Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của banana yoshimoto

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 80 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRẦN THỊ HỒNG HẠNH

CẢM THỨC HIỆN SINH TRONG SÁNG TÁC CỦA
BANANA YOSHIMOTO

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

THEO ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU

Thừa Thiên Huế, năm 2017


ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRẦN THỊ HỒNG HẠNH

CẢM THỨC HIỆN SINH TRONG SÁNG TÁC CỦA
BANANA YOSHIMOTO
Chuyên ngành
Mã số

: LÝ LUẬN VĂN HỌC
:

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN


THEO ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN THUẤN

Thừa Thiên Huế, năm 2017


MỞ ĐẦU

1.

Lí do chọn đề tài

Xứ sở Phù Tang luôn quyến rũ lòng người bởi những vẻ đẹp giản dị mà vô
cùng tinh tế, đơn sơ mà đầy bí ẩn, u hoài nhưng luôn chất chứa những cảm xúc mãnh
liệt. Và văn học – tiếng nói của đời sống tinh thần con người đã thể hiện vẻ đẹp ấy
một cách chân xác và sống động nhất. Từ khởi thủy đến nay, văn học Nhật Bản đã
thể hiện một diện mạo riêng, một phong thái riêng mang đậm cốt cách của con người
Nhật Bản. Chúng ta không thể lãng quên một truyện cổ Genji như đóa hoa sen ngát
hương mang niềm bi cảm sâu xa về nhân sinh, là suối nguồn bất tận cho thi ca và
nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật khác; hay không thể không nhắc tới những vần
thơ haiku đẫm chất Thiền tông, thể hiện cái đẹp tinh túy của ngôn ngữ thơ ca và cảm
thức thẩm mĩ của xứ sở Phù Tang. Nhưng có lẽ thật thiếu sót nếu không kể đến những
tên tuổi như Kawabata Yasunari (giải Nobel văn học 1968), Mishima Yukio, Dazai
Osamu, Abe Kobo, Kenzaburo Oe (giải Nobel văn học 1994) … đã làm rạng danh
nền văn học Nhật Bản trong quá trình hiện đại hóa văn học. Và những nhà văn đương
đại như Haruki Murakami, Yoshimoto Banana, Yamada Eime, Hayashi Maruko,
Ogawa Yoko, Ryu Murakami … đã thể hiện hình ảnh xứ sở mặt trời mọc mang tinh
thần mới trong sự biến chuyển không ngừng của xã hội Nhật Bản hiện đại với sự phát
triển như vũ bão của nền khoa học, kĩ thuật tân tiến nhưng vẫn giữ được nét đẹp

nguyên sơ của tâm hồn Nhật từ thuở sơ khai. Đặc biệt, trong số đó, "hai Murakami
và một Banana" đã tạo nên "hiện tượng" đối với nền văn học Nhật Bản đương đại nói
riêng và văn học toàn cầu nói chung. Riêng cây bút nữ Banana Yoshimoto đã kế thừa
chất trữ tình, nữ tính vốn có của dòng nữ tính phát triển từ thời Heian và phát huy
tinh thần hiện đại, tiếp nhận những tư tưởng mới của phương Tây, thể hiện những
trăn trở, ưu tư của thế hệ trẻ Nhật Bản và khẳng định phong cách với một lối viết rất
"chúa", rất riêng của Banana, tinh tế mà đầy ma mị, chân thực mà rất đỗi hư huyền.
1


Sáng tác của Banana đã được công chúng Nhật Bản và thế giới yêu mến, nồng nhiệt
đón nhận. Đến nay, tác phẩm của bà đã bán hết hơn sáu triệu cuốn ở Nhật và hơn một
triệu cuốn ở nước ngoài, tái bản hơn sáu mươi lần tại Nhật, được dịch ra trên hai mươi
thứ tiếng và nằm trong danh mục best seller của nhiều nước Anh, Pháp, Ý, Mỹ… Tuy
nhiên, nhiều ý kiến của giới phê bình trong nước và quốc tế vẫn đánh giá tác phẩm
của Banana chỉ những sáng tác giải trí, ăn khách, chỉ là những trang viết để đọc vội
trên tàu điện ngầm, không phải là những tác phẩm văn chương có tầm vóc, để lại
những tư tưởng và giá trị bền lâu qua thời gian. Song, để đánh giá toàn diện về Banana
cần có cái nhìn thấu triệt, đa chiều và sự kiểm chứng của thời gian. Và sức hút của
Banana đối với độc giả toàn cầu là điều không thể phủ nhận. Những trang viết của bà
luôn có thứ "ma lực" quyến rũ người đọc bởi vẻ đẹp u hoài, tuyệt vọng nhưng sâu
thẳm trong đó vẫn luôn rạng ngời thứ ánh sáng lạc quan, tin yêu vào cuộc sống với
tinh thần nhân văn cao đẹp.
Hướng về con người trong tính bản thể của nó, chủ nghĩa hiện sinh đã trở
thành một học thuyết có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến tư tưởng nhân loại, đi vào đời
sống xã hội một cách tự nhiên, là "triết học xuống đường" và trở thành khuynh hướng
sáng tác tiêu biểu của văn học thế kỉ XX. Vì vậy, những giá trị của chủ nghĩa hiện
sinh là không thể phủ nhận đối với sự phát triển của nền văn học hiện đại. Cơn gió
hiện sinh đã thổi vào đất nước Nhật Bản hoang tàn, kiệt quệ với những tổn thương
tinh thần sau thế chiến thứ hai. Con người mang vết thương chưa thể chữa lành, hoang

mang không biết đi về đâu trong vòng xoáy đầy biến động của lịch sử và thời đại.
Những tác giả tiêu biểu thời kì này ảnh hưởng rõ nét chủ nghĩa hiện sinh trong sáng
tác như Abe Kobo, Kenzaburo Oe đã xây dựng hình ảnh của con người thời hậu
chiến với những đổ vỡ, mất mát và con người trong xã hội tư bản công nghiệp bị rơi
vào trạng thái bi đát, không lối thoát. Và khi xã hội ngày một phát triển, con người
càng bế tắc trong ốc đảo cô đơn của chính mình, lạc loài giữa xã hội đầy nhiễu động,
hoài nghi về một thế giới phi lí với những đổ vỡ niềm tin trước thời cuộc, dấu ấn hiện
sinh vì vậy vẫn hiện diện rõ nét trong sáng tác của thế hệ nhà văn đương đại. Riêng
Banana Yoshimoto, cảm thức hiện sinh thể hiện rõ nét trong sáng tác của bà khi bà
2


luôn cố gắng hướng về một con người bản thể trong tính độc đáo và toàn vẹn của nó
và vẫn giữ được hồn cốt Nhật Bản từ thuở ban sơ.
Sử dụng lí thuyết chủ nghĩa hiện sinh soi chiếu vào sáng tác của Banana
Yoshimoto, chúng tôi muốn chạm vào những “ngõ ngách” khuất kín ẩn giấu trong
tác phẩm, khám phá những tầng sâu ý nghĩa trong đó, hiểu rõ về đất nước và con
người Nhật Bản dưới góc nhìn của nhà văn. Từ đó, hy vọng có thể đưa ra những phân
tích, kiến giải chuẩn xác về hoạt động sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ Banana,
khẳng định đúng vị trí của nhà văn đối với nền văn học Nhật Bản nói riêng và văn
học nhân loại nói chung, đồng thời, hướng người đọc đến phương thức tiếp nhận thú
vị, đầy tính nhân bản. Đó chính là những lí do cơ bản và chính yếu để chúng tôi quyết
định lựa chọn đề tài Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Banana Yoshimoto.

2.

Lịch sử vấn đề

2.1. Những công trình nghiên cứu chủ nghĩa hiện sinh và văn học
Trước một thế giới duy lí, lấy vũ trụ làm trung tâm, con người bị bỏ rơi, không

được tri nhận về bản thể, những trào lưu triết học về con người ra đời như một tất yếu
của lịch sử xã hội và chủ nghĩa hiện sinh cũng nằm trong số đó. Đây là một trong
những khuynh hướng triết học – mĩ học của chủ nghĩa hiện đại, được phôi thai từ thế
kỉ XIX, hiện diện trong lòng xã hội phương Tây đầy biến động vào đầu thế kỉ XX,
sau chiến tranh thế giới thứ nhất ở Nga, Đức và phát triển mạnh mẽ ở Pháp trong
chiến tranh thế giới thứ hai, sau đó lan rộng đến những vùng lãnh thổ khác.
Chủ nghĩa hiện sinh du nhập vào miền Nam Việt Nam vào những năm 50, 60
của thế kỉ XX, lan tỏa trong lòng đô thị miền Nam ở tầng lớp trí thức tiểu sản, nhất
là thế hệ thanh niên, tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, nhận thức của họ và ảnh hưởng
sâu rộng đến nền lí luận, phê bình, sáng tác văn học ở miền Nam thời bấy giờ. Về
phương diện lí luận, chủ nghĩa hiện sinh hình thành đội ngũ nghiên cứu với những
3


gương mặt tiêu biểu Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Văn Trung, Lê Thành Trị, Lê Tôn
Nghiêm….Một số công trình đáng chú ý có thể kể đến là Triết học Nietzsche (Nguyễn
Đình Thi), Triết học hiện sinh (Trần Thái Đỉnh), Hiện tượng luận về hiện sinh (Lê
Thành Trị), Heidegger trước sự phá sản của tư tưởng Tây phương, Đâu là căn nguyên
tư tưởng hay con đường triết lý từ Kant đến Heidegger (Lê Tôn Nghiêm), Nhìn lại tư
trào hiện sinh tại miền Nam (Nguyễn Văn Trung), Từ chủ nghĩa hiện sinh tới thuyết
cấu trúc (Trần Thiện Đạo), v.v. Ngoài ra còn có thể kể đến Mấy trào lưu triết học
phương Tây của Phạm Minh Lăng, Một số học thuyết triết học phương Tây hiện đại
của Nguyễn Hào Hải cùng một số công trình dịch thuật khác như Triết học phương
Tây hiện đại (Lưu Phóng Đồng), Tìm hiểu chủ nghĩa hiện sinh của R. Campbell do
Nguyễn Văn Tạo dịch, Chủ nghĩa hiện sinh của P. Foulquié và Hiện sinh - một nhân
bản thuyết của J. P. Sartre do Thụ Nhân dịch, Mổ xẻ nhà văn J. P. Sartre của Nguyễn
Quang Lục, v.v.
Trong các công trình kể trên, đáng chú ý có công trình Triết học hiện sinh của
Trần Thái Đỉnh. Công trình đã tập hợp những bài viết của tác giả trên tạp chí Bách
Khoa từ tháng 10-1961 đến tháng 9-1962, biên soạn lại và in vào năm 1967, sau đó

được tái bản nhiều lần. Đúng như mục đích ban đầu của nhà nghiên cứu "viết sao vừa
dễ hiểu, vừa không đơn giản hóa những vấn đề phức tạp" [17, tr.8], tác giả đã trình
bày kiến thức nền tảng của chủ nghĩa hiện sinh một cách bao quát, có tính hệ thống,
dễ nắm bắt, dễ tiếp nhận. Với 10 chương, công trình đi từ việc lý giải bản chất của
triết học hiện sinh, những đề tài chính, hai ngành chính và con đường phát triển của
triết học hiện sinh gắn liền với 7 triết gia hiện sinh lớn là S.Kierkegaard, F. Nietzsche,
Husserl, K. Jaspers, G. Marcel, J. P. Sartre và M. Heidegger. Công trình này "được
xem là một công trình chuẩn mực, đầy đủ và gần như bao quát nhất về triết học hiện
sinh" [66, tr.6] tính đến thời điểm hiện nay.
Với công trình Từ chủ nghĩa hiện sinh tới thuyết cấu trúc, Trần Thiện Đạo
khi bàn về khái niệm của chủ nghĩa hiện sinh đã lý giải chủ nghĩa hiện sinh đã hình
thành một cách tự nhiên, không dựa vào bản chất sẵn có nên luôn thay đổi: “Chủ
4


nghĩa hiện sinh trình bày sự hiện sinh (l‟existence) như một hiện tượng đối lập với
bản chất (l'essence) và hết sức mù mờ, thay đổi không ngừng; sự hiện sinh do ngẫu
sinh (contingence) mà ra, nghĩa là có đó vậy thôi, có đó một cách vô cớ, không bao
hàm một ý nghĩa tiên nghiệm nào và không được biện minh bởi một bản chất có sẵn
nào” [13, tr.30].
Trong Hiện tượng luận về hiện sinh, tác giả Lê Thành Trị đã chỉ ra rằng bản
chất của chủ nghĩa hiện sinh không phải biểu hiện cho một lối sống kì dị, thác loạn
tồn tại ở xã hội miền Nam lúc bấy giờ. Nếu đánh giá như vậy có phần bất công đối
với những người đã khai sinh ra phong trào hiện sinh. Ông khẳng định rằng: “Hiện
sinh trước hết là một triết lý, triết lý của những cá nhân lỗi lạc ở thế kỉ hai mươi đã
từng suy tư từ trong cuộc sống bản thân cũng như của đồng loại, và đã biến triết lí ấy
thành một môn học, thành triết học, hiện đang chiếm một địa vị đáng kể trong lịch sử
suy tư nhân loại” [77, tr.2-3]. Và tác giả đã đi từ ý nghĩa tổng quát của triết lí hiện
sinh, đến các quan điểm của nhà hiện sinh với mục đích giúp độc giả hiểu được ý
nghĩa đích thực của chủ nghĩa hiện sinh.

Lê Tôn Nghiêm với hai công trình Heidegger trước sự phá sản của tư tưởng
Tây phương; Đâu là căn nguyên tư tưởng hay con đường triết lý từ Kant đến
Heidegger đã trình bày những tư tưởng triết học của Heidegger góp phần đổi mới nền
triết học phương Tây hiện đại và những đóng góp của Heidegger trong việc lý giải
tính bản thể của con người khi trả lời những câu hỏi của Kant trong Phê phán lý tính
thuần túy về vấn đề con người, từ đó đặt nền móng, tạo tiền đề phát triển cho khoa
nhân thể học.
Bên cạnh đó, không thể không nhắc đến nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Trung,
một trong những người tiên phong trong nghiên cứu lí luận hiện sinh ở miền Nam.
Ông được xem là nhịp cầu nối đưa chủ nghĩa hiện sinh vào xã hội miền Nam và đến
gần hơn với tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ. Với bài nghiên cứu “Nhìn lại tư trào hiện
sinh tại miền Nam”, tác giả đã trình bày ảnh hưởng của Sartre trong phong trào cách
5


mạng thế giới, đặc biệt là ảnh hưởng ở phương diện lý luận về văn học, nghệ thuật và
những tác động mạnh mẽ triết thuyết hiện sinh của Sartre khi du nhập vào miền Nam
Việt Nam.
Sau năm 1975, hướng nghiên cứu chủ nghĩa hiện sinh tiếp tục phát triển và
đạt được những thành tựu mới đáng ghi nhận. Đáng chú ý năm 1978, trong công trình
Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa, tác giả Đỗ Đức Hiểu đã khẳng định vai trò
tiên phong của F.Kafka đối với văn học hiện sinh nhưng đồng thời ông cũng phê phán
những yếu tố siêu hình về thân phận con người tràn ngập trong tác phẩm của Kafka.
Bên cạnh đó, nhà nghiên cứu cũng thể hiện cái nhìn có phần khắt khe và gay gắt khi
nhận định về bản chất của chủ nghĩa hiện sinh: “Sự thật, triết học hiện sinh và văn
học hiện sinh chủ nghĩa coi rẻ và giày đạp con người, ở đấy con người không phải là
một chủ thể tích cực, tác động đến thế giới và cấu tạo thế giới mà là một hữu thể tiêu
cực “sợ hãi và run rẩy”, cô đơn và bất lực, phiêu lưu và vô vọng, “hữu hạn và phi lý”
[38, tr.13-14].... Đối với ông, con người hiện sinh là “những con người khắc khoải,
dở sống dở chết, những con người bừng bừng thức dậy với những cơn mê sảng dữ

dội, những kí ức huyễn hoặc, những ám ảnh khủng khiếp, những hình bóng mơ hồ”
[38, tr.14]. Và ông kết luận rằng văn học hiện sinh là văn học phản động, gắn liền với
thứ triết học đầy lo âu và tuyệt vọng, đi ngược lại những giá trị tốt đẹp hướng đến con
người. Có thể thấy ý kiến của nhà nghiên cứu có phần cực đoan và phiến diện khi
chưa đánh giá đúng bản chất chủ nghĩa hiện sinh với những mặt tích cực của nó.
Ngoài ra, Nguyễn Tiến Dũng trong công trình Chủ nghĩa hiện sinh: Lịch sử,
sự hiện diện ở Việt Nam khẳng định chủ nghĩa hiện sinh Sài Gòn đã “đánh mất bộ
mặt chống duy lý một cách nhất quán như ở phương Tây” [20, tr.132] và chỉ “là một
chủ nghĩa hiện sinh bi quan đến cùng cực mà thôi” [20, tr.136]. Đồng thời, ông cũng
chỉ ra dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh trong một số tác giả tiêu biểu của văn học hiện
đại Việt Nam như Phạm Thị Hoài, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Huy Thiệp… với
tinh thần hoàn toàn khác biệt chủ nghĩa hiện sinh ở Việt Nam giai đoạn đầu.

6


Bên cạnh đó có thể kể đến một số bài viết nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh
trong văn học được đăng tải trên các báo, chuyên san, tạp chí, website như: “Nỗi đau
hiện sinh trong Bướm trắng” của Thụy Khuê (2002), “Chủ nghĩa hiện sinh, nhìn từ
góc độ văn hóa” và “Tự do và trách nhiệm trong đạo đức học hiện sinh” của Đỗ Minh
Hợp, “Quan niệm của Gi.P.Xáctơrơ về con người trong “Hiện sinh một nhân bản
thuyết” của Hoàng Văn Thắng đăng trên Tạp chí Triết học năm 2007, “Màu sắc hiện
sinh trong truyện ngắn “Ông già và biển cả” của Đỗ Thị Hạnh, “Chủ nghĩa hiện sinh
ở Miền Nam Việt Nam 1954-1975 (trên bình diện lý thuyết)” của Huỳnh Như Phương
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 9/2008. Tuy nghiên cứu chủ nghĩa hiện
sinh ở những phương diện khác nhau, ứng dụng vào những tác phẩm riêng nhưng tựu
chung lại những bài viết trên đã khẳng định dấu ấn hiện sinh trong các sáng tác văn
học ở Việt Nam, đóng góp những ý kiến đa chiều cho nền lí luận – phê bình nước nhà
để có cái nhìn xác đáng dành cho học thuyết này và vị trí của nó trong sáng tác văn
chương.

Hiện nay, nghiên cứu tác phẩm văn học dựa trên lý thuyết Chủ nghĩa hiện
sinh đã trở thành xu hướng khá phổ biến ở nước ta. Ngoài những công trình nghiên
cứu được in thành sách hay đăng tải trên các báo, chuyên san, tạp chí, còn có rất
nhiều các khóa luận đại học, luận văn, luận án sau đại học cũng đi theo hướng tiếp
cận này. Đây là hướng tiếp cận thú vị nhưng cũng đầy thử thách nên thu hút được
giới nghiên cứu. Vì vậy, nó hứa hẹn những sáng tạo và chiêm nghiệm của người
cầm bút.
2.2. Những công trình nghiên cứu về nhà văn Banana và các tác phẩm
đã được dịch ở Việt Nam
Là một cây bút trẻ của nền văn học đương đại, Banana đã tạo sức hút đối với
độc giả trong nước và quốc tế với số lượng sách được tiêu thụ rất cao, luôn nằm trong
danh mục best seller ở Nhật Bản, đồng thời, sáng tác của Banana đã gây sự chú ý đến
giới nghiên cứu phê bình trong và ngoài nước. Riêng ở Việt Nam, cái tên Banana
không còn xa lạ với độc giả, có sáu tiểu thuyết và hai tập truyện ngắn đã được dịch
7


sang tiếng Việt. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu về Banana còn khá hiếm
hoi, chưa đánh giá một cách toàn diện và đầy đủ về nữ nhà văn.
Đáng chú ý có thể kể đến Hội thảo về hai tác giả Nhật Bản đương đại là
Murakami Haruki và Yoshimoto Banana diễn ra ngày 17 tháng 3 năm 2007 tại Trung
tâm Việt - Nhật, với sự tham gia của các nhà nghiên cứu, dịch giả có uy tín trong
nước như Phan Nhật Chiêu, Cao Việt Dũng, Trần Tiễn Cao Đăng, Phan Quý Bích,
Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Chí Hoan… và một nhà văn đại diện của Nhật. Kỉ yếu
hội thảo có tất cả 15 bài viết là các bài phê bình, bài phỏng vấn, bài nghiên cứu được
dịch thuật, trong đó chỉ có một bài viết về tác giả Banana Yoshimoto là bài tham luận
của Nguyễn Chí Hoan với tựa đề “Ca ngợi khoảnh khắc” (Đọc Kitchen, "Bóng trăng",
N.P, các tiểu thuyết của Banana Yoshimoto, Lương Việt Dzũng dịch, Nhã Nam và
NXB Hội Nhà văn xuất bản, Hà Nội, 2006). Bài viết đã thể hiện những nhìn nhận,
đánh giá sâu sắc, tinh tế về văn phong của Banana qua ba tác phẩm Kitchen, Bóng

trăng, N.P. Theo Nguyễn Chí Hoan, đó là "những câu chuyện về cái đẹp. Cái đẹp
luôn cho thấy nó choán chỗ trong mọi cái nhìn, trong cảm thức về thực tại của các
nhân vật của Banana" [56, tr.21]. Từ đó, nhà nghiên cứu ngợi ca lối kể chuyện bằng
cách đảo ngược cảm nhận trong những khoảnh khắc, chính những khoảnh khắc ấy
làm nên cái đẹp của sự sinh tồn bởi lẽ "tất cả lại có thể trở nên Đẹp, được cảm nhận
như là Đẹp: bởi vì hết thảy chúng là hữu hạn, sẽ mất đi, không thể trường tồn" [56,
tr.24]. Tuy nhiên, có thể nhận thấy tại hội thảo này, khi chỉ có một bài viết về Banana
Yoshimoto, chứng tỏ rằng giới nghiên cứu chưa dành nhiều quan tâm đến nữ văn sĩ.
Không chỉ vậy, ngoài ra còn có một số bài viết trên các báo, tạp chí, website.
Nổi bật trong số đó là bài viết "Tham vọng lớn nhất là đoạt giải Nobel" của Thy Cầm
trên báo Văn nghệ số 2 ngày 13 tháng 1 năm 2007. Ở bài báo này, Thy Cầm đã giới
thiệu sơ lược về tác giả Banana và các sáng tác của bà, đặc biệt là tác phẩm Kitchen.
Đánh giá về phong cách sáng tác của Banana, Thy Cầm nhận xét nhà văn đã sử dụng
"một lối viết thật hiệu quả của người kể chuyện có tài ở chỗ đã chạm khắc ít thôi
nhưng lại cực kì tinh xảo, một dạng bonsai của từ ngữ" [3, tr.3]. Tuy nhiên, bài viết
8


chỉ dừng lại ở mức đánh giá sơ lược về tác giả, chưa đi sâu khai thác các giá trị trong
sáng tác của bà.
Bên cạnh đó là bài viết "Banana Yoshimoto - Tiểu thuyết gia hiện đại Nhật
Bản" của Phạm Vũ Thịnh giới thiệu khá chi tiết về tác giả đồng thời dịch một số
truyện ngắn trong tập Thằn lằn trên trang Ở bài viết này, nhà
nghiên cứu – dịch giả đã giới thiệu sơ lược về tiểu thuyết Bóng trăng và Kitchen
cùng những thành công vang dội mà Banana đạt được từ hai tác phẩm này. Từ đó,
ông khái quát về nội dung các sáng tác của Banana :″…đặt trọng tâm ở tính bi ai của
đời sống hiện đại, sự mất mát trong đời sống... Dù vậy, trong khoảng tối ám có khi
đến cùng cực ấy, vẫn le lói tia sáng hy vọng dựa trên lòng tin của tác giả vào nhân
tính "humanity", để con người tự hồi phục hay được chữa lành" [96]. Và đồng thời,
nhà nghiên cứu khẳng định các sáng tác của Banana đã tiếp thu ý thức về vẻ đẹp bi

ai của văn học truyền thống và chịu ảnh hưởng của các nhạc sĩ, nhà văn Âu – Mĩ như
Stephen King, Truman Capote, Mike Oldfield, Kurt Cobain.
Ngoài ra, còn có một số bài viết ngắn là cảm nhận của độc giả về các sáng
tác tiêu biểu của Banana như Kitchen, Hồ, N.P, Vĩnh biệt Tugumi. Hay những bài
nghiên cứu về văn học Nhật Bản hiện đại hoặc dòng văn học nữ có giới thiệu qua về
tác giả Banana và ghi nhận một số đóng góp của bà đối với nền văn học đương đại
như bài viết "Văn xuôi nữ lưu đương đại Nhật Bản" của Hoàng Thị Xuân Vinh, "Văn
hóa nghệ thuật: Các nhà văn nữ Nhật Bản: một cuộc đảo chiều tinh tế" của Rieko
Matsuura (Dương Thắng dịch từ nguyên bản tiếng Pháp)… Còn lại đa phần là các
trang nhằm quảng bá, giới thiệu sách của nhà xuất bản độc quyền và các nhà phân
phối. Trong đó, lời giới thiệu mở đầu cuốn Kitchen của NXB Nhã Nam được coi là
khá chi tiết và đầy đủ hơn cả khi giới thiệu khá đầy đủ về tác giả Banana và tinh thần
của cuốn Kitchen.
Hiện nay, đã có rất nhiều khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ, luận án tiến
sĩ ở các trường đại học quan tâm nghiên cứu về tác giả Banana. Trong nguồn tài liệu
thu thập được, chúng tôi nhận thấy các công trình này chỉ nghiên cứu sáng tác của
9


Banana dưới góc nhìn thi pháp học hoặc phân tâm học, có công trình chỉ dừng lại
nghiên cứu một hay một vài tác phẩm nổi bật của Banana.
Như vậy, nhìn chung có rất ít bài nghiên cứu về sáng tác của Banana
Yoshimoto. Riêng đối với tác giả, có nhiều bài nghiên cứu nhưng chỉ dừng lại ở mức
độ khái quát sơ lược. Và cũng chưa có bài viết hay công trình nào nghiên cứu về
“Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Banana Yoshimoto”. Cho nên, có thể nói rằng
luận văn đã đề cập đến một đề tài mới mẻ và vô cùng thú vị. Tuy nhiên, do hạn chế
về tài liệu tham khảo nên sẽ có không ít khó khăn trong việc hoàn thành đề tài này.
Bằng các phương pháp nghiên cứu khoa học kết hợp với khả năng cảm thụ
văn học và những kiến thức lí luận, luận văn cố gắng trình bày một cách khoa học để
hướng tới tính khách quan của đề tài. Việc nghiên cứu sáng tác của Banana

Yoshimoto dựa trên lý thuyết chủ nghĩa hiện sinh còn là một hướng đi khá mới lạ,
đầy thử thách nhưng cũng vô cùng hấp dẫn. Vì vậy, việc tìm kiếm, tổng hợp và bổ
khuyết một cách nghĩ về “Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Banana Yoshimoto”
là điều cần được quan tâm.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là “Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của
Banana Yoshimoto”. Cho nên, chúng tôi đặc biệt chú ý vận dụng lý thuyết chủ nghĩa
hiện sinh nhằm làm sáng tỏ nghệ thuật cũng như thông điệp mà nhà văn muốn chuyển
tải đến độc giả trong các sáng tác đã được dịch ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các sáng tác của Banana Yoshimoto đã
được dịch ở Việt Nam tính đến thời điểm hiện tại (gồm 6 tiểu thuyết, 2 tập truyện
ngắn). Trong đó, chúng tôi khai thác đề tài ở hai phương diện: nội dung phán ánh và
thi pháp biểu hiện. Ở đây, nội dung và thi pháp được nhìn nhận ở những bình diện
10


nổi trội nhất, thông qua lý thuyết hiện sinh. Chúng tôi sử dụng tài liệu chính các ấn
phẩm đã được công ty Văn hóa & Truyền thông Nhã Nam mua bản quyền, gồm có:
-

Kitchen (Kitchen I – Kitchen II – Bóng trăng), Lương Việt Dzũng dịch,

NXB Hội Nhà văn, 2007.
-


N.P, Lương Việt Dzũng dịch, NXB Đà Nẵng, 2007.

-

Vĩnh biệt Tugumi, Vũ Hoa dịch, NXB Đà Nẵng, 2007.

-

Amrita (Amurita), Trần Quang Huy dịch, NXB Hội nhà văn, 2008.

-

Say ngủ, Trương Thị Mai dịch, NXB Văn hóa Sài Gòn, 2008.

-

Thằn Lằn, Nguyễn Phương Chi dịch, NXB Văn học, 2008

-

Hồ, Uyên Thiểm dịch, NXB Hội nhà văn, 2014.

4.

Phương pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu đề tài , chúng tôi vận dụng các phương pháp chủ yếu sau:
4.1. Phương pháp phân tích – tổng hợp
Phương pháp được sử dụng nhằm giải mã, phân tích tác phẩm trên bình diện
nội dung và nghệ thuật, trên cơ sở đó, tổng hợp khái quát những phương diện cần

nghiên cứu.
4.2. Phương pháp thống kê – phân loại
Phương pháp được vận dụng nhằm chỉ ra những đặc trưng về nội dung (đề
tài, chủ đề…) và nghệ thuật (biểu tượng, kết cấu, không – thời gian nghệ thuật…)
dựa trên lý thuyết về chủ nghĩa hiện sinh một cách khoa học, logic và có hệ thống.
4.3. Phương pháp so sánh – đối chiếu

11


Phương pháp được thực hiện nhằm so sánh, đối chiếu tác các sáng tác của
Banana với nhau, hay các sáng tác của các tác giả khác cùng giai đoạn hay cùng một
hệ đề tài; qua đó thấy được sự tương đồng giữa các tác phẩm và nét đặc trưng, sáng
tạo của tác giả
4.4. Phương pháp liên ngành:
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi còn vận dụng một số lý thuyết
liên ngành như thi pháp học, phân tâm học, kí hiệu học, văn hóa học, xã hội học… để
tiếp cận và lý giải sâu hơn, khách quan hơn vấn đề được đặt ra trong luận văn.

5.

Đóng góp của luận văn

5.1. Về mặt lý luận
Luận văn khẳng định vai trò của chủ nghĩa hiện sinh trong việc nghiên cứu
một tác phẩm văn chương.
Luận văn tiếp tục khẳng định vai trò của chủ đề tư tưởng làm sẽ làm nên sức
sống và giá trị trường tồn cho những tác của Banana Yoshimoto.
5.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn cung cấp một cái nhìn đầy đủ hơn về tài năng của Banana

Yoshimoto; đồng thời đưa ra một cách hiểu thấu đáo hơn về cảm thức hiện sinh trong
các sáng tác của Banana.
6.

Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính

của luận văn được phân thành ba chương:

12


Chương 1: Chủ nghĩa hiện sinh và các chủ đề hiện sinh trong sáng tác của
Banana Yoshimoto
Chương 2: Con người hiện sinh trong sáng tác của Banana Yoshimoto
Chương 3: Phương thức biểu hiện cảm thức hiện sinh trong sáng tác của
Banana Yoshimoto

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CHỦ NGHĨA HIỆN SINH VÀ CÁC CHỦ ĐỀ HIỆN SINH TRONG SÁNG
TÁC CỦA BANANA YOSHIMOTO
1.1. Chủ nghĩa hiện sinh – lịch sử, những phạm trù cơ bản và sự ảnh
hưởng đến văn học Nhật Bản hiện đại
1.1.1. Lịch sử ra đời chủ nghĩa hiện sinh
Chủ nghĩa hiện sinh ra đời trong sự biến động của xã hội phương Tây cuối
thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, khi những tư tưởng triết học cổ điển không còn phù
hợp với những biến đổi của thời đại với ngọn lửa chiến tranh thế giới thứ nhất bùng
cháy khắp châu Âu. Vì thế chủ nghĩa hiện sinh đã hình thành chính thức ở Đức sau
chiến tranh thế giới lần thứ nhất như quy luật tất yếu của lịch sử khi dân tộc này đã

chịu nhiều tổn thương tinh thần sau chiến tranh cần được chữa lành.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, chủ nghĩa hiện sinh một lần nữa bùng lên
ở Pháp khi con người tiếp tục gánh chịu nhiều tổn thương tinh thần, luôn sống trong
những lo âu, hoài nghi khi các giá trị trong xã hội bị đảo lộn. Các thành tựu khoa học
13


kỹ thuật tiên tiến tưởng chừng phục vụ cho một xã hội văn minh hiện đại lại trở thành
công cụ để tàn sát và hủy diệt loài người, phục vụ cho nhà cầm quyền của thế lực đen
tối. Bên cạnh đó, chủ nghĩa hiện sinh ra đời chính là hệ quả tất yếu sau những dư chấn
tinh thần mà chủ nghĩa duy lý đã để lại sau quá trình tồn tại suốt một thời gian dài
trong lòng xã hội phương Tây hiện đại. “Chủ nghĩa hiện sinh ra đời nhằm phản ứng
lại sự duy lý đã đạt tới đỉnh điểm, khi các cá nhân trở thành mảnh vỡ giống nhau
trong một ống kính vạn hoa quay tít bằng ánh sáng của các thành tựu khoa học và lối
sống sùng bái sức mạnh vật chất bộc lộ mặt trái của nó” [15, tr.69].
Chủ nghĩa hiện sinh là học thuyết có tính kế thừa khi "những phần tử trí thức
những di sản có tính quá khứ để từ đó xây dựng nên học thuyết của mình" [6, tr.129].
Vì vậy, xét về nguồn gốc tư tưởng triết lí hiện sinh, Pascal được coi là "cụ tổ hiện
sinh ở Pháp". Nhưng những người được coi là tiền bối chuẩn chị cho sự ra đời chủ
nghĩa hiện sinh là S.Kierkegaard, F. Nietzsche, Husserl. Trong đó, S.Kierkegaard
được xem là "ông tổ hiện sinh trung thực" với tư tưởng lớn nhất là tính chủ thể hoàn
toàn của con người, F. Nietzsche là "ông tổ hiện sinh vô thần" với triết lý "siêu nhân",
Husserl là ông tổ của "hiện tượng học". Tiếp nối là những tên tuổi như K. Jaspers, G.
Marcel, J. P. Sartre và M. Heidegger đã đưa chủ nghĩa hiện sinh đạt đến đỉnh cao vào
những năm giữa thế kỉ XX.
Thuật ngữ “chủ nghĩa hiện sinh” (existentialisme) được nhà triết học Grabiel
Marcel khởi xướng vào giữa những năm 1940 và được J. P. Sartre sử dụng trong bài
thuyết trình của mình vào ngày 29 tháng 11 năm 1945 tại Paris. Bài thuyết trình sau
đó được xuất bản thành cuốn sách mỏng mang tựa đề “L‘ existentialisme est un
humanisme” (Hiện sinh - một nhân bản thuyết). Triết thuyết hiện sinh đã nhanh chóng

trở thành tư tưởng năng động nhất trong việc biểu hiện đời sống tinh thần của người
phương Tây bội thực về công nghệ, đồng thời nhanh chóng lan tỏa trên khắp thế giới.
Ngoài ra chúng ta có thể điểm qua một số công trình khác như Existentialism: From
Dostoevsky to Satre của Walter Kaufmann xuất bản năm 1956, tổng hợp các bài
nghiên cứu về triết học hiện sinh của Dostoevsky, S.Kierkegaard, F. Nietzsche, K.
14


Jaspers, J. P. Sartre, M. Heidegger, A.Camus.. Và cuốn Indroduction to Modern
Existentialism của Ernst Breisach, xuất bản năm 1962 giới thiệu về nguồn gốc, lịch
sử hình thành và những đặc trưng của chủ nghĩa hiện sinh.
Triết học hiện sinh ảnh hưởng đến các mặt văn hóa, xã hội, đặc biệt trở thành
khuynh hướng sáng tác văn học tiêu biểu của nền văn học hiện đại. Những triết gia
lớn của chủ nghĩa hiện sinh đồng thời là những nhà văn lớn, những người tiên phong
đưa triết thuyết hiện sinh vào trong sáng tác của mình. Tiểu biểu như J. P. Sartre với
tác phẩm Buồn nôn, Bức tường, Chữ nghĩa… Trong đó, tác phẩm Buồn nôn xuất bản
năm 1938 được coi là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của chủ nghĩa hiện sinh. Tác phẩm
thể hiện cảm giác chóng mặt, buồn nôn khi con người chợt nhận ra thân phận đáng
thương của mình trong thế giới xa lạ. Hay A.Camus với Người xa lạ nói về con người
xa lạ với thế giới mình đang sống và dửng dung trước mọi sự việc của đời sống. Như
Sartre đã từng đánh giá: "Người xa lạ là tác phẩm được tạo nên vì cái phi lí và chống
lại cái phi lí". Nhiều nhà văn khác cũng đã tiếp thu tinh thần hiện sinh, tập trung vào
các đề tài như nỗi lo sợ, sự tự do, sự hư vô… Có thể kể đến một số gương mặt như
F.Sagan, A. Malraux (Pháp), N.Mailer (Mĩ), W.Golding (Anh), Dostoevsky (Nga)…
Tuy nhiên, theo quy luật vận động của xã hội, phong trào văn học hiện sinh bắt đầu
suy tàn vào giữa thế kỉ XX đến cuối những năm 50 thì chấm dứt và bị thay thế bởi
các trường phái văn học mới.
1.1.2. Những phạm trù cơ bản của triết học hiện sinh
Trong công trình Hiện sinh, một nhân bản thuyết (Thụ Nhân dịch), J.P.Sartre
đưa ra 12 luận đề chính của tư tưởng hiện sinh (theo quan điểm của E. Mounier) là:

Sự ngẫu nhiên của đời sống con người: Con người không phải là một cái gì thiết
yếu. Nó là một cái gì thừa thãi; Sự bất lực của lý trí: Lý trí của con người bất lực
trong việc tìm hiểu vận mệnh của mình. Do đó, cần phải sống theo tiếng gọi sâu thẳm
của tâm hồn, mà Pascal gọi là tiếng nói của con tim; Sự nhảy vọt của con người:
Con người phải nỗ lực tuyệt đỉnh để tạo nên cuộc đời của mình bằng cách tiến vượt,
nhảy vọt, hàng giây, hàng phút, mặc dầu là nhảy vọt vào hư vô; Sự dòn mỏng của
15


con người: Con người sống một ngày là thêm một ngày tiến gần đến cõi tịch diệt,
tiến gần hơn đến cửa mồ. Nhưng điều đó chỉ càng khiến họ thêm khao khát sống, dù
rằng trong lòng họ không phải không tràn đầy nỗi lo âu, sợ sệt…; Sự phóng thể: Con
người không thể làm chủ được mình, không tự điều khiển được cuộc đời mình; Đời
người có giới hạn, thần chết lại vội vã: Sự thật đầy bi đát của cuộc sống đó là sinh
ra để rồi chết đi; Sự cô độc và bí mật: Con người có khuynh hướng sống đơn độc và
chết cô độc; Sự hư vô: Con người là một thực thể của hư vô; Sự cải hóa cá nhân:
Con người phải sống một cách đầy ý thức về vận mệnh của mình, sống một cách đặc
biệt chứ không phải chỉ sống qua ngày; Vấn đề nhập thế: Con người là tự do và buộc
phải thực hiện tự do đó bằng cách hành động, lựa chọn, nhập thế; Vấn đề tha nhân:
Trong đời sống, con người không thể chỉ sống một mình mà còn là sống với người
khác, đó là tha nhân; Đời sống dám liều: Con người phải hành động, dám sống, dám
liều theo ý mình bất chấp ánh mắt của tha nhân.
Trong công trình Triết học hiện sinh, Trần Thái Đỉnh đưa ra 6 phạm trù hiện
sinh cụ thể là buồn nôn, phóng thể, ưu tư, vươn lên, tự quyết, độc đáo:
Buồn nôn
La trạng thái sinh hoạt lầm kì của thường nhật. Nói rõ hơn, Buồn nôn là cảnh
sống của những người chưa vươn lên tới mức đích thực còn cam chịu như cỏ cây và
động vật. Con người ý thức rõ về địa vị và thiên chức làm người, tự thấy nôn nao vì
cuộc đời súc vật trước đây quyết liệt từ bỏ trạng thái sự vật để vươn lên làm những
nhân vị tự do và trách nhiệm.

Phóng thể
Là tình trạng của những con người chưa tự ý thức mình là nhân vị độc đáo
mà chỉ xem mình là một đơn vị như hàng trăm hàng nghìn đơn vị khác trong tổng số
nhân loại. Họ hành động chỉ vì người ta bảo mình làm hoặc nghĩ mình phải làm như
thế, tuyệt nhiên không chống đối, không phản kháng, không tự vấn.
16


Ưu tư
Là sự xao xuyến, băn khoăn về một tương lai đầy huyền nhiệm với bao nhiêu
yếu tố chưa thành hình rõ rệt mà ở đó, mỗi người sẽ phải tự quyết định lấy cho mình,
phải tự chịu trách nhiệm về những quyết định và lựa chọn của mình. Từ đây, các nhà
hiện sinh xem ưu tư là sức chuyển động, là những cái cựa mình để vươn lên, thăng
hoa hai chữ con người.
Tự quyết
Theo J. P. Sartre, con người chỉ là cái mình tự tạo nên, chọn làm người tự do
mà cực khổ hơn làm nô lệ để được hưởng sung sướng. Tự quyết là minh chứng mỗi
cá nhân là một chủ thể tự do và tự đảm nhận. Chính trong hành động tự quyết, triết
thuyết hiện sinh chứng tỏ hiện sinh là giá trị sống, không phải giá trị tư tưởng.
Vươn lên
Không vươn lên nghĩa là bị cứng đọng, sa lầy, mà vươn lên không có nghĩa
là chiến thắng người này người nọ. Vươn lên của hiện sinh chỉ nhằm chiến thắng
chính mình, mình phải vươn lên trên cái của mình hôm qua và của lúc nãy.
Độc đáo
Triết học hiện sinh nhằm thức tỉnh con người, nhắc cho mỗi người biết rằng
mình là một nhân vị độc đáo và phải hoàn thành cái định mệnh độc đáo của mình.
Độc đáo thường dẫn đến cô đơn. Dám chấp nhận cô đơn chính là lúc con người có
nhân vị độc đáo. Nói cách khác, con người hiện sinh đích thức là con người làm nên
lịch sử của mình. Vì nó tự đảm nhận mọi hành vi của mình và đảm nhận luôn cả cuộc
sống của mình xét như một dự phóng căn bản.

1.1.3. Sự ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh đến văn học Nhật Bản hiện
đại

17


Cơn gió chủ nghĩa hiện sinh thổi vào lòng xã hội Nhật Bản khi đất nước này
đang trong tình trạng hoang tàn, kiệt quệ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Sự bại trận,
thảm họa bom nguyên tử và thời kỳ chiếm đóng của Mỹ trở thành những cú sốc tinh
thần to lớn, để lại những vết thương sâu sắc trong tâm hồn người Nhật. Con người
hoang mang trước số phận cuộc đời mình, họ không hiểu cuộc đời sẽ đi về đâu và
con người sẽ là gì trong cái vòng xoáy của vũ trụ, nơi những biến thiên lịch sử diễn
ra triền miên, dai dẳng.
Làn sóng phương Tây hóa đã có tác động lớn lao đến sự chuyển biến của nền
văn học Nhật Bản thời kì cận - hiện đại. Trong khi tiếp thu ảnh hưởng của các nhà
văn phương Tây, văn học Nhật Bản đã hình thành những trào lưu, những trường phái
khác nhau. Một số nhà văn Nhật Bản, đặc biệt là thế hệ những người trưởng thành
trong và sau chiến tranh, có nhiều cơ hội tiếp xúc với các tác gia phương Tây (Abe
Kobo, Oe Kenzaburo…) đã chịu ảnh hưởng bởi các nhà văn hiện sinh tiêu biểu như
J.P. Sartre, A. Camus hay F. Kafka.
Đất nước Nhật Bản bước vào thời kì hiện đại và thực hiện quá trình hiện đại
hóa một cách nhanh chóng cũng đã tạo nên những biến đổi lớn lao trong đời sống xã
hội Nhật Bản. Con người bị đẩy vào guồng quay của xã hội ấy, khiến nhiều khi họ
mất đi bản ngã của mình. Không ít những nhà văn đã cất lên tiếng nói đau đớn cho
thân phận con người, lên án xã hội là những nguyên nhân trực tiếp đẩy con người vào
những cảnh huống trớ trêu ấy. Cũng không ít trong số họ đã trực tiếp chứng kiến
những cảnh ngộ thương tâm, bi đát của kiếp người trong khi vật lộn với cuộc chiến
tranh để sinh tồn, với cả những biến chuyển liên hồi của xã hội. Dấu hỏi lớn về thân
phận con người, về số kiếp người dường như là không có lời giải đáp.
Nếu như ở Pháp, văn học hiện sinh phát triển mạnh mẽ nhất và trở thành một

trào lưu được phổ biến rộng khắp vào những năm trước và sau chiến tranh thế giới
thứ hai, thì ở Nhật Bản, văn học hiện sinh không phát triển đến độ mạnh mẽ như thế.
Nó không quy tụ vào một nhóm tác giả, một trường phái hay khuynh hướng văn
chương cụ thể nào. Chủ nghĩa hiện sinh trong văn học Nhật Bản không nở rộ như một
18


trào lưu trong văn học phương Tây mà nó tồn tại riêng lẻ như những yếu tố trong tác
phẩm hay trong phong cách của một tác giả. Tuy vậy, những yếu tố của chủ nghĩa
hiện sinh xuất hiện trong tác phẩm của một số tác giả lại mang tính chất tiêu biểu và
có những biểu hiện đặc sắc. Cần phải thấy rằng ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh
trong văn học phương Tây khi vào Nhật Bản đã tạo ra những nét riêng, mang hồn cốt
của con người, của dân tộc này - một dân tộc dù đã Âu hóa nhiều song vẫn còn những
bản sắc Á Đông rõ rệt. Mặc dù không phát triển thành trào lưu văn học hiện sinh
mạnh mẽ và phổ biến như ở Pháp, nhưng văn học hiện sinh Nhật Bản đã tồn tại và
đạt được những thành tựu nổi bật ở một số tác giả hiện đại.
1.2. Các chủ đề hiện sinh trong sáng tác của Banana Yoshimoto
Trong tiến trình phát triển của triết học hiện đại, bước sang thế kỉ XX, các
trào lưu triết học nhân bản như Triết học đời sống, Phân tâm học, Chủ nghĩa nhân vị,
Chủ nghĩa thực dụng, Chú giải học, Hiện tượng học, Chủ nghĩa cấu trúc, Lí luận phê
phán, Chủ nghĩa hiện sinh… ra đời như một tất yếu của lịch sử để phản ứng chống
lại chủ nghĩa duy lí, chủ nghĩa thực chứng duy khoa học. Triết học nhân bản lấy con
người làm đối tượng xem xét nhưng không phải là một đối tượng khoa học mà là đối
tượng triết học hướng về bản chất của con người trong sự biến đổi phong phú, phức
tạp của đời sống tinh thần. Vì vậy, có thể khẳng định nguồn gốc sâu xa hình thành
triết học nhân bản nói chung và Chủ nghĩa hiện sinh nói riêng là khi con người phải
chịu những tổn thương, mất mát về tinh thần không thể chữa lành do một xã hội duy
lí gây nên. Đó là xã hội mà phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chạy theo lợi
nhuận tối đa làm con người tha hóa, biến dạng cùng với đó là những tệ nạn xã hội và
sự tàn phá khủng khiếp từ hai cuộc thế chiến do chủ nghĩa đế quốc gây ra. Không chỉ

vậy, do sự phát triển vượt bậc của khoa học kĩ thuật, xã hội tuỵêt đối hoá vai trò của
khoa học kĩ thuật mà người ta quên đi vai trò của con người, xem trọng những giá trị
vật chất mà coi thường, thờ ơ trước những giá trị tinh thần. Con người rơi vào trạng
thái bị bỏ rơi, muốn vượt thoát khỏi thế giới duy lí, tự cứu lấy mình, tự chịu trách
nhiệm về chính mình, được sống là một nhân vị tự do đích thực. Như vậy, Chủ nghĩa
19


hiện sinh đã hình thành xuất phát từ mong muốn vượt thoát khỏi một thế giới duy lí
đạt đến cực hạn; đồng thời, thế giới quan của các nhà hiện sinh chủ nghĩa thay đổi
khi nhận thấy cái phi lí luôn tồn tại, trở thành một phần thuộc về bản chất của thế giới
xô lệch này.
Chính vì lẽ đó, khi nghiên cứu về các chủ đề hiện sinh trong sáng tác của
Banana Yoshimoto, chúng tôi đi sâu khai thác chủ đề về thế giới hiện sinh được tác
giả nhìn nhận dưới lăng kính chủ quan cùng trực cảm, chiêm nghiệm, ưu tư của người
nghệ sĩ phản ánh vào trong tác phẩm, để từ đó xây dựng nên một thế giới phi lý kì lạ,
đầy huyền bí, thế giới đa chiều, hỗn độn và thế giới xa lạ của tha nhân. Và trong thế
giới ấy, chúng ta vẫn cảm nhận những mất mát thương đau mà con người hiện sinh
phải chịu đựng cũng như sức sống tiềm tàng, khát vọng mãnh liệt trên con đường tìm
kiếm, tri nhận, dấn thân để khẳng định nhân vị tự do. Cũng qua đó để thấy được rằng,
từ những chủ đề hiện sinh dưới đây, Banana Yoshimoto lại một lần nữa chạm đến trái
tim độc giả bởi những giá trị nhân văn, luôn hướng về con người đang hiện tồn với
những giá trị nhân bản nhất.
1.2.1. Chủ đề về thế giới phi lý, kì lạ, đầy huyền bí
Bàn về khái niệm “phi lý”, trên phương diện lo-gic, phi lý là “cái gì trái với
quy tắc logic” [d], còn trên phương diện nhận thức, phi lý là “tất cả những gì chống
lại năng lực nhận thức, chống lại lí trí, không thể lý giải được bằng tư duy” [dan]. Và
từ đó các nhà hiện sinh chủ nghĩa đã phát triển khái niệm cái phi lý thành một khái
niệm cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh. Nếu như khái niệm này chưa được trình bày cụ
thể trong lý thuyết những nhà hiện sinh tiên phong như S. Kierkegaard, M. Heidegger,

Karl Jaspers thì đã thể hiện rõ trong các công trình của các nhà hiện sinh thế hệ nối
tiếp như J.-P. Sartre, A. Camus, Léon Chestov… . Sartre được xem là nhà hiện sinh
phi lý. Ông quan niệm “cái thực tại nhân bản là một thực tại phi lý, một thực tại của
vật “tự nó”. Nhưng trong cái thực tại phi lý tự nó đó lại có sự can thiệp của ý thức
nhân bản, được gọi là vật “vì nó”. Và cả cái ý thức vì nó ấy cũng là một ý thức phi
lý” [dan]. Như vậy, có thể hiểu rằng theo Sartre thế giới vốn tồn tại sự phí lý từ trong
20


bản chất nội tại, là thế giới vốn hỗn độn, xô bồ, không luật nhân quả, “nó hiển hiện
như một trái núi khổng lồ, sừng sững, đông đặc, đáng sợ [phê phansvhhs, tr.62]. Con
người lại bị ném vào thế giới ấy, ý thức tri nhận về sự phi lý của thế giới nhưng lại
bất lực trước nó nên con người lựa chọn cách tách mình ra khỏi thực tại, phủ nhận
hữu thể “tự nó” của thế giới ấy.
Tư tưởng của A.Camus không mang nặng tính triết lí như Sartre. Theo nhà
nghiên cứu Vũ Đình Lưu đánh giá: “Tư tưởng đạo đức của Albert Camus hướng về
sự thể hiện những yếu tố có sinh lực rút từ kinh nghiệm cuộc sống của mình” [tienve].
Chính vì thế, khi đưa ra quan niệm về “cái phi lý”, trong các thiên khảo luận và các
tác phẩm văn học của mình, ông cho rằng “phi lý là vực thẳm không thể vượt qua
nằm giữa con người và thế giới, giữa những khát vọng của con người và sự dửng
dưng của thế giới. Phi lý không ở nơi con người cũng không ở trong sự vật, mà ở
trong sự vắng bóng hoàn toàn một tương quan tốt đẹp giữa hai phía ngoại trừ sự xa
lạ” [tienve]. Điều đó có nghĩa giữa con người và thế giới luôn tồn tại vực sâu chất
chứa cái phi lý. Bởi lẽ con người mong muốn hướng về những giá trị căn bản của
nhân sinh nhưng thế giới bên ngoài nhiễu động, hỗn loạn, tối tăm và đầy đau khổ.
Như vậy, cái phi lý không phải được tạo thành do bản chất của thế giới thực tại lẫn
lý tính của con người mà nó được “sinh ra từ sự mâu thuẫn của nhu cầu con người và
sự im lặng khôn dò của thế giới” [tiên vệ]. Tuy nhiên, dù giữa khát vọng của con
người và thế giới có nảy sinh mâu thuẫn nhưng con người hiện sinh của Camus không
chống đối lại thế giới mà đối mặt, tìm cách tìm lấy ý nghĩa giữa những điều phi lý.

Giống như hình tượng Sisyphus trong Thần thoại Sisyphus mà ông đã xây dựng,
Sisyphus tưởng chừng đã làm việc làm vô nghĩa lý, phải chịu bi kịch của số phận mà
thần linh muốn trừng phạt chàng nhưng chàng đã vượt lên số phận, tìm thấy hạnh
phúc, niềm vui từ những việc tưởng chừng phi lý: “Chính trong điều này chứa đựng
niềm vui lặng lẽ của Sisyphus. Số phận của chàng thuộc về chính chàng. Tảng đá kia
là công việc của chàng. Cũng như vậy, con người phi lý, khi suy tư về sự đau khổ của
mình, làm im tiếng tất cả thần tượng… Mỗi nguyên tử của tảng đá kia, mỗi vảy
khoáng vật trong ngọn núi ngập bóng đêm kia, trong bản thân nó tạo thành một thế
21


giới. Bản thân cuộc tranh đấu hướng tới đỉnh cao là đủ để lấp đầy trái tim con người.
Ta phải tưởng tượng là Sisyphus hạnh phúc” [huyền thoại sisyphus, tr.180 -181]. Vì
vậy, Albert Camus được coi là nhà hiện sinh nhân bản luôn hướng đến những điều
tốt đẹp với ý thức phản kháng mạnh mẽ của con người.
Mặc dù quan niệm về cái phi lý được trình bày khác nhau nhưng nhìn chung
các nhà hiện sinh đều cho rằng thế giới phi lí bởi tính chất mù mịt, ngẫu nhiên, bí mật
tuyệt đối, trống rỗng tuyệt đối. Cái phi lí xuất hiện khi có sự tuyệt giao hoặc sự giao
tiếp bất hòa hợp giữa con người và thế giới. Từ đó, con người mang ý thức phản tỉnh
và “buồn nôn” chính là phản ứng đầu tiên của con người trước một thế giới phi lí,
trước hiện hữu chưa vươn lên để đạt đến hiện sinh đích thực.
Trước khi trở thành một khái niệm triết học thì cái phi lý ấy đã tồn tại từ rất
lâu trong cảm giác của con người, vì một lẽ con người chỉ cảm thấy mọi điều không
phi lý khi thoã mãn nhu cầu hiểu biết về bản thân và thế giới. Trên thực tế điều này
lại dường như khó có thể xẩy ra, khi cuộc sống xưa nay vốn luôn nảy sinh và phát
triển trên những chuỗi dài hoài nghi và chất vấn. Nói cách khác, khi chúng ta đang
sống nghĩa là chúng ta đang tạo cơ hội cho những câu hỏi liên tục, không ngừng. Đối
với con người, hỏi vừa là niềm khao khát của trí tuệ, vừa là khát vọng chiếm lĩnh thế
giới xung quanh, vừa là nỗi lo lắng, tính toán cho xử thế....Một số lớn những câu hỏi
đã được những kiến giải hợp thời nhưng còn nhiều rất nhiều, trong số đó vẫn là

khoảng trống và mãi mãi sẽ là khoảng trống, chẳng biết bao lâu mới được lấp đầy.
Chính tại nơi này, điều phi lý xảy ra. Cảm thức phi lý đã tuột khỏi sự thâu tóm, sắp
đặt của lý trí. Như vậy, tuy không rõ ràng như cái hữu lý nhưng chắc chắn cái phi lý
cũng là điều có thật trong đời.
Từ chỗ chỉ tồn tại trong ảo giác, cái phi lý dần dần bước vào phương pháp tư
duy và đóng vai trò ngụy biện, suy luận giải thiết để chứng minh cho chân lý điều
ngược lại. Trên phương diện này, có thể xem “những gì tồn tại trái ngược với quy tắc
lôgíc chỉ là cái hữu hạn, cái phi lôgíc, cái ngoài quy luật, cái chưa hiểu biết mới là cái
khôn cùng.

22


Trở thành vấn đề của các triết thuyết khái niệm phi lý trong triết học là một sự
khái quát lại những điều chúng ta cảm nhận qua trực giác, đó là việc thừa nhận sự
đầu hàng của trí tuệ, sự bất lực của nhận thức đối với những gì chưa biết nhưng lại
hiện hữu hàng ngày trước con mắt chúng ta. Từ đó, có thể cho rằng “tất cả những gì
chống lại năng lực nhận thức, chống lại lý trí, không lý giải được bằng tư duy thì đều
được coi là phi lý. Như vậy, cái phi lý là cái phản lý tính” [15, 15]. Định nghĩa này
của nền triết học hiện đại đã được phát triển thành chủ nghĩa phi lý tính. Đặc điểm
của chủ nghĩa này là sự mất đi lòng tin vào lý trí, phủ nhận tư duy khoa học không
đủ khả năng để nhận thức chân lý và hiện thực khách quan. Thay vào đó, nó lại cho
rằng thế giớí chỉ có thể nhận thức được bằng bản năng, bằng ý chí, bằng kinh nghiệm,
bằng linh cảm, vô thức và trực giác...
Trong các sáng tác của mình, Banana Yoshimoto luôn xây dựng một thế giới
xây dựng thế giới chất chứa tồn tại những điều kì lạ, huyền bí, những điều phí lí tưởng
chừng không thể lí giải và tất cả vẫn được chấp nhận, tồn tại như một lẽ tất yếu, hiển
nhiên. Điều này xuất phát từ mục đích sáng tạo của nữ tác giả. Trong chính các bài
phỏng vấn trên phương tiện truyền thông, Banana khẳng định hai chủ đề chính mà bà
hướng tới trong sáng tác của mình là “sự cạn kiệt của giới trẻ Nhật Bản trong xã hội

Nhật Bản đương đại” và “cách thức mà những trải nghiệm khủng khiếp hình thành
nên cuộc đời của một con người” [wiki]. Đó là “những vấn đề phải đối mặt của giới
trẻ chốn đô thị khi họ bị mắc kẹt giữa thế giới tưởng tượng và thực tế” [wiki]. Vì vậy,
thế giới hư cấu, tưởng tượng, kì ảo, vô nghĩa lý, đầy mơ hồ được Banana xây dựng
một cách linh hoạt. Các nhân vật kì lạ được bao bọc trong bầu không khí ma mị, mơ
hồ, đầy mê hoặc và quyến rũ lòng người, khiến độc giả chìm đắm, mê say, phiêu du
trong thế giới ấy như lạc lối vào cõi liêu trai hư ảo đầy bí ẩn, trong làn sương thực ảo
vô cùng mong manh không thể đoán định đâu là thực, đâu là ảo nhưng lại vẫn khắc
khoải, trăn trở cùng nhân vật trước những điều vô nghĩa lý, không thể nào lý giải khi
tri nhận về thế giới cũng như bản thể cá nhân các nhân vật. Và mỗi một nhân vật cứ
thế mải miết lưu lạc giữa thế giới ấy với những điều phi lí mặc nhiên tồn tại như vốn
dĩ bản chất hiện tồn của nó hay xuất phát từ trong nhận thức, tưởng tượng của chính
23


×