ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
---------------
ĐOÀN THỊ MAI SANG
TÌNH YÊU TRONG THƠ NÔM
THẾ KỶ XV ĐẾN THẾ KỶ XIX
DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA DÂN GIAN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Huế, năm 2016
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢ ỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
---------------
ĐOÀN THỊ MAI SANG
TÌNH YÊU TRONG THƠ NÔM
THẾ KỶ XV ĐẾN THẾ KỶ XIX
DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA DÂN GIAN
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số : 60220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGÔ THỜI ĐÔN
Huế, năm 2016
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các
số liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực, được các
đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng công bố trong bất kỳ một
công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Đoàn Thị Mai Sang
ii
Lời Cảm Ơn
Hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân, tôi đã
nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo và những người thân.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình đối với Thầy giáo
GVC. TS.Ngô Thời Đôn - người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tận tình
tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn. Xin gửi lời tri
ân chân thành đến thầy.
Xin bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể quý Thầy, Cô trong Khoa Ngữ
Văn của Trường Đại học Sư phạm Huế đã tận tình truyền đạt những kiến
thức quý báu, cũng như tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình
học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô trong Thư viện Trường Đại học Sư
phạm Huế đã giúp đỡ tôi rất nhiều để tôi có thể hoàn thành tốt luận văn này.
Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với gia đình, bạn
bè, và đồng nghiệp đã hết sức tạo điều kiện giúp đỡ, động viên, khích lệ tôi
về vật chất cũng như tinh thần để tôi có điều kiện học tập, nghiên cứu tốt.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Thành phố Huế, ngày 09 tháng 09 năm 2016
Tác giả
Đoàn Thò Mai Sang
iii
MỤC LỤC
Trang phụ bìa ............................................................................................................ i
LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................... ii
LỜI CẢM ƠN .......................................................................................................... iii
MỤC LỤC ..................................................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................3
1. Mục đích, ý nghĩa đề tài ......................................................................................3
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................5
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ...........................................................................7
4. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................8
5. Đóng góp của luận văn ........................................................................................8
6. Cấu trúc của luận văn ..........................................................................................9
PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................................10
Chƣơng 1 VĂN HÓA DÂN GIAN VỚI CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU TRONG THƠ
NÔM THẾ KỶ XV ĐẾN THẾ KỶ XIX ...............................................................10
1.1. Văn hóa dân gian Việt Nam về tình yêu và mối quan hệ văn hóa - văn học..10
1.1.1. Vài nét về văn hóa dân tộc Việt Nam về tình yêu trong buổi đầu ...........10
1.1.2. Văn học trong mối quan hệ với văn hóa dân gian ....................................11
1.1.2.1. Văn hóa dân gian là nền tảng của văn học dân gian ..........................11
1.1.2.2. Văn hóa dân gian là cội nguồn tư tưởng của văn học ........................12
1.2. Sự thể hiện chủ đề tình yêu trong văn học dân gian .......................................13
1.2.1. Những nội dung chủ đề tình yêu trong văn học dân gian ........................13
1.2.1.1. Về mặt sinh lý ....................................................................................13
1.2.1.2.Về mặt tâm lý ......................................................................................14
1.2.1.3. Về mặt tâm linh ..................................................................................19
1.2.2. Hình thức thể hiện chủ đề tình yêu trong văn học dân gian .....................21
1.2.2.1. Kết thúc có hậu ..................................................................................21
1.2.2.2. Ngôn từ diễn đạt.................................................................................23
1.2.2.3. Thể thơ dân gian ................................................................................25
1
1.3. Sự đồng cảm của dân gian trước chủ đề tình yêu của văn chương trung đại .26
Chƣơng 2 NỘI DUNG THỂ HIỆN TÌNH YÊU TRONG THƠ NÔM THẾ KỶ
XV ĐẾN THẾ KỶ XIX DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA DÂN GIAN ................35
2.1. Tình yêu trong hồn điệu dân tộc .....................................................................35
2.1.1. Ánh mắt đầu tiên - sự khởi nguồn cho một tình yêu đẹp .........................35
2.1.2. Sự chủ động - một nhân tố quan trọng để xây dựng tình yêu ..................38
2.1.3. Trái tim - nhịp đập dẫn đường cho tình yêu đẹp ......................................44
2.2. Tinh thần dân tộc về tình yêu trước sự hà khắc của lễ giáo phong kiến ........46
2.2.1. Tình yêu lứa đôi và những sóng gió, trắc trở ...........................................47
2.2.2. Hi sinh chính mình để bảo vệ tình yêu lứa đôi.........................................52
2.2.3. Hạnh phúc lứa đôi sau những trắc trở ......................................................54
2.3. Những khát vọng tình yêu trong tâm hồn và hạnh phúc ái ân ........................55
2.3.1. Khát vọng tình yêu đẹp trong tâm hồn .....................................................55
2.3.2. Khát vọng hạnh phúc ái ân .......................................................................58
Chƣơng 3 PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU TRONG THƠ
NÔM THẾ KỶ XV ĐẾN THẾ KỶ XIX DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA DÂN
GIAN ........................................................................................................................66
3.1. Kết cấu thơ Nôm .............................................................................................66
3.1.1. Kết cấu gặp gỡ - tai biến - đoàn viên .......................................................66
3.1.2. Kết thúc có hậu .........................................................................................69
3.2. Sự vận dụng ngôn ngữ văn học dân gian ........................................................73
3.3. Xây dựng hình tượng nhân vật mang đậm chất dân gian ...............................81
PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................................90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................93
PHỤ LỤC
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa đề tài
Trong cuộc đời mỗi người, ai cũng đều đã ít nhất một lần được trải nghiệm tình
yêu - yêu và được yêu. Tình yêu luôn ẩn chứa trong nó một sức mạnh vô hình nhưng
cũng hết sức mạnh mẽ. Với vẻ đẹp bất tận của nó, tình yêu là một chủ đề muôn thuở,
tồn tại song hành cùng thời gian mà tất các ngành nghệ thuật đều hướng đến.
Sự đẹp đẽ và thiêng liêng của tình yêu vốn đã được cha ông chúng ta nhận ra
và ca ngợi từ lâu. Vượt qua mọi thời đại, tình yêu mãi mãi là đề tài vĩnh cửu và
chiếm một vị trí quan trọng hàng đầu trong văn học thế giới. Tình yêu là sự rung
cảm và quyến luyến sâu sắc giữa hai người khác giới. Ở họ có sự đồng điệu về tâm
hồn làm cho họ có nhu cầu gần gũi, gắn bó với nhau, tự nguyện sống vì nhau và sẵn
sàng hiến dâng cho nhau cuộc sống của mình. Tình yêu trong những bài thơ trang
văn hướng ta đến những khát khao, những ước vọng tốt đẹp trong cuộc sống, giúp
ta vượt qua những khó khăn, trắc trở, khiến cho ta thêm động lực để giữ vững niềm
tin trên con đường đi tìm hạnh phúc.
Tình yêu vẫn luôn là một đề tài muôn thuở của văn học ở mọi giai đoạn từ
văn học dân gian truyền miệng đến nền văn học viết từ xưa đến nay. Đã mang trong
mình dòng máu dân tộc Việt Nam thì thật thiếu sót nếu ta không nhớ đến kho tàng
văn chương của cha ông từ ngàn xưa để lại các sáng tác về tình yêu trong văn học
trung đại, đặc biệt là những bài thơ Nôm. Trong di sản văn học dân tộc, thơ Nôm
chiếm một vị trí quan trọng hàng đầu, lại giàu tính đặc trưng của văn hóa và văn học
Việt Nam. Thơ Nôm được xem là một bộ phận văn học độc đáo, nó có một vị trí
quan trọng trong văn học trung đại Việt Nam. Có thể nói, thơ Nôm ra đời là một
bước nhảy vọt của thơ ca Việt Nam, là bộ phận văn học mang đậm những giá trị văn
hóa dân tộc, góp phần phản ánh sinh động, cụ thể diện mạo và đặc điểm văn hóa
dân tộc thời phong kiến.
Văn học phản ánh cuộc sống con người vì thế địa hạt tình yêu trở thành
mảnh đất màu mỡ cho văn học, trong đó văn học trung đại đóng góp khối lượng lớn
những tác phẩm viết về tình yêu đôi lứa, tình nghĩa vợ chồng. Từ những tác giả
3
khuyết danh đến các tác giả hữu danh như nữ sĩ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Huy Tự,
Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu….đều để lại cho hậu thế những tuyệt tác về tình
yêu. Thơ Nôm về chủ đề tình yêu đã xuất hiện trong văn học Trung đại từ rất sớm,
những tác phẩm đầu tiên tuy xuất hiện với số lượng còn ít, nội dung chưa sâu sắc
nhưng cũng đã để lại một dấu ấn nhất định trong dòng chảy văn học. Qua thơ Nôm,
chúng ta có thể tìm hiểu về nếp sống, phong tục, truyền thống văn hóa…của dân
tộc mình. Những bài thơ Nôm về tình yêu thể hiện rất rõ đời sống tình cảm, quan
niệm và cách ứng xử của cha ông trong tình yêu. Đến thế kỉ XVIII về sau, có thể
nói đây là thời kì nở rộ của Thơ Nôm về chủ đề tình yêu. Nhiều tác phẩm thơ Nôm
ra đời đã mang lại giá trị to lớn, ý nghĩa sâu sắc trong việc bộc lộ tình cảm, tình yêu
mà con người trao tặng cho nhau, tình yêu với đủ các cung bậc cảm xúc. Chúng ta
có quyền tự hào về những tác phẩm bất hủ về tình yêu như Truyện Kiều, Phạm TảiNgọc Hoa, Phạm Công-Cúc Hoa, Sơ kính tân trang, …Trong những kiệt tác thơ
Nôm ấy, có rất nhiều tác phẩm được chuyển tải thành phim hay dịch sang tiếng
nước ngoài và nhận được sự ủng hộ, đánh giá cao của bạn đọc quốc tế.
Để làm nên những thành tựu to lớn ấy, phải nói đến sự đóng góp của nền
tảng văn học dân gian. Chính văn học dân gian đã góp những viên gạch đầu tiên cho
sự phát triển thơ Nôm về chủ đề tình yêu trong văn học trung đại. Quy luật của kế
thừa và cách tân là quy luật sinh thành và phát triển của bất cứ nền văn học nào.
Trong tiến trình lịch sử văn học, luôn diễn ra quá trình nối tiếp, kế thừa và phát triển
những thành tựu giữa các nền văn học, các giai đoạn, các trào lưu văn học với nhau.
Như chúng ta đã biết, văn học là một trong những thành tố của văn hóa. Văn
học chẳng những là một bộ phận của văn hóa, chịu sự chi phối ảnh hưởng trực tiếp
của văn hóa mà còn là một trong những phương tiện tồn tại và bảo lưu văn hóa.
“Văn học chịu ảnh hưởng trực tiếp từ môi trường văn hóa của một thời đại và
truyền thống văn hóa độc đáo của một dân tộc, đồng thời thể hiện cả nội hàm tâm lý
văn hóa độc đáo của một thời đại và một cộng đồng dân tộc” [3, tr. 5]. Văn hóa dân
gian là một bộ phận quan trọng và đa dạng nhất của nền văn hóa dân tộc, bởi lẽ, đó
là sản phẩm trực tiếp hình thành từ lao động vật chất và tinh thần của nhân dân, biểu
hiện phong phú, đa dạng trong văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc. Văn học
4
là một thành tố thiết yếu trong văn hóa phi vật thể, cấu tạo nên văn hóa dân gian nói
riêng và văn hóa dân tộc nói chung.
Với những lý do trên, tôi xin mạnh dạn lựa chọn đề tài nghiên cứu cho luận
văn của mình là: “Tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc
nhìn văn hóa dân gian”. Với đề tài này, tôi mong muốn tìm hiểu vẻ đẹp của những
câu chuyện tình yêu trong sự tiếp nối về chủ đề tình yêu trong văn học dân gian đến
Thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX và phương thức nghệ thuật thể hiện tình yêu
trong các sáng tác ấy, góp phần đánh giá toàn diện hơn giá trị các bài thơ Nôm viết
về tình yêu giai đoạn văn học này. Đồng thời, tôi mong rằng có thể rút ra ở đó
những bài học quý giá về văn hóa ứng xử trong tình yêu đôi lứa.
2. Lịch sử vấn đề
Thơ Nôm trong quá trình ra đời, vận động, phát triển đã đạt được nhiều
thành tựu đặc sắc với nhiều tác gia và tác phẩm tiêu biểu. Nó như một bức tranh văn
hóa đa sắc màu và là một đề tài thu hút được đông đảo các nhà nghiên cứu quan tâm
dưới nhiều góc độ khác nhau. Sau đây là một số công trình nghiên cứu:
Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm khẳng định: “Trên cơ
sở chữ Hán, từ cuối thời Bắc thuộc, người Việt đã tạo ra chữ nôm dùng trong sáng
tác văn chương. Thời Tây Sơn, vua Quang Trung Nguyễn Huệ đã mở rộng ra, sử
dụng chữ Nôm cả trong lĩnh vực hành chính và giáo dục” [43, tr.267]. Tác giả đã
khẳng định vị trí chữ Nôm và vai trò của nó trong việc hình thành bộ phận văn học
chữ Nôm dùng trong sáng tác văn chương.
Khẳng định giá trị của chữ Nôm, PGS.TS Trịnh Khắc Mạnh - Viện trưởng
Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam trong bài viết
Chữ Nôm - Một di sản văn hoá dân tộc khẳng định chữ Nôm ra đời có ý nghĩa hết
sức lớn lao, đánh dấu bước phát triển của nền văn hoá dân tộc, ý thức tự cường và
khẳng định vai trò địa vị của tiếng Việt. Tiếng Việt của chúng ta giàu tình cảm,
nhiều màu sắc và âm điệu, phản ánh tâm hồn trong sáng và cốt cách vĩ đại của nhân
dân Việt Nam trải hàng ngàn năm lịch sử.
Cuốn Việt Nam phong tình cổ lục của tác giả Vũ Ngọc Khánh là một trong
những công trình biên soạn các truyện kể về tình yêu . Từ công việc sưu tầm, tác giả
5
đã giới thiệu cho chúng ta một kho tàng phong phú về những câu chuyện tình yêu
của con người Việt Nam, đó là những con người thật, những danh tướng, nhà chí sĩ,
nhà thơ, những người nổi tiếng trong lịch sử và cả những người nổi tiếng trong lĩnh
vực văn chương.
Đặng Thanh Lê với Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm xoay quanh mối tình
Thúy Kiều và Kim Trọng. Qua đó, khẳng định nàng Kiều đã vượt qua khuôn khổ lễ
giáo phong kiến để tìm đến tình yêu tự do.
Giáo sư Trần Đình Sử trong Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam
cho rằng khi viết về truyện thơ Nôm, các tác giả đã khái quát hình ảnh con người
trong truyện thơ Nôm đặc biệt là hình ảnh người phụ nữ, đó là “những con người
chủ động trong tình yêu, rất tích cực đấu tranh bảo vệ hạnh phúc”.
Nguyễn Mạnh Hùng với tài liệu Trên hành trình văn học trung đại trích dẫn:
“Xung đột nghệ thuật và tư tưởng thẩm mĩ của Hoa Tiên”, tác giả bài viết đã chỉ ra
tư tưởng của tác phẩm Hoa Tiên là ca ngợi tình yêu tự do, đồng thời là tư tưởng giải
phóng tình cảm, thể hiện tinh thần hòa hợp giữa tình yêu của cá nhân tự do với
nghĩa vụ.
Bùi Duy Tân trong công trình Khảo luận một số thể loại tác giả - tác phẩm
văn học trung đại tập 2 đã đề cập ba tác phẩm viết về tình yêu gồm Truyện Song
Tinh, Chinh phụ ngâm và Truyền kì tân phả. Theo ông, các tác phẩm trên hoặc ca
ngợi tình yêu tự do, hoặc ca ngợi sức mạnh tình yêu, sự chung thủy, gắn bó, chống
lại các thế lực cường quyền, hoặc than thở cho hạnh phúc lứa đôi khi bị trắc trở bởi
chiến tranh.
Nguyễn Hữu Sơn viết “Mô típ tài tử giai nhân từ truyện Hoa Tiên đến Mai
Đình Mộng kí” đã khẳng định hình ảnh tài tử giai nhân trong các sáng tác thường
xây dựng theo mô hình lí tưởng về sự cuốn hút bởi vẻ bề ngoài cũng như tài năng
theo quan niệm “gái tham tài, trai tham sắc” và sự đồng điệu về tâm hồn.
Hoàng Hữu Yên nhận định: trong truyện thơ Nôm, ca ngợi tình yêu tự do, nêu
lên khát vọng cuộc sống lứa đôi ngoài khuôn khổ lễ giáo chính thống là đề tài phổ
biến và rất hấp dẫn. Hoa tiên, Bích Châu kì ngộ, Sơ kính tân trang, Phan Trần xứng
đáng là những bản tình ca réo rắt và diễm lệ, trong trắng, chân thành và tha thiết.
6
Nói đến chức năng tư tưởng và thẩm mĩ của truyện Nôm, Kiều Thu Hoạch
cho rằng truyện Nôm thường chỉ thiên về lựa chọn loại đề tài tình yêu lứa đôi cùng
với chủ đề đấu tranh bảo vệ tình yêu chung thủy, bảo vệ gia đình, các tác giả không
thể không quan tâm tới vấn đề hôn nhân tự do như là một chủ đề cơ bản.
Lê Thu Yến trong công trình Văn hóa ứng xử người Việt thể hiện qua tình yêu
Kim Kiều đã nghiên cứu văn hóa ứng xử của người Việt thể hiện qua tình yêu của
Kim Trọng và Thúy Kiều - hai nhân vật chính trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Tiếp thu ý kiến của những người đi trước, kế thừa những thành tựu nghiên
cứu, luận văn sẽ đi vào nghiên cứu làm rõ sự tiếp nối chủ đề tình yêu từ văn học dân
gian đến văn học trung đại, cụ thể hơn là nghiên cứu “Tình yêu trong thơ Nôm thế
kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn hóa dân gian”.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chủ đề tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV
đến thế kỷ XIX. Tác giả luận văn sẽ tìm hiểu bộ phận thơ ca này từ góc nhìn văn
hóa dân gian, hay nói cách khác, từ góc nhìn văn hóa dân gian, người thực hiện đề
tài luận văn này sẽ khảo sát những tác phẩm thơ Nôm về chủ đề tình yêu đôi lứa từ
thế kỷ XV đến thế kỷ XIX trên cả hai bình diện: nội dung và hình thức nghệ thuật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tình yêu vốn dĩ là tất yếu của cuộc sống. Vì thế, những sáng tác về đề tài
tình yêu cũng vô cùng đồ sộ và phong phú. Trong giới hạn đề tài này, chúng tôi chỉ
xin tìm hiểu chủ đề tình yêu đôi lứa, tình vợ chồng, tình gia đình trong các bài thơ
Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn hóa dân gian. Xuyên suốt quá
trình khảo sát, người viết sẽ hướng đến các bài thơ về tình yêu, bao gồm cả những
bài thơ, truyện thơ khuyết danh và các sáng tác của các tác giả như sau: Quốc Âm
thi tập (Nguyễn Trãi), Hồng Đức Quốc Âm thi tập ( Lê Thánh Tông), Truyện
Phan Trần (khuyết danh), Thoại Khanh - Châu Tuấn (khuyết danh), Hồng Hoan
lƣơng sử (Khuyết danh), Phương Hoa (khuyết danh), Hoàng Trừu (khuyết danh),
Mã Phụng - Xuân Hương (khuyết danh), Lý Công (khuyết danh), Bạch Viên tân
truyện (khuyết danh), Phù dung tân truyện (Trúc Lâm Cư Sĩ), Thạch Sanh tân
7
truyện (khuyết danh), Nhị độ mai (khuyết danh), Truyện Tây Sương (Lý Văn
Phức), Truyện Ngọc Kiều Lê (Lý Văn Phức), Song Tinh bất dạ (Nguyễn Hữu
Hào), Sơ kính tân trang (Phạm Thái), Phạm Công - Cúc Hoa (Khuyết danh),
Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Truyện Hoa tiên (Nguyễn Huy Tự ),
Truyện Kiều (Nguyễn Du), Thơ Nôm Hồ Xuân Hương, Lục Vân Tiên (Nguyễn
Đình Chiểu).
Ngoài ra, để tiện so sánh, mở rộng vấn đề, trong quá trình khảo sát đề tài, tác
giả luận văn cũng có sử dụng tác phẩm ở những bộ phận thơ văn khác.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn tiếp cận vấn đề bằng việc sử dụng kết hợp các phương pháp:
4.1. Phƣơng pháp liên ngành
Nghiên cứu văn học dưới góc độ văn hoá dân gian. Từ điểm nhìn văn hóa
dân gian, cụ thể là văn học dân gian, soi chiếu vào thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ
XIX sáng tác về chủ đề tình yêu đôi lứa để nhìn thấy những dấu ấn văn hóa dân
gian và những tư tưởng mới mà các tác giả để lại trong từng sáng tác.
4.2. Phƣơng pháp phân tích logic
Phương pháp này nhằm chỉ ra sự hợp lý, chặt chẽ của nội dung và hình thức,
từ đó chỉ ra những giá trị văn hóa về tình yêu trong thơ Nôm.
4.3. Phƣơng pháp thống kê miêu tả
Phương pháp này nhằm thu gọn lại những giá trị văn hóa trong thơ Nôm từ
thế kỷ XV đến thế kỷ XIX về chủ đề tình yêu để qua đó chỉ ra được những giá trị
văn hóa cốt lõi trong quá trình phát triển của thơ Nôm.
5. Đóng góp của luận văn
5.1. Về mặt khoa học
Luận văn là công trình nghiên cứu nhỏ về chủ đề tình yêu trong thơ Nôm thế
kỷ XV đến thế kỷ XIX từ góc nhìn văn hoá dân gian cả về nội dung lẫn hình thức
nghệ thuật. Kết quả nghiên cứu của luận văn hy vọng sẽ đem lại một cái nhìn khái
quát, đầy đủ hơn về chủ đề tình yêu trong thơ Nôm giai đoạn này, từ đó thấy được
những tìm tòi, đổi mới, vận động và phát triển của thơ Nôm trung đại mang đậm
bản sắc văn hóa dân gian.
8
5.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp một phần nhỏ cho tư liệu có tính
ứng dụng nhất định trong việc giảng dạy và nghiên cứu văn hóa dân gian, giảng dạy
và nghiên cứu thơ Nôm thế kỷ XV đến thế kỷ XIX.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo; nội dung chính của luận
văn gồm có 03 chương:
Chương 1. Văn hóa dân gian với chủ đề tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV
đến thế kỷ XIX.
Chương 2. Nội dung thể hiện chủ đề tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV đến
thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn hóa dân gian.
Chương 3. Phương thức thể hiện chủ đề tình yêu trong thơ Nôm thế kỷ XV
đến thế kỷ XIX dưới góc nhìn văn hóa dân gian.
9
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
VĂN HÓA DÂN GIAN VỚI CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU TRONG THƠ NÔM
THẾ KỶ XV ĐẾN THẾ KỶ XIX
1.1. Văn hóa dân gian Việt Nam về tình yêu và mối quan hệ văn hóa - văn học
1.1.1. Vài nét về văn hóa dân tộc Việt Nam về tình yêu trong buổi đầu
Giai đoạn văn hóa Văn Lang - Âu Lạc là thời kỳ hình thành nền tảng - cơ
tầng văn hoá Việt Nam, được tính từ khi người nguyên thủy biết dùng đá để chế tác
công cụ cách ngày nay vài chục vạn năm cho đến thời đại Hùng Vương dựng nước thời đại làm nên hai thành tựu lớn lao có ý nghĩa lịch sử. Đó là sự hình thành của
nền văn minh sông Hồng và sự ra đời của hình thái nhà nước sơ khai: nhà nước Văn
Lang của các vua Hùng và tiếp đó là nước Âu Lạc của An Dương Vương. Trong sự
hình thành nếp sống gia đình của người Việt, tình yêu, hôn nhân là một nội dung
đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Nhìn chung, xã hội Văn Lang - Âu Lạc đã chuyển sang chế độ phụ quyền,
người nắm giữ quyền hành và quyết định mọi việc trong gia đình chính là người
cha, điều này thể hiện vô cùng rõ ở các gia đình Lạc hầu, Lạc tướng. Thế nhưng,
không phải vì điều đó mà vai trò của người phụ nữ trong gia đình bị đánh mất đi
tầm quan trọng. Điều này đã được chứng minh rất rõ trong các câu chuyện cổ tích,
nhưng câu chuyện về người phụ nữ mạnh mẽ không chỉ trong gia đình mà còn có
công trạng to lớn đối với Tổ Quốc. Những nữ tướng Hai Bà Trưng vào đầu thế kỷ I
đã chứng minh điều đó.
Văn hóa dân tộc Việt Nam trong buổi đầu là một lối sống nặng tình nghĩa,
đoàn kết gắn bó với họ hàng, làng nước. Trong tổ chức cộng đồng, ứng dụng
nguyên tắc trọng tình nghĩa, coi trọng cộng đồng. Trong ứng xử với môi trường xã
hội, có sự dung hợp tiếp nhận. Trong làng xóm, người già có một vị trí rất quan
trọng, đó là bậc đáng để mọi người tôn trọng và kính phục; họ nắm giữ vai trò dàn
xếp các cuộc tranh chấp, quyết định các mối quan hệ trong nội bộ cộng đồng mình
cũng như vấn đề đối ngoại; họ được xem như là người già, người cha của thế hệ trẻ,
người gìn giữ và lưu truyền những tục lễ từ xa xưa của cộng đồng.
10
Vấn đề hôn nhân xưa không chỉ là nhu cầu đôi lứa mà còn phải đáp ứng
quyền lợi của gia tộc, gia đình, làng xã, nên kén người rất kỹ, chọn ngày lành tháng
tốt, trải qua nhiều lễ tiết. Hôn nhân một vợ một chồng dần dần được phổ biến, mặc
dầu đây đó, đặc biệt là những vùng sâu xa hẻo lánh của các dân tộc thiểu số còn giữ
lại những chế độ hôn nhân anh em chồng, tục bắt cô dâu.
1.1.2. Văn học trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
1.1.2.1. Văn hóa dân gian là nền tảng của văn học dân gian
Văn hóa dân gian là một thực thể sống, nảy sinh, tồn tại và phát triển gắn với
sinh hoạt văn hóa cộng đồng của quần chúng lao động. Vì vậy, khi nhận thức, lý
giải các hiện tượng văn hóa dân gian phải gắn liền với môi trường sinh hoạt văn hóa
của nó, tức là các sinh hoạt văn hóa của cộng đồng, trong đó cộng đồng gia tộc,
cộng đồng làng xã giữ vai trò quan trọng. Văn hóa, trong đó có văn hóa dân gian là
sản phẩm của sự phát triển xã hội nhất định. Tuy nhiên, sau khi hình thành và định
hình, văn hóa tác động trở lại xã hội với tư cách là “nền tảng tinh thần của xã hội”,
là “động lực và mục tiêu của sự phát triển xã hội”.
Gắn bó lâu đời với nông nghiệp nên ông cha ta đã có được hệ thống kinh
nghiệm rất phong phú và điều đó được thể hiện thông qua ca dao tục ngữ, đó là
những kinh nghiệm về kĩ thuật canh tác và trồng trọt:
Khoai đất lạ, mạ đất quen
Nhất nước nhì phân tam cần cứ giống
Chúng ta biết rằng tre thường đâm măng vào mùa hè, vào cuối mùa hè nước
ta thường xuất hiện những cơn bão sớm, những thời kỳ đó đầu măng phải biết dựa
vào tre mới tránh được sự ngã gãy nên ông cha ta mới có câu:
Đầu măng ngã gục vào hè
Nương nhờ vào mẹ kẻo e bão về
Hay những kinh nghiệm về dự báo thời tiết:
Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng bay vừa trời râm.
11
Các loài côn trùng có cánh dễ dàng cảm nhận khi độ ẩm không khí thay đổi,
nhất là loài chuồn chuồn. Chuồn chuồn là loài côn trùng có cánh mỏng manh, nếu có
độ ẩm cao thì không thể bay cao được, nếu độ ẩm không khí thấp thì bay lên rất cao.
Rễ Si mọc trắng, điềm nắng đã đến,
Rễ Si ra trắng chẳng nắng được đâu.
Mỗi khi thời tiết thay đổi thì một số loại thực vật như cây Si (hay còn gọi là
cây Sanh) rất nhạy cảm với thời tiết nên các hoạt động sinh lý của nó biến đổi. Si là
loại cây to, lá nhỏ, rậm cành, có nhiều rễ phụ xuống, thường mọc ở bờ nước nên rất
nhạy cảm với độ ẩm không khí, khi độ ẩm không khí tăng lên rễ Si sinh ra trắng xoá
vì hút nhiếu nước. Như vậy thời tiết rất dễ mưa nên nhân dân ta có cách dựa vào đó
để dự báo thời tiết.
Văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa nông nghiệp và văn minh thực vật.
Nét đẹp văn hóa của dân tộc ta là lối sống giản dị, chất phác, mộc mạc đầy những
cung bậc và sắc màu khác nhau. Trong cuộc sống đời thường, người Việt Nam thích
những cái đơn giản, nhỏ xinh, hài hòa, thích sống có cộng đồng, làng xóm. Qua đó,
ta thấy một nếp sống trọng tình nghĩa và tinh thần cộng đồng cao đã trở thành bề
dày truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
Văn hóa dân gian được thể hiện qua văn học dân tộc, nhất là văn học dân gian.
Văn hóa là cái nền, là động lực để văn học phát triển, văn học là một biểu hiện cụ thể
sinh động của văn hóa. Vì vậy, văn học bao giờ cũng có mối quan hệ mật thiết với
văn hóa. Văn học nghệ thuật muôn đời gắn liền với con người và cuộc sống.
1.1.2.2. Văn hóa dân gian là cội nguồn tư tưởng của văn học
Trên thực tế của đời sống tinh thần, không có hiện tượng sự vật nào mà
không có mối quan hệ với văn học. Văn hóa là toàn bộ những gì do con người tạo
ra, là thước đo của sự phát triển. Vì thế, văn hóa của mỗi dân tộc bao giờ cũng gắn
liền với hệ tư tưởng của dân tộc ấy.
Với sự khởi nguồn từ văn minh nông nghiệp lúa nước, hầu hết dân Việt đều
xuất thân từ ruộng đồng, gắn bó với thiên nhiên, thiên nhiên trở thành môi trường
sinh tồn của họ, ý thức này luôn sâu đậm vào suy nghĩ người nông dân. Nó trở thành
khía cạnh của văn hóa dân gian, định hướng cho người sáng tác như Giáo sư Nguyễn
Khánh Toàn đã từng nói: “Văn học là xương sống của nền văn hóa dân tộc”.
12
Macxim Gocky khẳng định: “Văn học là nhân học”, văn học bao giờ cũng
xây dựng và khẳng định giá trị con người. Văn học giúp thanh lọc tâm hồn con
người, tác động vào tình cảm, lý trí con người bằng các tiêu chuẩn và yêu cầu thẩm
mỹ. Trong bản chất, tự thân văn học đã có mối quan hệ gắn bó với các giá trị văn
hóa vốn là sự kết tinh các giá trị người. Trong bản chất, tự thân văn học đã có quan
hệ gắn bó với các giá trị văn hóa vốn là sự kết tinh của các giá trị người.
Văn hóa dân gian là văn hóa của quần chúng lao động và do quần chúng lao
động sáng tạo ra. Vì thế, văn hóa dân gian chứa đựng các giá trị phổ quát của bản
sắc văn hóa dân tộc như lòng yêu nước thương nòi, tính cộng đồng, sự cần cù và
sáng tạo trong lao động sản xuất. Tất cả những giá trị ấy có ý nghĩa chi phối, tác
động và định hướng tư tưởng cho người sáng tác.
1.2. Sự thể hiện chủ đề tình yêu trong văn học dân gian
1.2.1. Những nội dung chủ đề tình yêu trong văn học dân gian
1.2.1.1. Về mặt sinh lý
Loài người có hai giới tính, đó là nữ giới và nam giới, sự sinh sôi nảy nở từ
giao phối giữa nam và nữ, con người sống thành bầy đàn, dần dần thành bộ lạc, bộ
tộc, chủng tộc, xã hội nguyên thủy theo quy luật của tự nhiên. Các tín ngưỡng về
“vạn vật hữu linh” đã xuất hiện trong đó có tín ngưỡng “phồn thực” và con người
thờ cúng sinh thực khí của nam và của nữ, nghênh rước mô hình nỏ, nường được
nhận thức là thiêng liêng. Vùng đất Phú Thọ, văn hóa đất Tổ có những tập tục độc
đáo như tục cướp kén cầu con, tục cầu tế nỏ nường, lễ cầu đinh...
Tín ngưỡng này xuất hiện từ xa xưa trên đất Việt. Trong các tháp Chàm,
Linga và Yoni được thờ tại trung tâm ngôi đền chính Kalan. Hay ở đầu thị xã Phan
Rang, có hai ngọn tháp tọa lạc trên đồi Trầu, tháp to gọi là tháp Ông, tháp nhỏ gọi là
tháp Bà. Trong đó tôn thờ hai tượng Linga và Yoni.
Trong xã hội loài người, tình dục là quy luật tự nhiên để phát triển nòi giống,
gia đình, dòng họ. Trai gái lớn lên đến tuổi dậy thì, quan hệ với nhau về yêu đương
sinh lý và văn hóa dân gian về hôn nhân bắt nguồn từ đó:
Đàn ông nằm với đàn ông
Như gạch, như ngói, như chông, như chà
13
Đàn ông nằm với đàn bà,
Như lụa như lĩnh như hoa trên cành!
Về sau, sự ảnh hưởng của Nho giáo đã chi phối đến đạo đức, lối sống của
con người. Sự chi phối ấy có tác động mạnh mẽ trong giới thượng lưu, còn trong
nhân dân lao động, sự chi phối ấy nhẹ nhàng hơn - họ cho việc tự do yêu đương là
bình thường, dân chủ, hợp quy luật, hợp tình người. Thông qua sinh hoạt lao động
sản xuất, sự giao lưu nam nữ càng trở nên tự do hơn, nhưng lời nói tiếng hát thường
tập trung biểu thị tình yêu lứa đôi. Với văn hóa của mình, tình yêu đó không hề thô
bạo sỗ sàng, sự tiếp xúc thể xác kín đáo riêng tư:
Gặp nàng anh nắm cổ tay
Anh say vì nết, anh yêu vì tình
Với sự điều chỉnh của xã hội, của văn hóa, người con gái ấy biết giữ mình và
có thái độ đúng mực, tự trọng:
Thương thì dựa vế kề lưng
“Việc ấy” xin đừng để trọng về sau
Và khi đã nên cặp nên đôi, bước vào cuộc sống hôn nhân, trở thành vợ
chồng, quan hệ sinh lý trở thành trò vui dí dỏm rất hài hước:
Đương khi tắt lửa cơm sôi
Lợn kêu, con khóc chồng đòi tòm tem
Bây giờ lửa đã đỏ lên
Lợn no, con nín tòm tem thì tòm
Tình dục là một tạo tác mang tính lịch sử. Dân gian đề cập đến vấn đề sinh lý
với mục đích con người tất yếu cần đến nó để duy trì và phát triển nòi giống, nhưng
không phải là những ham muốn quá trớn, khiêu dâm mà tạo nên lối sống trái với
đạo đức, phong tục của dân tộc.
1.2.1.2.Về mặt tâm lý
Muốn hôn nhân vững bền, gia đình hạnh phúc, yếu tố đầu tiên phải kể đến đó
là tình cảm, tình yêu nam nữ. Tình yêu thương luôn được xây dựng trên cơ sở tôn
trọng, cảm thông và quý mến nhau, chỉ có tình yêu thương mới đảm bảo được hạnh
phúc dài lâu, đem đến sự hòa thuận giữa vợ chồng, gia đình đầm ấm, xã hội thái
14
hòa. Tình yêu chính là một điều kiện cần và đủ để có được hạnh phúc trong hôn
nhân và gia đình. Bởi vậy, tình yêu đôi lứa là một nhu cầu cần thiết và quan trọng
trong sinh hoạt của nhân sinh. Trong kho tàng văn học dân gian, rất nhiều những
câu tục ngữ, những bài ca dao đã thể hiện được quan niệm của người xưa về chủ đề
tình yêu đôi lứa và hạnh phúc gia đình.
Tục ngữ cũng có câu: “Tình có mặn, nghĩa mới nồng”, “Đạo vợ, nghĩa
chồng” vì thường vợ chồng chung sống với nhau trước tiên bằng tình yêu, đến tuổi
về già, con cháu đầy đàn, tình yêu đó không thể sống mãi mãnh liệt như tuổi trẻ
được, lúc này vợ chồng lại sống với nhau bằng cái nghĩa, bằng tinh thần trách
nhiệm cùng chung làm bổn phận của cha mẹ để nuôi dưỡng và dạy dỗ con cháu
thành người. Vì thế, dân gian vô cùng đề cao sự trong sáng, thủy chung, son sắt,
một lòng một dạ, trước sau như một trong tình yêu.
Anh đi đường ấy xa xa,
Để em ôm bóng trăng tà năm canh.
Nước non một gánh chung tình,
Nhớ ai ai có nhớ mình hay chăng?
Người xưa vẫn nói: dấu ấn của tình yêu là lòng chung thủy. Chung thủy có
nghĩa là trước sau như một, như vậy, khi nói đến một tình yêu chung thủy là nói đến
một mối tình mà từ ngày đầu đến khi kết thúc hai người vẫn có nhau, vẫn giữ trọn
lời hứa yêu nhau ban đầu của họ. Dù có xa cách muôn dặm thì những người yêu
nhau cũng luôn nhớ và nghĩ đến nhau. Cô gái thức trắng đêm, thao thức trong trăng
tà năm canh để nghĩ về gánh chung tình, nhớ về người thương nơi xa, dù xa mặt
nhưng không hề cách lòng.
Khi hai người có tình cảm yêu đương, thì bất kỳ đặc điểm nào của người yêu
cũng đẹp, cũng là dấu ấn để đối phương luôn nhớ đến. Người con trai dường như
thuộc lòng đến từng đường nét, lối ăn cách ở của người mình yêu. Chỉ cần đọc lên,
ta có thể hình dung rõ về người con gái anh yêu, đó là một cô gái tóc bỏ đuôi gà, ăn
nói mặn mà có duyên, má lúm đồng tiền, răng nhánh hạt huyền, cổ yếm đeo bùa,
nón thượng quai tua, nết ở khôn ngoan...Tất cả những đặc điểm đó là vẽ đẹp thiên
phú của người con gái Việt Nam được dân gian đúc kết lại.
15
Ấy ai dắt mối tơ mành,
Cho thuyền quen bến cho anh quen nàng.
Tơ tằm đã vấn thì vương,
Đã trót dan díu thì thương nhau cùng.
Tình yêu được xem như mối tơ mành, sự gắn bó quyến luyến nhau được ví
như tơ tằm, đã có tình ý yêu thương nhau, dan díu nhau thì hãy nên cùng yêu
thương nhau với tình yêu son sắt nhất.
Nước sông Tô vừa trong vừa mát
Em ghé thuyền đỗ sát thuyền anh
Dừng chèo muốn tỏ tâm tình
Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu.
Quả là một tình cảm sâu đậm và chân thật. Tình yêu được ví như dòng nước
vừa trong vừa mát, tình yêu mà chàng trai dành cho cô gái là vô tận như chính con
sông kia, làm sao đếm được sông bao nhiêu nước, bởi lẽ bản chất nước là không thể
định lượng được.
Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa dày
Dù có xa nhau đi nữa cũng ba vạn chín nghìn ngày mới xa.
Còn gì sâu sắc nồng ấm hơn khi ví tình yêu với muối và gừng, hai vật thể
mặn mà, đậm đà nhất. Dù có trải qua thời gian bao lâu, tình yêu vẫn vững bền.
Thậm chí thời gian càng dài thì tình yêu càng bền chặt hơn, giống như “gừng càng
già càng cay”.
Chừng nào cho sóng bỏ gành
Cù lao bỏ biển anh mới đành bỏ em
Bao giờ cạn lạch Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyền
Biển đông sóng gợn cát đùa
Sánh đôi không đặng lên chùa anh tu.
16
Có một sự thật hiển nhiên và tất yếu là, sóng sẽ chẳng bao giờ bỏ ghành được
và đảo chỉ có thể mọc lên từ biển. Chàng trai đã lợi dụng sự gắn bó vĩnh cửu của
sóng và gành, cù lao và biển; sự vững bền của lạch Đồng Nai và chùa Thiên Mụ để
ví tình cảm của mình là bền chặt vĩnh viễn không thể xóa nhòa được.
Rủ nhau xuống bể mò cua
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau.
Lời thơ không bóng bẩy nhưng vô cùng sâu sắc và gần gũi. Tình yêu được ví
còn to hơn cả non nước, dù cho non có xanh, nước có bạc thì hai người yêu nhau
cũng không bao giờ quên nhau.
Khi yêu nhau, sự xa cách về không gian trở nên nhỏ bé, bởi:
Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Ngũ lục sông cũng lội, thất bát cửu thập đèo cũng qua.
Vậy nên trước con mắt của kẻ đang yêu, con sông không đủ để làm cách trở.
Đến đây ta hiểu được rằng, cây cầu mơ ước trên chỉ là cách để những người dang
yêu thổ lộ tình yêu của mình. Ta thấy được sự trìu mến trong ước mơ, sự khát khao
được gặp gỡ, gần gũi và sẻ chia của những chàng trai, cô gái.
Tình yêu trai gái là những nhu cầu tự nhiên của con người, tình yêu đến với
con người khi trưởng thành như là một quy luật tất yếu, như một lẽ đương nhiên của
tạo hóa. Cuộc đời mỗi con người, không ai có thể thoát ra khỏi vòng luân hồi sinh lão
bệnh tử, đã là con người, ai cũng có những phút giây đau khổ và hạnh phúc. Tình yêu
là một ý niệm mà ngay từ khi sinh ra con người đã tự biết cảm nhận, gắn liền như một
phần của thân thể con người. Vì thế, tình yêu không phải bao giờ cũng suôn sẻ, êm
đẹp mà luôn có những sóng gió, những trắc trở mà đôi lứa có thể không vượt qua.
Ngày nào em nói em thương,
Như trầm mà để trong rương chắc rồi.
Bây giờ khóa rớt chìa rơi,
Rương long nắp vỡ, bay hơi mùi trầm.
Những đấng nam nhi đôi khi cũng ngậm đắng nuốt cay trước sự từ chối hoặc
17
tan vỡ khi tình duyên trắc trở. Nhưng rồi thân phận người phụ nữ tái tê làm sao,
thân gái “mười hai bến nước”, trong nhờ đục chịu cũng đành. Ông cha ta, dân gian
ta đã từng cho rằng gái có thì, có lứa, tội tình làm sao:
Còn duyên đóng cửa kén chồng,
Hết duyên mở cửa gọi ông ăn mày.
Tôi van ông rẽ vào đây,
Giường cao chiếu sạch gối mây ông nằm.
Duyên tôi xưa đáng một trăm,
Bây giờ ế ẩm xin ông năm tiền.
Cũng có những cô gái duyên phận dở dang, long đong, không nắm được
duyên tình của mình, tựa như tiêu gẫy, đàn đứt dây:
Phận em sao lắm dở dang
Cầm tiêu tiêu gẫy, cầm đàn đứt dây.
Nước ta là một nước gốc nông nghiệp lúa nước, người dân Việt có tính cách
chăm chỉ cần cù trong lao động sản xuất. Người dân quê tuy suốt ngày đầu tắt mặt tối
với công việc ruộng vườn, vất vả kiếm sống, bon chen mưu sinh giữa cuộc sống thiếu
thốn trăm bề, nhưng tình cảm thì luôn phong phú. Có thể nói, tình yêu trong văn học
dân gian gắn liền với lao động, sinh hoạt đời thường. Trong sinh hoạt hàng ngày của
trai gái thôn quê, họ vẫn thường gặp nhau trong ngày mùa, khi gánh lúa về trên
đường cái quan thơm mùi toóc rạ, hay gặp nhau trong những đêm giã gạo dưới trăng,
những lúc hội hè đình đám; họ cũng đã trao nhau những câu hò điệu hát, mà nội dung
cũng nói lên được những hoài vọng thầm kín. Hình ảnh lao động đã đi vào thơ ca như
một lẽ thường tình, vì thế, trong văn học dân gian, tình yêu cũng gắn liền với lao
động sản xuất; gắn liền với những hình ảnh điển hình của làng quê Việt Nam.
Hôm qua tát nước đầu đình,
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.
Em được thì cho anh xin,
Hay là em để làm tin trong nhà?
Chàng trai thổ lộ tình cảm với cô gái thông qua công việc hôm qua tát nước
ở đầu đình làng. Mượn chiếc áo như là vật làm tin để kết nối tình cảm hai người.
18
Tình yêu trong văn học dân gian không gắn liền với những hình ảnh to lớn, trừu
tượng mà gắn liền với những hình ảnh rất đổi đơn sơ và thân quen. Đó là những
hình ảnh điển hình của làng quê Việt Nam hay chỉ một vài nét đơn sơ của đối
tượng, đôi câu trò chuyện vu vơ, hay những buổi hẹn hò vụng trộm...Tất cả những
thứ ấy đã để lại trong lòng người những yêu mến dạt dào, những băn khuăn mỗi khi
nghĩ đến. Ở đây, ta thấy hình ảnh đình làng và hoa sen là hai hình tượng lớn, là biểu
tượng của làng quê Việt Nam. Hay như hình ảnh người nông dân chăm chỉ với công
việc cày bừa, tuy vất vả nhưng họ luôn luôn có nhau để tạo dựng cuộc sống:
Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.
Hình ảnh một anh chàng tỏ tình với cô gái khi đang cắt cỏ:
Cô kia cắt cỏ một mình,
Cho anh cắt với chung tình làm đôi.
Cô còn cắt nữa hay thôi,
Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng.
Thấy cô gái đang cắt cỏ một mình, chàng trai vờ xin cắt chung nhưng mục
đích chung là muốn kết duyên vợ chồng với cô gái để làm một đôi uyên ương.
Mỗi dân tộc trên thế giới đều có một bản sắc riêng. Dân tộc Việt Nam cũng
vậy, thơ ca dân gian là tiếng ca đàn muôn diệu, đáng tự hào của con người Việt
Nam. Từ trong những lời ca dao câu hát từ xa xưa mà dân gian để lại, ta thấy lấp
lánh vẻ đẹp muôn đời của tình cảm con người ẩn dưới mỗi dòng chữ, điều đó khẳng
định tình cảm truyền thống của dân tộc Việt từ ngàn đời, tình yêu lứa đôi là một chủ
đề đặc sắc trong những câu ca dao xưa ấy. Tình yêu đôi lứa từ trong văn hóa dân
gian có cái gì rất trẻ trung, nên thơ và rất đẹp, đẹp từ cách nói giản đơn của người
xưa, đẹp đến từng câu hò long lanh mát rượi lòng người. Có thể nói, tình yêu trong
văn hóa dân gian, mang tính chung, tính dân tộc và ít có sự riêng tư và chi phối bởi
những tiêu cực xã hội. Đó là thứ tình cảm sâu sắc, bền chặt xuất phát từ những điều
giản dị, chân chất nơi thôn dã.
1.2.1.3. Về mặt tâm linh
Trong cuộc sống, hai mặt tâm lý và sinh lý là hiện hữu thì về mặt tâm linh,
19
mang màu sắc siêu hình. Khi trai gái yêu nhau thắm thiết, trải qua các lễ tiết,trở
thành vợ chồng, cuộc sống sẽ có những nốt thăng trầm, có thể cuộc hôn nhân sẽ
hạnh phúc thuận buồm xuôi gió, nhưng cũng có thể không thuận chiều. Vì thế, nhân
gian tin vào chuyện duyên phận, cho rằng có trời, thần linh hay một đấng siêu hình
nào nó định đoạt số phận con người. Ca dao về tình yêu đôi lứa ngợi ca những ông
Tơ bà Nguyệt:
Hôm qua anh đi chợ trời
Thấy ông Nguyệt lão đang ngồi ở trên
Tay cầm bút tay cầm nghiên,
Tay cầm tờ giấy đang biên rành rành:
Biên đây lấy đấy, biên mình lấy ta
Chẳng tin lên hỏi trăng già,
Trăng già cũng bảo rằng ta lấy mình!
Đó là sự vui mừng cho hạnh phúc nhưng cũng có khi họ căm ghét, oán hận
vì ông Tơ bà Nguyệt đã không kịp thời xe duyên cho đôi lứa đến khi đã muộn màng
buộc họ thấy hối tiếc:
Anh đừng rầu rĩ làm chi,
Trai nam nhi kiếm vợ, gái nữ nhi kiếm chồng
Tôi giận bà Nguyệt Lão
Tôi muốn giết ông Tơ Hồng
Thưở xuân xanh anh chưa vợ,
Em chưa chồng mà ông không xe!
Dân gian đã thể hiện sự tin tưởng của mình đối với những ông Tơ bà Nguyệt
thông qua tranh dân gian Đông Hồ Ông Tơ và Bà Nguyệt, bức tranh thể hiện khát
vọng trai gái đến tuổi cập kê tìm được ý trung nhân tâm đầu ý hợp, gắn kết bên
nhau trọn đời. Tình yêu đôi lứa, sự kết duyên trong ngày xuân sẽ càng trở nên hợp
mùa, bởi mùa xuân là mùa chồi non nảy lộc, sinh vật phát triển mạnh mẽ, nên kết
duyên vào mùa này cặp trai gái sẽ có cuộc sống sung túc, đủ đầy, tươi vui, con cái
đông đúc sau này - theo quan niệm của các cụ ngày xưa.(Xem hình 1)
20
Trong cái duyên số của tình yêu, hôn nhân, ca dao thường phản ánh tâm
trạng lo lắng của người con gái, đó là một sự may rủi, hên xui. Hạnh phúc có mỉm
cười với mình hay không còn tùy thuộc vào chữ duyên chữ phận:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Thân em như giếng giữa đàng
Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân
Dân gian thường quan niệm về tuổi tác có một mối liên hệ với số mạng con
người. Trong tình duyên cũng vậy, số mạng con người có thể là tốt đẹp nhưng cũng
có thể không ra gì :
Người ta tuổi tí, tuổi mùi
Còn em thì chịu bùi ngùi tuổi thân!
Nhưng rồi họ an ủi, mặc dù sinh vào năm không “tốt số” nhưng vẫn hi vọng
số phận mỉm cười với họ khi họ được sinh vào “giờ đẹp”:
Tuổi thân thì mặc tuổi thân
Sinh vào giờ dần vẫn sướng như tiên!
Từ xưa, dân gian đã tin vào tiền kiếp, tiền duyên, nợ tình nợ nghĩa của kiếp
trước đến kiếp này phải trả, nếu chưa trả được thì có chết đi cũng không xí xóa được:
Nợ đời trả trả vay vay
Nợ tình biết trả đến ngày nào xong
Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.
Từ những sự thuận chiều tốt đẹp cũng như sự trái chiều không thuận lợi
trong tình yêu, về mặt tâm linh, dân gian thường tìm những nguyên nhân, nguyên
cớ tốt xấu ở duyên và phận. Duyên phận xấu hay tốt cũng do trời đã định sẵn khó
lòng thay đổi được. Đó là một niềm tin ngây thơ, hồn nhiên của dân gian.
1.2.2. Hình thức thể hiện chủ đề tình yêu trong văn học dân gian
1.2.2.1. Kết thúc có hậu
Tâm lý của những tác giả dân gian là luôn đón chờ một điều gì đấy công bằng,
tốt đẹp, nhìn thấy cái thiện được thưởng xứng đáng và cái ác bị trừng trị đích đáng:
21