Trang 1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong rất nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau, văn chương là một món ăn
tinh thần không thể thiếu đối với mỗi con người. Thơ ca là mới mẻ, sáng tạo trên cái
nền của hiện thực cuộc sống. Đó là mảnh đất màu mỡ để các nhà thơ gieo mầm tư
tưởng, để tác phẩm của họ mãi mãi là của nhân loại. Thơ ca luôn được xem là phương
tiện, là mục đích, là đối tượng thể hiện, biểu đạt những tâm tư, tình cảm, những khát
vọng, mơ ước…của con người, thanh lọc tâm hồn con người, hướng con người đến
Chân - Thiện - Mĩ chân chính, cao đẹp vì vậy thơ ca là một nhu cầu trong đời sống
tinh thần của con người. Trong xã hội hiện đại, chúng ta đua chen xô bồ với cuộc sống
mưu sinh, lắm lúc rơi vào tình trạng xơ cứng tâm hồn, dễ bị tổn thương do ngoại cảnh
hay tâm cảnh tác động. Chính lúc đó, văn chương nghệ thuật nói chung và thơ ca nói
riêng là liều thuốc nhẹ nhàng êm ái xoa dịu những khoảng trống trong tâm hồn.
Nhà văn R. Gamzatop khi bàn về vai trò của thơ ca với cuộc sống cũng từng nói
rằng: “Nếu như các nhà thơ không tham gia vào việc tạo dựng thế giới thì thế giới
không trở nên tươi đẹp như thế này…Thiếu thơ ca không gì có thể trở thành chính
nó”. Hay nói như Hoàng Đức Lương: “Thơ là sắc đẹp ở ngoài sắc, vị ngọt ở ngoài vị,
không thể trông bằng mắt thường, nếm bằng miệng thường, chỉ có thi nhân thì trông
mới thấy đẹp, nếm mới thấy ngon”. Và thơ là như vậy, các nhà thơ tạo dựng nên thế
giới này bởi những khám phá mới của họ. Cùng với sự vận động của xã hội cũng như
sự vận động của đời sống văn học, nhu cầu thị hiếu thẩm mĩ của độc giả về thơ ca có
sự thay đổi khác nhau qua thời gian. Nhịp sống của con người hiện đại hối hả, đòi hỏi
nhu cầu tiếp nhận văn chương phải chất lượng, xúc tích và cô đọng. Hơn hết, thơ tứ
tuyệt đáp ứng đầy đủ những yếu tố mà độc giả cần.
Thơ tứ tuyệt – một thể thơ độc đáo trong thi đàn văn học Việt Nam có thời gian
tồn tại khá dài. Trải qua hai thời kỳ lớn, trung đại và hiện đại nhưng nó vẫn thu hút,
hấp dẫn người đọc và giới nghiên cứu phê bình. Thể thơ tứ tuyệt không chỉ chứng tỏ
sự trường tồn của mình mà nó còn có khả năng bức phá để đổi mới và phát triển trong
thời hiện đại vì vậy nó luôn là đề tài bí ẩn cho chúng ta khám phá khơi tìm.
Trang 2
1.2. Trần Mạnh Hảo là nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình hiện đại nhưng được nhiều
người biết đến là một nhà thơ tài hoa mang đầy dấu ấn của quá khứ, mang đầy nồng
nhiệt thời trai trẻ, những câu thơ vẫn vương màu hoài niệm. Thơ của Trần Mạnh Hảo
không cầu kỳ hay lạ hóa về ngôn từ mà lời thơ giản dị, dễ hiểu, gần gũi, như lồ lộ trên
bề mặt, nhưng những câu chữ tưởng chừng như đơn giản ấy mà lại có độ thấm rất sâu
vào lòng người đọc, mang tư tưởng triết lý về cuộc đời. Trần Mạnh Hảo sáng tác nhiều
thể loại thơ, nhưng thơ tứ tuyệt đã thể hiện tinh thần và phong cách sáng tác độc đáo
của ông. Ông quan niệm “Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của cuộc sống”, “thơ chính
là tuổi thơ của loài người”, “nhà thơ là ông già nghìn tuổi ở trong đứa trẻ mới ra
đời”. Tứ tuyệt Trần Mạnh Hảo là thứ thơ cắm rễ vào cuộc sống quanh mình, hít thở
khí hậu quanh mình thật sự, không bay vào thế giới hư ảo xa xôi. Ông khẳng định rằng
“Tứ tuyệt là thể thơ khó bậc nhất trong thi ca. Nó dồn nén ý tứ, dồn nén tư tưởng, tình
cảm với ngôn từ hình ảnh độc đáo, biểu tượng đa ngữ nghĩa. Nó giống vầng trăng
đọng trong mắt kiến, mặt trời trong giọt sương vậy”. Thế nhưng ông đã thể hiện thể
thơ tứ tuyệt một cách thành công, trên cái nền của hiện đại thơ ca, ông đã mang đến
cho văn học Việt Nam một dáng hình mới về ngôn ngữ tứ tuyệt không khô ráp cầu kỳ
mà giản dị, mộc mạc nhưng chứa đựng nhiều suy nghĩ trăn trở về cuộc sống, thiên
nhiên và con người. Đây cũng là lý do khiến chúng tôi chọn thơ tứ tuyệt của ông để
khảo sát, tìm hiểu.
1.3. Trần Mạnh Hảo có nhiều đóng góp cho lĩnh vực thơ ca, đặc biệt là thể loại
thơ tứ tuyệt và hiện nay ông vẫn tiếp tục duy trì sáng tác thể thơ đặc biệt này. Tuy
nhiên chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu độc lập, toàn diện thơ tứ tuyệt của
Trần Mạnh Hảo. Thực tế đó đã thôi thúc chúng tôi nghiên cứu về thơ tứ tuyệt Trần
Mạnh Hảo, bước đầu tìm hiểu về mạch thơ, hình thức thơ, ngôn ngữ, hình ảnh thơ,
triết luận trong thơ tứ tuyệt Trần Mạnh Hảo. Qua đấy ta thấy bức chân dung tinh thần
về nhà thơ Trần Mạnh Hảo, người đọc có cái nhìn sâu sắc và yêu mến thêm nhà thơ
hiện đại mà chân quê này. Đó cũng là điều mà tác giả bài viết muốn gửi gắm lòng yêu
mến và cảm phục trước tài năng và bản lĩnh của nhà thơ Trần Mạnh Hảo trước thời
cuộc.
Trang 3
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Qua tài liệu mà chúng tôi hiện có, dựa trên tổng thể các thư mục sách báo, tạp
chí nghiên cứu về thơ tứ tuyệt và tác giả Trần Mạnh Hảo ở Việt Nam, có thể khẳng
định rằng cho đến nay chưa có một công trình nào, nghiên cứu nào mang tên Đặc
trưng thơ tứ tuyệt Trần Mạnh Hảo. Mà nhiều bài viết chỉ dừng lại ở những loại bài
phân tích về từng bài thơ đặc trưng hay nghiên cứu giai đoạn thơ của văn học Việt
Nam trong đó có thơ của Trần Mạnh Hảo như luận văn Một số đặc điểm thơ tứ tuyệt
hiện đại của Võ Văn Luyến (2010) có bàn qua nhà thơ Trần Mạnh Hảo.
Trên thi đàn thơ ca, vườn thơ đậm đà hương sắc tứ tuyệt cho ra những hoa
thơm trái ngọt. Từ thành tựu rực rỡ của tứ tuyệt Đường thi đến tứ tuyệt trung đại mà
tuyệt đỉnh là tứ tuyệt đời Lý, Trần cho đến hiện đại thì tứ tuyệt có một chỗ đứng vững
vàng mà không có thành quách thơ ca nào đánh gục được. Công trình nghiên cứu đầu
tiên về thơ tứ tuyệt ở Việt Nam là Dương Quảng Hàm trong cuốn Việt Nam văn học sử
yếu. Nhưng công trình nghiên cứu này chỉ dừng lại ở định nghĩa và phân loại thơ tứ
tuyệt ở mức độ sơ khai.
Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức trong cuốn Thơ ca Việt Nam - hình thức và thể
loại tìm cách giải thích về nguồn gốc tên gọi thể loại. Cùng với cách làm này còn có
Lạc Nam trong Tìm hiểu các thể thơ cũng đi tìm hiểu khái niệm và sự vận động của
luật thơ tứ tuyệt.
Nguyễn Sĩ Đại trong công trình nghiên cứu Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ
tứ tuyệt đời Đường(1996), đã có đóng góp đáng kể khi đi tìm hiểu về thơ tứ tuyệt
Đường luật trên phương diện thể loại đã đưa ra định nghĩa cụ thể về thơ tứ tuyệt, lịch
sử ra đời và đặc trưng thơ tứ tuyệt đời Đường.
Nguyễn Thị Bích Hải, Thi pháp Thơ Đường - Một số phương diện chủ yếu hay
Một số đặc điểm của thơ Đường luật Việt Nam cũng đi tìm hiểu các khái niệm và thi
pháp của thơ Đường đồng thời tác giả chú ý đến không gian nghệ thuật của thơ
Đường.
Luận án tiến sĩ của Phạm Hải Anh, Tứ tuyệt Lý Bạch- Phong cách và thể loại đi
sâu vào những đặc trưng của phong cách thơ tứ tuyệt Lý Bạch, đồng thời có cái nhìn
Trang 4
toàn diện về thơ tứ tuyệt Lý Bạch nói riêng và đặc sắc trong từng thể loại tứ tuyệt nói
chung.
Luận văn thạc sĩ của Lê Hồng Phong, Đặc trưng nghệ thuật thơ tứ tuyệt Quách
Tấn (2010) đi sâu khám phá đặc trưng hình thức và nội dung thơ tứ tuyệt của Quách
Tấn. Đồng thời cũng đi tìm hiểu và khái quát thể loại thơ tứ tuyệt. Từ đó ta có cái nhìn
tổng quan về thơ tứ tuyệt Quách Tấn trên địa hạt thơ tứ tuyệt của dân tộc.
Luận văn tiến sĩ của Hồ Thái Hà, Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên cũng
dành 8 trang viết nghiên cứu về một số đặc điểm thơ tứ tuyệt Chế Lan Viên. Tiến sĩ đã
khảo cứu 381 bài thơ tứ tuyệt của Chế Lan Viên và đã đưa ra một kết luận rằng
“không một bài thơ nào ông thể hiện theo đúng tinh thần tứ tuyệt của Đường thi” và
thực tế đến Chế Lan Viên thì sự cách tân, mã hóa thơ tứ tuyệt theo tinh thần hiện đại.
Đi sâu nghiên cứu về đặc trưng thơ tứ tuyệt Chế Lan Viên còn có luận văn thạc sĩ
Trần Thị Hằng, Thơ tứ tuyệt Chế Lan Viên đã đóng góp lớn trong việc nghiên cứu
chuyên biệt về đặc trưng thơ tứ tuyệt Chế Lan Viên trên phương diện đề tài, tứ thơ,
hình ảnh, kết cấu và ngôn ngữ thơ tứ tuyệt Chế Lan Viên. Nghiên cứu giúp người đọc
nhận diện đặc trưng thơ tứ tuyệt Chế Lan Viên và những đóng góp cách tân trong thơ
tứ tuyệt hiện đại so với thơ tứ tuyệt truyền thống. Bên cạnh đó tác giả Thế giới nghệ
thuật thơ Chế Lan Viên, Lê Lưu Oanh và Đinh Thị Nguyệt từ việc nghiên cứu thơ tứ
tuyệt của một nhà thơ giúp ta phóng chiếu ra thơ tứ tuyệt Việt Nam hiện đại để nhận
diện một số đặc điểm. Đó là dấu hiệu của “hiện đại hóa nội dung bằng các câu thơ
định nghĩa và sự sáng tạo từ ngữ”, câu thơ “được giải phóng khỏi sự gò bó của niêm
luật, được tạo dáng thành câu thơ điệu nói…”
Trần Mạnh Hảo trong Đôi điều về thơ tứ tuyệt thông qua các ngả đường sáng tác
đã xác định: “Thơ tứ tuyệt hiện đại không chỉ viết với ngũ ngôn, thất ngôn, lục ngôn
như cổ điển, mà nhiều câu thơ dài ngắn không chừng mực”. Giáo sư Hà Minh Đức
cũng xem tứ tuyệt mới đã “mở rộng thêm số chữ trong câu một cách linh hoạt” và ông
còn nói thêm: “ Không phải bài thơ nào cũng là tứ tuyệt… Phải có sự suy nghĩ sắc
sảo, một tâm hồn thơ đằm thắm, một năng lực sáng tạo thơ vững vàng mới có khả
năng đem vào đơn vị ngôn ngữ thơ nhỏ bé này một cái gì thực sự mới mẻ, tinh chất”
(Tổng tập Văn học và tuổi trẻ - 1990).
Trang 5
Theo Võ Văn Luyến trong bài nghiên cứu Triết luận cuộc sống trong thơ tứ tuyệt
Trần Mạnh Hảo có nhận xét: “Thuộc lớp nhà thơ trưởng thành trong chống Mỹ, Trần
Mạnh Hảo cũng từ “bạch diện thư sinh” “gác bút nghiên theo việc đao cung”, trang
sách là cuộc đời tắm mình trong máu lửa chiến tranh, câu thơ cũng sinh ra từ đó và
nhà thơ có khi như “con cò tập viết” tự vẽ mình lên trời xanh. Dễ hiểu vì sao đất nước
đã yên tiếng súng, nhà thơ lại lắng nghe những thanh âm xao xuyến, ấm áp quanh
mình, dù đó không thiếu nắng mưa cuộc đời dội xuống. Triết - học - đời - sống của
Trần Mạnh Hảo giản dị mà chất chứa trải nghiệm không phải ai khác, không từ đâu
vận vào mà từ chính mình bước ra”.
Nhà phê bình văn học Nguyễn Đông A trong một bài viết đã nhận xét: “Thơ
Trần Mạnh Hảo có số lượng khá lớn, anh in đến 15 tập thơ, đó là chưa kể rất nhiều
bài thơ viết sau này chưa được in, anh viết cả văn xuôi, sách lý luận. Trong đó có tiểu
thuyết từng làm khổ đời anh, anh cũng gây nhiều ân oán trong văn chương, nhiều học
giả luận bàn đủ điều. Nhưng có một điều không ai có thể phủ nhận, là anh đã viết ra
nhiều bài thơ rất hay, hiếm người sánh bằng”.… Tuy nhìn một cách tổng thể, có thể
nói cho đến nay thơ của Trần Mạnh Hảo nói chung và thơ tứ tuyệt của Trần Mạnh Hảo
nói riêng chưa được quan tâm đúng mức. Ngoài những bài viết trên tạp chí khoa học
chuyên khoa, một số bài thơ bình và giới thiệu ngắn gọn về thơ Trần Mạnh Hảo đến
nay chưa có một công trình nào nghiên cứu khoa học đi sâu nghiên cứu tìm hiểu đặc
trưng thơ tứ tuyệt Trần Mạnh Hảo. Từ những lí do đó chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài
này làm mục đích nghiên cứu.
3. Đối tượng nghiên cứu và giới hạn của đề tài
3.1.Đối tượng nghiên cứu
Thơ tứ tuyệt của Trần Mạnh Hảo.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
- Đề tài tập trung khảo sát thể loại thơ tứ tuyệt Trần Mạnh Hảo, xác định đặc
trưng nghệ thuật thể loại tứ tuyệt của ông ở cả hai phương diện nội dung và hình thức.
- Đánh giá vị trí và ý nghĩa của thơ tứ tuyệt trong sự nghiệp sáng tác thơ ca của
Trần Mạnh Hảo nói riêng và trong thơ ca hiện đại nói chung.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Trang 6
- Giới thiệu về thể loại thơ tứ tuyệt và vấn đề đặc trưng thơ tứ tuyệt Trần Mạnh
Hảo.
- Khảo sát đặc trưng nghệ thuật thơ tứ tuyệt Trần Mạnh Hảo trên phương diện
nội dung.
- Khảo sát đặc trưng nghệ thuật thơ tứ tuyệt Trần Mạnh Hảo trên phương diện
nghệ thuật.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn chúng tôi sử dụng kết hợp nhiều phương
pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó có chú trọng đến các phương pháp nghiên cứu
sau:
- Phương pháp khảo sát và thống kê, phân loại
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp so sánh - đối chiếu
5. Đóng góp của luận văn
- Có thể nói đây là lần đầu tiên đặc trưng thơ tứ tuyệt của Trần Mạnh Hảo
được tập trung khảo sát, phân tích một cách toàn diện, có hệ thống.
- Kết quả của luận văn có thể góp phần nâng cao hiệu quả của việc tiếp cận
thơ tứ tuyệt hiện đại trong hoạt động dạy và học trong nhà trường. Đồng thời khẳng
định những đóng góp quan trọng của Trần Mạnh Hảo vào quá trình tìm tòi, cách tân và
phát triển thơ tứ tuyệt Việt Nam hiện đại. Và đưa thơ tứ tuyệt của Trần Mạnh Hảo đến
gần với độc giả hơn.
5. Cấu trúc của luận văn
Luận văn chúng tôi, ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu, phần
nội dung chính được triển khai gồm ba chương:
Chương 1. Thể loại thơ tứ tuyệt và những vấn đề chung về thơ tứ tuyệt Trần
Mạnh Hảo
Chương 2. Đặc trưng nghệ thuật thơ tứ tuyệt Trần Mạnh Hảo – từ phương diện
nội dung
Chương 3. Đặc trưng nghệ thuật thơ tứ tuyệt Trần Mạnh Hảo – từ phương diện
hình thức.
Trang 7
Chương 1
THỂ LOẠI THƠ TỨ TUYỆT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ
THƠ TỨ TUYỆT TRẦN MẠNH HẢO
1.1. Thể loại thơ tứ tuyệt
1.1.1. Khái niệm, nguồn gốc thể loại
Thơ tứ tuyệt là thể thơ ra đời sớm và được các thi nhân từ thời xưa đến nay sử
dụng khá rộng rãi và phổ biến. Dù đã có rất nhiều cách lí giải về thể thơ này song cho
đến nay thơ tứ tuyệt vẫn tiếp tục còn được nghiên cứu và minh định.
Tứ tuyệt có số phận khá đặc biệt, có nguồn gốc từ trước thời Đường và hoàn
thành về thi luật trong thời Đường. Là một trong những thành tựu nghệ thuật đặc biệt
trong thơ Đường, tứ tuyệt được các nhà thơ cổ ưa chuộng cả ở Trung Quốc và Việt
Nam. Ở Việt Nam, sự có mặt của thơ tứ tuyệt được ghi nhận khá sớm qua bài thơ
“Vịnh ngỗng” của nhà sư Pháp Thuận, mang tính đối đáp giữa nhà sư Thuận trong vai
người “cai quản bến đò” với Lý Giác, sứ thần nhà Tống (năm 986). Cùng với bài thơ
“Vịnh ngỗng” thì Bài thơ “Quốc tộ” của nhà sư Pháp Thuận cũng đánh dấu "là tác
phẩm mở đầu cho dòng văn học Viết Việt Nam". Nhiều bài tứ tuyệt thời Lý - Trần như
“Nam quốc sơn hà”, “Tùng giá hoàn kinh sư”, “Thuật hoài”... đã trở thành tiếng nói
ngắn gọn nhưng hết sức tiêu biểu, có ý nghĩa lịch sử quan trọng đối với người Việt
Nam buổi đầu dựng nước, giữ nước. Đa số thơ của những nhà sư thời Lý - Trần được
viết bằng dạng thức “tứ cú”. Các ông vua - thi sĩ nổi tiếng thời Trần, thời Lê, các nhà
thơ Huyền Quang, Nguyễn Trung Ngạn, Phạm Sư Mạnh, Lê Quát, Trương Hán Siêu,
Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều,
Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Trần Tế Xương...đều có những bài tứ tuyệt hay, được
người đời sau học hỏi. Thơ tứ tuyệt lại tiếp tục đồng hành với tiến trình văn học Việt
Nam hiện đại bằng khả năng tự điều chỉnh, đổi mới, để hôm nay, nó vẫn là một bộ
phận không thể thiếu được trong sự phát triển các hình thức, thể loại thơ ca đương đại.
Thơ tứ tuyệt truyền thống còn gọi là tuyệt cú gồm những bài thơ bốn câu, mỗi
câu 5 chữ hoặc 7 chữ, loại câu 5 chữ gọi là ngũ ngôn tuyệt cú, loại câu 7 chữ gọi là
thất ngôn tuyệt cú. Về vần, thơ tứ tuyệt thường gieo vần bằng hoặc vần trắc.
Trang 8
Theo Giáo sư Dương Quảng Hàm trong Văn học Việt Nam khẳng địn “Tứ
nghĩa là bốn, tuyệt nghĩa là ngắt, đứt. Lối này gọi là thể vì thơ tứ tuyệt là ngắt lấy bốn
câu, trong bài cát cú mà thành”. Theo cách hiểu này còn có cả Trần Trọng Kim và
Trần Đình Sử, nhưng Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức còn giải thích thêm “Tuyệt là
cắt, là dứt nhưng là dứt câu, dừng bút để trọn một ý bài thơ, sau khi viết câu thơ thứ
bốn. Bởi vì một câu chưa thành thơ, hai câu mới thành một vế đối liên, ít nhất bốn câu
mới có vần, khi đó mới thành bài thơ”. Cách hiểu của các vị trên đây về thơ tứ tuyệt
coi như là cơ bản được nhiều người chấp nhận nhất.
Bên cạnh đó thì một số người lại giải thích bằng một cách hiểu khác. Xem xét
về hình thức thì có vẻ như thơ tứ tuyệt được cắt ra từ bài cú, nhưng tìm hiểu về nội
dung ta nhận thấy bản thân mỗi bài thơ tứ tuyệt đã là một tác phẩm hoàn chỉnh rồi.
Theo Nguyễn Sĩ Đại thì “Tứ tuyệt trước hết là bài thơ 4 chữ, không nhất thiết là ngũ
ngôn hay thất ngôn, không nhất thiết phải có niêm luật chặt chẽ nhưng phải vận tối đa
các thủ pháp nghệ thuật, phát huy thế mạnh của âm vận, đặc biệt là cách tổ chức hợp
lý hình ảnh để tạo ra cấu trúc đa chiều vừa mang tính khái quát cao…” . Còn theo Bùi
Kỷ thì “Tuyệt là tuyệt diệu, mỗi câu chiếm một vị trí đặc biệt. Chỉ trong bốn câu mà
thiến thâm, ẩn hiện, chinh kỳ, khởi phục, đủ cả cho nên gọi tuyệt”. Còn Phan Văn
Nhiễm thì lại hiểu tuyệt là tuyệt vời “thơ bốn câu gọi là tứ tuyệt, người Trung Quốc
gọi là tuyệt cú, tức là bài thơ hay tuyệt vời, vì chỉ có bốn câu 20 từ hoặc 28 từ mà nói
lên được đầy đủ ý tứ của một đề tài theo đúng luật lệ của thơ Đường”.
Ta thấy các nhà nghiên cứu ai cũng có lý cho cách phân tích biện giải của mình.
Điều đó càng chứng tỏ sự phong phú, phức tạp và rất kỳ diệu của thơ tứ tuyệt. Có thể
nói rằng một bài thơ hay cần phải súc tích, không cần phải dài dòng kể lể mà phải có
sự cân đối, lời ít ý nhiều, với đặc tính này thì thơ tứ tuyệt rất đảm bảo. Thơ càng ngắn
thì sức khái quát phải càng cao mới tạo ra được một tiểu vũ trụ của nó. Một bài thơ tứ
tuyệt hay phải lựa chọn được những khoảnh khắc dồn nén của đời sống tinh thần,
những hiện thực của tâm trạng, những phút thăng hoa của tâm linh…Phải dồn nén biểu
cảm để tính khái quát của triết lý đạt tới cao độ. Thơ tứ tuyệt nên gợi không nên tả và
điều đó cần được nghe nhìn qua những cánh cửa như: quá khứ – hiện tại, tình – cảnh,
sống – chết, thực – mộng, động - tĩnh…và thông qua đó người đọc sẽ cảm nhận được
nét bản chất một quy luật hay một chân lý cuộc sống. Cụ thể hơn một bài thơ tứ tuyệt
hay cần phải đảm bảo ba vấn đề chính đó là thi đề, thi tứ và thi ý. Thi đề là đề tài của
Trang 9
bài thơ, với thơ tứ tuyệt thì thi đề cần phải trang trọng, vĩnh hằng, con người trong đó
thường nhỏ bé, hữu hạn trước cái vũ trụ không cùng. Thi tứ là vấn đề biểu hiện xuyên
suốt bài thơ được tạo bởi thứ ngôn ngữ khái niệm, khái quát chấm phá và điều này là
vấn đề tất yếu để lượng thông tin nghệ thuật trong từng câu chữ đạt đến sự vi diệu của
nó. Tứ thơ tứ tuyệt thường thông qua các phạm trù lấy tối tả sáng, lấy động tả tĩnh, lấy
không gian tả thời gian và song đó là nhân vật trữ tình hữu hạn chìm sâu trong vô hạn
để từ đó trào dậy giá trị nhân bản của nhân sinh. Thi ý là ý của thơ, đối với tứ tuyệt
thường có hai tầng, tầng nổi và tầng chìm được sắp xếp một cách hài hòa theo thứ tự:
khai - thừa - chuyển - hợp. Với dung lượng ngôn từ ít ỏi, tứ tuyệt rất phù hợp với nhu
cầu ghi nhận những phát hiện mới mẻ, những rung động bất chợt nhưng mãnh liệt của
nhà thơ.
Rất ngắn gọn, tứ tuyệt buộc phải hạn chế miêu tả cụ thể, hạn chế cả việc dồn
chứa các chi tiết, hình ảnh có khả năng khắc họa sự sinh động, phong phú của đời
sống. Để khắc phục điều này, người làm thơ tứ tuyệt cần phải chọn lọc, phát hiện một
góc độ nhìn, một thời điểm nhìn, ở đó, toàn bộ thế giới và đời sống con người được lóe
sáng, nổi bật trong dạng thức cô đọng nhất, bản chất nhất. Từ một phạm vi đời sống
hẹp, tứ tuyệt luôn có khả năng vươn đến một tầm nhìn khái quát, toàn vẹn hay đặt ra
những vấn đề thuộc về bản chất, quy luật muôn đời. Muốn vậy, tứ tuyệt cần đến sự
tinh lọc tối đa hình ảnh, cần đến sự tổ chức, liên kết chặt chẽ giữa các bộ phận để có
được cách kiến tạo tứ thơ tối ưu cũng như cần đến tài năng của tác giả trong việc luyện
câu đặt chữ sao cho mỗi từ, mỗi câu thơ đều có sức vang, sức gợi, sức ám ảnh lâu bền
trong tâm hồn người đọc.
Qua tứ tuyệt, nhà thơ có thể diễn đạt một ý tưởng, một chiêm nghiệm sâu xa về
cuộc đời bằng dạng thức ngôn từ đặc biệt ngắn gọn. Thơ càng ngắn, càng dễ ghi nhớ,
truyền tụng. Tầm tư tưởng càng bao quát thì khả năng ứng dụng trong nhiều thời điểm,
hoàn cảnh thực tế càng lớn. Không nói hết ý, để chừa những khoảng trống bỏ lửng là
cách buộc những thế hệ người đọc phải tiếp tục chặng hành trình đồng sáng tạo vô tận,
tiếp tục suy ngẫm và chứng thực những ý tưởng giàu chất triết lý mà nhà thơ “nói chưa
hết” trong bài thơ tứ tuyệt. Đó là một trong những nguyên nhân giải thích vì sao nhiều
bài tứ tuyệt trong văn học cổ điển Trung Quốc và Việt Nam vẫn còn sức sống lâu bền
đến tận hôm nay.
Trang 10
Thơ Đường nói chung, thơ tứ tuyệt nói riêng đã vượt thời gian, không gian hội
nhập vào dòng chảy văn học Việt Nam. Quá trình tiếp nhận tinh hoa văn hóa Trung
Quốc và biến đổi nó trở thành một thứ tài sản tinh thần quý báu của dân tộc đến nay đã
được ghi nhận. Thơ tứ tuyệt đời Đường không chỉ là vốn quý của thơ ca Trung Hoa, là
niềm tự hào của truyền thống lịch sử thơ ca trải qua hơn 300 năm của thơ Đường mà
vẻ đẹp của nó thực sự là kho báu của nhân loại.
1.1.2. Khái lược về cấu trúc thơ tứ tuyệt
Mỗi bài thơ tứ tuyệt là một chỉnh thể trọn vẹn. “Thể tuyệt cú cũng theo phương
hướng khai - thừa - chuyển - hợp của thi luật”. Nghĩa là câu đầu khởi nhập, câu hai
chuyển tiếp câu đầu, câu ba chuyển từ đề mục để khởi phát ý mới và câu bốn là hội tụ
của ba câu trên nhập lại cùng nhau. Theo L.Timôphêep, câu thơ là một đơn vị đơn giản
nhất của ngôn ngữ cảm xúc, là đơn vị ngữ điệu độc lập, là hình thức tổ chức ngôn ngữ
để bộc lộ cái tôi của nhà thơ. Mỗi nhà thơ có giọng nói đặc trưng riêng để làm nên sự
phong phú trong đời sống văn học.
Câu thơ hiện đại khác với câu thơ truyền thống là đời sống đi vào trong thơ một
cách tự nhiên, không bị gò bó. Câu thơ tự do đã chiếm ưu thế với tính năng động, co
duỗi tự nhiên, ít lệ thuộc vào vần, câu thơ có thể toàn vần bằng hay toàn vần trắc, hoặc
phần lớn là vần bằng, phần lớn là vần trắc. Nhịp của thơ là nhịp điệu của tâm hồn. Các
câu thơ mang ý nghĩa triết học hay tổng kết một vấn đề, nêu lên một kinh nghiệm, một
bài học, một suy nghĩ sâu sắc, một nhận xét, một quan sát tinh tế.
Trên thực tế thật khó mà tìm được một mô hình có độ tương thích cao đối với thể
thơ dung chứa nhiều yếu tố sáng tạo phóng khoáng như tứ tuyệt. Nếu bài thơ bát cú có
xu hướng phân chia thành 4 phần rõ rệt để kiến tạo một văn bản hoàn chỉnh, quy củ thì
bài thơ tứ tuyệt lại có xu hướng chia thành 2 phần. Tuy nhiên, bài thơ tứ tuyệt không
nhất thiết tuân theo công thức 2/2 mà có thể tổ chức quan hệ giữa các câu thơ theo các
công thức khác nhau. Theo thơ tứ tuyệt hiện đại thì kết cấu có tính tự do, phá cách tạo
kết cấu mới cho thơ tứ tuyệt. Hầu hết các bài tứ tuyệt đều phá vỡ cái khuôn khổ gò bó
về câu chữ, tuy căn bản là bốn câu (dòng) nhưng dường như chúng được tháo tung ra
để rồi sắp xếp lại theo một kết cấu mới (xưa: khai - thừa - chuyển - hợp; nay: liên kết
theo các kiểu: qui nạp: công thức 3-1,diễn dịch: công thức 1-3, song hành: công thức
1-1-1-1 (nhất cú nhất tuyệt). Kiểu kết cấu diễn dịch và qui nạp phù hợp với kiểu tư duy
Trang 11
chính luận, triết luận, thường là ở những bài thơ thể hiện sự trải nghiệm về cuộc đời.
Câu kết của tứ tuyệt thường làm nhiệm vụ “ hợp” tạo ra bất ngờ, bước ngoặt thú vị, tạo
dư âm cho bài thơ (So sánh - Thạch Quỳ, Tiếc một tuần trăng - Bảo Định Giang, Áo
trắng - Nguyễn Duy Gia, Ngọt và đắng - Yến Lan…). Riêng kiểu kết cấu song hành, ít
gây bất ngờ, bốn dòng có sự kết chặt với nhau thể hiện ý nghĩa bài thơ (Ngắn - Hoàng
Hải Lam, Vợ, Tự thú - Thái Doãn Hiểu, Mất và được - Từ Thế Mộng, Giọt sương Đoàn Hồng Sơn…). Bài thơ “Tự thú” có kết cấu khá đặc biệt, các câu thơ độc lập
nhau, hình thức đối nhau cả nội dung và hình thức, tạo nên tính triết lý về sự chiêm
nghiệm bản thân đồng thời bộc lộ rõ cái tôi cá nhân của nhà thơ:
Xưa,
Trái tim tôi to mà đầu thì bé
Nay,
Trái tim tôi bé, cái đầu lại to
(Tự thú- Thái Doãn Hiểu)
Bên cạnh đó, làm thơ tứ tuyệt nhất thiết phải có cách dẫn dắt người đọc đi từ
những chuyện cụ thể của đề tài đến những triết lý thuộc về nhân sinh quan ở đời. Đọc
thơ tứ tuyệt giống như đọc một câu đố. Nó không giải thích tỉ mỉ như những bài thơ
dài, nó cũng không đưa người đọc vào những cõi tình cảm hay những cõi suy tư đầy
đặn như các bài thơ dài. Và chính đó làm nên sự độc đáo của thơ tứ tuyệt, vì nó đã làm
một việc khó khăn giống như là “trói voi bỏ rọ”, nó buộc người đọc phải ngẫm ngợi,
phải luận giải vấn đề theo cảm quan cá nhân. Quá trình này hệt như việc ta đem ngâm
mộc nhĩ, thơ tứ tuyệt giống như thứ mộc nhĩ đã được phơi khô, quắt lại, và nếu muốn
“ăn” được nó, ta phải đem nó thả vào suy nghĩ của ta, phải ngâm trong tâm hồn ta để
nó nở ra trong suy nghĩ và cảm nhận của mỗi người.
Sau đây chúng ta có thể khảo sát chức năng phổ biển của từng câu thơ trong
mối quan hệ với các câu thơ khác và với chỉnh thể của bài thơ tứ tuyệt: mô hình hóa
một cách sơ lược như sau:
Câu thơ thứ nhất:
Câu thứ nhất là khởi hoặc phá - Giữ vị trí khiêm tốn chỉ là sự mở đề tạo
ra "duyên cớ" để triển khai tứ thơ nhưng thường ngay trong câu đầu đã hàm chứa nội
dung hàm chứa tình cảm tác giả. GS Phan Ngọc cho rằng: “Do cái tứ nảy sinh bài thơ
Trang 12
tứ tuyệt là chủ yếu nên thường cái câu hay nhất, câu phát hiện tứ thơ thường đến
trước”. Người ta từng nói khởi phải như thể "mở cửa thấy núi đột ngột vươn cao"
hoặc "mây lửng dời non nhẹ nhàng tự tại" phải làm sao phá vỡ ý đề trong một câu đó
thôi. Cũng có người cho rằng câu thứ nhất phải vén cho người ta thấy hoàn cảnh bài
thơ. Theo Phùng Khắc Khoan, “câu mở đầu cần phải đột ngột cao xa như gió to cuốn
sóng lên, thế muốn ngập trời” [29; tr. 211]. Hay Tạ Trăn, nhà bình luận thơ nổi tiếng
đời Minh, trong “Tứ minh thi thoại”, nói: “Phàm trong thơ, câu mở đầu nên như tiếng
pháo nổ vang, nhanh mà mau dứt” [138].
Không đơn giản chỉ là việc xác định hoàn cảnh khởi phát một tâm trạng, một ý
tưởng, câu khởi trong bài tứ tuyệt khai mở một thế giới nên phải đặc biệt thu hút sự
chú ý của người đọc bằng cách nêu những cảm nhận đầu tiên về khung cảnh bao quát,
choáng ngợp trong tầm mắt tác giả. Cách tiếp cận câu khởi trong quá trình thưởng thức
bài thơ tứ tuyệt tả cảnh thiên nhiên có nhiều nét tương đồng với cách thưởng thức các
bức tranh sơn thủy bắt đầu bằng một cái nhìn tổng thể để có những ấn tượng, cảm xúc
chung nhất. Ví như bài “Chiều thu” của Đỗ Thu Yên, mở đầu bài thơ tác giả khái quát
một không gian rộng lớn, yên bình để nhân vật trữ tình thể hiện cảm quan trước bức
tranh thiên nhiên đẹp và con người duyên dáng trong tà áo dài truyền thống:
Chiều thu gió hát thật êm
Đạp xe qua phố tóc mềm nhẹ bay…
Áo dài vạt tựa làn mây
Thướt tha theo gió heo may dịu dàng.
(Chiều thu- Đỗ Thu Yên)
Nhà thơ Khương Hữu Dụng có nhiều bài thơ tứ tuyệt hay. Trong đó bài
thơ “Rằm tháng mười”, ông viết ở Đà Lạt năm 1943:
Ngày hết. Người vô sự/ Trùm chăn kín mịt nằm/ Đầu thềm mưa nặng
giọt…/Trăng sáng, ờ nay rằm
Bài thơ nói về một người tưởng như vô sự nhưng thực ra rất trống trải và buồn.
Câu mở đầu phát họa nên chân dung tâm trạng của nhân vật trữ tình. Đó là tâm trạng
buồn, buồn nên mới thấy đêm rằm trăng sáng nhưng vô nghĩa. Buồn nên mới Trùm
chăn kín mịt nằm. Buồn vì tình yêu hay vì thế sự? Không rõ, tác giả không giải thích,
ấy thế mà bài thơ đọc lên cứ hay, cứ ám ảnh tâm trí người đọc.
Trang 13
Khi bài tứ tuyệt diễn đạt một ý tưởng bất ngờ và độc đáo, câu khởi đề có ý
nghĩa như một cú hích khởi đầu kích thích năng lực suy tưởng và khát vọng khám phá,
nhận thức những vấn đề đời sống do chính nó đặt ra. Nhà thơ Chế Lan Viên không
nhằm kể, tả mà để nêu bật triết lý và chiêm nghiệm của bản thân khi triết lý về sự sống
và cái chết, đứng trước hư vô qua bài thơ Tro và lửa:
Tro bao giờ cũng tồn tại lâu hơn lửa
Lửa hoan lạc một giây, tro cay đắng một mùa
Anh thiêu tất cả quá khứ thành ra nắm tro là thơ đấy
Và thiêu hồn anh sau này không là lửa, lại là tro
(Tro và lửa - Di cảo thơ 3)
Mở đầu bài thơ là cách so sánh đối lập của sự tồn tại tro và lửa để đi đến kết
luận: nhà thơ chọn cho mình một cách tồn tại lâu bền bằng cách hóa tâm hồn, thể xác
mình thành tro chứ không phải thành lửa. Cũng giống như hội họa, người làm thơ
không chỉ tả hình và thần của sự vật mà còn phải chất chứa trong đó cái tình, cái khí
chất, tính cách của con người. Những yếu tố đặc biệt tinh tế này có thể được cảm nhận
qua giọng điệu của câu khởi đề: Giọng sảng khoái, thanh thản, nhẹ nhàng để làm bước
đệm cho các câu còn lại. Vì vậy, chức năng của câu khởi vô cùng quan trọng “Vạn sự
khởi đầu nan”.
Câu thơ thứ hai:
Câu thứ hai là thừa có nghĩa là thừa tiếp, thừa hành "nhiệm vụ" câu một nêu
lên. Theo Nguyễn Sĩ Đại câu này có hai chức năng cơ bản:
- Cùng với câu một hoàn thiện một ý và " niêm" liên một với liên hai.
- Vừa làm chức năng trên vừa hé lộ nội dung tư tưởng bài thơ.
Có thể ví câu thừa phải như "con long ngậm hạt châu ôm lấy mà không
buông rơi ra" hay như "rắn cỏ đường tro chẳng tới sát mà cũng chẳng rời ra",
phải tiếp liền với câu khởi trên hợp thành nhất khí mà nói rõ ý đề một cách minh
bạch nhưng cũng không được lộ quá khiến bên dưới không còn chỗ xoay chuyển
nữa. Có khi câu thứ hai trình bày tình thế của bài thơ (đến đây hé ra mâu thuẫn
của cảnh tình ý). Câu thứ hai thường thực cụ thể, cái thực này làm nền bệ phóng
chuẩn bị cho sự đột biến vút lên câu ba.
Một trà, một rượu, một đàn bà,
Trang 14
Ba thứ lăng nhăng nó quấy ta.
Chừa được thức nào hay thức nấy:
Họa chăng chừa rượu với chừa trà!
(Ba thứ lăng nhăng- Tú Xương)
Câu thừa có chức năng thừa chuyển, hoàn chỉnh ý của câu khởi và trong nhiều
trường hợp, còn đảm nhiệm vai trò chủ yếu trong việc diễn đạt ý nên nó rất thường
được tổ chức, liên kết chặt chẽ trong thế đối xứng với câu khởi. Khi đó, vai trò của
câu thừa càng đặc biệt quan trọng. Nhà thơ Tú Xương liệt kê trà, rượu, đàn bà ở câu
khởi, câu thừa tiếp ý câu trên để khẳng định ba thứ ấy luôn vướng bận người đàn
ông, giọng điệu tự trào có vẻ sảng khoái kích thích sự hứng thú để nói lên kinh
nghiệm bản thân đồng thời cũng ngầm trân trọng giá trị của phụ nữ đối với tác giả.
Câu hai trong bài “Quả mít” của Hồ Xuân Hương cũng vừa chuyển tiếp câu
đầu, vừa có sự chuyển hướng đến câu ba:
Thân em như quả mít trên cây,
Da nó xù xì, múi nó dầy.
Quân tử có thương thì đóng cọc,
Xin đừng mân mó nhựa ra tay.
(Quả mít- Hồ Xuân Hương)
Câu một là tiền đề để câu hai thể hiện nội dung. Quả mít, vỏ ngoài xù xì, nhưng
múi dày và ngọt. Người phụ nữ được so như quả mít, chắc là những người phụ nữ thôn
quê, cần lao vất vả, vẻ đẹp bên ngoài mộc mạc, thôn dã, nhưng cái khí chất nội tại bên
trong phải làm người ta say đắm mê mẩn như khi tận hưởng những múi mít ngọt lành
vậy. Đóng cọc – vì quả mít đang non, người ta phải đóng cọc vào đầu cuống cho nó
chảy bớt nhựa ra để mau chín. Còn người quân tử có đóng cọc, nghĩa là đóng cái cuộc
đời mình, gắn kết cái cuộc đời mình với người phụ nữ mộc mạc như quả mít ấy, bằng
thứ tình cảm chân thành thực sự, để cảm nhận cái làn nhựa căng tràn đầy sức sống của
người phụ nữ, rồi dần dà, quả mít sẽ ngọt dần, người phụ nữ ngọt dần, sống lâu bên
người phụ nữ ấy, để cảm nhận sự ngọt ngào, cảm nhận tình cảm chân thật, say nồng
bên nhau để đời đời cùng nhau hưởng trọn hạnh phúc.
Mở đầu trong bài Cảnh đó người đâu của nhà thơ Thái Can đã nêu hoàn cảnh
đặc biệt khi gặp nhân vật em, nhân vật em đang rơi vào tâm trạng thơ thẩn, cô đơn.
Trang 15
Chính vì vậy câu thơ thứ hai là sự chuyển tiếp ở câu đầu, vì buồn không chú tâm nên
có người đứng trước hỏi mãi cũng chẳng trả lời:
Gặp em thơ thẩn bên vườn hạnh,
Hỏi mãi mà em chẳng trả lời.
Từ đó bắc nam người một ngả,
Bên vườn hoa hạnh bóng trăng soi.
(Cảnh đó người đâu-Thái Can)
Câu thơ thứ ba:
Câu thứ ba là câu chuyển (hoặc tỉ). "Có vị trí đặc biệt quan trọng trong bài thơ
tứ tuyệt", "là câu có tác dụng quyết định nhất đối với chất lượng bài thơ" . PGS
Nguyễn Khắc Phi cũng cho đa số trường hợp câu thứ ba đúng với vai trò then chốt
quyết định thành bại của bài thơ. Tác giả thơ văn của Trung Hoa mảnh đất quen mà
lạ còn dẫn dụ "trong các sách nói về thi pháp tuyệt cú câu ba được bàn tới nhiều
nhất... Dương Tải (đời Nguyên): "câu hết mà ý chưa hết phần lớn là do biết lấy câu ba
làm chủ còn câu bốn thì chỉ phát triển tiếp... Uyển chuyển biến hoá công phu là ở câu
ba nếu ở đây chuyển được tốt thì câu bốn cứ như thuyền thuận trôi theo dòng vậy câu
thứ ba là câu "bản lề "có thể tạo nên những bước ngoặt thú vị nên phải đặc biệt lưu
ý". Điều đó cho thấy có nhiều câu thứ ba chỉ là dây dẫn cho sự bùng nổ ở câu bốn
nhưng cũng nhiều khi sức nặng toàn bài lại nằm ở câu thứ ba.
Trong thực tế sáng tác, câu chuyển của bài tứ tuyệt có một vị trí hết sức quan
trọng, nó cần “phải biến hóa như tiếng sét bất thình lình phá tan quả núi, làm cho
người xem thơ phải hoảng sợ” (Phùng Khắc Khoan) [29, tr. 211]. Rất nhiều trường
hợp, câu chuyển đánh dấu sự đổi thay đột ngột theo một chiều hướng khác hoặc bất
ngờ nâng ý thơ lên một tầm cao khác thường.
Em ở ngoài nắng hay ngoài mưa
Anh đang ngồi chơi với gốc dừa
Vắng em, anh chẳng còn thế giới
Anh lấy tim mình ra muối dưa
(Một mình ngây dại- Trần Mạnh Hảo)
Tâm trạng nhân vật trữ tình đang hoài mong người tình trong mộng hay là sự
hụt hẫng về một tình yêu tan vỡ. Lời thơ nhẹ nhàng được thể hiện ở câu 1 và câu 2, tác
Trang 16
giả hỏi về “em” hay cũng chính là chất vấn lòng mình. Ta thấy sự cô đơn lạc lõng
ngay ở hai câu đầu, để đến câu ba ý thơ có sự bức phá, nhân vật trữ tình đang cô đơn
vì vắng em và khẳng định vị trí của nhân vật em trong trái tim của tác giả. Cuối cùng
sự bùng nổ nằm ở câu 4, cách nói vô cùng độc đáo, không có em thì tình yêu và trái
tim anh không còn giá trị “Anh lấy tim mình ra muối dưa”.
Em ngồi đan chiếc áo len xanh
Hẹn gió thu về gởi tặng anh
Rồi em bỏ đó vào thiên cổ
Anh một đời ngóng áo thiên thanh
(Đan áo- Phạm Thiên Thư)
Phạm Thiên Thư đóng trọn vai tuồng xuất sắc khi ông trở về với chính mình,
tức một tu sĩ đa tình. Và trong vai tuồng ấy ông thật tuyệt vời, đáng yêu hết sức. Cái
tình của một người tu nó khác cái tình của người không tu, nó có nét đẹp riêng. Thật
thế, khi yêu đương có lần ông kêu than vì một dáng hình mất hút. Trong trường hợp
tình nhân mất tình nhân, kẻ khác vật vã đau đớn, thì Phạm Thiên Thư lặng đi trước hư
không. Ở đây không chỉ mất đi một người tình, một mối tình; ở đây là tan biến hết
thảy, sự tan biến nó làm cho ta không buồn vật vã nữa mà thấy hụt hẫng, ngẩn ngơ.
Hai câu đầu tưởng chừng như có gì đó thủy chung, trọn vẹn trong mối tình đầy ngọt
ngào đang sắp sửa. Nhưng câu ba làm ta bất ngờ, ý thơ đột ngột chuyển hướng sang sự
đổ vỡ, xa cách vĩnh viễn, để lại sự hụt hẫng trong lòng nhân vật trữ tình “anh” ở câu
thứ 4.
Thơ tứ tuyệt thường đến với thi sĩ những lúc “ngộ ra” một điều gì đó, nghĩa là
cảm hứng đến đồng thời với một phát hiện thường có tính chất triết lý nhẹ nhàng mà
sâu lắng. Trong bài thơ “Chim kêu bên nhà người cũ”, Đoàn Vị Thượng mượn hình
ảnh “con chim cũ” – một chứng nhân hay một mối cảm thông để hóa giải niềm trắc ẩn
không đến được trong tình yêu vì lý do nào đó rất riêng tư của người trong cuộc (câu
1-2). Có gì như trách hờn, oán giận sự đổi thay đồng thời giọng thơ trở nên thách thức
và chế giễu mối tình sau của đối tượng được phản ánh (câu 3-4)
Thương con chim cũ
Hót mãi bên hè
Trang 17
Gã tình nhân mới
Biết gì mà nghe?
(Chim kêu bên nhà người cũ – Đoàn Vị Thượng)
Câu thơ thứ tư:
Là câu hợp (hoặc kết). Thâu tóm ý toàn bài làm bộc lộ tư tưởng của tác giả
theo quan điểm cấu trúc khai - thừa - chuyển - hợp.
Ở mức sâu hơn câu thứ tư đóng vai trò của một tư tưởng. Câu thứ tư như là
một "tổng kết" có nhiệm vụ mở ra hướng mới. Nó tựa hồ như một cái cửa kỳ diệu đặc
biệt khép lại nghĩa đen và mở nghĩa bóng ra một cách thần tình và đây cũng là chìa
khoá để "giải mã" tứ thơ ẩn giấu toàn bài. Ở những bài thơ hay câu kết thường dùng
lối "hư tiếp" để tạo nên những trường liên tưởng rộng rãi. "Câu kết trong tứ tuyệt cổ
điển không những điêu luyện hơn về kỹ thuật ngôn từ mà còn sâu xa về ý tứ: phần lớn
đều tổng kết được một nhận thức có tính chân lý hoặc một nét khắc hoạ tình cảm nào
đó của con người mang tầm vóc vũ trụ". Theo cách nói hình ảnh thì câu hợp (kết) phải
như "gió hồi khí tụ sâu xa hàm súc". Đó là công đoạn cuối của bức tranh thơ cũng như
vẽ rồng đến chỗ điểm nhãn tức là đến chỗ hoàn thành cái hay đẹp nhất. Nói câu cuối
là "thần tứ" toàn bài là theo cách ấy. Câu thứ tư gắn lại và làm đột khởi lên cả tình cả
cảm mà tình cảm cảm động nhất. Vì thế câu cuối thường không mang giọng điệu trần
thuật giản đơn mà là giọng điệu nghi vấn giả thiết cảm thán hay cầu khiến. Chức năng
của những giọng điệu này là biểu đạt tiếng lòng của nhà thơ và khiến cho lời thơ tuy
hết mà ý vô cùng. Trong thơ tứ tuyệt hầu như tất cả các câu cuối viết bằng ngôn ngữ
suy luận. "Bởi sự nối tiếp suy luận là nguyên tắc tiềm tại: khi ngôn ngữ suy luận xuất
hiện trong câu cuối của thơ tứ tuyệt nó thường làm mờ ý nghĩa cảm giác nó chỉ có
nhận thức và lý giải".
Bakhtine cho rằng kết là vấn đề then chốt của đặc trưng thể loại. Kết không chỉ
đặt ra yêu cầu kỹ thuật thấm sâu ý nghĩa của vấn đề mà còn cho thấy quan niệm của
tác giả và xu hướng của thơ. Các câu giữa bài chỉ là cái nền để rút ra đọng lại thành
các chí hướng hoài bão cuối bài. Nhìn sâu hơn nữa sẽ thấy các câu kết này mang tính
chất tuyên ngôn trực tiếp hoặc gián tiếp về một vấn đề cụ thể hoặc phổ quát. Chính vì
thế Chế Lan Viên rất thích thú: "Câu cuối ư ? lại có thể chộp từ đầu" (thơ về thơ).
Trang 18
Điều rất thú vị là Nguyễn Sĩ Đại đã so sánh câu kết của bát cú với tứ tuyệt (tuy
chỉ giới hạn trong thơ Đường) khác nhau ở chỗ: câu kết bát cú thường mang tính cụ
thể tính giả thiết để ngỏ rất hiếm. Còn câu kết tứ tuyệt vừa dồn nén tình cảm đậm đà
chất triết lý lại vừa bay bổng lãng mạn với những giả thiết và nghi vấn (đây là đặc
điểm quan trọng để phân biệt thơ Đường bát cú với tứ tuyệt trước đó và thơ ngắn nước
ngoài). So với thơ phương Tây thơ Đường Trung Hoa "nhất là tứ tuyệt gần với đạo
hoà được vào hoa lá thinh không; nhưng lại ấm áp gần gũi với con người hơn thơ
Nhật Bản Ấn Độ".
Theo Hoài Anh "nếu mô hình hoá một bài thơ tứ tuyệt thì nó có cấu trúc toàn
vẹn đẹp đẽ và trong suốt của một cái nhà, câu thứ nhất là cửa, câu thứ hai là nền, câu
thứ ba là cột, câu thứ tư là mái". Trong thực tế câu kết một mặt gắn toàn bài mặt khác
lại vượt khỏi cái cụ thể đó đứng độc lập thành một chân lý. Có thể ứng với mọi hoàn
cảnh. Đồng thời câu cuối là câu mà trước khi người thưởng ngoạn rời bài thơ họ rất
dễ nhớ những gì còn đọng. Ba câu đầu là nước trên mặt phễu (câu 1), vào miệng phễu
và thân phễu (câu 2 ,3) rồi thoát ra với độ xoắn tâm tư là câu cuối (câu 4).
Ở nhiều bài thơ, xuất phát điểm là một hiện tượng hết sức bình thường, giản dị
nhưng trong quá trình miêu tả, tứ thơ đột ngột sáng rõ nhờ một câu kết hay, hoàn
chỉnh, toả sáng một ý tưởng giàu chất triết luận về thế giới và đời sống con người.
Cách kết thúc bất ngờ trong các hình thái thơ ngắn rất phù hợp với phong cách “nói
bỏ lửng” của các nhà thơ cổ điển phương Đông. Những lời nói chưa trọn ý là một
cách dừng lại đúng lúc ở đỉnh cao cảm xúc, một khoảng lặng đột ngột kích thích quá
trình tri giác nghệ thuật, đẩy người đọc bước vào khoảng dư điạ ngoài văn bản và
tiếp tục suy tưởng về những điều chưa nói hết.
Con không bằng một vạt cỏ tươi
Cỏ làm chăn đắp ấm mộ Người...
Mẹ nuôi con chưa từng nuôi cỏ
Báo hiếu mẹ giờ chỉ cỏ thôi !
(Cỏ báo hiếu-Trần Mạnh Hảo)
Tóm lại, tác phẩm văn học là một chỉnh thể thống nhất toàn vẹn chặt chẽ.
Mọi sự chia tách đều có tính chất cơ học có phần máy móc, bởi trong thực tiễn
một cơ thể sống không thể xem cái nào quan trọng hơn cái nào, trong cái bộ phận
Trang 19
có cái toàn thể và ngược lại. Hoàng Tử Vân nhấn mạnh: “Thơ không khó ở mở đầu
mà khó ở khí, không khó ở kết mà khó ở thần” [138]. Thiếu cái nhìn toàn vẹn về cấu
trúc tổng thể của bài thơ, mọi sự phân tích, ca ngợi vẻ đẹp từng câu thơ trong bài tứ
tuyệt đều là vô nghĩa. Chức năng và giá trị mỗi bộ phận trong bố cục bài thơ tứ tuyệt
chỉ được xác định khi nó nằm trong mối quan hệ chặt chẽ với những bộ phận khác và
với toàn bộ chỉnh thể. Mỗi câu thơ đều có cái hay riêng của nó, đều đòi hỏi phải là sự
thể hiện của trình độ nghề nghiệp lão luyện, vốn sống từng trải, lịch lãm, bản lĩnh tài
hoa và trái tim nhạy cảm, tinh tế ở mỗi người nghệ sĩ.
1.2. Tổng quan về tiến trình thơ tứ tuyệt Việt Nam
Quá trình phát triển của văn học luôn gắn liền với sự kế thừa, tiếp thu có
chọn lọc nhằm phát huy tối đa những giá trị của truyền thống. Văn học Việt nam
trên hành trình từ văn học trung đại đến văn học hiện đại chịu sự ảnh hưởng sâu sắc
của văn học Trung Hoa trên nhiều phương diện từ chữ viết đến đề tài, thể loại…
Trong sự ảnh hưởng sâu rộng của văn học Trung Hoa đối với văn học Việt Nam thì
thơ Đường chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. “Trên thế giới có lẽ hiếm có quan
hệ văn chương nào đặc biệt như quan hệ thơ Đường với thơ Việt”. Mối quan hệ
giữa thơ Đường và thơ Việt được biểu hiện rõ nhất trên phương diện thể loại và đó
là thể loại thơ tứ tuyệt - một thể loại đặc trưng nhất của nghệ thuật thơ Đường đã
góp phần làm giàu có, phong phú hơn cho nền thơ ca Việt Nam.
Thơ tứ tuyệt xuất hiện ở Việt Nam khá sớm, bắt đầu thời Lý - Trần. Văn
bản thơ sớm nhất còn giữ lại được đến ngày nay là bài thơ của Ngô Chân Lưu, một
nhà sư và cũng là một vị quan chức dưới triều Lê Hoàn. Thơ được làm theo lệnh vua
với nội dung tiễn sứ giả nhà Tống nên tính chất sứ điệp thể hiện rất rõ trong khi nhà
thơ vẫn chọn thi đề tống biệt cùng với những hình ảnh ước lệ thường thấy và thể từ
khúc phóng khoáng, đậm chất trữ tình. Một cánh buồm “vượt sóng xanh muôn dặm
trùng dương” (Thiên trùng vạn lý thiệp thương lang), một mối tình thảm thiết hòa
trong chén rượu ly biệt (Tình thảm thiết - Đối ly trường)... những hình ảnh giàu chất
thơ ấy, thật thú vị, lại được dành cho một “văn bản bang giao” với mục đích chính trị
rõ rệt được nhắc đến trong hai câu thơ cuối cùng: “Nguyện tương thâm ý vị Nam
cương - Phân minh báo ngã hoàng” (Xin đem thâm ý vì Nam cương - Tâu vua tôi tỏ
tường” [129, tr. 46]. Đồng thời một bài thơ ứng khẩu của nhà sư Pháp Thuận với sứ
Trang 20
giả nhà Tống là Lý Giác cũng được xem là một trong những văn bản thơ tứ tuyệt
sớm nhất của Việt Nam:
Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha (nhai)
Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba.
Dịch thơ:
“Song song ngỗng một đôi/ Ngửa mặt ngó ven trời”/“Lông trắng phô dòng biếc/
Sóng xanh chân hồng bơi”.
Hai câu đầu bài thơ là của Lý Giác ứng khẩu, hai câu sau là Pháp Thuận tiếp
lời. Bài thơ được xem là một trong bài thơ ngũ ngôn cổ phong. Những bài thơ Đường
được xem là xuất hiện sớm ở Việt Nam đều do các thiền sư viết ra như Vạn Hạnh,
Viên Chiếu… Đây cũng là thời kỳ lưu hành khá phổ biến một số bài thơ ngắn gọn
mang tính chất sấm vĩ của các nhà sư, những người được tôn vinh là có trí tuệ uyên
bác, có khả năng đoán định chuyện vị lai quá khứ nên được cả chính quyền
phong kiến lẫn nhân dân kính trọng. Có một số hình ảnh ẩn dụ rời rạc và khó hiểu
hàm chứa ẩn ý sâu xa hoặc đơn giản chỉ là hệ quả của cách chiết tự một từ nào đó
được sử dụng trong những bài thơ này. Chẳng hạn như những hình ảnh trong bài thơ
tương truyền là do nhà sư Vạn Hạnh làm ra để “tạo dư luận cho Lý Công Uẩn làm
vua” [129, tr. 192]:
“Thụ căn diểu diểu
Mộc biểu thanh thanh
Hoà đao mộc lạc
Thập bát tử thành”1
(Gốc cây thăm thẳm - Ngọn cây xanh xanh - Cây hoà đao rụng - Mười tám hạt
thành).
Ở thời Lý – Trần học vấn rất được coi trọng. Triều đình thường hay mở các
khoa thi tuyển chọn người tài do đó thơ ca phát triển mạnh. Nhắc đến thơ tứ tuyệt
thời Lý _trần trước tiên phải kể đến bài Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt - bài
thơ đã thể hiện tinh thần chung mang những nét tiêu biểu của thơ tứ tuyệt. Hình
thức tuy bé nhỏ nhưng chuyển tải nội dung có tính khái quát cao.
Trang 21
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
Bản dịch của Trần Trọng Kim:Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Rành rành định phận ở
sách trời/ Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Thơ ca đời Lý- Trần một phần lớn là bộ phận thơ ca nhà chùa, thường gọi là
thơ Thiền. Thơ ca trở thành một phương tiện hữu hiệu mà các nhà sư có thể vận
dụng để phục vụ cho mục đích truyền đạo và ngộ đạo. “Thiền uyển tập anh ngữ lục”
ghi chép nhiều câu chuyện về các nhà sư có thói quen trả lời những câu hỏi chất vấn
của người học đạo hoặc dặn dò các đệ tử trước khi qua đời bằng một bài thơ ngắn
gọn, thường là bốn câu. Nhiều bài thơ đề cập đến vấn đề đời sống, vận mệnh dân tộc
có ý nghĩa giáo huấn tích cực vượt ra ngoài phạm vi tôn giáo. “Ngư nhàn” của nhà sư
Không Lộ là một ví dụ:
Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên,
Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên.
Ngư ông thuỵ trước, vô nhân hoán,
Quá ngọ tỉnh lai, tuyết mãn thuyền.
Dịch nghĩa
Sông xanh muôn dặm, trời muôn dặm/Một xóm dâu gai, xóm khói mây/Ông
chài ngủ say tít không ai gọi /Quá trưa tỉnh dậy, tuyết xuống đầy thuyền.
Nhà sư Không Lộ phác họa một bức tranh thủy mặc đầy chất thơ với vạn dặm
sông xanh, trời xanh, những vùng dâu đay, khói sóng và hình ảnh một ông chài cô
đơn bị chìm lấp mờ ảo trong vùng tuyết gợi nhớ cái không gian trắng mênh mông,
quạnh vắng, lạnh lẽo trong “Giang tuyết” của Liễu Tông Nguyên. Bài thơ tiêu biểu
cho chất trữ tình triết lý thể hiện rõ cái nhìn thấm nhuần tinh thần sắc không nhưng
các hình ảnh Đường thi quen thuộc lại tạo được ấn tượng đặc biệt sinh động. Chúng
gợi những cảm xúc sâu lắng trong tâm hồn người đọc và sự ngạc nhiên khi nhận ra
rằng ẩn sau chiếc áo cà sa vẫn là trái tim nhạy cảm của một nhà thơ.
Nói riêng thời Trần, thơ ca thời Trần phát triển gắn liền với hào khí Đông A.
Các bài thơ tứ tuyệt xuất hiện khá nhiều mang cảm hứng yêu nước, thể hiện ý chí và
Trang 22
niềm tin không lay chuyển về vận mệnh của đất nước. Con người được khắc họa
trong tác phẩm là những con người mang tầm vóc vũ trụ với khí thế tung hoành và
tấm lòng yêu nước mãnh liệt, thiết tha như bài Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão. Cảm
hứng yêu nước trong thơ tứ tuyệt đời Trần mang nhiều màu sắc, trạng thái khác nhau.
Nhiều bài thơ hay để lại dấu ấn riêng như: Bạch Đằng giang- Trần Minh Tông, Thiên
Trường vãn vọng – Trần Nhân Tông, Tống Phạm công Sư Mạnh Bắc sử - Lê Quát,
Tụng giá hoàn khinh sư - Trần Quang Khải….
Sang thế khỷ XV văn học viết chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo.
Đáng chú ý thời kỳ này là sự xuất hiện của dòng văn học viết bằng chữ Nôm. Quốc
âm thi tập của Nguyễn Trãi được xem là bước nhảy vọt của thơ ca viết bằng chữ
Nôm. Văn học chữ Hán vẫn tồn tại và phát triển phát triển với thể Phú. Có thể kể đến
một số bài hay đặc sắc của Nguyễn Trãi: Cây chuối, Đề Bá Nha cổ cầm đổ, Ngẫu
thành, Vãn lập, Đề sơn điểu hồ nhân đồ, Đè Đông sơn tự, Mộng sơn trung, Mộ xuân
tức sự…
Giai đoạn từ thế kỷ XVI đến nửa dầu thế kỷ XVIII văn học phát triển phong
phú về mặt thể loại, đặc biệt là văn học viết chữ Nôm. Thơ ca viết bằng chữ Nôm
xuất hiện nhiều thể loại mới như thơ Nôm Đường luật, ngâm, ca trù, thơ lục bát….
Thơ viết bằng chữ Hán đặc biệt phát triển thơ vịnh sử, thơ đi sứ và thơ đạo lý. Thơ tứ
tuyệt thời kỳ này vẫn tồn tại tuy nhiên vì đây là giai đoạn văn học chữ Nôm phát
triển nhiều thể loại mới nên thơ tứ tuyệt xuất hiện ít hơn.
Giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đến nửa sau thế kỷ XIX văn học viết bằng chữ
Hán và chữ Nôm phát triển với tốc độ nhanh chóng. Các thể loại thơ Đường luật, lục
bát, phú cổ thể, phú Đường luật đã phát triển ở giai đoạn trước nay lại phát triển hơn.
Các thể ngâm khúc, truyện thơ, hát nói cũng đạt được nhiều thành tựu. Những tác giả
đã làm nên thành tựu của văn học thời kỳ này phải kể tên đến như Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Khuyến, Tú Xương… Về thơ tứ tuyệt phải kể đến những bài thơ tứ tuyệt viết
bằng chữ Nôm của Hồ Xuân Hương. Thơ tứ tuyệt của Hồ Xuân Hương vẫn tuân thủ
khá nghiêm nhặt quy cách sáng tác thơ Đường luật, nếu không nói là thành thục hơn
so với thơ Nôm tứ tuyệt thế kỷ XV- XVI, thời kỳ mà chữ Nôm mới chỉ vừa đạt được
những thành công bước đầu trên con đường hội nhập vào sáng tác văn chương bác
học. Ở thế kỷ XVIII-XIX, chữ Nôm văn học đã tiến một bước khá dài với nhiều
Trang 23
thành tựu đỉnh cao và đó là điều kiện cần thiết cho những cách tân thơ ca táo bạo.
Mặt khác, Hồ Xuân Hương còn kế thừa được phong cách nói bỏ lửng, ngắn gọn và
hàm súc của thơ ca cổ điển để tạo nên các giá trị đa nghĩa cho hình tượng, để có thể
nói nhiều điều trong một phạm vi ngôn từ nhỏ hẹp của bài tứ tuyệt. Các đề tài lấy từ
phong cảnh thiên nhiên và cuộc sống, kể cả cuộc sống cung đình lẫn cuộc sống dân
gian từng được khai thác trong văn chương trước đó, giờ lại được nữ thi sĩ này tiếp
nối sử dụng. Trong thơ bà có cảnh non nước, núi đèo, có những bài thơ cảm khái, đề
vịnh danh lam thắng cảnh, có những bức tranh tố nữ hay chiếc quạt được “chúa quý
vua yêu” nơi cung cấm và cả những quả mít sần sùi biết bao gần gũi với người bình
dân.
“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi”
Thơ bà ấm áp những khát khao đời thường, thứ khát khao “chẳng có gì đáng
xấu hổ” mà các chàng trai, cô gái, trong những lễ hội dân gian, những ngày mùa rộn
rã, thường hồn nhiên, dí dỏm bày tỏ qua những bài hát trữ tình. Tư tưởng phóng
khoáng của nhân dân về sự tự do trong cuộc kiếm tìm hạnh phúc đã giúp Hồ Xuân
Hương mạnh dạn bộc bạch ước nguyện, điều mà những người phụ nữ quý tộc cho là
hết sức trâng tráo. Đây là một trong những cảm hứng lớn của văn học Việt Nam giai
đoạn cuối thế kỷ XIX.
Văn học Việt nam từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám 1945 mang
một diện mạo mới mẻ, có nhiều sự thay đổi lớn trên nhiều phương diện. Phong trào
thơ mới chiếm độc thế trên thi đàn, nhưng như một hiện tượng lạ thơ tứ tuyệt Hồ
Chí Minh với tập Nhật ký trong tù - tập thơ chữ hán hơn 100 bài chủ yếu là được
viết bằng thể thơ tứ tuyệt đã đứng sừng sững và được độc giả đón nhận và khám
phá đến mãi về sau. Điều đó minh chứng sức sống lâu bền và sự hấp dẫn của thơ
Đường nói chung và thơ tứ tuyệt nói riêng. Bên cạnh đó còn có một gương mặt cần
mẫn, thủy chung và gần như gắn bó cả đời với thơ Đường luật đó là Quách Tấn.
Thơ tứ tuyệt Quách Tấn cũng được xem là một hiện tượng độc đáo và thú vị.
Trang 24
Thơ tứ tuyệt nhiều thế kỷ qua đã trở thành thể thơ truyền thống của Việt
Nam. Các nhà thơ dù viết về vấn đề gì với những tâm trạng phức tạp thế nào thì
vẫn nằm trong “văn mạch dân tộc” như Xuân Diệu đã khẳng định. Trần Mạnh Hảo
viết về nhiều thể loại thơ khác nhau, song ông vẫn luôn duy trì và son sắc với thơ tứ
tuyệt cho đến ngày hôm nay trên tinh thần hiện đại mà rất dung dị đời thường.
1.3. Các dạng thơ tứ tuyệt hiện đại
“Tính hiện đại trong thơ không phải là một phẩm chất chung trừu tượng của các
nền thơ, các phong cách thơ mà mang những đặc điểm và sắc thái cụ thể của tiếng nói
thơ ca của một con người, một dân tộc, một thời đại với một lý tưởng cụ thể. Tính hiện
đại trong thơ bộc lộ trong nội dung cũng như hình thức biểu hiện của thơ”
Thực tế, sự phong phú và mở rộng về đề tài, chủ đề gắn bó với những vấn đề
trung tâm của hiện thực dân tộc và thời đại là một dấu hiệu khách quan đầu tiên đem
đến tính hiện đại trong thơ. Trong đó, một nhân tố hết sức quan trọng là sự vận động
biện chứng của cảm nghĩ. Tính hiện đại cũng bộc lộ rõ nét ở những phương tiện biểu
hiện. Không thể xem là hiện đại khi một nội dung mới lại biểu hiện bằng hình thức cũ.
Với thơ tứ tuyệt cũng vậy, xác định các thể tứ tuyệt hiện đại không chỉ ở yếu tố “nội
sinh” của nó mà còn phải nhận ra yếu tố “ngoại nhập” các thể khác vào trong tứ tuyệt
trên nền hiện thực của đời sống thơ ca.
Khi nghĩ đến tứ tuyệt hiện đại, lập tức tứ tuyệt cổ điển được đem ra so sánh.
Khái niệm tứ tuyệt (tuyệt cú - tên gốc theo cách gọi của người Trung Hoa) vốn định vị
thành một thể luật đời Đường với hai dạng thể là ngũ ngôn tứ tuyệt (ngũ tuyệt) và thất
ngôn tứ tuyệt (thất tuyệt), đảm bảo tính niêm luật nghiêm chỉnh. Thơ tứ tuyệt hiện đại
vẫn ổn định “bộ khung” bốn câu thơ mỗi bài. Ngoài ra, có quan niệm còn cho có loại
tứ tuyệt trường thiên gồm nhiều khổ, mỗi khổ bốn câu một. Nhưng có lẽ thơ tứ tuyệt
chỉ thích hợp với bốn câu mỗi bài hơn nên trong tâm lý tiếp nhận, dần dà người ta loại
khỏi thể tứ tuyệt trường thiên này .
Xu hướng hiện đại hóa thơ tứ tuyệt (xét ở yếu tố nội sinh) nghiêng về sự co
giản số tiếng trong câu thơ nhiều hơn và biến đổi rất đáng kể về nhịp, về vần. Về đề tài
và chủ đề gắn bó với đời sống thực tại của con người. Vẫn đảm bảo “bộ khung” bốn
câu nhưng tứ tuyệt hiện đại co giản về số tiếng và biến đổi rất lớn về nhịp và vần. Hình
thức câu thơ: câu thơ hai tiếng, câu thơ ba tiếng, câu thơ bốn tiếng, câu thơ năm tiếng,
Trang 25
câu thơ sáu tiếng, câu thơ bảy tiếng, câu thơ tám tiếng, câu thơ sáu – tám và thơ tự
do…
Nhịp điệu là xương sống của thơ. Thơ có thể bỏ vần, bỏ quan hệ đều đều về số
chữ, bỏ mọi qui luật bằng trắc nhưng không thể vứt bỏ nhịp điệu. Tứ tuyệt cổ điển
nghèo nhịp điệu, nhịp gần như bất biến: Chủ yếu đối với ngũ tuyệt nhịp 2/3, thất tuyệt
4/3 hoặc 2/2/3. Còn hiện đại rất giàu nhịp điệu. Giáo sư Phan Ngọc ví von rất hình
tượng rằng: “Các nghệ sĩ thời quân chủ chỉ múa có một tay, một tay họ bị trói vào
truyền thống từ chương cổ” cho nên nhìn sâu vào một vấn đề như nhịp, sự nghèo nàn
là không tránh khỏi. Trong phương diện vần cũng thế, tứ tuyệt cổ điển có 3 vần, chủ
yếu vần chân ở cuối các câu 1, 2 và 4 gọi là bốn câu ba vần. “Theo luật thơ thì bài tứ
tuyệt phải 4 câu 3 vần... vì vậy, có một nguyên tắc đề ra cần phải theo khi muốn trốn
vần là: Câu thứ nhất đã trốn vần thì câu thứ hai phải là một vế đối của câu một, để hai
câu này trở thành một đôi câu đối gọi là song phong tức là hai ngọn núi đối nhau” [7,
132]. Thông thường thì bài bốn câu (tứ tuyệt) là ba vần. Loại thơ bốn câu ba vần bắt
nguồn từ loại này (tức loại ba vần bằng ôm một vần trắc hay loại ba vần trắc ôm một
vần bằng). Biệt lệ trốn vần thì bốn câu hai vần, cơ bản vần bằng ở cuối các câu hai và
bốn (vần gián cách). Thơ Việt Nam hiện đại cũng đã khai thác hết các khả năng liên
kết bằng vần của câu thơ cổ điển, phát triển thêm lượng từ trên các dòng thơ nhưng
vần chân đã khác vần chân trong thơ tứ tuyệt cổ điển. Đó là vần liên tiếp (còn theo
cách gọi hiện đại là vần ôm).
Mở mắt ra gặp toàn những người khôn!
Nhắm mắt lại, chao ôi, bao người dại!
Ngửa bàn tay lên lật bàn tay lại
Mặt trắng mặt đen... hai phía cũng tay mình
(Sấp ngửa - Võ Thanh An)
Ngay cả gieo vần cũng biến hóa, không nhất thiết theo khuôn âm một cách máy
móc. Đặc biệt, khi cần có thể bỏ vần để không làm hại đến nội dung biểu đạt. “Khi sử
dụng thể thơ truyền thống, các nhà thơ hiện đại đã đi tìm sự đổi mới ở phương diện tạo
nghĩa chứ không phải ở phương diện tìm vần” [8, 342], thơ hiện đại đã có một bước
chuyển về phía vần trắc. Tuy nhiên, khi vần bằng còn lấn át vần trắc (và điều này là tất
nhiên vì vần trắc dường như chỉ xuất hiện những lúc có ý biểu đạt cái bất thường, đột