư trú, làm ăn đồng thời tạo điều kiện để bộ đội đóng quân, xây dựng căn cứ địa
cách mạng.
Khí hậu: A Lưới thuộc vùng khí hậu Tây Trường Sơn, có nền nhiệt khá ôn hòa.
Khí hậu ở vùng này khá đặc biệt, hướng của 2 mùa gió chính đều thay đổi, khác với
toàn tỉnh: gió mùa Đông Bắc thịnh hành hướng Đông, gió mùa Tây Nam thịnh hành
hướng Tây Bắc nên nhiệt độ cả năm thấp hơn so với toàn tỉnh. Nhiệt độ trung bình
hàng năm khoảng 21,50C, cao nhất vào tháng 7 và tháng 8 là 250C và thấp nhất vào
tháng 1 khoảng 170C. Lượng mưa hàng năm ở đây thuộc hàng cao nhất tỉnh, nhất nước
(2.800mm đến 3.400mm), trong đó tập trung từ tháng 5 đến tháng 12, còn từ tháng 1
đến tháng 4 mưa ít, trung bình 30mm - 65mm/1 tháng. Độ ẩm luôn trên 83% [75, tr.8].
Về hệ thống giao thông đường bộ: Ngoài con đường 12 do Mỹ và chính quyền
tay sai Ngô Đình Diệm xây dựng phục vụ cho chiến tranh và đặt ách thống trị lên miền
núi Thừa Thiên những năm 1955, 1956 thì toàn bộ các con đường còn lại đều do quân
và dân ta xây dựng nên. Đường Hồ Chí Minh (Đường 14B) được xem là tuyến giao
8
thông huyết mạch chạy dọc theo chiều dài trên địa bàn huyện trong kháng chiến chống
Mỹ.
Ngoài ra, nối liền A Lưới với các huyện lị khác còn có các hệ thống giao thông
như: quốc lộ 49B đi về Huế đến tận cửa biển Thuận An; 4 hệ thống trục xuôi từ vùng
núi về đồng bằng gồm có: đường 71 từ Hồng Vân qua Dốc Chè về Phong Điền, đường
72 từ xã Hồng Thượng qua xã Hồng Hạ về thành phố Huế, đường 73,74 từ xã Hương
Lâm qua A Roàng, Hương Nguyên về Khe Tre (Nam Đông) và Phú Lộc [1, tr. 12].
Đây là những hệ thống giao thông vô cùng quan trọng phục vụ đắc lực cho công tác
liên lạc, vận chuyển lương thực, vũ khí, đạn dược cung cấp cho chiến trường.
Ngày nay, các con đường đó tiếp tục tồn tại phát huy vai trò lưu thông, trao đổi
hàng hóa, phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa đến tận các bản làng xa xôi, đáp ứng cho
tất cả các vùng dân cư trên địa bàn huyện đều có “điện, đường, trường, trạm”.
1.2. Tình hình dân cư, kinh tế - xã hội
1.2.1. Về dân cư
Trải qua thời gian theo sự biến đổi thăng trầm của lịch sử cùng quá trình di cư
của các vùng khác lên cư trú ở A Lưới, hiện nay dân số huyện A Lưới có hơn 40 nghìn
người với 4 tộc người có số lượng đông đảo nhất: Pakô, Kơtu, Pahy, Kinh. Ngoài ra
còn có sự cư trú rải rác của một bộ phận đồng bào các dân tộc khác nhau như Tày,
Nùng, Thái, Bru Vân Kiều…
Trong số đó, dân tộc Pakô chiếm 60% dân số, sinh sống tập trung ở các xã
Nhâm, A Ngo, A Đớt, A Roàng, Hồng Thái, Hồng Thủy, Bắc Sơn, Hồng Vân, Hồng
Kim; dân tộc Kơtu chiếm khoảng 10%, sống tập trung chủ yếu ở 2 xã Hương Lâm,
Hương Nguyên; dân tộc Pahy chiếm khoảng 5% dân số và dân tộc Kinh chiếm khoảng
15%, sống chủ yếu ở Sơn Thủy, Phú Vinh và thị trấn A Lưới [1, tr. 14].
Đồng bào các dân tộc vùng cao A Lưới cũng là thành phần cư dân đông đảo (chủ
yếu là dân tộc Pakô) hăng hái tham gia phong trào kháng chiến chống Mỹ gắn liền với
tên tuổi các anh hùng lực lượng vũ trang như: Hồ Vai, Kăn Lịch, Hồ A Nun…
1.2.2. Về kinh tế
Phân bố tập trung ở vùng núi dọc Trường Sơn, đồng bào A Lưới đều sống dựa
vào kinh tế nông nghiệp, chủ yếu làm nương rẫy, phát - cốt - đốt - trỉa, lối sống du
9
canh du cư, phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. Cây trồng chủ yếu là lúa, ngô, sắn…
Mùa phát rẫy thường vào tháng 2, 3 âm lịch, gieo hạt vào tháng 4, 5 và thu hoạch vào
tháng 10 hằng năm. Cách thức lao động còn đơn lẻ, mang nặng tính cá nhân hoặc theo
từng hộ gia đình, sự giao lưu, hợp tác giữa các làng bản trong hoạt động nông nghiệp
còn ít, sử dụng sức người là chính.
Công việc chăn nuôi cũng xuất hiện từ lâu, nhưng mọi gia súc, gia cầm còn rất
hạn chế (chủ yếu là heo, gà…). Thời Pháp thuộc, với lối sống du canh du cư, kĩ thuật
canh tác lại hậu, chăn nuôi nhỏ, đời sống nhân dân A Lưới còn rất khó khăn, làm
không đủ ăn, đủ mặc.
Sau cách mạng tháng Tám thành công, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ,
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân A Lưới từng bước đổi thay, đồng bào được
hưởng quyền bình đẳng, làm chủ đất đai, hăng hái tăng gia sản xuất phục vụ cách
mạng.
Ngày nay, với chính sách định canh định cư, áp dụng rộng rãi tiến bộ khoa học kĩ
thuật, đồng bào vùng cao A Lưới từng bước chuyển đổi hóa cây trồng, vật nuôi, thu
được nhiều thành tựu nổi bật trong lĩnh vực sản xuất, thu nhập của người dân vì thế
ngày một ổn định hơn.
1.2.3. Về xã hội
Trong xã hội của đồng bào các dân tộc trên địa bàn huyện A Lưới, chế độ tư hữu
đã xuất hiện, sự phân hóa giàu nghèo đã hình thành nhưng chưa thực sự sâu sắc.
Thành phần cư dân giàu có thường là những người có thế lực, xuất thân từ tầng lớp
chủ đất, chủ làng, trong đó chủ làng là người có địa vị cao nhất đứng đầu chỉ đạo, quan
tâm các hoạt động sản xuất, giải quyết những mâu thuẫn nội bộ, tổ chức lễ hội.
Làng phát triển trong phạm vi một cộng đồng cư trú với 4, 5 hộ dân với vài chục
nóc nhà sinh sống gần nhau và có tính chất khép kín. Mỗi làng thường là nơi cư trú
của nhiều dòng họ, sau này xuất hiện thêm quan hệ láng giềng.
Cách mạng tháng Tám thành công đem lại bộ mặt mới cho đồng bào A Lưới, các
dân tộc A Lưới được quy tụ trong các đơn vị hành chính các xã liên kết nhiều làng,
thoát khỏi lối sống khép kín và hạn hẹp trong quan hệ huyết thống. Trong hai cuộc
kháng chiến, đặc biệt là cuộc kháng chiến chống Mỹ, các dân tộc như Pakô, Kơtu, Pa
10
hy… đã đoàn kết lẫn nhau thực hiện chủ trương của Đảng, chống kẻ thù chung, nhiều
cá nhân, đơn vị được nhận danh hiệu lực lượng vũ trang nhân dân.
Tháng 3/1976, huyện miền núi A Lưới chính thức được thành lập, trở thành một
trong hai huyện miền núi của toàn tỉnh thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền
quản lý, nhân dân làm chủ. Phần lớn các đồng bào dân tộc A Lưới đều mang họ Hồ để
tỏ lòng biết ơn đến Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã mang lại cuộc sống tự do, ấm êm
cho đồng bào các dân tộc ít người ở miền Tây Thừa Thiên Huế.
1.3. Truyền thống yêu nước
1.3.1. Truyền thống yêu nước cho đến Cách mạng tháng Tám năm 1945
Từ xưa đến nay, A Lưới vẫn luôn tồn tại truyền thống quý báu đã ăn sâu vào tâm
khảm của người dân, đó chính là lòng yêu nước nồng nàn với một tinh thần đấu tranh
quật khởi vì độc lập, tự do. Với chính sách áp bức và ngu dân của chính quyền đô hộ,
nhân dân A Lưới nói chung từ lớp này đến lớp khác luôn phải sống trong cảnh khổ
cực, tăm tối. Bộ máy cai trị của thực dân tuy đã đặt ra các chính sách cai trị hà khắc,
nặng nề với ý đồ chia rẽ miền xuôi với miền ngược nhưng nhìn chung chúng không dễ
dàng thực hiện được. Đồng bào các dân tộc thiểu số đã ý thức sâu sắc âm mưu của kẻ
thù và tiếp tục hăng hái tham gia đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, phong trào cách mạng nước ta
tiếp tục phát triển. Sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày càng được
nhân dân tin tưởng, nhiều tổ chức yêu nước được thành lập không chỉ ở đồng bằng mà
còn mở rộng ra cả miền núi. Tổ chức Việt Minh ra đời ngày 19/5/1941 mở ra một thời
kì mới cho phong trào cách mạng ở huyện A Lưới cùng các xã miền núi Thừa Thiên
Huế ở Phú Lộc, Phong Điền… đi tiên phong trong công tác gây dựng lực lượng chuẩn
bị cho việc khởi nghĩa giành chính quyền trong tháng Tám năm 1945.
1.3.2. Truyền thống đấu tranh cách mạng trong kháng chiến chống Pháp (1945 1954)
Trong kháng chiến chống Pháp, A Lưới cùng với nhiều huyện lị khác trong toàn tỉnh
như Phong Điền, Hương Trà, Phú Lộc... nhanh chóng trở thành các căn cứ địa cách
mạng mà địch khó xâm phạm được bởi địa hình hiểm trở cùng với ý chí sắt đá của
11
nhân dân. Cách mạng tháng Tám thành công mở ra một vị thế mới cho đất nước ta, từ
thân phận nô lệ, mất nước trở thành người làm chủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
Mặc dù phải đương đầu trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” của buổi đầu giành
lại chính quyền nhưng Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế đã nhanh chóng thành lập được một
số xã miền núi và bước đầu gây dựng chính quyền cách mạng, các đoàn thể cứu quốc
và mặt trận Việt Minh ngay trong lòng địa phương.
Ngày 19/12/1946, cả nước đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp theo lời
kêu gọi thiêng liêng của Bác Hồ “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ không chịu mất
nước, không chịu làm nô lệ”.
Lúc này, A Lưới là vùng tự do, đóng vai trò hậu phương cho toàn tỉnh, tích cực
sản xuất nuôi quân đánh giặc, đoàn kết xây dựng làng bản, tạo điều kiện làm căn cứ
kháng chiến lúc cần thiết. Càng về sau, phong trào kháng chiến ngày càng dâng cao,
địch tập trung phương tiện, sử dụng nhiều thủ đoạn để đối phó với chiến tranh nhân
dân ở vùng đồng bằng và đô thị nên chưa có điều kiện đánh phá miền núi, đây chính là
lúc A Lưới có thời gian để chuẩn bị lực lượng, xây dựng cơ sở vật chất chuẩn bị kháng
chiến lâu dài.
Theo đó, hệ thống chính quyền, mặt trận đoàn thể được hình thành, do tập trung
chỉ đạo đồng bằng nên Tỉnh ủy Thừa Thiên giao phó cho các xã miền núi tự quản. Các
huyện cũng thành lập ban chỉ đạo miền núi bao gồm các cán bộ chính trị, y tá, giáo
viên…
Nhiều đồng chí gương mẫu, đi sâu vào quần chúng và trở thành những cán bộ
miền núi đáng tin cậy của Đảng và toàn thể đồng bào A Lưới như đồng chí Hoạch, Cu
Nô, Nhà Hoài, Ra Đang, Quỳnh Meo, Ăm Bảo, Cu Tông, Cu Đay…
Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân trong tỉnh ngày càng giành được
những thắng lợi to lớn, xây dựng được nhiều vùng kháng chiến, phát triển ở nông thôn
và đồng bằng và tiến lên tấn công địch, gây dựng cơ sở cách mạng ở thành phố Huế,
đặc biệt là chiến khu của tỉnh và các huyện ở ven núi sát đồng bằng.
Sau khi hiệp định Giơnevơ được kí kết năm 1954, vùng Nam Đông nằm trong
khu dinh điền của Ngô Đình Cẩn, vùng A Lưới và vùng Ba Lòng (Quảng Trị) tạm thời
bị o ép bởi lực lượng li khai của chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ [40, tr. 50].
12
Chính vì thế, phong trào đấu tranh cách mạng ở A Lưới còn rất nhỏ lẻ, chủ yếu là
đấu tranh chính trị hòa chung vào phong trào đấu tranh của toàn tỉnh, bước đầu chuẩn
bị về mọi mặt để đứng lên đấu tranh quân sự khi cần thiết.
1.3.3. Truyền thống đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ (tính đến trước
năm 1961)
Đế quốc Mỹ âm mưu thay thế thực dân Pháp ở Việt Nam nhằm thực hiện 3 mục
tiêu cơ bản: biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới; tiêu diệt phong trào cách mạng
nước ta, chặn đứng phong trào giải phóng dân tộc đang phát triển mạnh mẽ đồng thời
biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự của Mỹ, làm bàn đạp tấn công hệ
thống các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng thế giới; cuối cùng xâm
lược Việt Nam để thành lập phòng tuyến ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản
ở Đông Nam Á mà chúng gọi là đắp đê ngăn chặn làn sóng đỏ. Để đạt được 3 mục tiêu
trên, chính quyền Aixenhao đã sử dụng mọi thủ đoạn nhằm đặt ách thống trị hoàn toàn
ở nước ta.
Quán triệt chủ trương của Đảng sau khi hiệp định Giơnevơ được kí kết, ngày
26/9/1954, Liên khu ủy IV ra nghị quyết về công tác ở Thừa Thiên và Quảng Trị. Nghị
quyết cũng đã chỉ rõ đặc điểm tình hình Thừa Thiên và Quảng Trị:
Đây là hai tỉnh trong vùng địch tạm chiếm đóng quân giáp vùng tự do, cho
nên về ta thì mọi ảnh hưởng của vùng tự do và mọi chủ trương chính sách của
Đảng và Chính phủ ta đều qua đây mà vào miền Nam. Về địch thì để củng cố đầu
cầu chuẩn bị phòng ngự hay tấn công ta, địch sẽ tăng cường lực lượng, tập trung
quân tinh nhuệ ở đây; và giữ thế an toàn quân sự cho chúng, chúng sẽ tăng cường
gián điệp, một mặt mua chuộc lừa phỉnh, mặt khác tích cực khủng bố, xua quét
lực lượng ta. Hai tỉnh tuy nhỏ hẹp nhưng có tính chất quan trọng về chính trị, là
nơi tập trung bộ máy đầu não ngụy quyền Trung Việt, tập trung bọn đầu sỏ mật
thám, gián điệp [4, tr. 35-36].
Đế quốc Mỹ xem chiến trường Thừa Thiên Huế nói chung, miền núi A Lưới nói
riêng là một trong những trọng điểm quan trọng để khủng bố, đàn áp đồng thời xây
dựng ở đây một phòng tuyến phòng thủ mạnh và căn cứ xuất phát để có thể tiến công
miền Bắc khi thời cơ đến đồng thời cắt đứt sự chi viện của miền Bắc cũng như mối
liên hệ giữa 2 miền nước ta.
13
Sau khi đàn áp phong trào cách mạng ở đồng bằng, giữa năm 1956, Mỹ và chính
quyền tay sai Ngô Đình Diệm bắt đầu kéo quân lên A Lưới, trước tiên nhằm mục đích
thăm dò địa bàn, sau đó sẽ thiết lập bộ máy chính quyền. Chúng chia miền núi Thừa
Thiên Huế thành 4 tổng trực thuộc quận Nam Hòa, mỗi tổng có 3 - 5 xã, đứng đầu là
chánh tổng.
Với chính sách mua chuộc, mị dân, dụ dỗ kể cả hăm dọa đồng bào các dân tộc
thiểu số A Lưới, địch hầu như không thu được kết quả gì. Vì thế, Mỹ và chính quyền
tay sai Ngô Đình Diệm chuyển sang biện pháp mới là dồn dân, lập khu dinh điền, tăng
cường bắt lính nhằm tạo nên những vành đai trắng cắt đứt sự liên lạc giữa quần chúng
và cách mạng, kiểm soát nhân dân miền núi Thừa Thiên. Chúng cho dồn dân vào 4
khu: A Lưới, A So, Nam Đông, Khe Tre, từ đó tạo nên những pháo đài chống cộng và
liên tục mở những cuộc càn quét.
Tháng 11/1957, Tỉnh ủy Thừa Thiên họp ở Ấp Rùng, xã Thượng Long, miền Tây
Thừa Thiên Huế quyết định xây dựng miền núi Thừa Thiên Huế thành căn cứ địa cách
mạng, phong trào đấu tranh vũ trang bắt đầu bằng những vũ khí thô sơ đã dần dần nảy
sinh trong quần chúng kết hợp với đấu tranh chính trị là chủ yếu.
Giữa lúc cao trào cách mạng ở miền núi Thừa Thiên đang có những chuyển biến
quan trọng thì ánh sáng nghị quyết 15 (1/1959) của Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa II về đường lối cách mạng miền Nam được truyền đến nhân dân tỉnh nhà. Một
trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất lúc này là xây dựng tuyến đường vận tải
559 - đường Hồ Chí Minh. Miền núi A Lưới với con đường Trường Sơn nối liền mạch
máu giao thông với cả nước từng bước trở thành căn cứ địa cách mạng làm chỗ dựa
vững chắc cho đồng bằng.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, Tỉnh ủy Thừa Thiên ra chỉ thị khẩn trương củng cố
miền núi thật vững chắc về mọi mặt, xây dựng bàn đạp giáp gianh, nối liền thế ba
vùng để phát huy thế mạnh của miền núi, tích cực xây dựng lực lượng vũ trang, luồn
sâu vào các thôn xóm, làng bản gây dựng căn cứ địa, kho tàng. Để thuận lợi trong việc
chỉ đạo phong trào đấu tranh cách mạng, toàn bộ miền núi Thừa Thiên Huế được chia
thành 4 quận, trong đó các xã (nay thuộc huyện A Lưới) nằm ở 3 quận: Quận I có 7 xã
gồm: Nhâm, A Roàng, A Đớt, Bắc Sơn, Nam Sơn, Tây Sơn, Đông Sơn; Quận III có 10
14
xã: Hồng Thượng, Hồng Hạ, Hồng Tiến, Hồng Thái, Hồng Nam, Hồng Bắc, Hồng
Quảng, Hồng Trung, Hồng Thủy, Hồng Kim; Quận IV có 5 xã: Hương Lâm, Hương
Nguyên, Hương Sơn, Hương Hữu và các xã miền Tây Phú Lộc [21, tr. 58].
Lúc này, nhận thấy phong trào đấu tranh ở miền núi đã có sự lớn mạnh nhất định,
Tỉnh ủy chủ trương phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh vũ trang cùng cả nước
hướng tới phong trào “Đồng khởi”. Theo đó, Đảng ủy miền Tây nhanh chóng chỉ đạo
các xã trên địa bàn tích cực tập luyện quân sự, xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ thôn,
đội, từng bước đưa phong trào đấu tranh vũ trang phát triển lớn mạnh.
Ngày 13/9/1960, Ban chỉ huy xã đội Hồng Bắc tổ chức một tiểu đội du kích do
đồng chí Hồ Đức Vai chỉ huy chặn đánh cánh quân địch từ đồn A Lưới hành quân qua
Hồng Bắc càn quét. Kết quả, tiểu đội du kích địa phương đã tiêu diệt 12 tên địch, làm
bị thương 10 tên khác và tịch thu một số vũ khí.
Điên cuồng trước sự đấu tranh quyết liệt của nhân dân miền núi, tháng 10/1960,
đế quốc Mỹ và tay sai tiến hành càn quét vào vị trí các thôn gần A So, bắt dân về trại
tập trung ở A Lưới. Tiếp đó, chúng lại tiếp tục tấn công vào các xã Thượng Minh,
Thượng Quảng, Thượng Nùng, giết và bắt bớ dân, điển hình nhất là địch đã tàn sát 18
người dân ở A Lưới và A Treo, chặt đầu và cắm cọc anh A Vầu ở Hồng Kim [2, tr.
55].
Kết hợp càn quét và khủng bố, Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm còn ra
sức phá hoại mùa màng nhằm triệt hạ nền kinh tế, buộc đồng bào phải di dân về các
khu tập trung mà chúng đã dựng sẵn.
Trước tình thế đó, Tỉnh ủy Thừa Thiên quyết định khởi nghĩa miền núi với mục
tiêu “nhằm vào quần chúng bị bức xúc nhất, có thể là lúc địch tập trung lực lượng để
gom bằng được dân về các khu tập trung, hoặc càn quét mùa sắp tới” [78, tr. 67].
Đêm 17/10/1960, Hội nghị khẩn cấp của Tỉnh ủy Thừa Thiên được triệu tập và
nhận định đã có tình thế cách mạng. Hội nghị quyết định thành lập ban khởi nghĩa
miền núi và khu vực, vũ trang tuyên truyền, trừng trị những tên ác ôn, bắt bọn tay sai
ra thú tội trước dân chúng.
Quán triệt chủ trương lãnh đạo của Tỉnh ủy, Đảng ủy miền Tây đã mở lớp tập
huấn cho hơn 30 cán bộ đảng viên tại làng Gòn, xã Thượng Long. Tại lớp tập huấn,
15
sau khi nghe phổ biến chủ trương, kế hoạch của Liên khu ủy V, các đồng chí đã cùng
nhau thảo luận thống nhất biện pháp hành động cụ thể của từng xã, nhất là ở 2 xã trọng
điểm Phong Lâm và Phong Bình nằm giữa căn cứ A Lưới, A So của địch.
Mở đầu phong trào “Đồng khởi”, đồng chí Nguyễn Vạn - Thường vụ Tỉnh ủy
phụ trách miền núi và cán bộ, chiến sĩ của Đoàn 559 ở Thừa Thiên cùng đồng chí
Nguyễn Hoàng Giang chỉ đạo tổ đặc công thành phố Huế phối hợp với du kích xã
Phong Lâm do đồng chí Quỳnh Ka Lom bí mật về Khe Tranh bắt và trừng trị tên
chánh tổng Quỳnh Chánh ở Q Xo, phó tổng Kon Ko Le ở A So đồng thời cảnh cáo
một số tên ác ôn khác [21, tr. 67-68].
Sau đó, đêm 20/10/1960, đồng bào các dân tộc miền núi khắp Thừa Thiên, trong
đó có nhân dân huyện A Lưới đồng loạt nổi dậy bằng các vũ khí gậy gộc, giáo mác,
cồng chiêng, trống, thanh la theo lệnh chỉ huy đốt đuốc xuống đường tấn công bọn
thống trị. Trong đợt chiến đấu này, ta bắt được nữ gián điệp Ka Mua tay chân của Ngô
Đình Cẩn và 4 thầy dòng thánh Mỹ, 1 thầy dòng Việt Nam [78, tr. 70].
Mặc dù bị thất bại nặng nề, địch vẫn cố bám lấy miền núi hòng khôi phục lại thế
trận, tiếp tục đánh phá, càn quét. Để thực hiện mục đích đó, Mỹ và tay sai tăng cường
bố phòng, củng cố các vị trí A So, A Co, A Lưới, Nam Đông, Khe Tre… tăng thêm
quân từ tiểu đội lên trung đội, từ trung đội lên đại đội, các kiểu pháo hạng nặng lần
lượt được trang bị. Song, tất cả những cố gắng của chúng đều không thể khuất phục ý
chí của đồng bào ta đứng lên làm chủ núi rừng.
Sau thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” năm 1960, Tỉnh ủy Thừa Thiên đã tiến
hành hội nghị, cùng nhau nhìn nhận và xác định phương hướng nhiệm vụ cách mạng
trong tình hình mới. Hội nghị nhận định: Phong trào miền núi tuy được củng cố,
nhưng chưa vững mạnh, phong trào đồng bằng thì còn quá yếu, cơ sở quá hẹp chưa
móc nối được bao nhiêu, nhất là nhiều vùng còn là vùng trắng, địch còn khống chế
chặt quần chúng, đấu tranh chính trị phần lớn là tự phát, lẻ tẻ. Nhiệm vụ lúc này chính
là phát triển hướng tiến công từ vùng núi về nông thôn đồng bằng, phá ấp chiến lược,
giành dân, giành quyền làm chủ đưa chiến tranh cách mạng của địa phương tiến kịp
với liên khu và toàn miền.
16
Thực tế cho thấy, phong trào “Đồng khởi” miền núi Thừa Thiên diễn ra cùng lúc
với phong trào “Đồng khởi” ở miền Nam, mặt trận dân tộc giải phóng Thừa Thiên Huế
lúc này cũng ra đời đánh dấu một bước ngoặc mới cho phong trào cách mạng toàn tỉnh
nói chung và phong trào đấu tranh cách mạng ở A Lưới nói riêng.
Về phía Mỹ, đầu năm 1961, chúng chủ trương điều chỉnh chiến lược chiến tranh
tiếp tục âm mưu xâm lược Việt Nam, miền núi A Lưới cùng cả nước đã chuẩn bị sẵn
sàng cho một cuộc đấu tranh quân sự vô cùng quyết liệt trong thời gian tới, đập tan ý
đồ biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa quân sự kiểu mới của chúng.
1.4. Công tác chuẩn bị của quân và dân huyện A Lưới cho hoạt động đấu tranh
quân sự
Xuyên suốt quá trình đấu tranh cách mạng tính đến trước năm 1961, mặc dù hình
thức đấu tranh ở miền Tây Thừa Thiên chủ yếu sử dụng hình thức đấu tranh chính trị,
song lực lượng vũ trang ở địa bàn vẫn không ngừng được xây dựng, củng cố để tiến
lên đấu tranh quân sự khi cần thiết. Với phương châm đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
Tỉnh ủy Thừa Thiên, Đảng ủy miền Tây, công tác chuẩn bị cho hoạt động đấu tranh
quân sự được khẩn trương tiến hành ở miền núi A Lưới.
Trong công tác chỉ đạo, Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế với phương châm nắm vững
vùng đồng bằng nhưng phải hết sức coi trọng miền núi. Chấp hành chủ trương xây
dựng miền núi thành căn cứ địa vững chắc, nhân dân A Lưới dưới sự chỉ đạo của Nhà
Hoài đã biết coi trọng các công tác giáo dục, chỉnh huấn cán bộ đảng viên và quần
chúng về đường lối cách mạng, phương hướng xây dựng miền núi, chính sách dân tộc,
đấu tranh khắc phục những quan điểm lệch lạc, phát động nhân dân xây dựng miền núi
thành phong trào quần chúng rộng rãi đồng thời xây dựng các tổ chức Đảng từ xã đến
các vùng miền, đào tạo cán bộ quân sự, chính trị cho từng xã thôn. Đến tháng 6/1963,
cơ sở Đảng đã có khắp các xã với hàng chục chi bộ, hàng trăm đảng viên.
Tháng 10/1959, Mặt trận đoàn kết dân tộc miền núi Thừa Thiên được thành lập,
đến tháng 1/1962, Mặt trận dân tộc giải phóng miền núi Thừa Thiên cũng ra đời đã
đoàn kết đông đảo quần chúng thực hiện nhiệm vụ chống đế quốc Mỹ.
17
Nhận thức được tầm quan trọng của hậu phương miền núi, dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ địa phương, nhân dân A Lưới đã hăng say tích cực tăng gia sản xuất, cán bộ
lãnh đạo đã chú ý giải quyết nạn thiếu muối, dao, rựa,vải, thuốc men cho quần chúng.
Nhân dân nhiều nơi đã tổ chức sản xuất hỗ trợ nhau làm ăn, đời sống nhân dân
ngày càng được cải thiện. Đồng bào đã tự nguyện đóng góp nhiều của cải, công sức để
mở và bảo vệ hành lang, nuôi cán bộ và phát triển lực lượng vũ trang. Hàng năm, nhân
dân A Lưới cùng nhân dân huyện Nam Đông đã góp gần 230 tấn gạo, nhiều nam nữ
thanh niên tích cực tham gia vận chuyển lương thực, vũ khí cho cách mạng theo tuyến
đường từ Thượng Long về Phú Lộc, đi dài hạn cả năm phục vụ cho Quân khu,vận
chuyển lương thực, hàng hóa vào Quảng Nam, Đà Nẵng cũng như gia nhập quân giải
phóng. Các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, phong trào văn nghệ, y tế... cũng được chú ý
phát triển.
Về công tác xây dựng và củng cố lực lượng vũ trang, tháng 2/1960, lực lượng vũ
trang và bán vũ trang ở miền núi A Lưới lần đầu tiên tổ chức huấn luyện quân sự bí
mật tại thôn Tà Vai, xã Đông Sơn trong thời gian 30 ngày. Thành phần tham gia huấn
luyện gồm các đồng chí xã đội, thôn đội và lực lượng được tuyển chọn để chuẩn bị cho
việc thành lập bộ đội địa phương. Tháng 5/1960, lực lượng vũ trang A Lưới tiếp tục
tiến hành đợt huấn luyện quân sự đợt 2 tại xã A Ngo với sự tham gia của 65 đồng chí
[21, tr. 62].
Sau một thời gian chuẩn bị chu đáo, ngày 3/9/1960, bộ đội địa phương miền Tây
chính thức được thành lập tại xóm Ly Leng, xã Thượng Hùng (nay là xã Hồng Vân)
gồm 13 đồng chí, được tổ chức biên chế thành 2 tiểu đội. Tiểu đội 1 có 6 đồng chí gồm
Quỳnh Tá (tiểu đội trưởng), Cu Đom (tiểu đội phó), Cu Toanh, Cu Leng, Cu Pưng và
đồng chí Hao. Tiểu đội 2 biên chế gồm 7 đồng chí gồm Cu Xia (tiểu đội trưởng), Cu
Rul, Cu Roát, Cu Lế, đồng chí Xưng (tiểu đội phó), đồng chí Thiêng và đồng chí
Đung. Mỗi tiểu đội được trang bị 2 khẩu tiểu liên Tuyn và 4 khẩu súng trường Mát của
Pháp [21, tr. 64].
Đến cuối năm 1960, bộ đội miền Tây từ 2 Tiểu đội đã phát triển thành 2 trung
đội bộ binh và một tiểu đội hỏa lực cối 60mm và tiểu đội trinh sát do đồng chí Cu Roát
làm tiểu đội trưởng, biên chế đủ quân số, trang bị khá mạnh, gồm:
18
Trung đội 1 (gọi là B40) là trung đội cơ động của huyện do đồng chí Phan làm
trung đội trưởng, đồng chí Cu Đung (Hồ Quyết Đung) làm chính trị viên trung đội.
Sau một thời gian, đồng chí Phan được cấp trên điều động về đồng bằng, đồng chí Cu
Đom (Hồ Quang Tập) được cử làm trung đội trưởng thay thế đồng chí Phan.
Trung đội 2 (gọi là B30) là đơn vị bảo vệ hành lang do đồng chí Thành (Quỳnh
Vả) làm trung đội trưởng, đồng chí Ty Lê làm chính trị viên trung đội.
Tiểu đội hỏa lực cối 60mm biên chế gồm 12 đồng chí, được trang bị 2 khẩu cối
60mm, do đồng chí Cu Thân làm tiểu đội trưởng, đồng chí Cu Lu làm tiểu đội phó [21,
tr. 70].
Cũng trong thời gian này, hệ thống chỉ huy dần dần được hình thành và chấn
chỉnh từ phân khu đến miền, từ miền xuống thôn. Nhiệm vụ của lực lượng vũ trang đã
được Tỉnh ủy xác định: Bảo vệ và mở rộng căn cứ địa miền Tây, kết hợp với lực lượng
chính trị phá ấp chiến lược đồng thời tăng cường phối hợp với chiến trường khu V.
Bên cạnh đó, công tác xây dựng lực lượng vũ trang bao gồm bộ đội địa phương,
lực lượng du kích được Đảng ủy miền Tây đặc biệt chú trọng và không ngừng được
xây dựng, phát triển từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, đồng thời trang bị thêm các loại
vũ khí hiện đại như súng trường, tiểu liên... bên cạnh vũ khí thô sơ, phối hợp chặt chẽ
với bộ đội địa phương luồn rừng đánh địch, diệt ác trừ gian, tạo thế phá ấp chiến lược,
khắc phục tư tưởng coi nhẹ chiến tranh du kích, ỷ lại lực lượng vũ trang bởi “Chiến
tranh du kích tấn công địch lúc ở nơi này, lúc ở nơi khác trong nước làm cho địch mệt
mỏi. Hình thức đấu tranh đó đã và đang đem lại những kết quả khả quan” [71, tr. 79].
Từ năm 1960 - 1961, tại hầu hết các quận thuộc huyện A Lưới đều thành lập đơn
vị bộ đội từ một trung đội đến một đại đội, tổ chức nhiều trận đánh địch bảo vệ xóm
làng, căn cứ cách mạng. Cụ thể:
Quận I xây dựng một trung đội bộ đội địa phương với 30 chiến sĩ, dân quân du
kích có 302 người trong 8 xã, 37 thôn.
Quận III có một trung đội bộ đội địa phương với 27 chiến sĩ, du kích có 400
người.
Quận IV, có một trung đội bộ đội địa phương và 300 quân du kích [1, tr. 78].
19
Trưởng thành qua từng cuộc đấu tranh, lực lượng vũ trang trên toàn huyện
phát triển nhanh chóng cả về số lượng lẫn chất lượng, sức chiến đấu chịu đựng gian
khổ ngày càng nâng cao trong lửa đạn. Những chiến thắng đầu tiên đã cổ vũ thêm cho
niềm tin của đồng bào vào chiến thắng của quân và dân ta, quyết tâm đánh bại kẻ thù
xứng đáng với danh hiệu “bộ đội cụ Hồ”.
Trên cở sở tương quan lực lượng giữa ta và địch cùng với những thuận lợi và khó
khăn trước mắt, Tỉnh ủy Thừa Thiên đưa ra chủ trương tranh thủ thời cơ tiến lên tấn
công địch, không cho chúng ổn định tình hình, tiến công mọi mặt bằng hình thức sáng
tạo của quần chúng trên cả 3 vùng, đặc biệt ở vùng rừng núi. Phát huy sức mạnh của
quần chúng có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, lợi dụng sự suy yếu và bế tắt về chính
trị của địch mà tiến công mạnh mẽ làm tan rã và tê liệt chúng cả về chính trị, tư tưởng,
tổ chức, phá ấp chiến lược,chuẩn bị từng bước phá vỡ thế kìm kẹp của địch.
Sau những chuyển biến của phong trào “Đồng khởi” miền núi, đầu năm 1961, đế
quốc Mỹ tiếp tục thực hiện thí điểm những chiến lược chiến tranh mới ở Việt Nam từ
“chiến tranh đặc biệt” đến “chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Năm 1961 trở thành mốc đánh dấu cho một cuộc đấu tranh quân sự thực sự ở A
Lưới. Quán triệt chủ trương của Đảng, miền núi phía Tây Thừa Thiên chuyển dần từ
đấu tranh chính trị sang đấu tranh quân sự là chủ yếu, phát động quần chúng nổi dậy
đấu tranh vũ trang dưới nhiều hình thức, trong đó chú trọng chiến tranh du kích để bảo
vệ cán bộ, đảng viên và cơ sở cách mạng. Trên cơ sở đó, phát triển đường hành lang
chiến lược từ miền núi xuống vùng giáp ranh đồng bằng nhằm giải phóng miền núi và
xây dựng căn cứ địa cách mạng cho toàn tỉnh và cả miền Nam.
Như vậy, vào cuối năm 1960, đầu năm 1961, quân dân huyện A Lưới đã có
những bước chuẩn bị cơ bản đầu tiên và cần thiết nhất cho hoạt động đấu tranh quân
sự trong thời gian tới, quá trình đó tiếp tục được thực hiện song hành với quá trình đấu
tranh cách mạng chống lại âm mưu của đế quốc Mỹ tại miền núi phía Tây Thừa Thiên.
20
Chương 2
ĐẤU TRANH QUÂN SỰ TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ Ở HUYỆN A LƯỚI (THỪA THIÊN HUẾ) TỪ 1961
ĐẾN 1973
2.1. Quá trình đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới
(Thừa Thiên Huế) giai đoạn 1961 - 1968
2.1.1. Mỹ tiến hành “chiến tranh đặc biệt” và “chiến tranh cục bộ” ở huyện A Lưới
2.1.1.1. Âm mưu của Mỹ ở miền Nam
Mong muốn biến miền Nam Việt Nam thành con đê ngăn chặn chủ nghĩa cộng
sản ở phía Đông Nam châu Á, trong vòng 6 năm (1954 - 1960) đế quốc Mỹ đã dựng
nên ở đây chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm và viện trợ cho chính quyền ấy khoảng
2 tỉ đôla nhằm đàn áp các cuộc đấu tranh hòa bình yêu nước của nhân dân ta ở miền
Nam. Với chiêu bài “tự do” “độc lập”, Mỹ tưởng rằng đã che đậy được bộ mặt xâm
lược của mình và chúng sẽ dễ dàng bình định miền Nam.
Tuy nhiên, đầu năm 1960, nhân dân ta đồng loạt nổi dậy, đánh sập bộ máy cai trị
của đối phương tại nhiều vùng nông thôn thuộc các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long,
miền Đông Nam Bộ và một số vùng của các tỉnh khu V, Tây Nguyên. Phong trào
“Đồng khởi” làm tiêu tan hi vọng của để quốc Mỹ, làm rõ bộ mặt tay sai bán nước của
chính quyền Ngô Đình Diệm, tạo ra bước ngoặc làm thay đổi cục diện chiến tranh có
lợi cho cách mạng miền Nam.
Sau khi xem xét và đánh giá lại toàn bộ tình hình trong nước và thế giới,
Kennơdi quyết định loại bỏ chiến lược “trả đũa ồ ạt” vì không thể ngăn chặn những
cuộc chiến tranh nổi dậy, tiêu biểu là ở Việt Nam. Chúng chuyển sang chiến lược toàn
cầu do Macxoen Taylor đề xướng - chính sách quân sự toàn cầu phản ứng linh hoạt
này vừa duy trì lực lượng hạt nhân chiến lược, vừa duy trì lực lượng thông thường để
tiến hành các cuộc chiến tranh hạn chế.
Căn cứ vào việc sử dụng lực lượng, các nhà chiến lược quân sự Mỹ phân chiến
tranh hạn chế thành hai hình thức:
21
Một là, hình thức “chiến tranh đặc biệt” trong đó dùng quân bản xứ làm lực
lượng chủ yếu, Mỹ chỉ giữ vai trò cố vấn chỉ huy.
Hai là, hình thức “chiến tranh cục bộ”, trong đó quân Mỹ làm lực lượng chiến
lược trực tiếp tiến hành chiến tranh ngoài lãnh thổ Mỹ. “Hai hình thức chiến tranh này
được Mỹ xem là “lưỡi kiếm” tiến công sắc bén vào mối nguy hiểm nhất đối với thế
giới tự do đó là chủ nghĩa cộng sản, miền Nam Việt Nam trở thành một đối tượng
không nằm ngoài ý đồ của chúng” [12, tr. 12].
Theo đó, đầu năm 1961, Mỹ tiến hành chiến lược “chiến tranh đặc biệt” với nội
dung dùng người bản xứ đánh người bản xứ với sự chỉ huy của cố vấn quân sự Mỹ.
Chúng lập kế hoạch xây dựng ấp chiến lược, xem nó là quốc sách, tăng cường
xây dựng quân đội tay sai, phát triển các lực lượng quân sự địa phương và lực lượng
bán vũ trang. Với kế hoạch Staley - Taylor, Mỹ đề ra kế hoạch bình định miền Nam
trong vòng 18 tháng bằng biện pháp quân sự là chủ yếu, kết hợp với biện pháp chính
trị và kinh tế.
Tuy nhiên, kế hoạch của Mỹ với chiến lược mới vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ
của nhân dân ta, đặc biệt, cuộc thay ngựa giữa dòng năm 1963 đánh dấu một bước thất
bại của chính sách thực dân mới của Mỹ ở miền Nam, chính quyền tay sai bắt đầu tan
rã, quốc sách ấp chiến lược về căn bản được đập tan. Cách mạng miền Nam đã triển
khai 2 lực lượng chính trị và quân sự rộng lớn với thế tiến công như vũ bão, so sánh
lực lượng và tình thế cách mạng chuyển sang thế chủ động cho ta. Đến đầu năm 1965
ta nắm thế chủ động cả về chính trị lẫn quân sự, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của
đế quốc Mỹ bị đập tan.
Không dừng lại ở đó, Mỹ tiếp tục thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ” kèm
theo kế hoạch leo thanh phá hoại miền Bắc nhằm cứu vãn miền Nam trên cơ sở “chiến
tranh đặc biệt”, đây cũng là một trong 2 chiến lược thuộc chính sách hạn chế của Mỹ
vốn đã được đề ra trước đó.
Đây là chiến lược thể hiện sự tự tin và quyết tâm lớn của đế quốc Mỹ muốn sử
dụng biện pháp quân sự để chống lại Việt Nam đến cùng và khẳng định rằng: “Chúng
ta sẽ không bị thất bại… chúng ta sẽ không rút lui hoặc công khai dưới cái bóng của
22