Tải bản đầy đủ (.doc) (203 trang)

Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ theo pháp luật Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (916.91 KB, 203 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH PHAN QUỲNH

XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 9.38.01.02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN CỬU VIỆT

HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi.
Các số liệu và tư liệu được sử dụng trong luận án đảm bảo độ chính xác, trung
thực và tin cậy. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu
của mình.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

ĐINH PHAN QUỲNH



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1
1.1
1.2
1.3
Chương 2
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
Chương 3
3.1
3.2
Chương 4
4.1
4.2
KẾT LUẬN

…………………………………………………………………..
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đánh giá về tình hình nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ
Khái niệm, nguyên tắc, vai trò xử lý vi phạm hành chính trong

lĩnh vực giao thông đường bộ
Các biện pháp xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ
Thẩm quyền, thủ tục xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ
Các yếu tố tác động đến xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ
THỰC TRẠNG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
Thực trạng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ
Thực trạng hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay

1
8
8
23
27
31
31
36
55
61
66
77
77
97


PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH 116
VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ Ở VIỆT NAM
Phương hướng nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm hành chính
116
trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam
Giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
124
vực giao thông đường bộ
155
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ATGT

: An toàn giao thông

ATGTĐB

: An toàn giao thông đường bộ

BCA

: Bộ Công an

CAND


: Công an nhân dân

C08

: Cục Cảnh sát giao thông

CSGT

: Cảnh sát giao thông

GTĐB

: Giao thông đường bộ

GTVT

: Giao thông vận tải

GPLX

: Giấy phép lái xe

GTTT

: Giao thông trật tự

NCS

: Nghiên cứu sinh


PC08

: Phòng Cảnh sát giao thông

VPHC

: Vi phạm hành chính

VPPL

: Vi phạm pháp luật

TNGT

: Tai nạn giao thông

TNHC

: Trách nhiệm hành chính

TNPL

: Trách nhiệm pháp lý

TTATGT

: Trật tự an toàn giao thông

TTKS


: Tuần tra kiểm soát


DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Hệ thống đường bộ Việt Nam
Bảng 3.2: Đăng ký phương tiện giao thông cơ giới đường bộ Việt Nam
Bảng 3.3: Kết quả xử phạt vi phạm hành chính về trật tự an toàn giao thông
đường bộ
Bảng 3.4: Phân tích các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ
Bảng 3.5: Phương tiện vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
Bảng 3.6: Kết quả áp dụng xử phạt vi phạm hành chính trên các lĩnh vực giao
thông đường bộ của lực lượng Cảnh sát giao thông


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Giao thông đường bộ (GTĐB) ở Việt Nam hiện nay là một vấn đề nhận
được sự quan tâm và quan ngại sâu sắc của toàn xã hội, theo số liệu của Tổ chức
Y tế Thế giới (WHO) hiện nay tỷ lệ tử vong tính trên 100.000 dân do tai nạn giao
thông (TNGT) gây ra tại Việt Nam là cao hơn mức trung bình của thế giới
(24,5/17) [145]. Tuy nhiên đây mới là số tử vong theo thống kê trên hiện trường
do lực lượng Cảnh sát giao thông (CSGT) thực hiện. Bên cạnh đó bình quân mỗi
năm Việt Nam mất 3 tỷ USD (tương đương 2,5% GDP) để khắc phục các hậu
quả do TNGT đường bộ gây ra [129], trong khi đó tốc độ tăng trưởng GDP của
Việt Nam đang ở mức khoảng 6%. Phân tích nguyên nhân dẫn đến TNGT ở nước
ta phần lớn là xuất phát từ hành vi vi phạm pháp luật (VPPL) về GTĐB của
người điều khiển phương tiện cũng như người tham gia giao thông gây ra. Có thể

nhận thấy tình trạng VPPL trong lĩnh vực GTĐB ở nước ta là một trong rất nhiều
nguyên nhân cản trở sự phát triển của đất nước. Xuất phát từ thực tiễn đó, ngày
24/10/2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược quốc gia bảo đảm trật
tự, an toàn giao thông đường bộ (ATGTĐB) đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm
2030, khẳng định việc thực hiện chiến lược ATGTĐB nhằm thiết lập và duy trì
trật tự xã hội trong lĩnh vực giao thông vận tải (GTVT) nhằm bảo đảm an toàn
cho người, phương tiện khi tham gia giao thông; bảo đảm hệ thống GTVT hoạt
động thông suốt phục vụ mục đích phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc
phòng an ninh, hội nhập kinh tế quốc tế. Như vậy bảo đảm trật tự an toàn giao
thông (TTATGT) và hạn chế TNGT là góp phần vào sự phát triển của đất nước
và là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, toàn xã hội, trước hết là
của các cơ quan nhà nước có chức năng và của người tham gia giao thông.
Có thể nhận thấy trong thời gian gần đây, cùng với sự nỗ lực của Chính phủ,
các Bộ, ngành và của toàn xã hội, vấn đề trật tự, ATGTĐB ở nước ta đã có nhiều
thay đổi theo chiều hướng tích cực; tình hình VPPL trong lĩnh vực GTĐB được

6


kéo giảm, tuy nhiên vẫn còn ở mức cao và gây ra những thiệt hại to lớn cho xã
hội. Chỉ tính trong năm 2016 (năm có số vụ VPHC về GTĐB ít nhất kể từ 2007),
riêng lực lượng CSGT đường bộ toàn quốc đã kiểm tra, lập biên bản 3.972.192
trường hợp vi phạm trật tự ATGTĐB; phạt 2.582,73 tỷ đồng; tạm giữ 34.659 xe ô
tô và 560.418 xe mô tô. Cũng trong năm 2016 tình hình ùn tắc giao thông vẫn
diễn ra ở mức độ nghiêm trọng (đặc biệt là ở hai thành phố lớn là Thành phố Hồ
Chí Minh và Hà Nội), với 41 vụ ùn tắc kéo dài gây thiệt hại về kinh tế cũng như
sức khỏe của cộng đồng. Cũng trong năm 2016, tình hình TNGT đường bộ vẫn
còn ở mức cao, đáng báo động với 21.589 vụ, làm chết 8.685 người và bị thương
19.280 người [13].
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng TNGT đường bộ, tuy nhiên theo

đánh giá của các cơ quan chức năng, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình hình
TNGT đường bộ chính là việc không tuân thủ các quy định của pháp luật về trật
tự, ATGTĐB của các chủ thể khi tham gia giao thông [14]. Chính vì vậy bên cạnh
việc phải thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm giảm thiểu các hành vi VPPL về
trật tự, ATGTĐB, cũng như tăng cường năng lực vận tải công cộng, cải thiện hạ
tầng GTĐB..., thì các vấn đề liên quan đến xử lý vi phạm hành chính (VPHC)
trong lĩnh vực GTĐB như: Giáo dục, tuyên truyền về ATGTĐB; hoàn thiện tổ
chức bộ máy quản lý nhà nước về an toàn giao thông (ATGT) từ trung ương đến
địa phương; hoàn thiện các cơ chế, chính sách về bảo đảm trật tự ATGTĐB; nâng
cao năng lực cưỡng chế của lực lượng CSGT, Thanh tra ngành GTVT, và các lực
lượng thực thi công vụ khác; hiện đại hóa phương tiện, trang thiết bị phục vụ
công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm; hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa lực
lượng chức năng được xác định là những nhiệm vụ trọng tâm.
Vì vậy tiến hành nghiên cứu một cách toàn diện về xử lý VPHC trong lĩnh
vực GTĐB, từ đó chỉ ra những tồn tại, vướng mắc, bất cập của hoạt động này là
một vấn đề có ý nghĩa về cả lý luận và thực tiễn, với mục tiêu kéo giảm tình hình
VPHC về trật tự, ATGTĐB là một yêu cầu cấp thiết.


Với những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài “Xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông đường bộ theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm luận án
tiến sĩ luật học, chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Mã số
9.38.01.02
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích, luận giải những vấn đề có liên quan đến xử lý VPHC
trong lĩnh vực GTĐB, luận án làm sâu sắc hơn cơ sở lý luận cũng như pháp lý về
xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB. Bên cạnh đó luận án tiến hành đánh giá thực
trạng hoạt động xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB cũng như những yếu tố tác

động tới hoạt động này, để từ đó tìm ra các nguyên nhân và đề ra các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB ở Việt
Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để hoàn thành được mục đích nghiên cứu như vừa trình bày, luận án sẽ thực
hiện những nhiệm vụ cụ thể sau:
Thứ nhất: Luận án tiến hành phân tích, đánh tình hình nghiên cứu có liên
quan đến xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB qua các công trình nghiên cứu, bài
báo khoa học của các tác giả trong và ngoài nước, từ đó chỉ ra những vấn đề đã
được làm rõ; những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ.
Thứ hai: Trên cơ sở phân tích các khái niệm, đặc điểm, nội dung cũng như
vai trò của xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB, luận án sẽ tiến hành bổ sung và
hoàn thiện cơ sở lý luận về xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB.
Thứ ba: Luận án tổng hợp, phân tích làm rõ thực trạng xử lý VPHC trong
lĩnh vực GTĐB trong thời gian 10 năm (2007 – 2016), chỉ rõ nhưng
̃ ưu điểm, kết
quả đaṭ
đươc̣

cung
̃ như nhưng
̃ tồn taị, han chế và nguyên nhân củ a tồn taị, han chế

trong hoạt động này.
Thứ tư: Trên cơ sở phân tích thực trạng về xử lý VPHC trong lĩnh vực


GTĐB ở Việt Nam trong thời gian qua; những dự báo về tình hình VPHC



trong lĩnh vực GTĐB ở Việt Nam trong thời gian sắp tới, luận án đưa ra các kiến
nghị cũng như đề xuất giải pháp, các nhóm giải pháp góp phần nâng cao hiệu
quả công tác xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB của các lực lượng chức năng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án được xác định là những vấn đề có liên
quan đến xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về không gian, luận án tiến hành nghiên cứu hoạt động xử lý VPHC trong
lĩnh vực GTĐB trong phạm vi cả nước.
Về thời gian, luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến xử lý
VPHC trong lĩnh vực GTĐB và thực trạng xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB
trong 10 năm (từ năm 2007 đến hết năm 2016).
Xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB được thực hiện đối với các VPHC trong
lĩnh vực GTĐB như: Vi phạm quy tắc GTĐB; vi phạm quy định về kết cấu hạ
tầng GTĐB; vi phạm quy định về phương tiện tham gia GTĐB; vi phạm quy định
về người điều khiển phương tiện tham gia GTĐB.... Tuy nhiên vì những khó khăn
trong công tác thu thập các số liệu liên quan đến hoạt động xử lý các vi phạm về
kết cấu GTĐB (thực tế các vi phạm này mới bắt đầu được quan tâm xử lý từ đầu
2017), vì vậy luận án chỉ tập trung nghiên cứu, đánh giá về những vấn đề có liên
quan đến xử lý VPHC đối với những vi phạm về quy tắc GTĐB; vi phạm quy
định về phương tiện tham gia GTĐB; vi phạm quy định về người điều khiển
phương tiện tham gia GTĐB..., mà không nghiên cứu những VPHC về kết cấu
GTĐB.
Mặc dù thẩm quyền xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB thuộc về nhiều chủ
thể khác nhau như: Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, lực lượng Công an nhân
dân; lực lượng Thanh tra ngành GTVT; nhưng trên thực tế hoạt động này chủ

yếu được tiến hành bởi lực lượng đó là CSGT đường bộ và Thanh tra ngành
GTVT.


Vì vậy luận án chỉ tập trung nghiên cứu và đánh giá họat động xử lý của lực lượng
CSGT đường bộ và Thanh tra ngành GTVT.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận

Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác - Lê Nin khi nghiên cứu các vấn đề có liên quan
đến xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB.
4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

Chương 1: Trong chương tổng quan tình hình nghiên cứu, luận án dùng các
phương pháp nghiên cứu chủ yếu như: Phương pháp phân tích, phương pháp
tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp để khái
quát các vấn đề liên quan đến luận án đã được các nhà khoa học trong và ngoài
nước nghiên cứu và công bố trong các công trình khoa học của mình. Từ đó chỉ
ra những nội dung mà luận án sẽ kế thừa, phát triển cũng các vấn đề mà luận án
sẽ tiếp tục nghiên cứu, làm rõ.
Chương 2: Là chương nghiên cứu những vấn đề lý luận về VPHC và xử lý
VPHC trong lĩnh vực GTĐB, vì vậy luận án sử dụng chủ yếu phương pháp phân
tích, phương pháp tổng hợp để từ đó làm rõ các khái niệm có liên quan đến
VPHC, xử lý VPHC nói chung và trong lĩnh vực GTĐB nói riêng.
Chương 3: Là nội dung trình bày thực trạng về xử lý VPHC trong lĩnh vực
GTĐB, vì vậy luận án tách ra làm hai phần đó là thực trạng pháp luật về xử lý
VPHC trong lĩnh vực GTĐB và thực trạng hoạt động xử lý VPHC trong lĩnh vực
GTĐB của các lực lượng chức năng; làm rõ những ưu, nhược điểm và nguyên
nhân. Trong chương này, luận án sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp

so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp logic,
phương pháp tiếp cận đa ngành - liên ngành để làm rõ các quy định pháp luật về
xử lý VPHC trong GTĐB hiện nay cũng như thực tiễn hoạt động xử lý VPHC
trong lĩnh vực GTĐB.


Chương 4: Là chương trình bày về phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu
quả xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB, vì vậy luận án sử dụng phương pháp phân
tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp logic, phương pháp tiếp cận đa ngành liên ngành để từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt
động xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB với mục đích xây dựng một xã hội giao
thông an toàn, văn minh và thân thiện.
5. Những đóng góp mới của luận án

Thứ nhất, luận án tiến hành nghiên cứu tổng quan, phân tích các quan điểm
đã và đang tồn tại về xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB, trên cơ sở đó luận án
xây dựng khái niệm xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB, dồng thời đã chỉ ra các
đặc điểm, vai trò cũng như nguyên tắc của xử lý VPHC trong GTĐB.
Thứ hai, trên cơ sở tiếp cận vấn đề nghiên cứu dưới góc độ khoa học Luật
hành chính đối với những vấn đề đã được đặt ra trong phần câu hỏi nghiên cứu
và giả thuyết nghiên cứu của luận án, luận án xác định những yếu tố ảnh hưởng
tới xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, trên cơ sở phân tích một cách toàn diện về thực trạng pháp luật xử
lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB cũng như thực trạng hoạt động xử lý VPHC trong
lĩnh vực này, luận án đưa ra những đánh giá về những kết quả đã đạt được cũng
như những tồn tại, yếu kém và nguyên nhân của những tồn tại để từ đó rút ra
những kết luận khoa học về vấn đề này.
Thứ tư, trên cơ sở đánh giá nhưng tồn tại, hạn chế của pháp luật về xử lý
VPHC trong lĩnh vực GTĐB hiện nay ở Việt Nam; những khó khăn, hạn chế của
hoạt động xử lý các VPHC trong lĩnh vực GTĐB của các chủ thể có thẩm quyền
trên thực tế; trên cơ sở những dự báo về diễn biến tình hình VPHC trong lĩnh vực

GTĐB trong thời gian tới tại Việt Nam; Luận án đề xuất các giải pháp hướng tới
sự hoàn thiện các quy định của pháp luật, cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động
xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án


6.1. Ý nghĩa lý luận

Là một công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và có hệ thống về xử lý
VPHC trong lĩnh vực GTĐB, luận án góp phần làm sâu sắc hơn những vấn đề lý
luận xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB cũng như góp phần hoàn thiện pháp luật
về xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB. Luận án có thể sử dụng làm tài liệu nghiên
cứu, học tập tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành Luật, Cảnh sát.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Những kết luận trong luận án cũng như những đề xuất, kiến nghị và giải
pháp mà luận án trình bày là kết quả của hoạt động nghiên cứu lý luận về xử lý
VPHC trong lĩnh vực GTĐB, cũng như thông qua đánh giá, phân tích từ thực tiễn
áp dụng pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB của các lực lượng chức
năng. Bởi vậy, những đề xuất, kiến nghị cũng như giải pháp được luận án trình
bày có thể giúp cho các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu để từ đó vận dụng vào
hoạt động xử lý các VPHC trong lĩnh vực GTĐB của các lực lượng chức năng,
góp phần tạo lập một xã hội giao thông an toàn, văn minh và thân thiện.
7. Bố cục của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận án được kết cấu thành 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Cơ sở lý luận về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ

Chương 3. Thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ ở Việt Nam hiện nay
Chương 4. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài


1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu về xử lý vi phạm hành chính và xử lý vi phạm

hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
Thứ nhất, về khái niệm xử lý VPHC
Là một nội dung quan trọng trong nội dung giảng dạy môn Luật Hành chính
tại các cơ sở đào tạo luật, chính vì vậy trong các giáo trình giảng dạy môn Luật
Hành chính Việt Nam của các cơ sở đào tạo ở Việt Nam như Đại học Luật Hà
Nội; Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Khoa Luật thuộc Đại học quốc gia
Hà Nội; Đại học Cảnh sát Nhân dân..., đều dành một nội dung để trình bày, luận
giải về vấn đề này.
Tuy nhiên, khi trình bày, luận giải về khái niệm xử lý VPHC, do cách tiếp
cận không hoàn toàn giống nhau, vì vậy sự luận giải về khái niệm cũng có những
điểm không đồng nhất. Ví dụ, trong giáo trình Luật hành chính Việt Nam của
Trường Đại học Luật Hà Nội; Đại học Cảnh sát nhân dân chủ yếu phân tích theo
hướng giải thích khái niệm đã được luật định. Cụ thể, trong giáo trình Luật Hành
chính Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội xuất bản năm 2017 đã dành
một nội dung lớn tại chương XI trình bày về VPHC; Trong nội dung trình bày về
khái niệm VPHC, giáo trình đã điểm lại các văn bản pháp luật có những quy định
đề cập đến khái niệm VPHC (Từ Nghị định 143/CP ngày 27/5/1977 đến Luật xử
lý VPHC năm 2012); giáo trình đã nêu lại các định nghĩa về VPHC được thể hiện
trong các văn bản pháp luật này và giáo trình kết luận: Tuy có sự khác nhau về

cách diễn đạt, các văn bản pháp luật nêu trên đều thống nhất với nhau về những
dấu hiệu bản chất của loại vi phạm này [60, tr 337]. Và sau đó đưa ra khái niệm
VPHC như được quy định tại Khoản 1, Điều 2, Luật xử lý VPHC năm 2012.
Trong khi đó giáo trình Luật Hành chính Việt Nam do GS.TS Phạm Hồng
Thái và TS Nguyễn Thị Minh Hà đồng chủ biên, nhà xuất bản Đại học quốc gia
Hà Nội, 2017; Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam của PGS.TS Nguyễn Cửu
Việt, nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 2013..., khi trình bày về khái


niệm VPHC lại không thuần túy đi theo cách trình bày và diễn giải lại theo các
quy định của pháp luật có liên quan đến khái niệm này. Ví dụ, tại giáo trình Luật
Hành chính Việt Nam của PGS.TS Nguyễn Cửu Việt, khi luận giải về khái niệm
VPHC, tác giả cũng đã hệ thống lại các quy định được ghi nhận trong các văn bản
pháp luật có liên quan đến khái niệm VPHC (từ Pháp lệnh xử phạt VPHC 1989
đến Luật xử lý VPHC năm 2012) và kết luận: Các khái niệm được thể hiện trong
các văn bản pháp luật này đã thể hiện được các dấu hiệu pháp lý cơ bản của
VPHC như: Hành vi, tính trái pháp luật của hành vi, có lỗi, được pháp luật quy
định là VPHC và phải chịu trách nhiệm hành chính (TNHC). Tuy nhiên, theo tác
giả, mặc dù khái niệm VPHC được thể hiện trong các văn bản pháp luật đã thể
hiện được một số dấu hiệu pháp lý cơ bản như đã nêu, nhưng để đảm bảo tính
chính xác, khoa học của khái niệm, thì cần chính xác thêm ở một số khía cạnh
như: Cần phải xác định chính xác khách thể của hành vi vi phạm; cần loại bỏ cụm
từ mà không phải là tội phạm ra khỏi khái niệm bởi theo tác giả quy định như vậy
dễ làm cho chủ thể có thẩm quyền xử lý lầm tưởng mình có quyền đánh giá hành
vi VPPL nào là VPHC hay tội phạm [107, tr 496].
Thứ hai, về nguyên tắc xử lý VPHC
Nếu như trong hai nội dung đầu tiên của xử lý VPHC là khái niệm và các
đặc điểm của xử lý VPHC, về cơ bản các tác giả có quan điểm tương đối thống
nhất, thì trong nội dung trình bày về nguyên tắc xử lý VPHC quan điểm của các
tác giả được thể hiện trong phần này lại có nhiều điểm chưa tương đồng. Trong

giáo trình của trường Đại học Luật Hà Nội khi trình bày về các nguyên tắc xử lý
VPHC thì chỉ nhắc lại nội dung của khoản 1,2 điều 3, Luật xử lý VPHC 2012 và
không có bất kỳ bình luận hay kiến giải gì [60, tr.350,351], trong khi đó tại giáo
trình Luật hành chính Việt Nam của PGS.TS Nguyễn Cửu Việt, khi trình bày về
các nguyên tắc của hoạt động xử lý VPHC, trên cơ sở không tán thành với việc
đưa nội dung về các biện pháp xử lý hành chính vào trong Luật xử lý VPHC năm
2012 và khái niệm “xử lý VPHC” của Luật, nên theo tác giả, “nguyên tắc xử lý

VPHC” được


hiểu bao gồm những nguyên tắc chung của TNHC (bao gồm nguyên tắc của
pháp luật về TNHC và nguyên tắc của hoạt động xử lý VPHC) và những
nguyên tắc riêng của hoạt động xử lý VPHC. Trong nội dung này, tác giả cũng
nêu quan điểm của cá nhân mình về sự thiếu chính xác của các nguyên tắc của
hoạt động xử lý VPHC hiện nay được quy định trong Luật xử lý VPHC [107,
tr.515].
Thứ ba, về các hình thức xử phạt VPHC
Đối với nội dung này về cơ bản các quan điểm khoa học là tương đối giống
nhau, điều này được thể hiện qua phần nội dung luận giải về hình thức xử phạt
VPHC, các giáo trình chỉ lưu ý cần có sự phân biệt chính xác giữa hình thức phạt
chính và hình thức phạt bổ sung. Bên cạnh hình thức xử phạt được trình bày, các
giáo trình còn dành một dung lượng lớn để trình bày về các biện pháp khắc phục
hậu quả do VPHC gây ra cũng như những biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc
xử phạt VPHC....
Cuốn sách “Một số vấn đề về phạt hành chính” của hai tác giả Phạm
Dũng và Hoàng Sao, nhà xuất bản Pháp lý, Hà Nội, 1986. Trong công trình này,
các tác giả đã đưa ra những nhận thức ban đầu về cơ sở lý luận của phạt hành
chính và chỉ rõ các loạt phạt hành chính hiện đang áp dụng ở thời điểm đó như:
Cảnh cáo; phạt tiền; tước quyền được sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề;

tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện VPHC; phạt lao động
công ích; biện pháp phạt lao động cải tạo; giam hành chính… Qua việc phân tích
các biện pháp xử phạt, các tác giả đã chỉ ra những cơ sở lý luận cũng như thực
tiễn để giúp người đọc có thể phân biệt được các hình thức xử phạt hiện hành,
mục đích, nội dung cũng như hậu quả pháp lý của từng hình thức xử phạt để từ
đó tránh những sự nhầm lẫn trong quá trình áp dụng hình thức xử phạt. Các tác
giả đã chỉ rõ trong giai đoạn này, vẫn có sự nhầm lẫn cho rằng cảnh cáo miệng
cũng là hình thức xử phạt, vì cảnh cáo miệng “không có tính chất đánh giá nhà
nước đối với vi phạm và không tạo ra một hậu quả pháp lý nào cả” [50, tr 25].
Bên cạnh việc nêu thẩm quyền ban hành các văn bản quy định TNHC theo quy


định của pháp luật, các tác


giả đã phân tích và nêu ra những chồng chéo, bất cập trong việc quy định thẩm
quyền ban hành các quy định về xử phạt; việc quy định Hội đồng nhân dân được
phép ban hành các quy định về phạt hành chính, nhưng lại không có hướng dẫn
cụ thể cho hoạt động này dẫn đến tình trạng ban hành tràn lan, đặc biệt ở cấp cơ
sở (xã, phường), điều này dễ làm ảnh hưởng đến các quyền tự do, dân chủ của
nhân dân. Xuất phát từ thực tiễn trên, các tác giả đã đưa ra kiến nghị cần phải quy
định rõ nội dung ban hành quy định về phạt hành chính của Hội đồng nhân dân
theo các tiêu chí như: Các quy định đó chưa được quy định trong các văn bản của
cơ quan trung ương; các điều kiện cụ thể của địa phương phải được thể hiện để
ban hành các quy định đó; hay nói một cách khác giao cho địa phương quyền ban
hành văn bản về TNHC là cần thiết, tuy nhiên sự cần thiết đó phải được xem xét
một cách toàn diện trên cơ sở yếu tố đặc thù của chính địa phương đó chứ không
quy định một cách chung chung như hiện nay. Kết luận này cho đến nay vẫn là
một lưu ý quan trọng cho các chủ thể có thẩm quyền khi ban hành các quy định
về hình thức, mức, cũng như thẩm quyền xử phạt đối với từng vi phạm cụ thể.

Chuyên đề “Vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính” do Th.S
Đặng Thanh Sơn và các chuyên gia pháp luật hành chính, Vụ pháp luật Hình sự Hành chính, Bộ Tư pháp, Hà Nội, 2008, lại tiếp cận vấn đề VPHC và xử lý
VPHC ở góc độ ý nghĩa của xử lý VPHC và chỉ ra những đặc điểm cơ bản để
phân biệt một hành vi bị coi là VPHC với một VPPL khác (đặc biệt là tội phạm)
dưới góc độ luật thực định mà không đi sâu vào phân tích những vấn đề có tính lý
luận đối với vấn đề này, bởi theo các tác giả nội dung này không có ý nghĩa nhiều
trong công tác áp dụng pháp luật.[83]
Luận án tiến sĩ Luật, chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính “Xử
lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan ở Việt Nam: Những vấn đề lý luận
và thực tiễn” của Kim Long Biên thực hiện năm 2015, tại Học Viện Khoa học xã
hội. Là một công trình nghiên cứu chuyên sâu về những vấn đề lý luận và thực
tiễn trong xử lý VPHC trong lĩnh vực hải quan ở Việt Nam, tác giả luận án đã nêu
ra


khái niệm xử lý VPHC như sau: “Xử lý VPHC là hoạt động của các chủ thể có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử phạt VPHC và các biện pháp xử lý hành
chính theo một trình tự, hình thức do pháp luật xử lý hành chính quy định đối
với cá nhân, tổ chức có hành vi VPHC” [31, tr.37]. Trên cơ sở khái niệm này, tác
giả luận án đã phân tích các đặc điểm cũng như vai trò của xử lý VPHC đối với
việc duy trì các hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước nói chung, trong
lĩnh vực hải quan nói riêng.
Luận án tiến sĩ An ninh và trật tự xã hội “Giải pháp nâng cao hiệu quả xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB theo chức năng của lực lượng
Cảnh sát giao thông” của Trương Diệu Loan thực hiện năm 2015 tại Học Viện
Cảnh sát Nhân dân. Đối với nội dung về xử lý VPHC và xử lý VPHC trong lĩnh
vực GTĐB, luận án đã tập trung nghiên cứu và làm rõ khái niệm cũng như các
đặc điểm của xử lý VPHC nói chung, VPHC trong lĩnh vực GTĐB trên cơ sở
pháp luật thực định và từ đó tác giả luận án đã xây dựng khái niệm về xử phạt
VPHC trong lĩnh vực GTĐB của lực lượng CSGT như sau:

Xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB là công tác của nghiệp vụ lực
lượng CSGT, được tiến hành trên cơ sở quy định của pháp luật và quy trình
công tác của ngành Công an áp dụng đối với những cá nhân, tổ chức có
hành vi vi phạm Luật GTĐB mà không phải là tội phạm, theo quy định của
pháp luật phải bị xử phạt hành chính, góp phần đảm bảo TTATGT, trật tự
an toàn xã hội. [69, tr.29]
Là luận án tiến sĩ chuyên ngành An ninh và trật tự xã hội, vì vậy trong
chương thứ ba của luận án, tác giả đã đề xuất một số giải pháp mang tính nghiệp
vụ nhằm nâng cao hiệu quả xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB của lực lượng
CSGT đường bộ.
Luận án tiến sĩ Quản lý công “Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn GTĐB
ở Việt Nam hiện nay” của Trần Sơn Hà, thực hiện năm 2016 tại Học viện Hành
chính Quốc gia. Là luận án tiến sĩ Quản lý công về nội dung quản lý nhà nước
trong lĩnh vực trật tự, ATGTĐB, vì vậy tác giả luận án cũng đã dành tương đối


nhiều dung lượng để trình bày về các vấn đề có liên quan đến xử lý VPHC trong
lĩnh vực GTĐB; cụ thể trong nội dung quản lý nhà nước về GTĐB được trình
bày tại mục 2.2 của luận án từ trang 49 đến trang 60, tác giả khẳng định xử lý
VPHC trong lĩnh vực GTĐB là một trong những nội dung quan trọng của quản lý
nhà nước về GTĐB. Theo đó:
Tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm về TTATGT đường bộ chủ yếu là
áp dụng các biện pháp nghiệp vụ nhằm phát hiện các hành vi vi phạm về
TTATGT đường bộ để xử phạt VPHC đối với cá nhân và tổ chức có hành vi
cố ý hoặc vô ý vi phạm quy định về TTATGT đường bộ, các điều kiện đảm
bảo ATGT của kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, phương tiện và người
tham gia GTĐB, hoạt động vận tải đường bộ và các hành vi vi phạm khác
về TTATGT đường bộ mà không phải là tội phạm và theo quy định của
pháp luật phải bị xử phạt VPHC [51, tr 59].
Luận án tiến sĩ Quản lý công “Hoàn thiện thể chế xử lý hành chính vi phạm

trên biển của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam” của Nguyễn Xuân Lâm, thực
hiện năm 2017 tại Học viện Hành chính Quốc gia. Luận án đã tập trung trình bày
và làm sáng tỏ một số vấn đề quan trọng có liên quan đến thể chế xử lý VPHC
trên biển của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam như: Hệ thống hóa và làm rõ
thêm các vấn đề lý luận về VPHC trên biển, xử lý VPHC trên biển cũng như thể
chế xử lý VPHC trên biển của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam; làm rõ khái
niệm, yêu cầu, các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện cũng như các yếu tố tác
động đến hoàn thiện thể chế xử lý VPHC trên biển của cảnh sát biển Việt Nam;
Nghiên cứu thực trạng thể chế xử lý VPHC trên biển của Cảnh sát biển Việt Nam,
để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động nay trên
thực tế. [67]
Bên cạnh đó, còn có một số luận văn thạc sĩ Luật học, cũng nghiên cứu về
xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB như: Luận văn thạc sĩ luật học “Pháp luật về
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB hiện nay – Một số vấn đề lí luận,


thực tiễn và phương hướng hoàn thiện” của Vũ Thị Thanh Nhàn, Trường Đại
học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2010; Luận văn thạc sĩ luật học “Xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực GTĐB trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa” của Nguyễn Văn
Minh, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2012; Luận văn thạc sĩ luật
học“Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB” của Ngô Thị
Hồng Loan, Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí
Minh, 2014...
Các công trình nghiên cứu nêu trên tập trung vào một số vấn đề như lý luận
cơ bản về VPHC và xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB, cũng như phân tích
những vấn đề có tính khái quát, điển hình về thực trạng pháp luật xử lý VPHC
trong lĩnh vực GTĐB ở Việt Nam. Từ đó tác giả đã đưa ra một số kiến nghị với
mục đích hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này (Luận văn của Vũ Thị Thanh
Nhàn). Các kết luận được đề cập trong các công trình nêu trên sẽ tiếp tục được
NCS kế thừa trong xây dựng các khái niệm có liên quan trong luận án của mình.

Ngoài giáo trình, sách, chuyên đề, luận văn, luận án như vừa trình bày ở trên
vấn đề xử lý VPHC và xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB còn được đề cập đến
qua các bài viết được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành hay tại kỷ yếu của
các kỳ hội thảo. Cụ thể như sau:
Bài viết “Về thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính” của Th.S Nguyễn
Mạnh Hùng tại Toạ đàm khoa học về Luật xử lý VPHC do Bộ Tư pháp tổ chức
năm 2011 và bài viết “Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính” đăng trên cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp năm 2011 đã tập
trung phân tích về thẩm quyền xử phạt VPHC. Theo tác giả, pháp luật hiện hành
sử dụng phương pháp liệt kê khá cứng nhắc khi quy định về các chức danh có
thẩm quyền xử phạt VPHC, vì vậy sẽ luôn dẫn đến tình trạng “thiếu”, “thừa”
người có thẩm quyền xử phạt VPHC. Để khắc phục những hạn chế nêu trên, tác
giả kiến nghị trong Luật xử lý VPHC, ngoài việc quy định có tính liệt kê những
người có thẩm quyền xử phạt như trong Pháp lệnh xử lý VPHC, cần phải có quy
định: “Những người khác có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy


định của Chính


phủ” và quy định về vấn đề kế thừa thẩm quyền xử phạt VPHC. Theo tác giả việc
Pháp lệnh xử lý VPHC quy định một số người không giữ chức danh lãnh đạo,
quản lý trong cơ quan nhà nước chỉ có thẩm quyền xử phạt VPHC trong khi thi
hành công vụ là không cần thiết. Đồng thời, quy định những người là cấp trưởng
trong một số cơ quan nhà nước có thể ủy quyền bằng văn bản cho cấp phó thực
hiện thẩm quyền xử phạt VPHC là không hợp lý bởi theo tác giả thì ủy quyền xử
phạt VPHC có nguy cơ làm kéo dài thời gian ra quyết định xử phạt VPHC; hay
như trong một số trường hợp cá biệt, ở một số cơ quan, tổ chức chưa có cấp
trưởng (chỉ là phó phụ trách), thì vấn đề xử phạt sẽ không có cơ sở để thực hiện.
Việc chỉ giao thẩm quyền xử phạt cho cấp trưởng, sau đó cấp trưởng ủy quyền lại

cho cấp phó cũng dễ dẫn đến tính thiếu khách quan trong việc ra các quyết định
xử phạt của người được ủy quyền. Điều này gây nhiều khó khăn trong việc thực
hiện nhiệm vụ quản lý và ra quyết định xử phạt VPHC của những người được ủy
quyền, việc ủy quyền cũng có khả năng làm gia tăng số vụ việc khiếu kiện về
quyết định xử phạt VPHC. Từ những phân tích như vừa trình bày, tác giả kiến
nghị trong Luật xử lý VPHC nên quy định những người là cấp phó trong một số
cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử phạt đối với những VPHC thuộc phạm vi
quản lý mà họ được phân công.
Bài viết “Hoàn thiện pháp luật về hình thức, thẩm quyền xử lý vi phạm
hành chính” của TS. Trần Thị Hiền, tại Hội thảo “Hoàn thiện pháp luật xử lý vi
phạm hành chính tại Việt Nam” do Viện Nghiên cứu lập pháp, Đại sứ quán Thụy
Sĩ, Viện Nghiên cứu chính sách, pháp luật và phát triển và Viện Nhân quyền Đan
Mạch phối hợp tổ chức tại Tam Đảo từ ngày 26 - 27/9/2011, thì cho rằng:
Nguyên tắc thẩm quyền xử phạt được xác định căn cứ vào mức tối đa của khung
tiền phạt như hiện nay đã làm vô hiệu hóa thẩm quyền xử phạt của các chức danh
công chức không có vị trí lãnh đạo; đồng thời, thẩm quyền xử phạt hành chính bị
hạn chế bởi khung tiền phạt giữa mức tối thiểu và mức tối đa giãn cách quá xa,
dẫn đến tình trạng việc xử phạt chủ yếu bị đẩy lên cơ quan cấp trên, dẫn đến
nhiều vụ việc chậm


được xử lý, trong khi đó với tính chất của hành vi vi phạm thực sự chưa cần đến
mức phải có sự quyết định của cấp cao hơn. Chính vì vậy theo TS Trần Thị Hiền
cần có sự điều chỉnh phù hợp về thẩm quyền xử lý để hạn chế (tránh) hoạt động
xử phạt bị đẩy lên cơ quan cấp trên.
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu về thực trạng và giải pháp xử lý vi phạm

hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
Luận án tiến sĩ An ninh và trật tự xã hội “Giải pháp nâng cao hiệu quả xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ theo chức năng

của lực lượng Cảnh sát giao thông” của Trương Diệu Loan thực hiện năm 2015
tại Học Viện Cảnh sát nhân dân. Trong phần trình bày về thực trạng cũng như
giải pháp nâng cao hiệu quả xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB, tác giả đã phân
tích hoạt động xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB của lực lượng CSGT trong
thời gian 10 năm (từ năm 2005 đến hết năm 2014); tác giả luận án đã chỉ ra những
ưu điểm, hạn chế và các yếu tố ảnh hưởng tới tính hiệu quả của hoạt động xử
phạt. Từ những phân tích đó, tác giả đã nêu ra những giải pháp để khắc phục
những tồn tại trong công tác xử phạt của lực lượng CSGT như: Hoàn thiện các
quy định của pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực GTĐB, tăng cường biên
chế, trang bị cho lực lượng CSGT...[69, tr.136 – 158].
Luận án tiến sĩ Quản lý công “Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao
thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay” của Trần Sơn Hà, thực hiện năm 2016 tại
Học viện Hành chính Quốc gia. Là một luận án chuyên ngành Quản lý công,
những vấn đề mà luận án nghiên cứu có liên quan trực diện về trật tự, ATGTĐB,
vì vậy trong chương thứ 4 của luận án, khi trình bày về các giải pháp nâng cao
hiệu quả của quản lý nhà nước về GTĐB, tác giả đã dành hai mục (mục 4.2.3 và
4.2.7), trình bày về nhóm giải pháp “Tổ chức thực hiện pháp luật về giao thông
đường bộ” và “Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, tuần tra, kiểm soát và
xử lý vi phạm trật tự, an toàn giao thông đường bộ”. Theo tác giả muốn nâng
cao hiệu quả của quản lý nhà nước về trật tự, ATGTĐB, thì việc tăng cường
công tác thanh,


kiểm tra, cũng như vấn đề tuần tra, kiểm soát cần phải được tăng cường, đặc biệt
là cần phải có những thay đổi từ khâu lập kế hoạch cho đến tổ chức thực hiện
cần phải có sự thay đổi mạnh mẽ..., Các giải pháp này là một kênh tham khảo
quan trọng cho NCS khi xây dựng các giải pháp cho hoạt động xử lý VPHC
trong lĩnh vực GTĐB theo nội dung của luận án.[51, tr.130 – 150]
Bên cạnh đó trong một số luận văn thạc sĩ luật học như - Luận văn thạc sĩ
luật học “Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường

bộ hiện nay – Một số vấn đề lí luận, thực tiễn và phương hướng hoàn thiện” của
Vũ Thị Thanh Nhàn, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2010; Luận văn thạc
sĩ luật học “Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên
địa bàn tỉnh Thanh Hóa” của Nguyễn Văn Minh, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội, 2012; Luận văn thạc sĩ luật học“Pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ” của Ngô Thị Hồng Loan, Trường Đại
học luật Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2014...; các tác giả
chủ yếu trình bày về thực trạng xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTĐB tại một địa
phương cụ thể (Luận văn của Nguyễn Văn Minh), từ đó chỉ ra một số tồn tại, bất
cập trong công tác xử lý VPHC trong lĩnh vực này của các lực lượng chức năng
và từ đó đề xuất các giải pháp tháo gỡ.
Bài viết “Nâng cao vai trò của lực lượng Cảnh sát giao thông nhằm đảm
bảo trật tự, an toàn giao thông trong tình hình mới” của PGS,TS. Trần Minh
Thư
– Viện trưởng Viện khoa học và chiến lược Bộ Công an, đăng trên tạp chí Cảnh
sát Nhân dân, số tháng 2/2014. Nội dung bài viết khẳng định trong công tác của
mình, lực lượng CSGT còn nhiều khiếm khuyết, thiếu sót; một bộ phận cán bộ,
chiến sĩ CSGT có biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống, nhận hối lộ, có tiêu cực
trong công tác xử lý các hành vi VPPL về GTĐB..., vì vậy theo tác giả bài viết,
để vấn đề trật tự, ATGTĐB được bảo đảm thì cần phải có những giải pháp cụ thể
đối với lực lượng CSGT để lực lượng này có thể hoàn thành tốt các nhiệm vụ
được giao. [88]


×