ĐẠI HỌC HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
PHẠM THỊ LY NA
CHỦ TRƯƠNG DUY TÂN VỀ KINH TẾ
CỦA CÁC SĨ PHU YÊU NƯỚC TIẾN BỘ
Ở VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.03.13
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT LUẬN VĂN THẠC SĨ
Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS. TRƯƠNG CÔNG HUỲNH KỲ
Thừa Thiên Huế, tháng 9 năm 2017
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước Việt Nam có
những chuyển biến hết sức to lớn. Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp
dưới ngọn cờ Cần Vương kết thúc với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương
Khê. Thực dân Pháp bắt đầu cuộc khai thác thuộc địa, kinh tế - xã hội Việt
Nam bắt đầu có sự chuyển biến. Lịch sử dân tộc lúc này yêu cầu cần phải có
một con đường cứu nước mới.
Đứng trước yêu cầu của lịch sử dân tộc, dưới tác động của tư tưởng dân
chủ tư sản phương Tây và trào lưu “Châu Á thức tỉnh”, các sĩ phu yêu nước
tiến bộ như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Lương Văn
Can, Trần Quý Cáp, Nguyễn An Khương… đều hướng về phương Tây để tìm
kiếm con đường cứu nước mới cho dân tộc. Từ đó, một xu hướng cứu nước
mới đã xuất hiện: kết hợp cứu nước với Duy Tân, học tập theo văn minh
phương Tây, cải tạo nước Việt Nam cũ, xây dựng nước Việt Nam mới theo
hình ảnh các nước phương Tây tiến tiến. Để đạt được mục tiêu trên, họ chủ
trương Duy Tân không chỉ trên lĩnh vực chính trị, quân sự, mà còn trên lĩnh
vực văn hóa, giáo dục, kinh tế. Các sĩ phu yêu nước tiến bộ nhận ra rằng sự lạc
hậu và nghèo nàn của đất nước là một trong những nguyên nhân làm cho dân
tộc ta bị mất nước. Sở dĩ người Pháp có thể đô hộ dân tộc Việt Nam là do họ có
một nền kinh tế mạnh hơn ta. Nhật Bản thoát khởi sự đô hộ của phương Tây,
một trong những yếu tố là nhờ Duy Tân cải cách về kinh tế. Vì vậy, để thoát
khỏi nô lệ và đưa đất nước phát triển lên con đường văn minh tiến bộ, tất yếu
phải Duy Tân cải cách về kinh tế. Đây là yêu cầu hết sức quan trọng trong công
cuộc đấu tranh cứu nước và phát triển đất nước, là điều kiện để nâng cao dân
trí, chấn dân khí, tạo ra tiềm lực để tiến hành cuộc vận động giải phóng dân tộc
trong hoàn cảnh lịch sử mới. Từ yêu cầu tất yếu này, Duy Tân về kinh tế là một
nội dung hết sức quan trọng của trào lưu Duy Tân cải cách đầu thế kỷ XX, là
một trong những vấn đề khoa học được các nhà sử học quan tâm nhưng kết quả
1
nghiên cứu còn chưa phản ánh đầy đủ so với các lĩnh vực nghiên cứu về chính
trị, văn hóa, giáo dục của trào lưu Duy Tân cải cách đầu thế kỷ XX.
Để góp phần tìm hiểu một cách toàn diện và sâu sắc hơn về vai trò của các
sĩ phu yêu nước những năm đầu thế kỷ XX đối với hoạt động Duy Tân về kinh
tế, từ đó góp phần đánh giá đầy đủ hơn trào lưu Duy Tân cải cách đầu thế kỷ
XX, rút ra những giá trị kế thừa cho công cuộc đổi mới đất nước hiện tại, tôi
chọn đề tài “ Chủ trương Duy Tân về kinh tế của các sĩ phu yêu nước tiến
bộ ở Việt Nam đầu thế kỷ XX” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Duy Tân về kinh tế ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX là một nội
dung quan trọng trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam. Vấn
đề này được nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm, nghiên cứu dưới
nhiều góc độ khác nhau. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu tiêu biểu liên
quan đến đề tài:
Hoạt động kinh doanh của tư sản dân tộc Việt Nam dưới thời Pháp thuộc
in trong Tập san nghiên cứu Văn - Sử - Địa, số 4, của tác giả Nguyễn Công
Bình (1955), có đề cập đến hoạt động kinh tế của tư sản Việt Nam trước Chiến
tranh thế giới thứ nhất.
Lịch sử cận đại Việt Nam (1960), tập 3, Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm,
Nguyễn Văn Sự... Cuốn Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX
đến Cách mạnh tháng Tám (1975), tập 2, của Trần Văn Giàu, có bàn về hệ ý
thức tư sản, các dạng biểu hiện của nó trên các lĩnh vực, trong đó có vấn đề duy
tân về kinh tế.
Thế Nguyên (1988), với cuốn Phan Chu Trinh - một chí sỹ giàu lòng nhiệt
huyết (1872 - 1926), đã trình bày những đóng góp của Phan Chu Trinh về cải
cách kinh tế trong phong trào Duy Tân…
Gần đây, việc nghiên cứu vấn đề Duy Tân về kinh tế đã được các nhà
nghiên cứu quan tâm hơn như tác phẩm 100 năm Đông Kinh Nghĩa Thục của
nhiều tác giả (2008) trình bày có hệ thống về hoạt động giáo dục, hoạt động
2
kinh tế của các chí sĩ Đông Kinh Nghĩa Thục, trên cơ sở đó đánh giá mối quan
hệ với phong trào Duy Tân.
Trương Thị Thanh Nhàn (2011), Đóng góp của phong trào Duy Tân đầu
thế kỷ XX đối với cách mạng Việt Nam, khóa luận tốt nghiệp, có đề cập đến sự
đóng góp về kinh tế của phong trào này.
Lê Thị Phương (2014), Chủ trương chấn hưng thực nghiệp của các sỹ phu
yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ XX, khóa luận tốt nghiệp, đã đước đầu trình
bày về chủ trương chấn hưng thực nghiệp của các sĩ phu yêu nước đầu thế kỷ
XX và nêu các nhận xét về chủ trương đó, khẳng định những đóng góp và hạn
chế của chủ trương chấn hưng thực nghiệp do các sĩ phu yêu nước đề xướng.
Hồ Thị Thúy Bình (2015), Phan Bội Châu với trào lưu duy tân cải cách ở
Việt Nam đầu thế kỷ XX, luận văn Thạc sĩ, đã trình bày một cách khái quát về
chủ trương duy tân cải cách của Phan Bội Châu, trong đó có đề cập đến đóng
góp của Phan Bội Châu trên lĩnh vực Duy Tân về kinh tế…
Nguyễn Hữu Lâm (2015), Hoạt động tuyên truyền chấn hưng thực nghiệp
trong phong trào Duy Tân đầu thế kỷ XX, luận văn Thạc sĩ, đã trình bày một
cách khái quát về hoạt động chấn hưng thực nghiệp, nêu rõ nội dung và phương
thức tuyên truyền, đóng góp của hoạt động tuyên truyền chấn hưng thực nghiệp
trong phong trào Duy Tân đầu thế kỷ XX…
Chương Thâu (1997), trong cuốn Đông Kinh Nghĩa Thục và phong trào
cải cách văn hóa đầu thế kỷ XX, dựng lại bức tranh khá chi tiết về hoạt động
của Đông Kinh Nghĩa Thục, ngoài cải cách về văn hóa còn có chủ trương phát
triển kinh tế.
Công trình Cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858 - 1945)
của Nguyễn Văn Khánh (2002), đã trình bày quá trình hình thành và phát triển
cơ cấu kinh tế thuộc địa ở Việt Nam từ 1884 đến 1945, sự ra đời các tầng lớp,
giai cấp trong xã hội Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, trong đó kinh tế tư bản
dân tộc gắn liền với giai cấp tư sản Việt Nam. Phạm Văn Chiến ( 2003) trong
tác phẩm lịch sử kinh tế Việt Nam đã khái quát tình hình kinh tế Việt Nam nói
chung và tình hình kinh tế Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. Nguyễn Văn Xuân
3
(2003), Phong trào Duy Tân và tinh thần doanh nghiệp, in trong tạp chí xưa và
nay, số 148, tác giả đã trình bày khái quát về những hoạt động kinh tế mang
yếu tố kinh tế tư bản trong phong trào Duy Tân đồng thời nêu lên những
nguyên nhân làm cho nền kinh tế tư bản Việt Nam không thể phát triển mạnh
vào đầu thế kỷ XX.
Trương Công Huỳnh Kỳ (2016), trong báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu
cấp cơ sở, Phong trào chấn hưng thực nghiệp ở Việt Nam trong 30 năm đầu thế
kỷ XX đã trình bày hoạt động chấn hưng thực nghiệp ở Việt Nam trên các vấn
đề bối cảnh lịch sử, thành phần lãnh đạo, mục đích, nội dung, hình thức, diễn
biến của các nhà thực nghiệp tiêu biểu và rút ra tính chất, đặc điểm, kết quả, ý
nghĩa của phong trào chấn hưng thực nghiệp ở Việt Nam trong 30 năm đầu thế
kỷ XX.
Các kết quả nghiên cứu trên là tài liệu quý có ý nghĩa định hướng giúp cho
bản thân tôi có thể tìm hiểu những nội dung cơ bản để trên cơ sở nền tảng đó
tiến hành phân tích và nhận thức một cách toàn diện hơn về nội dung cũng như
những đóng góp của các sĩ phu yêu nước tiêu biểu đối với Duy Tân về kinh tế
trong những năm đầu thế kỷ XX.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1 Mục đích
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trình bày có hệ thống và đầy đủ hơn chủ
trương Duy Tân về kinh tế của các sĩ phu yêu nước tiến bộ những năm đầu thế
kỷ XX, từ đó rút ra nhận xét về những đóng góp và hạn chế của của các sĩ phu
yêu nước đối với vấn đề Duy Tân nền kinh tế dân tộc trong bối cảnh lịch sử
Việt Nam lúc bấy giờ.
3.2 Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích thì luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau:
Trình bày bối cảnh lịch sử, tình hình kinh tế của Việt Nam những năm đầu
thế kỷ XX để làm rõ vấn đề Duy Tân cải cách kinh tế là một biện pháp tất yếu
đối với công cuộc cứu nước đầu thế kỷ XX.
4
Phân tích rõ chủ trương Duy Tân về kinh tế của các sĩ phu yêu nước tiến
bộ như Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp,
Nguyễn Thượng Hiền, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Lương Khắc Ninh,…
Nhận xét chủ trương Duy Tân về kinh tế của các sĩ phu yêu nước tiến bộ
đầu thế kỷ XX trên các mặt ưu điểm, hạn chế và tác dụng, khẳng định các giá
trị cần kế thừa trong công cuộc đổi mới hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Chủ trương Duy Tân về kinh tế của các sĩ phu yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ
XX với các biểu hiện của nó.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: đầu thế kỷ XX.
Về không gian: ở Việt Nam thời Pháp thuộc.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1 Nguồn tư liệu
Trong qua trình thực hiện đề tài này, tác giả luận văn sử dụng những
nguồn tư liệu sau:
- Các trước tác của các sĩ phu yêu nước tiến bộ tiêu biểu đầu thế kỷ XX.
- Các tác phẩm, công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả trong và ngoài
nước về hoạt động Duy Tân kinh tế ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX...
- Tài liệu lưu trữ của chính quyền thuộc địa về vấn đề này.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử kết hợp với
phương pháp logic trên cơ sở so sánh và đối chiếu tư liệu, đồng thời sử dụng
các phương pháp khác như: phương pháp sưu tầm, phân tích, tổng hợp... .để
trình bày nội dung luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
Về mặt khoa học: luận văn góp phần hệ thống tư liệu về chủ trương Duy
Tân về kinh tế của các sĩ phu yêu nước tiến bộ, những đóng góp và hạn chế của
5
của các sĩ phu yêu nước đối với việc Duy Tân cải cách về kinh tế ở Việt Nam
những năm đầu thế kỷ XX.
Về mặt thực tiễn: kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo để
học tập, nghiên cứu và giảng dạy về chủ trương Duy Tân cải cách về kinh tế ở
Việt Nam đầu thế kỷ XX.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục thì nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những tiền đề lịch sử của chủ trương Duy Tân về kinh tế ở
Việt Nam đầu thế kỷ XX
Chương 2: Nội dung chủ trương Duy Tân về kinh tế của các sĩ phu yêu
nước tiến bộ đầu thế kỷ XX
Chương 3: Đóng góp và hạn chế của chủ trương Duy Tân về kinh tế do
các sĩ phu yêu nước tiến bộ khởi xướng đầu thế kỷ XX
6
NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG TIỀN ĐỀ CỦA CHỦ TRƯƠNG DUY TÂN VỀ
KINH TẾ Ở VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX
1.1. Yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, phát triển đất nước
Đến cuối thế kỷ XIX, ở Việt Nam giữa lúc nhân dân đang rên xiết dưới
chính sách cai trị hà khắc của thực dân cũng là lúc sự thất bại nhanh chóng của
phong trào Cần Vương đã chấm dứt thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc theo
hệ tư thưởng phong kiến ở Việt Nam. Đặc biệt dưới tác động của chính sách
khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp (1897 - 1914), làm cho cơ
cấu kinh tế - xã hội nước ta biến đổi sâu sắc, từ một nước phong kiến độc lập
trở thành một nước thuộc địa nữa phong kiến, xã hội phân hóa mạnh ở cả nông
thôn lẫn thành thị. Đất nước rơi vào khủng hoảng trầm trọng, nền kinh tế què
quặt lạc hậu, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, bần cùng. Trong lúc thực
dân Pháp đang siết chặt ách nô dịch đối với nhân dân ta thì triều đình nhà
Nguyễn với sự bảo thủ, hèn nhát đã bất lực trước vận mệnh đất nước chấp nhận
làm tay sai cho thực dân Pháp. Yêu cầu của lịch sử dân tộc lúc này là tìm ra con
đường cứu nước mới, đúng dắn để đưa đất nước thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than.
Lúc này vấn đề sống còn của dân tộc được đặt lên hàng đầu. Việc đánh
đuổi thực dân Pháp và lật đổ chế độ phong kiến phản động để đưa nhân dân ra
khỏi kiếp đọa đày, đau khổ, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột là điều trăn trở đối với
tất cả những ai có lòng yêu nước, thương dân. Trước ách thống trị tàn bạo của
thực dân Pháp, dân tộc ta không thể sử dụng biện pháp đấu tranh đơn thuần mà
còn phải kết hợp đấu tranh trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, ngoại giao.
Trong đó việc Duy Tân về kinh tế là một việc làm hết sức quan trọng. Với
chính sách thống trị có tính toàn diện và chặt chẽ của thực dân Pháp thì công
cuộc chống Pháp phải có tiềm lực của cả dân tộc, không chỉ bằng sức mạnh
quân sự, chính trị, văn hóa mà kinh tế cũng là yếu tố quyết định, có kinh tế mới
có thể đánh bại được kẻ thù. Trước yêu cầu cấp thiết của cuộc đấu tranh các sĩ
phu yêu nước đã ý thức được con đường cứu nước. Trong quy luật “cường
7
thắng, liệt bại” muốn dân tộc thoát khỏi diệt vong chỉ có cách duy nhất là Duy
Tân về mọi mặt của nền kinh tế “Có thực mới vực được đạo”. Tự cường về nền
kinh tế thì mới có thể đưa đất nước thoát khỏi sự xâm lược của chủ nghĩa thực
dân. Chính yêu cầu lịch sử dân tộc đặt ra phải kết hợp cứu nước với Duy Tân
về kinh tế, do vậy mà tư tưởng Duy Tân về kinh tế đã ra đời, phong trào Duy
Tân (1903 - 1908) xuất hiện với 3 nội dung cơ bản: khai dân trí, chấn dân khí,
hậu dân sinh. Một trong những nội dung cơ bản của hậu dân sinh xuất hiện
trong tư tưởng Duy Tân về kinh tế của các sĩ phu yêu nước những năm đầu thế
kỉ XX.
1.2. Tác động của chính sách thống trị, khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp
Chính sách cai trị của thực dân Pháp Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng
tấn công xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm thời dập tắt được các phong trào đấu
tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở
Việt Nam. Bắt tay vào cuộc khai thác thuộc địa và bóc lột. Chính sách của toàn
quyền Paul Doumer là triệt để khai thác nhân lực cùng tài nguyên của xứ thuộc
địa này nhằm phục vụ tối đa cho quyền lợi của mẫu quốc, Đông Dương bắt đầu
mang lại những lợi nhuận về kinh tế và tài chính cho Pháp trong khi đó tuyệt
đại đa số người Việt phải chụi cảnh tôi đòi ngay chính trên quê hương của họ.
Chính sách đó được thể hiện trên các lĩnh vực.
Về chính trị: Thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ
quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia
Việt Nam ra thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ
một chế độ cai trị riêng. Đồng thời với chính sách nham hiểm này, thực dân
Pháp câu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột kinh tế và áp bức chính trị
đối với nhân dân Việt Nam. Bên cạnh chính sách cai trị độc đoán thực dân
Pháp chúng còn bảo lưu hệ thống chính quyền phong kiến từ cấp tỉnh đến làng
xã. Để giúp cho bộ máy cai trị của chúng thực hiện tốt việc áp bức bóc lột nhân
dân ta, chúng còn tăng cường xây dựng củng cố bộ máy hành chính, quân sự,
cảnh sát, tòa án...để đàn áp lại các cuộc nổi dậy của nhân dân ta. Thực dân Pháp
8
ra sức để xây dựng một chế độ chính trị độc đoán ở nước ta thực hiện chính
sách chủ yếu “dùng người Việt trị người Việt”. Với dã tâm đó thực dân Pháp
không từ bỏ bất cứ thủ đoạn nào để vơ vét bốc lột và cai trị nhân dân ta dưới
ách áp bức bóc lột làm cho đời sống của nhân dân vô cùng khốn khó.
Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột về kinh tế: tiến
hành cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây
dựng một số cơ sở công nghiệp; xây dựng hệ thống đường giao thông, bến cảng
phục vụ cho chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Chính sách khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp đã tạo nên sự chuyển biến của nền kinh tế
Việt Nam (hình thành một số ngành kinh tế mới...) Pháp độc quyền về kinh tế
và nhằm thu được lợi nhuận tối đa chính điều đó đã dẫn đến hậu quả là nền
kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc vào tư bản Pháp, bị kìm hãm trong vòng lạc hậu,
thể hiện rõ trên tất cả thành phần của nền kinh tế.
Trong nông nghiệp: tình trạng chiếm ruộng đất của bọn thực dân ngày
càng tăng, “Sau khi chiếm cả Việt Nam, thực dân Pháp tìm cách chiếm đoạt
ruộng đất: bao gồm các vùng đất trống, bải bồi thậm chí các phần ruộng đất
của tư để lập đồn điền. Theo nghị định ngày 5.10.1889 và 15.10.1890 thì bọn
thực dân có quyền xin cấp một lần 500 ha đất đai. Vì thế đã xuất hiện nhiều
đồn điền diên tích lớn. Theo thống kê của thực dân Pháp, tính đến năm 1890
đã có 116 đồn điền của người Âu. Tuy nhiên diện tích đồn điền chủ yếu tập
trung ở các tỉnh Nam Kỳ và các tỉnh Bắc Kỳ. Cho đến năm 1900, tổng diện tích
của người Pháp đã lên tới 322.000 ha, trong đó ở Nam Kỳ có 78.000 ha”. [49,
Tr. 29 - 30]
Việc cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền của thực dân Pháp đã làm cho
hàng vạn người nông dân Việt Nam bị mất đất và trở thành tá điền cho thực dân
Pháp bóc lột. Với chính sách bóc lột kiểu phong kiến, cùng với sự vơ vét tàn
bạo của thực dân Pháp đã làm cho nền nông nghiệp của Việt Nam ngày càng
què quặt, lạc hậu. Chúng muốn cướp ruộng để đẩy người dân Việt Nam vào
con đường bần hàn nhất và phụ thuộc hoàn toàn vào chúng.
9
Đối với công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: Chính quyền thực dân đã
dùng thủ đoạn độc đoán về kinh tế trong tất cả các ngành công nghiệp. Chú
trọng xây dựng các nhà máy, khu công nghiệp để phục vụ nhu cầu vơ vét tối đa
của chúng. Nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm mạng mẽ, nền công nghiệp phụ
thuộc hoàn toàn vào Pháp, chúng độc quyền thu mua sản phẩm từ công nghiệp,
thủ công nghiệp... nền thủ công nghiệp chịu sự cạnh tranh và chèn ép mạnh mẽ,
nhiều ngành nghề thủ công bị tàn phá bởi không thể cạnh tranh với các mặt
hàng của Pháp, nền thủ công nghiệp truyền thống bị bị phá vỡ...chỉ có một số
ngành sống sót được vì nó cung cấp các mặt hàng xa xỉ cho thực dân Pháp. Tất
cả đều là thủ đoạn của thực dân pháp đối với các ngành công nghiệp, thủ công
nghiệp đều nhằm bốc lột, thu lợi nhuận cho chính quốc và bần cùng hóa nhân
dân ta.
Trên lĩnh vực thương mại và tài chính: chúng thực hiện chế độ đồng hóa
thuế quan làm cho Việt Nam chỉ có thể đặt quan hệ buôn bán với Pháp, chúng
hầu như độc quyền về hàng hóa xuất và nhập ở Việt Nam, chúng miễn thuế cho
hàng Pháp nhưng đánh thuế nặng hàng hóa các nước nhập vào nước ta...bên
cạnh đó thực dân Pháp cho thành lập ngân hàng Đông Dương với quyền lực
trong tay chúng và tiến hành cho vay nặng lãi, độc quyền in giấy bạc, thuế khóa
nặng nề, độc quyền kinh doanh, thu mua rẽ mạt bán ra với giá cắt cổ...với chính
sách sưu cao, thế nặng làm cho đời sống nhân dân ta vô cùng cực khổ, kinh tế
thực dân chiếm vị trí thống trị, đứng trước tình hình kinh tế dân tộc như thế các
sĩ phu yêu nước luôn trăn trở và vấn đề đặt ra là phải chấn hưng lại nền kinh tế
đất nước, trên cơ sở phát huy thế mạnh nền kinh tế truyền thống, phát triển kinh
tế hàng hóa, mở các thương hội, nông hội...để hỗ trợ, bảo vệ quyền lợi của
người dân, phát triển kinh tế đất nước, tạo ra tiềm lực cho công cuộc cứu nước.
Đây là yêu cầu cấp thiết tạo nền tảng kinh tế vững chắc để tiến tới sự nghiệp
giải phóng dân tộc.
Về văn hóa - giáo dục, thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa, giáo
dục thực dân; dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu... Chúng tạo điều kiện cho
văn minh phương Tây phát triển ở nước ta, loại bỏ dần chữ Hán và Nho học.
10
Thực dân Pháp mở một số trường học phục vụ chính sách cai trị của nó.
Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chế độ cai trị thực dân ở Đông Dương:
“Chúng tôi không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã, mà còn bị
hành hạ và đầu độc một cách thê thảm...bằng thuốc phiện, bằng rượu...chúng
tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học
tập”. Chúng truyền bá nếp sống phương tây, dùng báo chí làm công cụ tuyên
truyền sách báo phản động...Nhưng các sĩ phu yêu nước ý thức rất rõ bản chất
của bọn chủ nghĩa thực dân, muốn đồng hóa nhân dân ta, các sĩ phu yêu nước
họ đã nhận thức được sức mạnh của tri thức, tiếp nhận những tư tưởng tiến bộ
với mong muốn đưa đất nước thoát khỏi cảnh nô lệ và phát triển nền kinh tế đất
nước ngày càng giàu mạnh.
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo
dục thực dân, xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc.
Giai cấp địa chủ: Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường
bóc lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có
sự phân hóa, một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân
đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
Giai cấp nông dân: giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội
Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức bóc lột nặng nề. Tình cảnh khốn
khổ, bần cùng của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù
đế quốc và phong kiến tay sai, làm tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong
cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam: Ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
nhất của thực dân Pháp. Đa số công nhân Việt Nam, trực tiếp xuất thân từ giai
cấp nông dân, nạn nhân của chính sách chiếm đoạt ruộng đất mà thực dân Pháp
thi hành ở Việt Nam. Vì vậy, giai cấp công nhân có quan hệ trực tiếp và chặt
chẽ với giai cấp nông dân. Giai cấp công nhân Việt Nam bị đế quốc, phong
kiến áp bức, bóc lột. Đặc điểm nổi bật của giai cấp công nhân Việt Nam là ra
đời trước giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam, và vừa lớn lên nó đã sớm tiếp thu
ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhanh chóng trở thành một lực
11
lượng chính trị tự giác, thống nhất khắp Bắc Trung Nam…Giai cấp tư sản Việt
Nam: Bao gồm tư sản công nghiệp, tư sản thương nghiệp…trong giai cấp tư
sản có một bộ phận kiêm địa chủ.
Ngay từ khi ra đời, giai cấp tư sản Việt Nam đã bị tư sản Phảp và tư sản
người Hoa cạnh tranh, chèn ép, do đó, thế lực kinh tế và địa vị chính trị của giai
cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé và yếu ớt. Vì vậy, giai cấp tư sản Việt Nam không
đủ điều kiện để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công.
Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam: bao gồm học sinh, trí thức, viên chức và những
người làm nghề tự do…Trong đó, giới trí thức và học sinh là bộ phận quan
trọng của tầng lớp tiểu tư sản. Đời sống của tiểu tư sản Việt Nam bấp bênh và
dễ bị phá sản trở thành những người vô sản. Tiểu tư sản Việt Nam có lòng yêu
nước, căm thù đế quốc, thực dân, lại chịu ảnh hưởng của những tư tưởng tiến
bộ từ bên ngoài truyền vào. Vì vậy, đây là lực lượng có tinh thần cách mạng
cao và nhạy cảm chính trị, được phong trào cách mạng rầm rộ của công nông
thức tỉnh và cổ vũ, họ bước vào hàng ngũ cách mạng ngày càng đông và đóng
một vai trò quan trọng trong phong trào đấu tranh của nhân dân, nhất là ở thành
thị.
Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp làm thay đổi nhanh chóng
nền kinh tế - xã hội nước ta những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, qua
cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã hình thành thêm những lực
lượng mới, làm cho bức tranh xã hội có nhiều nét mới. Dưới sự độc quyền của
tư bản trên lĩnh vực công thương nghiệp và sự cạnh tranh chèn ép khốc liệt của
tư sản ngoại kiều nên tư sản Việt Nam vẫn còn yếu ớt, chưa thể hình thành một
giai cấp độc lập, vì vậy họ chưa thể đóng vai trò chủ đạo trong việc tiếp thu
những luồng ư tưởng mới (tư tưởng dân chủ tư sản) du nhập vào nước ta đầu
thế kỉ XX để phát động phong trào đấu tranh yêu nước. Vai trò này được lịch
sử giao cho các sĩ phu yêu nước, với các sĩ phu yêu nước lúc này muốn cứu
nước không còn con đường nào khác ngoài việc truyền bá tư tưởng và những
hoạt động cụ thể để Duy Tân về kinh tế, muốn thoát khỏi ách thống trị của thực
dân pháp chúng ta phải làm chủ được nền kinh tế, phát triển kinh tế chính là
12
yêu nước, là động lực cứu nước mới được các sĩ phu yêu nước đặt ra và cùng
nhau thực hiện tiêu biểu: Huỳnh Thúc Kháng, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,
Trần Quý Cáp, Nguyễn Thượng Hiền, Lương Văn Can Nguyễn Quyền...đây là
những sĩ phu khởi xướng cho phong trào Duy Tân và chấn hưng thực nghiệp.
1.3. Ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ phương Tây và trào lưu “Châu
Á thức tỉnh”
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
trên toàn thế giới phát triển mạnh mẽ với sự lan rộng của tư tưởng dân chủ tư
sản từ Âu - Mỹ đã đưa Châu Á vào thời kỳ thức tỉnh. Nếu như ở Trung Quốc
và Việt Nam, cuộc cải cách Minh Trị, Duy Tân có những tác động mạnh mẽ để
rồi tạo nên những phong trào đấu tranh, cải cách có tính chất rộng rãi thì ở một
số nước Châu Á khác sự lan tỏa của Minh trị Duy Tân có một mức độ khiêm
tốn hơn do điều kiện lịch sử xã hội của mỗi nước. Tuy nhiên sự lan tỏa ấy được
đánh dấu rõ ràng hơn sau khi Nhật đánh bại Nga trong cuộc chiến tranh Nga Nhật. Sự tác động lan tỏa ấy ở các nước Châu Á không chỉ là mô hình dân chủ
của chế độ xã hội mà còn làm cho tinh thần yêu nước của nhân dân các nước
trổi dậy một cách mạnh mẽ, quyết liệt. Nhiều nhà sử học nghiên cứu lịch sử cận
đại Châu Á, khi đề cập đến phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỉ XX đã
viết: Công cuộc Duy Tân thời Minh trị, đặc biệt là cuộc chiến tranh Nga - Nhật
(1904 - 1905) với sự thắng lợi của Nhật Bản đã cổ vũ tinh thần ái quốc của một
số tầng lớp của nhân dân Indonexia. Bên cạnh với thắng lợi của Nhật Bản một
lần nữa cổ vũ tinh thần các sĩ phu yêu nước Việt Nam, họ rất khâm phục người
Nhật Bản, coi Nhật Bản là nước dẫn đầu Châu Á về kinh tế và tiến bộ khoa học
kĩ thuật, tôn sùng Nhật Bản là người anh cả da vàng, coi Nhật Bản là nơi giữ
được tinh thần Phương Đông, với tinh thần đó năm 1904 Phan Bội Châu cùng
những người yêu nước đã lập ra hội Duy Tân, nêu khẩu hiệu đấu tranh là “đánh
đuổi giặc Pháp, khôi phục Việt Nam” và đưa ra kế hoạch xuất dương du học.
Phan Bội Châu đã dùng cả một mùa hè để gặp gỡ, giao lưu với những nhà cách
mạng Trung Quốc có mặt tại Nhật Bản như Lương Khải Siêu, với những tri
13
thức tiến bộ của Nhật Bản và cả những chính trị gia của Nhật Bản như Đại Ôi
Trọng Tín, Chủ tịch Đảng Tiến bộ, Đại Dưỡng Nghi, Phúc Đảo và Cung Kỳ...
Phan Bội Châu còn tiến hành nghiên cứu Kinh tế và chính trị hiện đại của
Nhật Bản, thảo luận nhiều vấn đề về con đường và tiến trình của cách mạng
Việt Nam, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế đối với cuộc đấu tranh giành độc lập dân
tộc ở Việt Nam. Bên cạnh đó sự ảnh hưởng của Tân văn, Tân thư bằng chữ Hán
chuyển tải lý luận của các tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây, và tư tưởng của
các nhà Duy Tân Trung Quốc, với sự xâm nhập mạnh mẽ của tư tưởng Tân
văn, Tân thư đã làm thay đổi sâu sắc tư tưởng của các sĩ phu yêu nước ở Việt
Nam. Những kinh nghiệm quý báu mà Nhật Bản để lại không những có một
sức hấp dẫn đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam, tinh
thần Duy Tân để tự cường vẫn còn nguyên giá trị và ý nghĩa về mặt hiện thực
của nó. Hình ảnh Nhật Bản Duy Tân tự cường thoát ra được quỷ đạo thuộc địa
của chủ nghĩa tư bản và hình ảnh một nước Nhật tiên tiến hiện đại chiến thắng
trong cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa Nga - Nhật, những kỳ tích Châu Á đã
in sâu trong tâm trí của cách mạng Việt Nam. Trước sự biến đổi mạnh mẽ của
thế giới và khu vực, các sĩ phu yêu nước Việt Nam đã thức tỉnh, với sự ảnh
hưởng không nhỏ của Tân văn, Tân Thư đã trở thành nguồn tri thức mới lạ giúp
các nhà Duy Tân mở mang tầm nhìn hướng đến mục đích cao cả tự chủ, tự
cường để giải phóng dân tộc. Nhật Bản và Trung Quốc đã trở thành những tấm
gương Duy Tân lôi cuốn các sĩ phu yêu nước, tấm gương về sức mạnh dân tộc,
bản lĩnh dân tộc để cho những người theo chủ nghĩa dân tộc, những người canh
cánh bên lòng nỗi đau mất nước học tập và đi theo, tiến lên giải phóng dân tộc
đưa đất nước thoát khỏi nô lệ, đói nghèo...
Ảnh hưởng của phong trào Châu Á thức tỉnh thể hiện rõ trong ý chí quyết
tâm của các sĩ phu yêu nước, muốn đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, nô lệ
thực dân không có con đường nào khác ngoài con đường Duy Tân mà đặc biệt
Duy Tân về kinh tế. Trong cuộc khảo sát tình hình thực tế phát triển của nước
Nhật sau 40 năm cuộc Duy Tân chính thức được tiến hành, từ những bài học
của Nhật Bản các sĩ phu tin rằng Việt Nam sẽ nối gót phát triển theo Nhật sau
14
khi tiến hành Duy Tân “Sau cuộc Duy Tân rồi thì tư cách nội trị, quyền lợi
ngoài giao đều do ta nắm giữ. Sự nghiệp văn minh ngày càng tiến bộ, phạm vi
thế lực ngày càng mở mang. Sau khi Duy Tân rồi dân trí sẽ mở mang, dân khí
sẽ lớn mạnh, dân quyền sẽ phát đạt, vận mệnh nước ta do dân ta nắm giữ.
Nước Nhật Bản bây giờ cũng như nước Việt Nam sau này vậy”. [57, tr.273]
Sự thức tỉnh của Châu Á cùng với phong trào cách mạng tư sản dân chủ ở
Đông Âu, bắt đầu từ cách mạng Nga 1905 tạo thành một cao trào thức tỉnh cả
phương Đông. Cao trào cách mạng này đã làm cho hàng triệu nhân dân bị áp
bức, chìm đắm trong trạng thái đình đốn thời trung cổ đã thức dậy, đòi hỏi một
cuộc đổi mới, đấu tranh để giành quyền tối thiểu cho con người - quyền dân
chủ
Các sĩ phu yêu nước nhận ra rằng: “Muốn mở rộng cuộc vận động cách
mạng phải chấn hưng kinh tế, xuất bản sách báo, lập các đoàn thể để nâng cao
lòng yêu nước căm thù giặc, trình độ văn hóa, trình độ chính trị trong nhân
dân”. [72, Tr 141] Việc thành lập các nông, công, thương học hội cũng là chủ
trương của các sĩ phu theo xu hướng Duy Tân và họ đã tiến hành thành lập các
hội này từ khá sớm, tiêu biểu thành lập công ty Liên thành và trường Dục
Thanh ở Ninh Thuận trong cuộc “Nam du”của ba chí sĩ: Phan Chu Trinh,
Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp.
Ở Quảng Nam Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng...đã thành lập nhiều
hội thương, hội nông, hội học để hiện thực hóa chủ trương “khai dân trí chấn
dân khí, hậu dân sinh” chủ trương này Phan Chu Trinh khởi xướng.
Những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, cùng với việc tiếp nhận những
ý tưởng cải cách của các sĩ phu yêu nước mà nội dung cốt lõi là học tập các
nước phương Tây, Nhật Bản để canh tân đất nước làm cho “Phú quốc, cường
binh”, ảnh hưởng của khu vực Đông Á cũng đã có tác động to lớn đến Việt
Nam, đặc biệt Duy Tân của Nhật Bản và cuộc cải cách của Trung Quốc. Tân
Văn, Tân thư được truyền bá mạnh mẽ vào nước ta và được các sĩ phu yêu
nước hồ hởi đón nhận như một luồng gió mới. Theo ghi nhận của Đặng Thai
15
Mai, các sĩ phu yêu nước đầu thế kỉ XX có thái độ tích cực trong việc tiếp nhận
Tân văn, Tân thư và có vai trò to lớn trong việc chuyển biến nhận thức của họ.
Đối với tầng lớp sĩ phu thì lịch sử cách mạng nước Pháp, lịch sử thống
nhất nước Đức, lịch sử Duy Tân nước Nhật, lịch sử tư tưởng tây Âu...hồi này là
sách gối giường...Tư tưởng Tây Âu, đặc biệt là triết học thế kỉ XVIII nước
Pháp, mở rộng tầm mắt của những con người lâu nay vẫn thừa nhận đạo Khổng
Mạnh làm “nghĩa địa, thiên kinh” mọi người say sưa nghiền ngẩm tác phẩm
Mạnh Đức Tư Cưu (Montesquieu), Phúc Lộc Đắc Nhỉ (Voltaire), Lư
Thoa(Rousseau) theo bản dịch ra chữ Hán của người Trung Quốc.
Báo Thần Chung ra ngày 25.1.1929 một lần nữa xác nhận ảnh hưởng to
lớn của Khang Hữu Vi và Lương Khả Siêu cùng với những trước tác của họ đối
với các sĩ phu yêu nước Tập ẩm băng thất của Lương tiên sinh “đối với các sĩ
phu yêu nước ta chẳng khác chi thuốc hay với người mang bệnh trầm kha”.
Còn Trung Quốc hồn của Lương là “tập sách mười trang mà thay đổi lòng
người như chớp, tập sách nói chuyện nước Tàu mà 20 triệu dân Nam ta phấn
khởi”. [2, tr. 234]
Những nội dung tiến bộ của nó đã làm thay đổi to lớn trong nhận thức của
các sĩ phu yêu nước. Đó cũng là điều kiện để các sĩ phu gần gủi hơn với các tri
thức Tây học, các sĩ phu yêu nước họ đón nhận những lý luận chính trị tư tưởng
triết học và quan điểm đạo đức đó như một thứ vũ khí mới để áp dụng trong
cuộc đấu tranh của mình. Với quy luật “Cường thắng, liệt bại” thì các sĩ phu
yêu nước đã đề ra củ trường Duy Tân kinh tế, văn hóa...tự lực, tự cường đưa
đất nước vươn lên thoát khỏi ách nô lệ của chủ nghĩa thực dân, từ đó tìm ra
được những hướng mới cho phong trào yêu nước, tìm ra những nội lực mới cho
công cuộc giải phóng dân tộc.
Cho đến trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất các phong trào dân tộc dân
chủ theo hệ tư sản đều thất bại song chúng ta có thể thấy rằng các sĩ phu yêu
nước đã dứt khoát với chủ nghĩa “Tôn quân” phê phán và đã phá nền nho học
và từ bỏ con đường cử nghiệp. Họ hành động với một tư duy độc lập và đầy
sáng tạo, đã dẫn dắt dân tộc qua chặng đường nguy khốn. Họ đã tiến hành
16
chuyển giao thế hệ một cách tốt đẹp để chuẩn bị cho một phong trào dân tộc
rầm rộ hơn, mới mẻ hơn, quyết liệt hơn và phù hợp hơn, đưa nước nhà hòa
nhập sâu hơn vào tình hình thế giới. Họ ý thức rõ sự lỗi thời của thiết chế củ
không còn phù hợp với con đường cứu nước hiện tại đó là những tiền đề hình
thành một khuynh hướng cách mạng mới, khuynh hướng cứu nước mới kết hợp
cứu nước với Duy Tân, phát triển đất nước theo con đường văn minh tư sản.
Như vậy, chủ trương Duy Tân về kinh tế của các sĩ phu yêu nước đầu thế
kỉ XX là một cuộc vận động nhằm mục tiêu cứu nước, xây dựng nền móng dân
chủ, dân quyền ở Việt Nam đồng thời phát triển nền kinh tế Việt Nam theo
gương các nước tiên tiến. Như nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân đánh giá “Có
thể nói phong trào Duy Tân là toàn diện là thực sự Duy Tân theo bóng cờ dân
quyền chứ không phải là vá víu cải lương, hơn thế những nhân vật đã phục vụ
bằng tâm huyết, bằng tinh thần cách mạng để quyết tâm làm mới con người,
làm mới xã hội. Từ đầu thế kỉ đến năm 1945 chưa hề có một phong trào thứ hai
có tính toàn diên và phát triển khắp 3 kỳ như thế”. Trào lưu châu Á thức tỉnh
ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội Việt Nam đặc biệt vấn đề kinh tế học được thể
hiện sâu sắc trong Quốc dân độc bản, một trong những cuốn sách giáo khoa
trọng yếu nhất của trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Đây là một tập sách đầy đặn
nhất, đề cập đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Nó toát lên khát vọng và tinh
thần Duy Tân toàn diện của các sĩ phu yêu nước. Trong nhiều khía cạnh mà
cuốn sách đề cập tới thì những vấn đề về kinh tế học có một vị trí khá nổi trội.
Trong 79 bài của Quốc dân độc bản thì có tới 24 bài (từ bài 56 đến bài 79) đề
cập trực tiếp đến các vấn đề thuộc về kinh tế học. Vấn đề này được các sĩ phu
tham khảo từ các sách Tân văn, Tân thư và Tân báo (từ Trung Quốc, Nhật
Bản), các sách báo kinh tế của người Pháp, và từ chính các vấn đề kinh tế nổi
cộm đang diễn ra ở Việt Nam lúc đó. Trong các luận điểm về kinh tế mà các
soạn giả nêu ra, họ nêu khá nhiều dẫn chứng từ các nước Âu - Mỹ, Trung
Quốc, Nhật Bản và Việt Nam. Các vấn đề về kinh tế học được biên soạn một
cách công phu và có nội dung rất mới lạ và hấp dẫn. Đây chính là nguồn động
viên cũng có niềm tin của các sĩ phu yêu nước vào con đường cách mạng tư
17
sản, kết hợp cứu nước với Duy Tân phát triển theo con đường văn minh tư sản.
Đó là trào lưu Duy Tân cải cách đầu thế kỉ XX.
1.4. Sự ra đời của phong trào Duy Tân Việt Nam đầu thế kỷ XX
Nửa cuối thế kỷ XIX hàng loạt các phong trào cải cách Duy Tân ra đời và
được đánh giá là một thời kỳ rầm rộ nhất, có sức lan rộng mạnh mẽ nhất trong
suốt một giai đoạn lịch sử. Để hiểu được nội dung những cải cách trong giai
đoạn này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu sâu hơn về phong trào cải cách Duy Tân
những năm đầu thế kỉ XX, đặc biệt tư tưởng cải cách Duy Tân về kinh tế của
các sĩ phu yêu nước.
Sự hình thành phong trào Duy tân về kinh tế ở Việt Nam đầu thế kỷ XIX
bắt nguồn từ nhiều nhân tố: do tác động của chính sách thống trị và khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp dẫn đến chuyển biến về mặt kinh tế - xã hội, ảnh
hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản, của trào lưu Châu Á thức tỉnh, yêu cầu của
sự nghiệp giải phóng dân tộc...
Đầu thế kỉ XX, ở Việt Nam đã ra đời một khuynh hướng cứu nước mới
(trào lưu dân chủ tư sản), đó là đường lối chống chủ nghĩa thực dân nhằm giành
lại độc lập dân tộc, tự chủ và lập ra chính thể quân chủ lập hiến hay cộng hòa
dân chủ, đưa nước nhà phát triển theo mô hình các nước tiên tiến phương Tây.
Tư tưởng dân chủ tư sản đã xuất hiện từ lâu ở các nước Âu - Mĩ, đối với
phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng vào đầu thế kỉ XX thì tư tưởng
dân chủ tư sản được xem là cần thiết, tiến bộ và có ý nghĩa của nó. Trong khi
xã hội Việt Nam chưa nảy sinh được một giai cấp tư sản có đầy đủ khả năng để
tiếp thu và thực hành một cuộc cách mạng xã hội tiến bộ thì những sĩ phu yêu
nước là những người tiếp nối trực tiếp phong trào vũ trang chống Pháp cuối thế
kỉ XIX, đã đứng ra tiếp nhận truyền bá tư tưởng dân chủ tư sản ở phương Tây
vào nước ta.
Chính vì vậy, vào năm 1903 một số sĩ phu yêu nước như Phan Chu Trinh,
Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp... đã đứng ra vận động phong trào Duy Tân
bắt đầu từ Quảng Nam sau đó lan rộng ra cả nước với mục đích “Khai dân trí,
chấn dân khí, hậu dân sinh”.
18
Khai dân trí: mở mang trí não cho dân, bỏ lối học cũ chạy theo khoa cử,
mở trường dạy chữ quốc ngữ và những kiến thức khoa học, tuyên truyền lối
sống văn minh, bài trừ những hủ tục lạc hậu...
Chấn dân khí: thức tỉnh tinh thần tự lực, tự cường, làm cho nhân dân giác
ngộ được quyền lợi của mình, kiên quyết dũng cảm đứng lên chống đế quốc và
tay sai, thoát khỏi áp bức của xã hội chuyên chế.
Hậu dân sinh: chăm lo đời sống cho dân, bằng cách phát triển kinh tế đất
nước, chỉ cho dân cách làm ăn như khai khẩn đất hoang, làm vườn, lập hội
buôn, sản xuất hàng hóa...hoạt động Duy Tân về kinh tế của các sĩ phu yêu
nước thực chất đây là hoạt động chấn hưng thực nghiệp, hưởng ứng phong trào
Duy Tân đổi mới kinh tế, nhằm xây dựng một nền kinh tế tự cường dân tộc,
mang lại khởi sắc cho nền kinh tế dân tộc.
Hưởng ứng phong trào Duy Tân về kinh tế, hoạt động chấn hưng thực
nghiệp đã được các sĩ phu yêu nước phát động và thực hành rộng khắp cả nước.
Các sĩ phu yêu nước chủ trương phải kết hợp cứu nước với Duy Tân, cải
tạo xã hội Việt Nam cũ, xây dựng một nước Việt Nam mới theo hình ảnh của
các nước phương Tây tiên tiến. Để đạt được mục tiêu trên, không chỉ bằng bạo
động mà phải kết hợp với cải cách Duy Tân. Hoạt động chấn hưng thực nghiệp
bắt đầu từ Quảng Nam sau đó lan ra các tỉnh, trở thành phong trào ở Bắc Kì và
Nam Kì từ năm 1907 với sự ra đời của Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) và
phong trào Minh Tân (1907 - 1908). Hoạt động chấn hưng thực nghiệp ở Nam
Kì dựa trên nền tảng công cuộc Minh Tân đã diễn ra mạnh mẽ sôi nổi gắn liền
với những tên tuổi tiêu biểu như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Trần Chánh
Chiếu, Nguyễn An Khương, Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Thành Út... Cuộc
Minh Tân khởi phát từ năm 1901 đến năm 1907 thì bùng phát thành phong
trào. Nhưng đến năm 1908 thì cuộc Minh Tân suy yếu vì người đứng đầu là
Trần Chánh Chiếu bị bắt giam.
Do có những điều kiện lịch sử khác nhau so với Trung Kì và Bắc Kì nên
phong trào Duy Tân ở Nam Kì có nhiều nét khác so với cả nước. Sự khác biệt
19
đó thể hiện ở tên gọi, ở Nam Kì phong trào Duy Tân mang một tên gọi khác đó
là cuộc Minh Tân; khác biệt ở quy mô, phương thức và thành phần lãnh đạo.
Căn cứ theo quyển Minh Tân tiểu thuyết do Trần Chánh Chiếu biên soạn
thì tên Hội Minh Tân lấy theo chữ trong sách đại học đó là “minh minh đức”
(làm cho sáng đức sáng) và “tác tân dân” (đổi mới cho dân). Từ ý nghĩa đó,
Hội Minh Tân đã đề ra mục đích cụ thể cho phong trào là : “phát triển công
thương nghiệp, mở mang trường học, sửa đổi phong tục là những vấn đề tương
quan nhau để đạt được mục đích sau cùng là đánh đổ ách thống trị của thực
dân Pháp, thành lập chế độ quân chủ lập hiến”. Đây là sự kết nối của phong
trào Đông Du và phong trào Duy Tân, chủ trương cải cách xã hội, chấn hưng
dân trí, bồi dưỡng dân khí và phát triển công thương, cạnh tranh với tư bản
Pháp và tư bản Hoa Kiều nhằm đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập cho đất
nước, phát triển đất nước theo hình ảnh của các nước phương Tây tiên tiến.
Trên cơ sở này Hội Minh Tân mong giúp người Việt có thể tự mình kinh
doanh cho phù hợp với đà tiến hóa chung của xã hội.
Để thực hiện mục đích trên những người lãnh đạo chủ chốt của Hội Minh
Tân như Trần Chánh Chiếu (1867 - 1919), Nguyễn An Khương (1860 - 1931),
Nguyễn Chánh Sắt (1869 - 1947)... đã cho xuất bản hai tờ báo là Nông cổ mín
đàm và Lục tỉnh tân văn để tuyên truyền, vận động nhân dân.
Đến mùa hè năm 1907, Trần Chánh Chiếu sang Hồng Kông (Hương
Cảng) để thăm con là Trần Chánh Tuyết đang du học, sau đó sang Nhật và có
gặp Phan Bội Châu để bàn luận công việc, từ đó về nước tích cực hoạt động
cho phong trào Đông Du và Duy Tân, làm cho cuộc vận động Minh Tân bùng
phát thành phong trào rộng lớn, thu hút đông đảo các thành phần tham gia, góp
vốn kinh doanh vì mục đích phát triển công thương nghiệp dân tộc, đa số là tiểu
điền chủ, hương chức, nông dân, tiểu thương khắp các tỉnh Nam Kì. Các cơ sở
công thương nghiệp từng bước được hình thành với quy mô và hình thức cao
hơn Bắc Kì và Trung Kì.
Vì mục đích cải thiện đời sống của nhân dân, khôi phục và phát triển kinh
tế đất nước dưới thời nô lệ, nhằm tiến lên giải phóng dân tộc, giành lại quyền
20
dân chủ, tự do cho con người, các sĩ phu yêu nước đã tập hợp quần chúng bằng
cách lập ra “hội nông”, “hội thương” để nhằm đi đến mục đích “Dĩ thương
hợp quần” tập hợp quần chúng nhân dân để thực hiện nhiệm vụ dân tộc.
Các sĩ phu yêu nước trong phong trào Duy Tân quan niệm muốn “khai trí
trợ sinh”, “tự trị” thì phải chú trọng mở mang kinh tế, lập hội thương làm tiền
đề dân sinh, không để dân giàu thì không có có con đường nào đạt đến mục
đích tự trị được, do vậy Duy Tân về kinh tế là một hình thức cứu nước, yêu
nước phải kinh doanh, kinh doanh là bổn phận của những người yêu nước:
“ Khắp thân sĩ ba kỳ Nam Bắc,
Bổng giật mình sực tỉnh cơn mê.
Học thương xoay đủ mọi nghề
Cái hồn ái quốc gọi về cho mau.”
(Nam thiên phong vân ca)
Duy Tân kinh tế vì mục đích cứu nước là một hoạt động yêu nước thể hiện
rõ trên lĩnh vực kinh tế, một con đường cứu nước mới phù hợp văn hóa, văn
minh hiện đại, kinh doanh với mục đích yêu nước phải xây dựng trên danh
nghĩa đồng bào, kinh doanh không vì lợi ích cá nhân, phải mang lại lợi ích cho
toàn thể dân tộc, nền kinh tế vững mạnh là yếu tố thuận lợi, quyết định trên con
đường giải phóng dân tộc, muốn giành được độc lập dân tộc thì yếu tố kinh tế
dân tộc mang tính quyết định.
Các sĩ phu muốn tiến hành một cuộc cải cách về kinh tế, để từ đó tiến
hành làm một cuộc cách mạng chính trị giành lại quyền dân chủ cho con người,
Phan Chu Trinh quan niệm rằng ở trên đời này muốn phong lưu phú quý thì rũ
nhau mà buôn bán, sản xuất nông nghiệp là sẽ có ngày giàu sang. Nhưng “phát
triển kinh tế không chỉ mang lại lợi ích cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mà cho
cả sự phồn vinh, thịnh vượng của dân tộc, quốc gia. [82, tr.27] Duy tân về kinh
tế là nhu cầu bức thiết, các sĩ phu vận động khuyến khích nhân dân phát triển
kinh tế bằng khả năng và điều kiện vốn có của mình bên cạnh đó còn phát triển
các “thương hội”, “nông hội”để nhân dân có điều kiện góp vốn làm ăn, mang
lại nguồn lợi nhuận cao, kinh tế phát triển, khi chúng ta giàu mạnh thì chúng ta
21
mới đủ tiềm lực để đánh đổ đế quốc Pháp giành độc lập cho dân tộc và canh tân
đất nước để phát triển sự tiến bộ của thế giới.
Với mục đích “phú quốc, cường dân” các các sĩ phu yêu nước họ đi đến
tuyên truyền vận động và dựa vào lòng yêu nước của quần chúng nhân dân để
kêu gọi vận động nhân dân cùng tham đây chính là hoạt động có ý nghĩa quyết
định đối với phong trào giải phóng dân tộc...
Phong trào Duy tân cải cách ở Việt Nam mang màu sắc riêng biệt, đó là
giai cấp lãnh đạo phong trào không phải là những nhà tri thức tư sản Tây học
mà là những sĩ phu yêu nước xuất thân từ nền giáo dục nho học, có tinh thần
yêu nước là tầng lớp nhiệt tình cách mạng, đó là giải nguyên Phan Bội Châu,
Phó bảng Phan Chu Trinh, Tiến sĩ Trần Quý Cáp, tiến sĩ Huỳnh Thúc Kháng,
cử nhân Lương Văn Can, Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền....Có người từng
tham gia lãnh đạo phong trào Cần Vương, có người đi theo thực dân Pháp phục
thiện....trong bối cảnh cả dân tộc đang đắm chìm trong nô lệ của chủ nghĩa thực
dân, trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây như một luồng khí mới, giúp
họ vượt qua giới hạn của giai cấp “tháo củi sổ lồng”, “quên ăn, quên ngủ”
vươn lên làm cách mạng. Như chí sĩ Huỳnh Thúc kháng nhận xét: “ Địa ngục
mấy tầng, ngọn triều âu trào vào bốn mặt, đồng nội mịt mù, đêm dài vằng vặc,
bổng đâu gà gáy lên một tiếng, giấc mộng quần chúng thoạt tỉnh giấc...” [22,
Tr.106]. Phát triển kinh tế là điều kiện thuận lợi để nâng cao dân trí, đó là tư
tưởng hậu dân sinh, tức là phải làm cho cuộc sống của nhân dân ngày càng đầy
đủ, tiến tới văn minh, làm cho mọi người biết phát triển kinh tế, mở mang
ngành nghề, mang lại cuộc sống ấm no hạnh phúc. Tư tưởng về kinh tế và làm
kinh tế là tư tưởng hoàn toàn xa lại với tư tưởng của nho sĩ truyền thống nhưng
đối với các sĩ phu yêu nước tiến bộ đầu thế kỉ XX, tư tưởng kinh tế đã hình
thành và phát triển với nhiều nội dung phong phú. Các sĩ phu cho rằng kinh tế
phát triển là điều kiện thuận lợi để nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí.
Chính những yêu cầu của xã hội thời bấy giờ cùng với cuộc sống vô cùng
khó khăn của nhân dân, dưới sự áp bức bóc lột của chủ nghĩa thực dân, các sĩ
phu yêu nước tiến bộ họ không thể khoanh tay đứng nhìn mà họ đã dám nhấn
22
thân vào công cuộc cải cách, phát triển kinh tế đất nước dưới nhiều hình thức,
có thể chỉ là tư tưởng nhưng chưa có thời cơ và điều kiện để biến tư tưởng
thành hiện thực song với nhiệt huyết, lòng yêu nước nồng nàn, muốn giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài việc tự chủ nền kinh tế,
kinh tế quyết định đến vận mệnh của dân tộc. Chủ trương Duy tân về kinh tế ra
đời phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, các sĩ phu yêu nước đã cống
hiến hết sức mình cho dân tộc, với mong muốn giải phóng dân tộc khỏi ách nô
lệ thực dân.
Các sĩ phu yêu nước thời bấy giờ họ mang trong mình lòng yêu nước,
thương nòi. Đứng trước vận mệnh dân tộc đang quằn quại trong ách thống trị
của thực dân, họ sôi sục nhiệt huyết, tìm mọi cách hoạt động để giành độc lập,
tự do. Phong trào Duy tân về kinh tế phát triển rầm rộ đáp ứng lòng mong
muốn của tầng lớp tư sản và tiểu tư sản Việt Nam đang hình thành, vì sự háo
hức, say sưa của các sĩ phu yêu nước đang tìm phương hướng cứu nước mới.
Đó là những tiền đề thiết yếu có lợi cho phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc trong giai đoạn mới, thúc đẩy sự chuyển biến tư tưởng con người, kích
thích tinh thần dân tộc. Tất cả các hoạt động từ cải cách, Duy Tân...đều nhằm
đi đến đề cao lòng yêu nước, ý thức đoàn kết đánh giặc, tự lực, tự cường, thì
mới có thể chiến thắng được mọi kẻ thù, mang lại đời sống ấm no cho dân tộc.
Có thể nói, Phong trào Duy tân về kinh tế của các sĩ phu yêu nước tiến bộ
ở Việt Nam đầu thế kỉ XX là một cuộc vận động nhằm mục tiêu cứu nước, xây
dựng nền móng dân chủ, dân quyền ở Việt Nam, đồng thời phát triển kinh tế
Việt Nam theo gương các nước tiên tiến. Như nhà nghiên cứu Nguyễn Văn
Xuân đánh giá: “có thể nói phong trào Duy Tân là toàn diện là thực sự Duy
Tân theo bóng cờ dân quyền, chứ không phải là những vá víu cải lương, hơn
thế những nhân vật đã phục vụ bằng tâm huyết, bằng tinh thần cách mạng để
quyết tâm làm mới con người, làm mới xã hội. Từ đầu thế kỉ đến năm 1945
chưa hề có một phong trào thứ hai có tính toàn diện và phát triển rộng khắp ba
kỳ như thế” [39, tr.9]. Giải phóng dân tộc là yêu cầu cấp bách do lịch sử đặt ra,
độc lập dân tộc là động lực chính yếu, nó trở thành mệnh lệnh trái tim của
23
người dân Việt Nam nói chung và các sĩ phu yêu nước nói riêng, những người
mà nhân dân đặt vào đó nhiều kỳ vọng, chính sự ra đời phong trào Duy Tân về
kinh tế tạo nên mọi chuyển biến sâu sắc trên mọi bình diện xã hội, tư duy kinh
tế của người dân Việt Nam có bước phát triển vượt bậc. Cạnh tranh được coi là
động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội, một phương thức sinh tồn trong một thế
giới mạnh được - yếu thua, một biểu hiện của văn minh. Các cường quốc
phương Tây mạnh vì họ sớm biết cạnh tranh: “Cái sức mạnh cạnh tranh của
các nước phú cường như lửa đang nồng, như than đang nóng, nung đúc lên
những cái lò văn minh rực rỡ mà những cái thói mê lậu hủ bại ở khắp nơi cũng
phải chịu ảnh hưởng ấy mà dần dần tiêu diệt hết”. Đối với tư sản Việt Nam nói
riêng và người dân nói chung cạnh tranh chính là biện pháp hữu hiệu để bảo vệ
không gian sinh tồn. Cạnh tranh kinh tế được coi là khâu đột phá bởi vì thế các
sĩ phu yêu nước nhận thấy rõ kinh tế là yếu tố có vai trò quan trọng, muốn giải
phóng dân tộc đòi hỏi phải chấn hưng lại nền kinh tế dân tộc chính yếu tố đó đã
đưa đến sự ra đời của phong trào Duy Tân về kinh tế mà thực chất đó chính là
phong trào của hoạt động chấn hưng thực nghiệp.
24